Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dân Gian Ngụy Văn Thực Lục

Văn án Sinh hài linh, tránh dương quan. Thai đủ tháng, đặt hối danh. Mười hai tháng, cống nến hương, đỡ âm linh!… Tôi kế thừa truyền thống từ bà nội, trở thành thầy đỡ âm linh. Truyện kể lại những câu chuyện ma quái kì dị mà tôi đã gặp trong những năm qua. Review Mỗi người đều vẫn hay tò mò về những câu chuyện bí ẩn ma quái không có lời giải. Thế giới được gọi là âm giới luôn chỉ tồn tại trong tưởng tượng của mọi người. Đã có ai thực sự hiểu qua nơi được gọi là thế giới bên kia chưa? Nơi dành cho những người sau khi chết, đằng sau mỗi cái chết đều là một câu chuyện riêng. Có người chỉ đơn thuần là bệnh chết, chết già, hay là vì tai nạn không may mà qua đời, nhưng cũng có người là bị ám hại, là những cái chết oan ức. Có những cái chết oan có thể được đưa ra ánh sáng, nhưng có những cái chết lại bị ém đi. Mà có một số người sinh ra, đã mang trong mình số mệnh làm sáng tỏ những điều bị giấu kín đi đấy. Những bí ẩn mà đến những vị cảnh sát giỏi nhất cũng không thể làm rõ được. ‘Nhân Gian Ngụy Văn Thực Lục’ là một tác phẩm với chủ đề linh dị, được tác giả vẽ ra một thế giới cõi âm đầy huyền bí. Qua câu chuyện mà tác giả xây dựng, người đọc có thể tự hình dung ra được thế giới bên kia là như thế nào, những câu chuyện về những người sau khi chết đi họ sẽ ra sao? Những kiến thức mà tác giả lồng ghép vào khiến người đọc cảm thấy vô cùng chân thực, cứ như đang dõi theo câu chuyện của một người trong nghề kể lại. Nhân vật chính của tác phẩm tên ‘La Thập Lục’, ngày cậu ra đời cũng là ngày mà mẹ cậu chết vì khó sinh. Bà nội vốn là một bà đỡ đẻ âm linh (đỡ đẻ cho người chết), vốn tưởng rằng mẹ cậu chết cậu cũng chết theo nhưng lúc đó cha cậu đột nhiên thấy bụng vợ mình động đậy nên đã kịp cứu sống cậu. Đứa trẻ được sinh ra từ bụng người chết còn được gọi là âm sanh tử, sẽ luôn có vong hồn người mẹ đi theo. Vì thế từ nhỏ đến lớn không ai trong xóm dám trêu chọc cậu, cũng không dám lại gần. Nhưng có duy nhất một lần, trong xóm có một nhà kia có đứa con bắt nạt La Thập Lục, cả nhà họ không tin rằng vong hồn mẹ cậu đi theo bảo vệ, còn khắp nơi chửi bà cậu lừa đảo và luôn chèn ép nhà Thập Lục. Đến khi cả nhà tên đó bị sát hại dã man thì người trong xóm lại càng sợ hãi không dám bắt nạt Thập Lục. Mà cũng trải qua chuyện này lại càng khiến cho La Thập Lục tin hơn vào cái gọi là ma quỷ ở cõi âm. Đứa trẻ âm sanh tử, đến tuổi hai mươi hai sẽ trải qua ‘khám dương quan’, trừ âm khí, có thể cắt đứt với linh hồn người mẹ đeo bám. Cứ tưởng cuộc đời của La Thập Lục sẽ thoát khỏi những chuyện quỷ quái này, nhưng đại nạn ập tới, cha cậu té sông chết ngay trong đêm cậu tròn hai mươi hai tuổi. Cả thôn làng lại nhìn cậu với ánh mắt căm thù dù trước đây mọi người chỉ là sợ hãi cậu, không phải thù hằn gì cả. Cũng sau ngày ấy, La Thập Lục bắt đầu phát hiện hình như có bí mật gì đó mà bà cậu đã luôn giấu cậu. Những người trong thôn cũng bắt đầu tỏ rõ thái độ không ưa gì cậu cùng bà nội, hai người đã cùng với một người chuyên vớt xác tên Lưu Văn Tam rời khỏi cái xóm này. Bà nội cũng vì tương lai mà bắt đầu dạy cậu hành nghề đỡ âm linh. Cũng bắt đầu từ khi tiếp xúc đến phương diện kì bí quỷ quái này, La Thập Lục lại càng gặp phải nhiều câu chuyện. Những điều cấm kỵ trong đỡ âm linh, những sự thật đằng sau những cái chết của những phụ nữ có thai chết đi. Có khi tưởng chừng đã giải quyết xong mọi chuyện, nhưng sau đó lại sinh ra sai sót khiến người chết biến thành quỷ trở về đòi nợ. Là người đã đỡ âm linh, đã hứa sẽ cho mẹ con họ an táng đàng hoàng, đến cuối cùng lại khiến họ càng rơi vào thảm cảnh, đó chính là một cái nợ. Mà với một người vẫn luôn có linh hồn của mẹ đeo bám như nam chính, khi gặp phải chuyện nguy cũng đã được mẹ mình bảo vệ. Cũng từ đó, câu chuyện trước kia về gia đình cậu cũng được hé lộ dần ra. Bà cậu cũng bắt đầu cho cậu biết được một số tin tức, về đại nạn trong kiếp số của cậu, về những việc làm từ thời ông nội cậu cùng với âm mưu đằng sau việc dân làng chỉ trong một đêm lại thù hằn với nhà cậu như vậy. Mà con đường hóa giải kiếp nạn vốn có của La Thập Lục, hay việc làm sáng tỏ những âm mưu bị che giấu kia cùng với những câu chuyện của những cái xác sau những lần hành nghề của cậu đều được tác giả xây dựng một cách ly kỳ và cuốn hút. Câu chuyện đan xen yếu tố nhân quả báo ứng, yêu ma quỷ quái cùng âm mưu cần được phá giải rất hợp lý. Những kiến thức về tâm linh cũng được tác giả miêu tả rất chân thực. Còn chờ gì nữa mà không cùng nhau tìm hiểu những âm mưu ly kỳ và điều ma quái tại link truyện: ‘Nhân Gian Ngụy Văn Thực Lục’ *** Tác phẩm: “Dân gian ngụy văn thực lục” Là một tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất của La Kiều Sâm cho tới thời điểm hiện tại, được đăng đầu tiên tại nền tảng qimao, liên tục thống trị top 1 về độ hot, lượng fan và lượng donate của app này trong nhiều tháng. Cốt truyện mới mẻ, tình tiết cao trào dồn dập, mắt xích này nối tiếp mắt xích khác một cách logic không phản cảm. Nhân vật chính của truyện, La Thập Lục, là một ‘Âm sanh tử’ - đứa trẻ sinh ra từ bụng người chết. Mở đầu câu chuyện là cái chết đầy bí ẩn của bố cậu, và hành động nhanh chóng đưa cháu rời đi như chạy trốn của bà nội, cùng việc truyền nghề cho cháu một cách gấp rút của bà nội khiến La Thập Lục luôn trong tình trạng căng như dây đàn, luôn đau đáu về nguyên nhân cái chết của bố. Trong quá trình học và hành nghề của bà nội, La Thập Lục kết giao với người vớt xác Lưu Văn Tam, người dẫn đường âm Trần mù, cùng trải qua nhiều sóng gió nguy hiểm, dần vén màn cái chết của bố, của ông nội, và thậm chí là cả những mưu đồ toan tính thù oán từ đời trước để lại. Khắc họa nhân vật của truyện rất thực tế, nhân vật chính vì hoàn cảnh sống từ bé nên tính cách ban đầu khá nhút nhát ngây thơ, trải qua quá trình trưởng thành dần biết nhìn mặt đoán ý người khác, che dấu nội tâm, gài bẫy kẻ thù, nhưng vẫn giữ được cái tâm tình cảm trượng nghĩa ban đầu. Tuyến nhân vật phụ mỗi người đều được khắc họa rất đặc trưng rõ nét, từ đạo sĩ chính phái nhưng cứng đầu cố chấp, từ kẻ tiểu nhân nhưng mang lốt cao nhân đắc đạo, đến người vốn tạo phúc bách tính vì cầu trường sinh mà thành kẻ gây họa một phương, tất cả đều gần gũi với thực tế và hợp tình hợp lý. Hệ thống lĩnh vực tâm linh được nhắc đến trong truyện ngoài những nghề nghiệp đã được nói đến nhiều trong các truyện tâm linh như đạo sĩ trừ tà, âm dương tiên sinh, phong thủy tiên sinh, thần bà ( hay vu sư ), người vớt xác, người đuổi xác... thì còn có một nghề mới là bà đỡ âm linh. Đặc biệt, các kiến thức hay thông tin về phong thủy trong truyện đều được tác giả tham khảo và lấy từ các sách cổ phong thủy nổi tiếng như Táng Kinh, Hám Long Kinh, Thủy Long Kinh... nên khiến độc giả ngoài việc đọc truyện cũng có thể học thêm được nhiều kiến thức phong thủy. *** [[Tác giả: La Kiều Sâm ------ Dịch: Phong Lăng]] Tết trung thu từ cổ đến nay đều là ngày trăng tròn hoa thắm, cả nhà đoàn tụ. Có một câu nói rằng mười lăm trăng sáng mười sáu trăng tròn, rất nhiều người đều lý giải thành ngày 16 tháng 8 là ngày trăng tròn, nhưng thực tế không phải vậy. Người xưa dùng mười hai canh giờ để tính thời gian, trung thu là ngày nguyệt doanh, nguyệt thuộc âm, doanh là đầy đặn, giờ tý âm khí ngút trời, đây mới thực sự là lúc trăng tròn. Xã hội ngày nay, chính khắc giờ tý vừa đúng 0 giờ, cũng là ngày 16! Tôi là La Thập Lục ... ! ( tức La Mười Sáu ) Hồi năm 95, nhà nghèo, không có tiền đi viện, mẹ sinh tôi tại nhà! Vỡ ối từ lúc chính ngọ, khó sinh cho đến hơn 11 giờ đêm, cho đến khi mẹ tắt thở, tôi vẫn chưa ra. Bà đỡ nói hết cách rồi, một xác hai mạng, chỉ còn cách mời bà Lưu đến đỡ âm linh... Bà Lưu là bà nội tôi, là bà đỡ âm linh nổi tiếng khắp vùng. Những năm trước không đủ điều kiện đi viện, phụ nữ sinh con tại nhà, chuyện một xác hai mạng thường xuyên xảy ra. Chết vì khó sinh, sản phụ căm hận không cam lòng, đứa trẻ oán hận ngút trời, xử lý không đúng cách là thành mẫu tử sát (hung thần mẹ con) gây họa một phương. Đỡ đẻ cho người chết, được gọi là đỡ âm linh. Bà nội kể, phải đợi đến lúc trời sáng mới đỡ âm linh cho mẹ tôi. Giờ tý ngày trung thu, âm khí ngút trời, đỡ đẻ cho đứa trẻ ra, bà không trấn áp nổi! Tôi sẽ thành quỷ! Bố tôi vừa lau nước mắt, vừa mặc quần cho mẹ. Kết quả bố nhìn thấy da bụng mẹ đụng đậy! Bà nội lập tức quả quyết cầm dao rạch bụng mẹ, lôi tôi ra từ giữa đống máu me be bét! .... Từ nhỏ đến lớn, tôi đều không được người khác chào đón. Tôi là đứa trẻ được đỡ âm linh từ bụng người chết, được gọi là âm sanh tử! Tuổi thơ của trẻ con nông thôn, là kết bè kéo đảng lên núi xuống sông, móc trứng chim, bắn súng cao su. Còn tuổi thơ của tôi, là núp sau bờ tường gốc cây, thèm thuồng nhìn những đứa trẻ khác chơi đùa. Có điều, không ai dám bắt nạt tôi! Có duy nhất một lần, hồi năm tuổi, tôi ra đầu thôn mua xì dầu, bị thằng con nhà thợ mổ lợn trong thôn đuổi đánh sưng đầu, máu mũi chảy ròng ròng! Bà nội đến cổng nhà thợ mổ lợn, bảo cả nhà đấy ra quỳ lạy tạ lỗi. Một con gà đền ba giọt máu, nên còn phải giết đủ một trăm con gà, một con lợn cho tôi mới đủ để bảo toàn mạng sống của cả nhà đấy! Thằng mổ lợn ngày nào cũng dao dính máu, người khác sợ bà nội tôi chứ nó không sợ! Nó cầm dao kề cổ bà nội, bảo bà cút! Đừng nói là một trăm con gà, đến một cái lông gà cũng không cho! Nó còn nói từ sau thằng con nó gặp tôi một lần là tẩn tôi một trận, tẩn cho tôi nát mặt nát mông luôn! Bà nội tím mặt đi về! Vừa đi vừa gân cổ hét, có đứa muốn chết, thì không chết không được! Mười mấy hai mươi năm trước địa vị của bà nội ở trong thôn rất cao. Bà đỡ âm linh mà, mọi người vừa sợ vừa nể. Đã năm 2000 rồi, cơ bản đều đủ điều kiện đi viện, cả năm không có nổi một ca đỡ âm linh, người trong thôn bắt đầu ngăn chặn bà! Nói bà là tàn dư của xã hội phong kiến, là thứ mê tín chưa bị phá bỏ của tứ cựu ( tứ cựu gồm tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, tập quán cũ) Thậm chí, thằng con trai nhà mổ lợn còn lẻn vào vườn nhà tôi, hắt tôi ướt nguyên cả người toàn máu lợn! Còn bảo cho tôi từ từ mà bổ máu! Bà nội không nói câu nào, lẳng lặng đuổi nó đi. Bảo rằng nhà nó làm thế là rước họa vào thân! Thằng mổ lợn không những không sợ, còn ngày nào cũng dắt thằng con ra đái bậy ở cổng nhà tôi. Gặp ai cũng bảo, tôi là âm sanh tử, là thằng con hoang đáng chết! Hồi đó bố tôi đi làm xa, nhà không có đàn ông, thế nên bị người ta đè đầu cưỡi cổ cũng không có cách phản kháng. Ngày nào tôi cũng trốn trong nhà khóc. Mời các bạn mượn đọc sách Dân Gian Ngụy Văn Thực Lục của tác giả La Kiều Sâm.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Truyền Kỳ Mạn Lục - Nguyễn Dữ
Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm văn xuôi duy nhất của Việt Nam từ xa xưa được đánh giá là “thiên cổ kỳ bút” (ngòi bút kỳ lạ của muôn đời), một cái mốc lớn của lịch sử văn học, sau này được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tác phẩm gồm 20 truyện thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái nhằm gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, xã hội nhiễu nhương. Truyền kỳ mạn lục đã được dịch và giới thiệu ở một số nước như Pháp, Nga… *** Nhà văn Việt Nam, người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc Thanh Miện, Hải Dương. Thuộc dòng dõi khoa hoạn, từng ôm ấp lý tưởng hành đạo, đã đi thi và có thể đã ra làm quan. Sau vì bất mãn với thời cuộc, lui về ẩn cư ở núi rừng Thanh Hóa, từ đó "trải mấy mươi sương, chân không bước đến thị thành". Chưa rõ Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sống đồng thời với thầy học là Nguyễn Bỉnh Khiêm, và bạn học là Phùng Khắc Khoan, tức là vào khoảng thế kỷ XVI và để lại tập truyện chữ Hán nổi tiếng viết trong thời gian ở ẩn, Tryền kỳ mạn lục (in 1768, A.176/1-2). Truyện được Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính và Nguyễn Thế Nghi sống cùng thời dịch ra chữ nôm. Truyền kỳ mạn lục gồm 20 truyện, viết bằng tản văn, xen lẫn biền văn và thơ ca, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả, hoặc của một người cùng quan điểm với tác giả. Hầu hết các truyện xảy ra ở đời Lý, đời Trần, đời Hồ hoặc đời Lê sơ từ Nghệ An trở ra Bắc. Lấy tên sách là Truyền kỳ mạn lục (Sao chép tản mạn những truyện lạ), hình như tác giả muốn thể hiện thái độ khiêm tốn của một người chỉ ghi chép truyện cũ. Nhưng căn cứ vào tính chất của các truyện thì thấy Truyền kỳ mạn lục không phải là một công trình sưu tập như Lĩnh Nam chích quái, Thiên Nam vân lục... mà là một sáng tác văn học với ý nghĩa đầy đủ của từ này. Đó là một tập truyện phóng tác, đánh dấu bước phát triển quan trọng của thể loại tự sự hình tượng trong văn học chữ Hán. Và nguyên nhân chính của sự xuất hiện một tác phẩm có ý nghĩa thể loại này là nhu cầu phản ánh của văn học. Trong thế kỷ XVI, tình hình xã hội không còn ổn định như ở thế kỷ XV; mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, quan hệ xã hội bắt đầu phức tạp, các tầng lớp xã hội phân hóa mạnh mẽ, trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến ác liệt và kéo dài, đất nước bị các tập đoàn phong kiến chia cắt, cuộc sống không yên ổn, nhân dân điêu đứng, cơ cực. Muốn phản ánh thực tế phong phú, đa dạng ấy, muốn lý giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống đầy biến động ấy thì không thể chỉ dừng lại ở chỗ ghi chép sự tích đời trước. Nhu cầu phản ánh quyết định sự đổi mới của thể loại văn học. Và Nguyễn Dữ đã dựa vào những sự tích có sẵn, tổ chức lại kết cấu, xây dựng lại nhân vật, thêm bớt tình tiết, tu sức ngôn từ... tái tạo thành những thiên truyện mới. Truyền kỳ mạn lục vì vậy, tuy có vẻ là những truyện cũ nhưng lại phản ánh sâu sắc hiện thực thế kỷ XVI. Trên thực tế thì đằng sau thái độ có phần dè dặt khiêm tốn, Nguyễn Dữ rất tự hào về tác phẩm của mình, qua đó ông bộc lộ tâm tư, thể hiện hoài bão; ông đã phát biểu nhận thức, bày tỏ quan điểm của mình về những vấn đề lớn của xã hội, của con người trong khi chế độ phong kiến đang suy thoái. Trong Truyền kỳ mạn lục, có truyện vạch trần chế độ chính trị đen tối, hủ bại, đả kích hôn quân bạo chúa, tham quan lại nhũng, đồi phong bại tục, có truyện nói đến quyền sống của con người như tình yêu trai gái, hạnh phúc lứa đôi, tình nghĩa vợ chồng, có truyện thể hiện đời sống và lý tưởng của sĩ phu ẩn dật... Nguyễn Dữ đã phản ánh hiện thực mục nát của chế độ phong kiến một cách có ý thức. Toàn bộ tác phẩm thấm sâu tinh thần và mầu sắc của cuộc sống, phạm vi phản ánh của tác phẩm tương đối rộng rãi, khá nhiều vấn đề của xã hội, con người được đề cập tới. Bất mãn với thời cuộc và bất lực trước hiện trạng, Nguyễn Dữ ẩn dật và đã thể hiện quan niệm sống của kẻ sĩ lánh đục về trong qua Câu chuyện đối đáp của người tiều phu trong núi Nưa. ở ẩn mà nhà văn vẫn quan tâm đến thế sự, vẫn không quên đời, vẫn nuôi hy vọng ở sự phục hồi của chế độ phong kiến. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Dữ là tư tưởng Nho gia. Ông phơi bày những cái xấu xa của xã hội là để cổ vũ thuần phong mỹ tục xuất phát từ ý thức bảo vệ chế độ phong kiến, phủ định triều đại mục nát đương thời để khẳng định một vương triều lý tưởng trong tương lai, lên án bọn "bá giả" để đề cao đạo "thuần vương", phê phán bọn vua quan tàn bạo để ca ngợi thánh quân hiền thần, trừng phạt bọn người gian ác, xiểm nịnh, dâm tà, để biểu dương những gương tiết nghĩa, nhân hậu, thủy chung. Tuy nhiên Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ thể hiện tư tưởng nhà nho, mà còn thể hiện sự dao động của tư tưởng ấy trước sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến. Nguyễn Dữ đã có phần bảo lưu những tư tưởng phi Nho giáo khi phóng tác, truyện dân gian, trong đó có tư tưởng Phật giáo, Đạo giáo và chủ yếu là tư tưởng nhân dân. Nguyễn Dữ đã viết truyền kỳ để ít nhiều có thể thoát ra khỏi khuôn khổ của tư tưởng chính thống đặng thể hiện một cách sinh động hiện thực cuộc sống với nhiều yếu tố hoang đường, kỳ lạ. Ông mượn thuyết pháp của Phật, Đạo, v.v. để lý giải một cách rộng rãi những vấn đề đặt ra trong cuộc sống với những quan niệm nhân quả, báo ứng, nghiệp chướng, luân hồi; ông cũng đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân dân khi miêu tả cảnh cùng cực, đói khổ, khi thể hiện đạo đức, nguyện vọng của nhân dân, khi làm nổi bật sự đối kháng giai cấp trong xã hội. Cũng chính vì ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ khắt khe của hệ ý thức phong kiến và muốn dành cho tư tưởng và tình cảm của mình một phạm vi rộng rãi, ông hay viết về tình yêu nam nữ. Có những truyện ca ngợi tình yêu lành mạnh, chung thủy sắt son, thể hiện nhu cầu tình cảm của các tầng lớp bình dân. Có những truyện yêu đương bất chính, tuy vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo nhưng lại phản ánh lối sống đồi bại của nho sĩ trụy lạc, lái buôn hãnh tiến. Nguyễn Dữ cũng rất táo bạo và phóng túng khi viết về những mối tình si mê, đắm đuối, sắc dục, thể hiện sự nhượng bộ của tư tưởng nhà nho trước lối sống thị dân ngày càng phổ biến ở một số đô thị đương thời. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo của Nguyễn Dữ vẫn là bảo vệ lễ giáo, nên ý nghĩa tiến bộ toát ra từ hình tượng nhân vật thường mâu thuẫn với lý lẽ bảo thủ trong lời bình. Mâu thuẫn này phản ánh mâu thuẫn trong tư tưởng, tình cảm tác giả, phản ánh sự rạn nứt của ý thức hệ phong kiến trong tầng lớp nho sĩ trước nhu cầu và lối sống mới của xã hội. Truyền kỳ mạn lục có giá trị hiện thực vì nó phơi bày những tệ lậu của chế độ phong kiến và có giá trị nhân đạo vì nó đề cao phẩm giá con người, tỏ niềm thông cảm với nỗi khổ đau và niềm mơ ước của nhân dân. Truyền kỳ mạn lục còn là tập truyện có nhiều thành tựu nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện, dựng nhân vật. Nó vượt xa những truyện ký lịch sử vốn ít chú trọng đến tính cách và cuộc sống riêng của nhân vật, và cũng vượt xa truyện cổ dân gian thường ít đi sâu vào nội tâm nhân vật. Tác phẩm kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tài tình những phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ tác giả, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ ca. Lời văn cô đọng, súc tích, chặt chẽ, hài hòa và sinh động. Truyền kỳ mạn lục là mẫu mực của thể truyền kỳ, là "thiên cổ kỳ bút", là "áng văn hay của bậc đại gia", tiêu biểu cho những thành tựu của văn học hình tượng viết bằng chữ Hán dưới ảnh hưởng của sáng tác dân gian. BÙI DUY TÂN Nguyễn Dữ là con trai cả Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức thứ 27 (1496), được trao chức Thừa chánh sứ, sau khi mất được tặng phong Thượng thư. Lúc nhỏ Nguyễn Dữ chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, Nguyễn Dữ thi Hội nhiều lần, đạt trúng trường và từng giữ chức vụ Tri huyện Thanh Tuyền nhưng mới được một năm thì ông xin từ quan về nuôi dưỡng mẹ già. Trải mấy năm dư không đặt chân đến những nơi đô hội, ông miệt mài "ghi chép" để gửi gắm ý tưởng của mình và đã hoàn thành tác phẩm "thiên cổ kỳ bút" Truyền kỳ mạn lục. Nguyễn Dữ sinh và mất năm nào chưa rõ, nhưng căn cứ vào tác phẩm cùng bài Tựa Truyền kỳ mạn lục của Hà Thiện Hán viết năm Vĩnh Định thứ nhất (1547) và những ghi chép của Lê Quý Đôn trong mục Tài phẩm sách Kiến văn tiểu lục có thể biết ông là người cùng thời với Nguyễn Bỉnh Khiêm, có thể lớn tuổi hơn Trạng Trình chút ít. Giữa Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm tin chắc có những ảnh hưởng qua lại về tư tưởng, học thuật... nhưng e rằng Nguyễn Dữ không thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm như Vũ Phương Đề đã ghi. Đối với nhà Mạc, thái độ Nguyễn Dữ dứt khoát hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông không làm quan với nhà Mạc mà chọn con đường ở ẩn và ông đã sống cuộc sống lâm tuyền suốt quãng đời còn lại. Truyền kỳ mạn lục được hoàn thành ngay từ những năm đầu của thời kỳ này, ước đoán vào khoảng giữa hai thập kỷ 20-30 của thế kỷ XVI. Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm duy nhất của Nguyễn Dữ. Sách gồm 20 truyện, chia làm 4 quyển, được viết theo thể loại truyền kỳ. Cốt truyện chủ yếu lấy từ những câu chuyện lưu truyền trong dân gian, nhiều trường hợp xuất phát từ truyền thuyết về các vị thần mà đền thờ hiện vẫn còn (đền thờ Vũ Thị Thiết ở Hà Nam, đền thờ Nhị Khanh ở Hưng Yên và đền thờ Văn Dĩ Thành ở làng Gối, Hà Nội). Truyện được viết bằng văn xuôi Hán có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn, cuối mỗi truyện (trừ truyện 19 Kim hoa thi thoại ký) đều có lời bình thể hiện rõ chính kiến của tác giả. Hầu hết các truyện đều lấy bối cảnh ở các thời Lý-Trần, Hồ, thuộc Minh, Lê sơ và trên địa bàn từ Nghệ An trở ra Bắc. Thông qua các nhân vật thần tiên, ma quái, tinh loài vật, cây cỏ..., tác phẩm muốn gửi gắm ý tưởng phê phán nền chính sự rối loạn, không còn kỷ cương trật tự, vua chúa hôn ám, bề tôi thoán đoạt, bọn gian hiểm nịnh hót đầy triều đình; những kẻ quan cao chức trọng thả sức vơ vét của cải, sách nhiễu dân lành, thậm chí đến chiếm đoạt vợ người, bức hại chồng người. Trong một xã hội rối ren như thế, nhiều tệ nạn thế tất sẽ nảy sinh. Cờ bạc, trộm cắp, tật dịch, ma quỷ hoành hành, đến Hộ pháp, Long thần cũng trở thành yêu quái, sư sãi, học trò, thương nhân, nhiều kẻ đắm chìm trong sắc dục. Kết quả là người dân lương thiện, đặc biệt là phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Nguyễn Dữ dành nhiều ưu ái cho những nhân vật này. Dưới ngòi bút của ông họ đều là những thiếu phụ xinh đẹp, chuyên nhất, tảo tần, giàu lòng vị tha nhưng luôn luôn phải chịu số phận bi thảm. Đến cả loại nhân vật "phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh (Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi trở thành ma quỷ. Họ đáng bị trách phạt nhưng cũng đáng thương. Dường như Nguyễn Dữ không tìm được lối thoát trên con đường hành đạo, ông quay về cuộc sống ẩn dật, đôi lúc thả hồn mơ màng cõi tiên, song cơ bản ông vẫn gắn bó với cõi đời. Ông trân trọng và ca ngợi những nhân cách thanh cao, cứng cỏi, những anh hùng cứu nước, giúp dân không kể họ ở địa vị cao hay thấp. Truyền kỳ mạn lục ngay từ khi mới hoàn thành đã được đón nhận. Hà Thiện Hán người cùng thời viết lời Tựa, Nguyễn Thế Nghi, theo Vũ Phương Đề cũng là người cùng thời, dịch ra văn nôm. Về sau nhiều học giả tên tuổi Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích, Phan Huy Chú đều ghi chép về Nguyễn Dữ và định giá tác phẩm của ông. Nhìn chung các học giả thời Trung đại khẳng định giá trị nhân đạo và ý nghĩa giáo dục của tác phẩm. Các nhà nghiên cứu hiện đại phát hiện thêm giá trị hiện thực đồng thời khai thác tinh thần "táo bạo, phóng túng" của Nguyễn Dữ khi ông miêu tả những cuộc tình si mê đắm đuối đậm màu sắc dục. Hành vi ấy tuy trái lễ, trái đạo trung dung nhưng lại đem đến chút hạnh phúc trần thế có thực cho những số phận oan nghiệt. Về mặt thể loại mà xét thì Truyền kỳ mạn lục là tác phẩm đỉnh cao của truyện truyền kỳ Việt Nam. Nguyễn Dữ chịu ảnh hưởng của Cù Hựu nhưng Truyền kỳ mạn lục vẫn là "áng văn hay của bậc đại gia", là sáng tạo riêng của Nguyễn Dữ cũng như của thể loại truyện truyền kỳ Việt Nam. TRẦN THỊ BĂNG THANH Lời tựa(1) Tập lục này là trước tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu (2). Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng được bổ làm Tri huyện Thanh Tuyền (3). Được một năm ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu. Mấy năm dư không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này, để ngụ ý. Xem văn từ thì không vượt ra ngoài phên giậu của Tông Cát (4), nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu! Vĩnh Định năm đầu (1547), tháng Bảy, ngày tốt. Đại An Hà Thiện Hán kính ghi Kẻ hậu học là Tùng Châu Nguyễn Lập Phu biên. (1) Lời Tựa này được chép trong Cựu biên Truyền kỳ mạn lục. Bản này hiện chưa có trong các thư viện ở Hà Nội. Ở đây chúng tôi theo Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san, Đài Loan thư cục in năm 1987. Tân biên truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú in năm Cảnh Hưng 35 (1774) lấy lại lời tựa này nhưng không ghi tên Hà Thiện Hán. Cuối bài ghi thêm "Nay xã trưởng xã Liễu Chàng là Nguyễn Đình Lân soạn in vào năm Giáp Ngọ (1774) để làm bản gốc cho nghìn vạn đời và để bán cho thiên hạ xem đọc". Chú thích (2) Nguyễn Tường Phiêu: người xã Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay thuộc tỉnh Hải Dương, đồ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân năm Hồng Đức 27 (1496) đời Lê Thánh Tông; làm quan đến Thừa chánh sứ. Sau khi mất được tặng chức Thượng thư, phong phúc thần. (3) Thanh Tuyền: tức huyện Bình Xuyên, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. (4) Tông Cát: Cù Tông Cát, tên là Cù Hựu, tác giả Tiễn đăng tân thoại. Mời các bạn đón đọc Truyền Kỳ Mạn Lục của tác giả Nguyễn Dữ.
Ác Linh Quốc Gia 2 - Trong Nháy Mắt Cười Cười
Ánh dương qua đi, bõng tối bao trùm, con người chìm trong giấc ngủ mộng mị. Chân tướng sự thật bị che giấu một cách giả dối ở một góc khuất lạnh lẽo. Có người thấy, nhưng lựa chọn bỏ qua. Con mèo với con ngươi đỏ thẫm, trong đêm tối đứng gọi đàn. Trong bóng tối... có bóng người quái dị đang không ngừng tiến đến! Chó cùng rứt dậu, ác quỷ tụ hội, tuyệt vọng và căng thẳng đến cực điểm! Vô số những sự kiện khiến người ta phải sởn gai ốc liên tục xuất hiện. Là trầm luân trong tuyệt vọng? Hay là trong tuyệt vọng tìm được lối thoát? Vẫn phải chờ đợi lời tuyên án tàn nhẫn đến từ số phận? Đây là thế giới tại quốc gia ác quỷ, một thế giới tràn đầy khủng hoảng và chém giết. *** Vì trước tiên muốn tới khu vực thứ hai gặp mặt Triệu Tĩnh Thù, cho nên Hạ Thiên Kỳ cũng không trở lại thành phố Phước Bình, mà ngay lập tức dẫn theo Sở Mộng Kỳ đi tìm Lãnh Nguyệt, sau đó ở lại chờ hai ngày.. Nói là gặp mặt, nhưng thực sự phải dùng từ chia tay để hình dung thì đúng hơn. Mãi cho đến ngày thứ ba khi bọn họ quay trở về thành phố Phước Bình, Triệu Tĩnh Thù mới hoàn thành nhiệm vụ quay về biệt thự. Không có Lãnh Nguyệt, cũng không có đám người Vương Tang Du,nhưng mà hắn và Triệu Tĩnh Thù còn có Sở Mộng Kỳ, cả thảy ba người ăn đơn giản một chút trước khi đi dự tiệc tối. Trên bàn cơm, Triệu Tĩnh Thù không nói quá nhiều, bầu không khí của ba người ít nhiều có phần gượng gạo, cuối cùng tất cả bầu không khí gượng gạo đó đều chuyển thành những lời chúc phúc. Hy vọng là ai cũng có thể bình yên, trong tương lai không lâu sẽ lại lần nữa đoàn tụ trên một con đường. Sở Mộng Kỳ trước đó cũng không biết, Triệu Tĩnh Thù từ chối yêu cầu mời cô gia nhập vào một đội của Hạ Thiên Kỳ, cho nên khi nghe nói đến Triệu Tĩnh Thù sẽ không cùng đi chung với bọn họ, thì lại vội vàng bắt đầu làm người thuyết phục Triệu Tĩnh Thù, nhưng mà cô vẫn như cũ đó là không thể nào thay đổi được suy nghĩ của Triệu Tĩnh Thù. Triệu Tĩnh Thù vẫn là quyết định ở lại, cho rằng khu vực thứ hai hiện tại cũng không hề thích hợp với cô. Dựa vào Đệ Tam Minh Phủ thì có thể làm thực lực bản thân tăng lên một cách vững vàng. Nhìn thấy Triệu Tĩnh Thù đã thật sự quyết định, Sở Mộng Kỳ mặc dù rất không bằng lòng, nhưng sau khi thấy Hạ Thiên Kỳ cũng không có nói cái gì, cô thở dài rồi cũng không lại tiếp tục kiên trì thêm nữa. Dù sao đi nữa thì với sự nhạy bén của Sở Mộng Kỳ, sẽ không thể nào không cảm nhận được giữa hai người Hạ Thiên Kỳ và Triệu Tĩnh Thù có xuất hiện thay đổi. Bởi vì khi cơm nước xong đều cũng đã khuya rồi, nghĩ đến bên trong đạo quán cũng chỉ có một cái giường đã bị hỏng, đến ngay cả một chỗ để ngũ cũng không có, cho nên Hạ Thiên Kỳ cũng không có đi vội vã, dự định chờ đến buổi sáng ngày mai rồi sẽ lên đường đi đến. Sở Mộng Kỳ và Triệu Tĩnh Thù sau khi đã tắm rửa xong hết, thì lại lần lượt về đến trong phòng ngủ, hai người đêm nay ngủ chung một chỗ, dễ nhận thấy là có rất nhiều chuyện muốn tán gẫu. Buổi tối Hạ Thiên Kỳ uống rượu rất ít, có lẽ là bởi vì sẽ rời đi, sự ưu tư trong lòng nổi lên rất nhiều, cho nên không hề buồn ngủ. Sau khi ở cạnh đầu giường liên tục hút hết hai điều thuốc lá, hắn lại một lần nữa mặc quần áo, hòa mình vào trong bóng đêm rời khỏi biệt thự. Trong thoáng chốc, thân thể hắn đã xuất hiện trước cổng khu vui chơi. Hắn đi đến đây cũng không phải là vì không ngủ được cho nên muốn đi tìm một chỗ để chơi đùa, mà đơn giản là muốn gặp mặt ông chủ khu vui chơi một lần. Dù sao người được gọi là ông chủ Tuyệt Đại lúc trước đã từng cứu họ một mạng, chính là điều quan trọng hơn, hắn muốn biết rõ ràng thân phận của người kia. Vì sao thực lực của ông ta mạnh mẽ như vậy, nhưng mà trên tay lại không có đeo đồng hồ vinh dự. Phải biết rằng bất kề là có rời khỏi Minh Phủ hay không, thì trên cổ tay đều có mang đồng hồ vinh dự, bởi vì toàn bộ phần thưởng đều là thông qua đồng hồ vinh dự để tiến hành truyền lại. Tựa như Lãnh Nguyệt và Sở Mộng Kỳ cũng thế, bọn họ mặc dù là đã rời khỏi Minh Phủ, gia nhập vào đoàn thể của hắn, nhưng mà muốn phải đạt được phần thưởng, thì cũng phải yêu cầu hắn cầm điểm vinh dự hoặc là cho điểm, với hình thức là gửi đi đến trên đồng hồ vinh dự của hai người bọn họ. Cho nên trừ phi là con người tên gọi là Tuyệt Đại kia, từ trước đến nay vẫn chưa từng gia nhập vào Minh Phủ, nếu không thì gần như là không có khả năng cầm đồng hồ vinh dự ném bỏ đi được. Dù sao đi nữa thì hắn cũng không ngủ được, chẳng bằng cứ đi thử thời vận, có lẽ có thể gặp được người nọ một lần, sẽ được biết một số chuyện mà hắn không biết. Bốn phía của khu giải trí này cũng không có sự bao phủ của Quỷ Vực, Hạ Thiên Kỳ cũng không có cảm giác được bất cứ dao động của sức mạnh nào. Sau khi sức mạnh tăng lên đến trình độ giám đốc này, khả năng điều khiển về không gian và cảm nhận khí tức của hắn cũng trở nên nhạy bén. Bất kể là người có được thuật pháp, hay là ngưởi có thể chất quỷ vật, chỉ cần là bọn chúng sử dụng thêm sức mạnh của bản thân, đang ở cách hắn trong một phạm vi nhất định là hắn sẽ cảm nhận được. Vậy nên nơi đây không hề có quỷ vật. Quỷ vật trời sanh đã có khả năng ẩn giấu hơi thở, cho nên nhiều lúc không có cách nào thông qua hơi thở để khoanh tròn vị trí của quỷ vật. Biện pháp hiệu quả nhất chính là cảm nhận Quỷ Vực, dù sao những quỷ vật hắn sắp đối mặt, đa phần thực lực nằm ở cấp độ Ác Quỷ, Mặc dù hắn khó có thể cảm nhận khí tức Quỷ Vật, nhưng cảm giác sự tồn lại của Quỷ Vực lại không thành vấn đề. Đi vào trong khu giải trí, đi đến một loạt gian phòng ở chỗ tầng trệt, Hạ Thiên Kỳ mới vừa rẽ đến noi, lại nhìn thấy người phục vụ mà hắn đã từng có trò chuyện qua một lần, đang bưng một số vỏ chai rượu từ bên trong hành lang đi ra. "Hạ tiên sinh, đã lâu không thấy anh quay lại đây chơi." Nhìn thấy Hạ Thiên Kỳ, người phục vụ kia liếc mắt một cái là đã nhận ra hắn, đến tận bây giờ vẫn còn nhớ được rất rõ ràng, Hạ Thiên Kỳ đã từng cho anh ta không ít tiền boa. "Ừ, một quãng thời gian trước đây luôn luôn có việc phải bận rộn nên không đến được, lúc này có rảnh rỗi được một chút, thì tranh thủ thời gian quay lại đây đi dạo." Khách sáo đến đây, Hạ Thiên Kỳ đề cập vào trọng tâm: "Đúng rồi, ông chủ của các người có ở đây không?" "Ông chủ không có ở đây, cũng đã lâu rồi không thấy ông ấy tới nữa!" Người phục vụ lắc đầu, nhìn Hạ Thiên Kỳ hơi có phần nghi ngờ hỏi: "Anh tìm ông chủ chúng tôi có việc hay sao?" "Ừ, quả thật là có chuyện muốn tìm ông ấy, anh có cách nào để liên lạc với ông ấy hay không? Điện thoại hay gì đấy." "Không có. Làm sao mà những người làm công như chúng tôi đây lại có cách liên lạc với ông chủ." Nghe người phục vụ nói không có, trong lòng Hạ Thiên Kỳ ít nhiều cũng có chút thất vọng, chỉ có điều hắn cũng không hề biểu hiện ra ngoài, chỉ cười cười rồi đi đến gian nhà phía bên trong. Trong lòng Hạ Thiên Kỳ thất vọng vô cùng, nhưng hắn cảm thấy không phải là hết cơ hội gặp được ông chủ. Nếu như không có duyên thì hắn cũng không cưỡng cầu. Có điều, hắn lại có một loại trực giác mách bảo rằng, sớm muộn gì hắn cũng sẽ gặp được người đó. Bây giờ nghĩ lại, thực lực ông chủ chỗ này ít nhất cũng là cấp bậc giám đốc. Vì lúc ấy ông ta không ra tay mà lại có thể ngăn chặn Lãnh Nguyệt, hơn nữa dọa cho Giang Trấn chạy mất, nên Hạ Thiên Kỳ cũng khó đoán ra được thực lực chính xác của đối phương. Chạy trên tàu điện một hồi, Hạ Thiên Kỳ uống vài bia, cảm thấy không có gì hay ho rồi lại trở về biệt thự. Nằm ở trên giường, vẫn không có chút buồn ngủ, trằn trọc hơn nữa ngày, Hạ Thiên Kỳ mới mơ màng thiếp đi. Giấc ngủ này rất tệ, vì cả đêm hắn gặp ác mộng. Có thể nói là từ khi gia nhập vào Minh Phủ cho đến hôm nay, mộng đẹp với hắn thì hoàn toàn không có duyên phận với nhau, mỗi ngày nếu như không phải bị quỷ đuổi giết, thì chính là bị vây trong ảo cảnh, tim đập nhanh đến mức gần như sắp chết đi. Rửa mặt đơn giản xong, thay đổi quần áo trên người, Hạ Thiên Kỳ lại vội vàng đi xuống lầu. Chờ cho đến khi hắn đi đến dưới lầu, thì phát hiện ra Sở Mộng Kỳ đang ngồi ở trong phòng ăn ăn điểm tâm sáng mà lại hơi có phần ngây người ra, hắn không nhìn thấy Triệu Tĩnh Thù, lập tức hỏi: "Vì sao lại không thấy Tĩnh Thù đâu?" "Cô ấy không có ở trong chỗ này, vừa đi ra ngoài rồi!" Lúc này Hạ Thiên Kỳ cũng ngồi xuống, sau đó cũng tự lấy cho mình một bát cháo, lại cầm thêm một cái bánh bao thịt bắt đầu ăn. Sở Mộng Kỳ không làm cơm nên hiển nhiên bữa sáng này đều là do Triệu Tĩnh Thù vì bọn họ mà chuẩn bị. "Cô ấy đi đâu?" "Không biết, nhưng mà cô ấy nói là chúng ta không cần chờ cô ấy." Sở Mộng Kỳ vẫn không nhìn đến Hạ Thiên Kỳ như trước, thì thào mà nói. "Vì sao vậy? Bây giờ tôi gọi cho cô ấy một lần xem!" Hạ Thiên Kỳ vừa mới nói sẽ gọi qua cho Triệu Tĩnh Thù, nhưng lại bị Sở Mộng Kỳ ngăn cản lại: "Anh đây là khờ khạo thật hay là bị ngớ ngẩn đây, nhìn đã biết là Tĩnh Thù không muốn để cho chúng ta nhìn thấy dáng vẻ đau lòng của cô ấy, cho nên mới không tiễn chúng ta." Hạ Thiên Kỳ nghe xong không nói gì, nhưng mà lại gật đầu theo bản năng, chỉ có điều bánh bao đang nhai ở trong miệng, hương vị lại đột nhiên đắng đi đến mấy phần. ... Mời các bạn đón đọc Ác Linh Quốc Gia 2 của tác giả Trong Nháy Mắt Cười Cười.
Hẹn Mùa Hoa Cúc - Ueda Akinari
Nhật Bản thế kỷ 18 đã sản sinh ra một tác phẩm kinh điển của thể loại chí quái, không thua kém "Liêu Trai chí dị" hay... phim Hollywood ngày nay. Chẳng cứ phim Hollywood, yếu tố này trong Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh là một ví dụ cổ điển vô cùng nổi tiếng. Nhưng Liêu Trai chí dị có lẽ chỉ nổi tiếng hơn vì Trung Quốc đông dân, chứ một cấu tứ như vậy không hề hiếm gặp, ở Việt Nam thì có Truyền kỳ mạn lục, còn Nhật Bản, tuy có lẽ hiếm được độc giả Việt Nam biết đến về mảng này, cũng có Hẹn mùa hoa cúc, một tác phẩm không kém cạnh chút nào về những yếu tố ma quỷ ảo diệu hay những thông điệp ẩn giấu đằng sau sự ma mị. Trong Hẹn mùa hoa cúc, cũng như Liêu Trai chí dị, ma quỷ thì nhiều, nhưng những hồn ma bóng quỷ ấy chẳng đủ sức làm những độc giả đã quen với kỹ xảo doạ dẫm của điện ảnh hiện đại phải e ngại. Những câu chuyện hồn ma vượt đường xa để giữ lời hứa với bạn, người vợ đã chết vẫn thuỷ chung chờ chồng, hay ngay cả người vợ bị bỏ rơi hoá thành ma nữ đuổi theo người chồng bội bạc và nhân tình, dù là ma đấy quỷ đấy nhưng không hề giật gân hù doạ. *** Nguyên tác Kikka no Chigiri ( lời ước hẹn gặp lại nhau giữa mùa hoa cúc) của Ueda Akinari (Thượng Điền Thu Thành) đã in trong Ugetsu Monogatari (Vũ Nguyệt Vật Ngữ) hay Truyện Đêm Mưa Trăng Lu. Theo lời tựa, tập truyện được viết xong vào một đêm tháng ba trời mưa trăng lu năm Minh Hòa thứ 5 (1768), lúc tác giả 34 tuổi. Bản đầu tiên in năm An Vĩnh thứ 5 (1776). Người dịch dùng bản được Asano Sampei hiệu chú và nhà xuất bản Shinchô phát hành năm 1979. Sinh năm 1734 trong một xóm yên hoa ở Osaka (1) , Ueda là đứa con vô thừa nhận của một cô gái làng chơi. Lên bốn, mẹ bỏ không nuôi, được một thương gia giàu có và tốt bụng nhưng không con trai, đem về cho ăn học. Ông bị lên đậu ngặt nghèo, tuy thoát chết nhưng liệt hết mấy ngón tay (nên một trong những bút hiệu của ông là Zenshi Kijin (2) nghĩa là Quái Nhân Cụt Ngón). Sau khi sống một quãng đời thanh niên đồi trụy, ông sớm thức tỉnh trở lại nối nghiệp cha nuôi buôn dầu và buôn giấy nhưng không mấy chí thú vì vẫn mang giòng máu nghệ sĩ. Năm 1771, sau trận hỏa tai làm tiêu tan sản nghiệp, ông chuyển sang nghề đông y và viết văn. Cuối đời (1793), về sống ở Kyoto và mất năm 1809, trong nghèo túng, vợ chết, không con cái và hầu như mù. Tên tuổi Ueda Akinari gắn liền với văn xuôi Nhật Bản cận đại. Ảnh hưởng của ông rất sâu đậm đối với Kyokutei Bakin (1767-1848), tiểu thuyết gia số một thời Edo và những thế hệ đi sau (3). Phần ông thì chịu ảnh hưởng của các tiểu thuyết gia đời Minh như La Quán Trung (4), Phùng Mộng Long (5) ... Riêng Hẹn Mùa Hoa Cúc đã mượn đề tài truyện " Phạm Cự Khanh Kê Thực Sinh Tử Giao " (6) sưu tập trong tiểu thuyết bạch thoại Trung Quốc của họ Phùng, Cổ Kim Tiểu Thuyết, quyển thứ 16. Akinari thích viết truyện quái đản vì nó là loại văn phổ biến nhất trong quần chúng đương thời nhưng có thể một phần do bản chất thần bí của chính ông. Suốt đời, ông hay viếng đền thần chồn Inari vì tin thần đã cứu mạng lúc mình lâm bạo bệnh. Giáo sư René Sieffert đã dịch truyện nầy sang Pháp văn (xem Le Rendez-vous aux Chrysanthèmes trong Contes de pluie et de lune, Unesco, Folio, Paris, 1956). Xin để ý lời văn trong truyện nầy tuy có dụng công nhưng chung qui rất thô phác, cổ kính, ngay khi đã được chuyển ra kim văn. Niên hiệu An Vĩnh (An-ei, 1772-1781) bên Nhật, lúc tác phẩm ra đời, tương đương với thời Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc phù Lê diệt Trịnh ở nước ta. Mời các bạn đón đọc Hẹn Mùa Hoa Cúc của tác giả Ueda Akinari.
Lồng Đèn Hoa Mẫu Đơn - Lafcadio Hearn
Ngày xưa ở quận Ushigome, vùng Yedo, có một hatamoto tên là Iijima Heizayemon, người mà cô con gái độc nhất, Tsuyu, có một sắc đẹp thanh khiết như Sương Mai, hệt như ý nghĩa của tên nàng. IIijima cưới người vợ thứ khi con gái của mình khoảng mười sáu tuổi; và, thấy rằng O-Tsuyu không thể vui sống với mẹ kế, ông cho người xây một dinh thự xinh xắn ở Yanagijima cho con gái ra riêng, và cấp một tỳ nữ giỏi dang, tên là O-Yone, để hầu hạ nàng. O-Tsuyu sống hạnh phúc trong căn nhà mới của mình cho đến một ngày kia, y sĩ của gia đình, ông Yamamoto Shijo, viếng thăm, đi cùng một chàng võ sĩ đạo trẻ tuổi tên là Hagiwara Shinzaburo, nhà ở khu Nedzu. Shinzaburo là một thanh niên tuấn tú khác thường, và rất phong nhã, và hai người trẻ tuổi đã yêu nhau từ cái nhìn đầu tiên. Ngay cả trước khi cuộc viếng thăm chấm dứt, họ đã tìm được cách thề ước trọn đời bên nhau -- mà vị lương y không hay biết. Và, khi chia tay, O-Tsuyu khẻ nói với chàng tuổi trẻ, -- "Nhớ nhé! Nếu chàng không quay lại, chắc thiếp sẽ chết mất!" Shinzaburo không bao giờ quên những lời này; và chàng nóng lòng gặp gỡ O-Tsuyu. Nhưng lễ giáo không cho phép chàng một thân một mình đến thăm nàng: chàng bắt buộc phải chờ một dịp khác để tháp tùng người y sĩ, ông đã hứa sẽ dẫn chàng đến dinh thự ấy một lần nữa. Thật chẳng may, ông lão không giữ lời. Ông đã nhận biết tình cảm bộc phát của O-tsuyu; và ông sợ rằng thân phụ của nàng sẽ buộc ông nhận trách nhiệm cho bất kỳ hậu quả nghiêm trọng nào. Iijima Heizayemon đã lừng danh với thói chặt đầu. Và càng nghĩ đến những hậu quả có thể xảy ra vì đã giới thiệu Shinzaburo đến dinh thự Iijima, ông càng lo sợ. Do đó ông cố tình không nhắn gọi người bạn trẻ của mình. Nhiều tháng trôi qua, và O-Tsuyu, không biết lý do thực sự việc trễ nãi của Shinzaburo, tin rằng tình của mình bị rẻ rúng. Rồi ôm nỗi khổ sầu, nàng phát bệnh và qua đời. Chẳng bao lâu, O-Yone tỳ nữ trung thành của nàng, cũng mất theo vì thương tiếc tiểu thư của mình; và hai người được chôn cất bên nhau trong nghĩa trang của Shin-Banzui-In, một ngôi chùa cho đến nay vẫn tồn tại ở ngoại ô Dango-Zaka, nơi lễ hội hoa cúc nổi tiếng diễn ra hàng năm. ... Mời các bạn đón đọc Lồng Đèn Hoa Mẫu Đơn của tác giả Lafcadio Hearn.