Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

THI TÙ TÙNG THOẠI - MINH-VIÊN HUỲNH THÚC KHÁNG

Ngày 15-8-1911, gần 100 năm trước, tại nhà ngục Côn Đảo của thực dân Pháp đã xảy ra một sự kiện hiếm có: Tù quốc sự là các nhà khoa bảng đã tổ chức một cuộc vịnh thơ lấy đề là “Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn” (Ngày này năm trước đến Côn Lôn) để kỷ niệm tròn ba năm ngày bị  đày với án “lưu biệt xứ; ngộ xá bất nguyên” (lưu đày vĩnh viễn khỏi xứ; gặp dịp ân xá cũng không được tha). Chuyện làm thơ hy hữu ấy cùng nhiều chuyện khác trong tù đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng ghi lại  trong tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.

Ngày 15-8-1911, gần 100 năm trước, tại nhà ngục Côn Đảo của thực dân Pháp đã xảy ra một sự kiện hiếm có: Tù quốc sự là các nhà khoa bảng đã tổ chức một cuộc vịnh thơ lấy đề là “Tích niên kim nhật đáo Côn Lôn” (Ngày này năm trước đến Côn Lôn) để kỷ niệm tròn ba năm ngày bị  đày với án “lưu biệt xứ; ngộ xá bất nguyên” (lưu đày vĩnh viễn khỏi xứ; gặp dịp ân xá cũng không được tha). Chuyện làm thơ hy hữu ấy cùng nhiều chuyện khác trong tù đã được cụ Huỳnh Thúc Kháng ghi lại  trong tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.

Cụ Huỳnh đề tựa cho cuốn “sử tù” của mình như sau: “Bản này là ký giả chép góp thi (thơ) và chuyện của một ít bạn chính trị phạm đồng tội trong thời gian 13 năm bị đày ở Côn Đảo (Poulo Condore) mà ký giả là một người trong đồng bọn ấy, tai nghe mắt thấy toàn là chuyện thật khởi đầu năm 1908 đến năm 1921”. (Mính Viên, Thi tù tùng thoại, NXB Nam Cường, Sài Gòn, tháng 10-1951, tr.7).

Cuốn sử ấy bắt đầu bằng bài thơ của cụ Phan Châu Trinh ứng khẩu trên đường bị giải ra đảo: “Luy luy già tỏa xuất đô môn/ Khẳng khái bi ca thiệt thượng tồn/ Quốc thổ trầm luân dân tộc tụy/ Nam nhi hà sự phạ Côn Lôn”. Cụ Huỳnh dịch: “Xiềng gông cà kệ biệt Đô môn/ Khẳng khái ngâm nga lưỡi vẫn còn/ Đất nước đắm chìm nòi giống mỏn/Thân trai nào sợ cái Côn Lôn” ( Sđd, tr.12; từ đây trở đi, chỉ ghi các câu thơ dịch của cụ Huỳnh – NV).

Nhưng, theo cụ Huỳnh thì cụ Ngô Đức Kế mới là người làm thơ tù đầu tiên. Năm 1907, một năm trước ngày bị giải ra Côn Lôn, tại nhà ngục Hà Tĩnh, cụ nghè Ngô đã viết “Ham học văn minh đà mấy lúc/ Mão tù đâu khéo cấp cho ông?” (sđd tr.13) Người thứ ba được nhắc đến là cụ nghè Trần Quý Cáp. Nghe tin cụ Trần bị xử chém ở Khánh Hòa, nhớ lại lúc chia tay ở Tourane, cụ Huỳnh khóc mấy vần thảm thiết “Bồng đảo gió chưa đưa giấc mộng/ Nha Trang cỏ đã khóc hồn thiêng/ Chia tay chén rượu còn đương nóng/ Đà Nẵng đưa nhau lúc xuống thuyền” (tr.17).

Nhờ cuốn sử tù của cụ Huỳnh Thúc Kháng, người đời sau biết được diễn tiến cái chết bi tráng ngoài đảo của cụ Tiểu La Nguyễn Thành, của ông tú tài làng Chiên Đàn (Tam Kỳ) là Dương Thạc, của ông hương chức làng Hà Lam (Thăng Bình) là Nguyễn Quần cùng nhiều vị khác.

Bị đày ra Côn Lôn cùng cụ Huỳnh chuyến ấy, ngoài các đồng hương như các cụ Phan Thúc Duyện, Lê Bá Trinh, Lê Bá Huy, Nguyễn Cảnh, còn có các văn thân, sĩ dân Nghệ Tĩnh, Bình Định, Quảng Ngãi: “Kể cả thân sĩ cùng dân mấy tỉnh cùng đày đi chuyến tàu ấy là 27 người. Mà văn hào chiếm gần 20 người. Cái họa khoa giáp cùng mạt kiếp Hán học rõ là một đoạn thảm kịch trên sử Hồng Bàng xưa nay chưa từng có!”(tr.33).

Các người tù có chữ nghĩa đó, cùng với các văn thân bị đày ra các năm sau, được bọn cai ngục gọi chung là “tù quan to” và bị đối xử một cách “đặc biệt”. Cụ Huỳnh kể một câu chuyện cười ra nước mắt: “Một ngày nọ, có một chú ma tà nhỏ tuổi coi xâu đập đá thấy “tụi quan to” đập đá ươn quá, tay cầm cây roi mây đi tự đầu này đến đầu kia hỏi từng người: Mày cái gì? – Bẩm cử nhân. Chú cho một roi”. Rồi cụ cho biết lúc chú lính gặp một người mà “khi bẩm có bộ cười, chú ta cũng cho một roi khá đau và bảo: “Mày ăn nói vô lễ, cho một roi từ này về sau biết tay tao!” Rồi ấm sanh, tú tài đều được ngọn roi ấy, duy có người xưng chánh tổng được khỏi roi” (tr.48).

Cụ Huỳnh còn ghi lại nhiều chuyện rất sinh động như cuộc đối đáp giữa cụ Phan Châu Trinh và viên thống soái Sài Gòn đại diện phái bộ Pháp ra Côn Lôn điều tra về hành tung của cụ Phan trong quá khứ (tr.104-107); hoặc như chuyện vượt ngục Côn Lôn bằng bè về đất liền rồi bị bắt trở lại của các ông Cửu Cai, Hy Cao và Kim Đài (tr.213-222). Câu chuyện vượt ngục ly kỳ của các ông này cùng rất nhiều chuyện về sinh hoạt của người tù trong nhà ngục Côn Lôn thời Pháp thuộc có thể giúp cho các nhà làm phim thời nay tái hiện một cách sinh động bộ mặt của chốn “địa ngục trần gian” giữa biển khơi vào đầu thế kỷ XX này.

Cụ Huỳnh ghi lại “Thi tù tùng thoại” bằng trí nhớ; bởi trong tù, bọn thực dân cấm viết chữ Tây, chữ quốc ngữ mà chỉ cho viết bằng chữ Hán; đến khi ra tù thì mọi tài liệu chữ Hán – kể cả bản gốc “Thi tù tùng thoại” – chúng đều tịch thu. Vì thế, theo cụ, tất cả trứ tác của tù nhân đã đều “mất tích đáng tiếc” (tr.271). Bản “thi tù” hiện lưu hành là bản được cụ Huỳnh nhớ lại và dịch ra quốc ngữ. Xin giới thiệu trích lời mở đầu và một số bài thơ Tết ở Côn Lôn, Bảy mươi tuổi tự thọ, và các tác giả khác được trích từ tác phẩm “Thi tù tùng thoại”.

(Trích)

I. Lời mở đầu

"Thi có cùng mà sau mới hay “tin như lời nói xưa, thì trên đời mà gọi là “cùng” không chi cùng hơn cảnh tù, đáng lẻ thơ của kẻ tù, lưu truyền khá nhiều mới phải vậy mà xét trên lịch sử phương đông, trên dưới ngàn năm, duy có mấy bài của Lý Bạch lúc dày có Gia Lạng, bài “ở trong ngục vịnh con ve”của Lạc Tân Vương (1) bài “chính khi ca “ của Văn Thiên Tường(2), bài thi “Vịnh lúc gần hành chính” của Dương Kế Thạnh (3) cùng ở nước ta thì bài trần tình của Cao Ba Nhạ, tờ khai của Đoàn Trưng…. Còn có truyền lại, ngoài ra không thấy thi văn tù bao nhiêu.

Trái lại, những lối uống rượu ngắm hoa, trông trăng thưởng gió, cùng lối thi ứng thú tiêu khiển của bọn văn sĩ phong lưu, thôi thì đầy kho chật tủ, làm họa cho bàn in không biết là bao!

Trên thi sử xưa nay, thừa bên này mà thiếu bên kia, nghĩa là thi phong lưu nhiều mà thi tù ít, là vì lẽ gì ? không phải trái với cái thuyết “cùng mới hay” kia sao?

Như nói trong đám tù tội không có bọn văn nhân thì ngục Đảng có nhà Hán, ngục Thanh lưu đời đường, án Ngụy học đòi Tống, án Đông Lâm Phục Xá đời Minh, bọn văn hào thi bá mấy đời co tay bó chân làm bạn với gông cùm xiềng bộng, cúi đầu nín tiếng, ngồi than thở cái oai quyền vô thượng của bọn ngục quan và lính gác ngục, trước sau nối gót, biết bao nhiêu người ! Ai bảo rằng trong đám tù không có hạng văn hào thi bá ở phương Đông về thời đại quân chủ chuyên chế, tù là tội cả, không có hạng tù quốc sự (chánh trị phạm) như phương tây. Bởi thế nên đã vào tù, vô luận nhân cách lưu phẩm thế nào, người đời đều xem như vật ghê gớm đáng sợ, đã là vật đáng sợ trong xã hội, tự nhiên cái người đã mang cái huy hiệu “tù”. Công chúng đều tránh xa, với người đó còn không  dám lại gần, huống chi thi với văn, dù có nghe thấy thi văn của họ, không dùng dậy hũ tương thì phú cho ngọn lữa. Thi kẻ tù ít truyền là vì thế.

Âu triều truyền sang, phong khí đổi mới, chế độ về thời đại chuyên chế bị triều lưu văn minh dội quét gần tàn, trên sử tấn hóa của loài người, trong đám tù tội có cái tên gọi là “tù quốc sự” khác với hạng tù thường, không những xã hội không bài xích như ngày xưa, mà trong có hạng chí sĩ chân nhân, trở được người tỏ lòng sùng bái và khen ngợi, từ đó mà thi tù mới truyền.

Ở Âu Mỹ không nói, nói riêng về phương đông như sử duy Tân khẳng khái của Nhật Bản, cách mạng -  sử của Trung Hoa sau cuộc Mậu Tuất chánh biến, ở trong có nhiều chi của bọn tù, không sao kể hết. Nước ta sau cuộc dân biến năm 1908 về sau có nhiều thi của bọn tù, chính là theo lệ chung đời mới nói trên.

Chuẩn theo lẽ ấy, tức gọi rằng thi tù mở một cái màn mới trong văn giới cùng đi với công lệ tấn hóa cũng không phải là quá đáng. Độc giả để ý xem                                                                                                                                                  Minh Viên                                                                                                                                             Huỳnh Thúc Kháng

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

BÀI HÁT TỲ-BÀ - ĐỖ PHỦ & BẠCH CƯ DỊ
Tỳ-bà trong văn chương Việt Nam, là một bài hát ả-đào gồm có bản dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị với bản dịch bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ mà đào-nương bao giờ cũng đọc mào-đầu, hình như để gây không-khí. Sách này vì chú trọng vào văn học Việt Nam, nên nhấn mạnh ở tính cách Việt Nam hóa mà dùng tiếng gọi thông-thường, là Bài hát Tỳ-Bà và chép cả bài Thu hứng đặt trước bài hát chính (coi như một thứ "Thay lời tựa") và sau bài Tự của tác giả.
CA NHẠC CỔ ĐIỂN - ĐIỆU BẠC LIÊU - TRỊNH THIÊN TƯ
Với sự kinh-nghiệm thâm-niên, tôi không tiếc lời khen-ngọt nhóm văn-nghệ giàu khả-năng, lành điệu nghiệp như các nghệ sĩ đàn em là: nhac-sĩ Ba Chột (con của nhạc-sự tôi: hậu-tổ Hai Khị) nhạc-sĩ Ba Khi, Tư Bình, nổi tiếng ngón đờn căn bản, nhạc-sĩ Đỗ-Hữu-Trí, Năm Nhỏ, là cặp « lục-huyền-cầm » lanh mướt, đều có tâm hồn phụng-sự nghệ-thuật, đã góp công với ông Trịnh-Thiên-Tư là một nhà văn cao-niên, sở trường về sân-khấu, chung sức soạn nên quyền « CA-NHẠC-CỔ-ĐIỀN » này, làm cho tôi thỏa-mãn nguyện-vọng trước khi nhắm mắt theo « Thầy ». Nhứt là đáng ca-ngợi 3 điểm mới-mẻ chưa ai làm được từ lâu, nhưng 3 điềm ấy đã được thực-hiện trong quyển sách nầy: 1.- Nhạc-lý rành-mạch về phương-pháp thực-hành; chưa chắc vài em biết nhạc (còn kém văn-học) giải thích được sự so-sánh cách thức lên dây đờn như trong sách này.2.- Từ xưa, các bản Vọng cổ nhịp 32, hoặc 64 chỉ được truyền-giáo bằng cách sang ngón mà thôi, vì chưa ai hoạch-định hằn được chữ nhạc. Thế nhưng trong sách này, chẳng những trình bày bản Vọng-cổ với chữ nhạc rõ-ràng, mà còn đánh dấu các phím nhạc dành riêng mỗi loại « dây » rành-mạch.3.– Soạn-giả Tịnh-Thiên-Tư sáng-chế ra nhạc-ký mới bằng (chữ cái) như : Ò, Ự, A, Ê, Ố, Í ( hò, sự, xang, xê, cống, líu), phân thì, ngăn nhịp, giúp ta có thể vừa đọc vừa đờn như tân-nhạc. Chẳng kém phần quan-trọng, nhạc-sĩ Ba Khi sáng-chế « chữ-số » qui-định ( chữ-nhạc) theo thứ tự các phím đàn, giúp người mới học khỏi thắc-mắc khi mò phím, nhứt là các phím trùng 1 chữ nhạc.Đề hưởng-ứng với đồng nghiệp, tôi nể tình ông bạn Trịnh-Thiên-Tư, cho đăng bản nhạc Vọng-cổ, và lời ca của tôi trong sách này, là nhạc-phẩm căn bản nhịp tư, mà chư nhạc-sĩ tứ phương dần-dần mở lơi ra nhịp 16 (bắt đà lời ca "văng vẳng tiếng chuông chùa" của kịch- sĩ Năm Nghĩa) đến nhịp 32 và 64.Nhạc-sĩ SÁU LẦU 
CẦM CA VIỆT NAM - TOANG ÁNH
Tôi mừng rằng công trình sưu tầm biên khảo về Nếp cũ của ông Toan Ánh càng ngày càng được quốc dân hoan nghênh. Non ba chục năm trước, đọc những bài chép các tục lạ ở thôn quê Bắc Việt và đăng tải rác trên các báo Tri Tân, Trung Bắc Chủ Nhật, Tao Đàn tôi đã để ý tới ổng liền: Khu vực đó ít người khai thác mà những chuyện ông kề đều hấp dẫn, dồi dào về chi tiết. - Trích lời của Cụ Nguyễn Hiến Lê trong sách.  mừng rằng công trình sưu tầm biên khảo về Nếp cũ của ông Toan Ánh càng ngày càng được quốc dân hoan nghênh. Non ba chục năm trước, đọc những bài chép các tục lạ ở thôn quê Bắc Việt và đăng tải rác trên các báo Tri Tân, Trung Bắc Chủ Nhật, Tao Đàn tôi đã để ý tới ổng liền: Khu vực đó ít người khai thác mà những chuyện ông kề đều hấp dẫn, dồi dào về chi tiết. - Trích lời của Cụ Nguyễn Hiến Lê trong sách.
CHINH PHỤ NGÂM KHÚC (nguyên Hán văn) - ĐẶNG TRẦN CÔN & ĐOÀN THỊ ĐIỂM (1950)
Nước ta dùng chữ Hán mà bồi bổ quốc văn, ngày xưa theo lẽ tự-nhiên, mà ngày nay lại cần phải học. Ở chương trình học khóa bộ Quốc gia giáo-dục cũng đã có dự trù đến. Trải xem những bản tản văn, vận văn chữ Hán đã diễn ra Quốc văn, không bản nào hay bằng “Chinh phụ ngâm” và “Tỳ bà hành”. Tỳ-bà hành theo lối phiên dịch dịch từng câu, Chinh phụ ngâm theo lối dịch thuật hoặc từng câu, hoặc thêm, bớt. Hai lối dịch ấy, lối dịch thuật có dễ hơn lối phiên dịch, nhưng cũng tất phải có khẩu tài và thiên phận cao mới làm nên, mà lối dịch thuật gồm có phiên dịch ở trong vậy. Bản “Chinh phụ ngâm khúc” này nguyên Hán-văn của Đặng Trần Côn tiên sinh soạn, bà Đoàn Thị Điểm diễn Nôm, đã được đem vào hạng sách Giáo-khoa thư. Nay đã đem sách ấy ra dạy học, ắt phải có sự giải và thích tất cả nghĩa lý và tinh thần Hán-Việt cho tường tận và phân minh; lại phải chỉ dẫn lối dụng tự, áp vận, và diễn ca cho rành, thì mới mong có ích cho học giả. Trái lại những bản “Chinh phụ ngâm”dạy ở các trường ngày nay đã không chú trọng đến các yếu tố kể trên, thành ra phần nghĩa lý chữ Hán đã mơ hồ mà phần ấy của chữ Việt cũng khiếm khuyết thì sao gọi bồi bổ quốc văn, giảng cầu Hán học. Bởi các lẽ trên đây mà tôi đã lưu tâm từ lâu, mới dẫn giải và chú thích tập “Chinh phụ ngâm” này, chuyên dùng để bổ khuyết cho những điều hiện khuyết; và mong những bậc quang minh quân tử trong làng văn vòn có góp thêm phần chỉ giáo.