Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh

“Không lâu sau lần đầu gặp Warren Buffet vào năm 1991, tôi có hỏi về cuốn sách quản trị kinh doanh yêu thích nhất của ông. Không mất đến nửa giây suy nghĩ, ông trả lời: ‘Đó là Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh của John Brooks, tôi sẽ gửi cho cậu cuốn của mình.’ Đến nay đã hơn hai mươi năm kể từ ngày Warren cho tôi mượn cuốn sách đó ‒ và hơn bốn mươi năm kể từ khi nó được xuất bản lần đầu tiên ‒ Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh vẫn là cuốn sách quản trị kinh doanh hay nhất mà tôi từng đọc.”  Bill Gates Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh với 12 câu chuyện thú vị và không kém phần kịch tính về những sự kiện nổi tiếng tại Phố Wall này sẽ vén màn những âm mưu cũng như bộc lộ bản chất thất thường của thế giới tài chính. Xuyên suốt cuốn sách là những báo cáo chi tiết và sắc sảo của John Brooks, dù đó là sự kiện thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1962, thất bại của một công ty môi giới danh tiếng, hay nỗ lực táo bạo của các ngân hàng Mỹ nhằm cứu vãn đồng bảng Anh. Sau tất cả, những câu chuyện này vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự để giúp chúng ta nắm bắt được tính phức tạp của đời sống kinh doanh. Những cuộc phiêu lưu trong kinh doanh thực sự là những phân tích tài chính sống động và xuất sắc nhất từ trước đến nay. *** THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN - một thước phim phiêu lưu dài tập chiếu ban ngày của giới thượng lưu - sẽ không phải là thị trường chứng khoán nếu không có những thăng trầm trong đó. Bất kỳ ai trên ngồi ghế lãnh đạo từng say mê truyền thuyết về Phố Wall hẳn đã nghe đoạn đối đáp mà người ta đồn là của J. P. Morgan1 (lớn) khi một người bạn ngây thơ của ông đã mạo muội hỏi nhân vật vĩ đại này về việc liệu thị trường sẽ diễn biến như thế nào. Morgan trả lời tỉnh queo: “Lên-xuống rồi lại xuống-lên!”. Và còn nhiều những đặc thù đặc trưng khác. Bên cạnh những lợi thế và bất lợi kinh tế của những giao dịch chứng khoán - lợi thế: tạo ra một dòng chảy tự do về vốn để trang trải cho việc mở rộng sản xuất; bất lợi: tạo ra một con đường quá đỗi dễ dàng để cho những người cả tin, thiếu thận trọng và kém may mắn vuột mất đi số tiền của mình - sự phát triển những giao dịch này đã tạo ra một hệ thống hành vi xã hội, toàn diện với các tập quán, ngôn ngữ cùng những phản ứng có thể dự đoán được trước từng sự kiện cụ thể. Ngoạn mục nhất là ở tốc độ bung nở hết cỡ của hệ thống hành vi này sau sự kiện Sở giao dịch chứng khoán trọng yếu đầu tiên trên thế giới được thành lập năm 1611, trên một khoảng sân không mái che ở Amsterdam và mức độ mà hệ thống này duy trì (tất nhiên, cùng với những biến thể của nó) trên Sở giao dịch chứng khoán New York vào thập niên 1960. Chứng khoán Mỹ ngày nay là một tổ chức khổng lồ liên quan tới hàng triệu km đường dây điện báo riêng, các máy tính có thể đọc và sao chép niêm giám điện thoại thành phố Manhattan trong ba phút và hơn 20 triệu cổ đông, dường như đối lập hoàn toàn với cảnh tượng một nhúm người Hà Lan đội mưa cò kè mua bán với nhau hồi thế kỷ XVII. Nhưng những biểu hiện trên hiện trường thì vẫn giống nhau. Thật trùng hợp là sàn chứng khoán đầu tiên là một phòng thí nghiệm, nơi người ta khám phá ra những phản ứng mới của con người và Sở giao dịch chứng khoán New York cũng giống như vậy, một “ống nghiệm” xã hội học, muôn đời đóng góp vào quá trình tự giác ngộ về bản thân của loài người. Hành vi của những người Hà Lan tiên phong trong kinh doanh chứng khoán được khéo léo ghi chép lại trong cuốn sách có tựa đề Confusion of Confusions (Rắc rối của những rắc rối của tác giả Joseph de la Vega, một nhà đầu cơ tại thị trường Amsterdam, được xuất bản lần đầu năm 1688 và vài năm trở lại đây được trường Kinh doanh Harvard dịch và tái bản bằng tiếng Anh. Về phần những nhà đầu tư và môi giới chứng khoán của Mỹ ngày nay, với những đặc tính giống như tất cả những nhà kinh doanh chứng khoán khác song thường bị thổi phồng trong những giai đoạn khủng hoảng, ta có thể làm sáng tỏ hành vi của họ bằng việc xem xét những hoạt động của họ trong suốt tuần cuối cùng của tháng 5 năm 1962, thời điểm mà thị trường chứng khoán trải qua những biến động mạnh. Vào thứ Hai, ngày 28 tháng 5, chỉ số Dow-Jones trung bình của 30 cổ phiếu công nghiệp hàng đầu (từ năm 1897, từng giao dịch cổ phiếu mới bắt đầu được tính toán cụ thể) giảm tới 34,95 điểm hay nói cách khác, giảm kỷ lục nhất so với bất kỳ ngày giao dịch nào khác (trừ ngày 28 tháng 10 năm 1929 với mức sụt giảm 38,33 điểm). Khối lượng giao dịch ngày 28 tháng 5 là 9.350.000 cổ phiếu, đạt mức doanh thu trong ngày lớn thứ bảy trong lịch sử thị trường chứng khoán. Vào thứ Ba ngày 29 tháng 5, sau một buổi sáng đáng báo động khi hầu hết các cổ phiếu tụt giảm xuống mức thấp hơn nhiều so với mức giá lúc đóng cửa của buổi chiều thứ Hai, thị trường bất ngờ đổi hướng, tăng vọt đến mức kinh ngạc, và kết thúc ngày giao dịch, chỉ số Dow-Jones tăng khá cao, tận 27,03 điểm, tuy chưa phải là mức phá kỷ lục. Mức tăng gần chạm kỷ lục của ngày thứ Ba này nằm ở khối lượng giao dịch: 14.750.000 cổ phiếu được trao tay, bổ sung thêm vào kỷ lục doanh-số-một-ngày lớn nhất từng có, chỉ đứng sau ngày 29 tháng 10 năm 1929 với hơn 16 triệu cổ phiếu được giao dịch. (Sau này, vào những năm 1960, 10 triệu, 12 triệu, hay thậm chí 14 triệu cổ phiếu được giao dịch mỗi ngày là phổ biến. Kỷ lục năm 1929 bị phá vỡ vào ngày 1 tháng 4 năm 1968 và trong mấy tháng tiếp sau đó, kỷ lục mới liên tiếp được thiết lập). Sau đó, vào thứ Năm ngày 31 tháng 5 (trước đó là thứ Tư, cả nước Mỹ nghỉ làm việc vì lễ Tưởng niệm chiến sĩ hi sinh nơi chiến trận) là vừa hoàn tất chu trình ấy; chỉ số Dow-Jones trung bình tăng 9,40 điểm trên tổng số 10.710.000 cổ phiếu được giao dịch (khối lượng lớn thứ năm trong lịch sử chứng khoán), nhỉnh hơn số điểm trước khi bắt đầu xảy ra toàn bộ tình trạng kích động. Cuộc khủng hoảng chỉ kéo dài ba ngày nhưng ai cũng biết, phần “khám nghiệm tử thi2” sẽ còn kéo dài mãi sau đó. Một trong những quan sát mà de la Vega đúc rút về các thương nhân Amsterdam là: Họ “rất khôn khéo bịa ra lý do” để lý giải cho sự tăng hay giảm giá đột ngột của cổ phiếu và chắc chắn các chuyên gia Phố Wall cần vận hết trí tuệ mới có thể lý giải vì sao ngay giữa một năm thịnh vượng như thế, thị trường đột nhiên tụt dốc thảm hại tới mức lập kỷ lục thứ hai trong lịch sử tính tới thời điểm đó. Bên cạnh những giải thích này, mà đứng đầu là việc Tổng thống Kennedy thẳng tay dập tắt kế hoạch tăng giá của ngành thép - thì không thể tránh khỏi việc các cuộc “khám nghiệm tử thi” thường so sánh ngày 28 tháng 5 năm 1962 với ngày 29 tháng 10 năm 1929. Riêng con số về biến động giá cả và khối lượng giao dịch cũng đủ để người ta đi đến sự so sánh này, cho dù hai ngày kinh hoàng tồi tệ nhất trong hai tháng ấy không hề trùng nhau theo lối ma mị hay có điềm báo trước như một số người nghĩ. Nhưng thật ra phải thừa nhận, nếu so sánh hai ngày này, người ta sẽ thấy thuyết phục trước những điểm tương phản hơn là những điểm tương đồng. Trong thời kỳ từ năm 1929 đến năm 1962, những quy định về phương thức giao dịch và những hạn chế về vay tín dụng đối với khách mua cổ phiếu đã khiến cho người ta khó lòng - nếu không nói là không thể - nướng sạch tiền vào chứng khoán. Tóm lại, hình dung của de la Vega về thị trường chứng khoán Amsterdam vào những năm 1680 - ông gọi nó là “ổ cờ bạc” mặc dù rõ ràng là ông yêu nó - gần như không mấy phù hợp với thị trường New York trong thời kỳ 33 năm giữa hai lần sụp đổ. Vụ sụp đổ năm 1962 không phải đến mà không báo trước, dù rất ít nhà quan sát đọc được chính xác những cảnh báo ấy. Ngay thềm năm mới, cổ phiếu đã bắt đầu sụt giảm dần đều và tốc độ này leo thang đến đỉnh điểm: tuần giao dịch trước đó - từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 25 tháng 5 - trở thành tuần tồi tệ nhất của Sở giao dịch kể từ tháng 6 năm 1950. Vào sáng thứ Hai ngày 28 tháng 5, các nhà môi giới và nhà buôn chứng khoán đã có lý do để suy tư. Cổ phiếu đã chạm đáy chưa? Hay sắp chạm? Nhìn lại thì thấy có rất nhiều luồng ý kiến khác nhau. Tờ tin Dow-Jones (cung cấp tin tức tài chính tâm điểm cho người đặt báo dài hạn qua máy telex) phản ánh sự lo ngại nhất định trong khoảng thời gian từ lúc tờ này bắt đầu phát tin lúc 9 giờ cho tới khi Sàn giao dịch bắt đầu mở cửa lúc 10 giờ. Băng tin rộng ‒ cách người ta thường gọi bản tin Dow-Jones in theo chiều dọc giấy khổ 15×0,6cm để phân biệt với băng tin báo giá của Sở giao dịch được in theo chiều ngang và chỉ dài 1,9cm) ‒ bình luận rằng, nhiều nhà kinh doanh chứng khoán cuối tuần bận rộn với việc gửi yêu cầu đến các khách hàng mua chịu, hiện sở hữu những cổ phiếu đang xuống giá, cần bổ sung thế chấp ngay. Bản tin này nhận xét, việc bán tống bán tháo vội vã giống tuần trước đó là “hành động đã nhiều năm nay xa lạ với Phố Wall”. Bản tin này tiếp tục đưa ra một số tin thương mại đáng khích lệ như công ty Westinghouse mới nhận được một hợp đồng Hải quân mới. Tuy nhiên, như de la Vega đã nói, “trong thị trường chứng khoán, những tin tức [kiểu như vậy] thường chẳng mang lại ý nghĩa gì cả”; trong tình thế hiện tại, tâm trạng nhà đầu tư mới là điều đáng nói. Tâm trạng này càng trở nên rõ nét chỉ trong vài phút sau khi thị trường mở cửa. Lúc 10 giờ 11 phút, băng tin thông báo “lúc mở cửa, giá cổ phiếu hỗn hợp và giao dịch nhộn nhịp vừa phải”. Đây là một thông tin mang tính chấn an vì “hỗn hợp” có nghĩa là vừa có tăng vừa có giảm và nói chung một thị trường sụt giá, sẽ ít rủi ro hơn khi khối lượng giao dịch chỉ ở mức vừa phải chứ không quá lớn. Nhưng niềm an ủi này chỉ kéo dài chớp nhoáng vì đến 10 giờ 30 phút, băng tin của Sở giao dịch (đăng tin tức về giá và khối lượng cổ phiếu của mỗi giao dịch diễn ra trên sàn) không những đăng các mức giá cũ, thấp hơn, với tốc độ tối đa 500 ký tự/phút mà còn đăng trễ tận sáu phút. Sự chậm trễ của băng tin cho thấy rõ ràng, chiếc máy đã không thể bắt kịp với những giao dịch đang diễn ra tít mù. Thường thì khi một giao dịch trên sàn của Sở giao dịch hoàn tất, một nhân viên của Sở sẽ ghi lại chi tiết lên một mẩu giấy và gửi nó qua một ống khí nén tới một căn phòng trên tầng 5 của tòa nhà; từ đây, một nhân viên nữ sẽ đánh máy mẩu giấy vào máy điện báo để truyền đi. Quãng thời gian chờ hai đến ba phút từ khi có giao dịch trên sàn và khi giao dịch xuất hiện trên băng tin được Sở giao dịch xem là bình thường; khái niệm “trễ” chỉ được sử dụng để mô tả bất kỳ một sự trì hoãn nào khác ngoài hai đến ba phút đấy tính từ khi tờ phiếu bán hàng lên được đến tầng 5 và được chiếc máy điện báo dung nạp được nó (de la Vega phàn nàn là Sở giao dịch không cẩn thận khi dùng từ “trễ”). Băng tin thường xuyên xảy ra tình trạng “trễ” một vài phút vào những ngày giao dịch tấp nập nhưng từ năm 1930, khi loại máy điện báo thịnh hành vào năm 1962 được lắp đặt, những vụ trễ lớn cực kỳ hiếm khi xảy ra. Ngày 24 tháng 10 năm 1929, khi băng tin bị trễ 246 phút, máy đang in với tốc độ 285 ký tự/phút; từ tháng 5 năm 1962 trở về trước, khoảng trễ lớn nhất từng xảy ra trên chiếc máy mới là 34 phút. Mời các bạn đón đọc Những Cuộc Phiêu Lưu Trong Kinh Doanh của tác giả John Brooks.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trinh Quán Chính Yếu - Phép Trị Nước Của Đường Thái Tông - Ngô Hách
“Trinh Quán” là niên hiệu của Đường Thái Tông Lý Thế Dân (598−649). Lý Thế Dân sinh ra vào cuối thời kỳ thống trị của Tùy Văn Đế, lớn lên tận mắt chứng kiến toàn bộ quá trình nhà Tùy từ thịnh đến suy, cuối cùng bị diệt vong, đồng thời đích thân cùng với cha là Lý Uyên tham gia các hoạt động dẹp loạn, gây dựng nhà Đường. Lịch sử rối ren cuối Tùy đầu Đường đă để lại ấn tượng sâu sắc trong ông. Bởi vậy sau khi lên ngôi hoàng đế, ông đã chú ý tổng kết và đúc rút các bài học kinh nghiệm trị nước của các đời vua trước, nhìn thẳng vào hiện thực xã hội, lập ra hàng loạt chính sách có lợi cho sự thống nhất nước nhà, đoàn kết dân tộc, phát triển sản xuất và tiến bộ xã hội, từ đó điều hòa hữu hiệu mâu thuẫn giữa các giai cấp, dân tộc cũng như nội bộ tập đoàn thống trị, dần tạo nên một cục diện thái bình thịnh trị. Theo sử sách ghi lại, thời kỳ Trinh Quán là thời kỳ thanh bình, quan lại thanh liêm, hình phạt không hà khắc, dân phong thuần phác. Khi Đường Thái Tông lên ngôi trong tình trạng rối ren cuối nhà Tùy, dân số thưa thớt, kinh tế tiêu điều, trăm họ ăn không đủ no, mặc không đủ ấm. Trước tình trạng đó, vua tôi Đường Thái Tông đã một mặt tích cực áp dụng mọi biện pháp làm trong sạch bộ máy thống trị, mặt khác tiết kiệm, đồng cam cộng khổ cùng nhân dân. Nhiều năm sau, kinh tế dần phát triển, nông nghiệp liên tục được mùa, xã hội ổn định, dân phong thuần phác, thậm chí đi đường gặp của rơi không nhặt, đêm ngủ không cần đóng cửa. Năm Trinh Quán thứ tư, cả nước chỉ có 29 người bị xử tử hình. Năm Trinh Quán thứ sáu, Đường Thái Tông cho phép 390 tử tù về từ biệt người nhà, mùa thu năm sau trở lại “thọ hình”. Đến hạn mà không một tội phạm nào bỏ trốn, đây là một kỳ tích vô tiền khoáng hậu trong lịch sử Trung Quốc. Có thể nói, “Trinh Quán chi trị” là nét son rực rỡ nhất, chói lọi nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc hơn hai nghìn năm. Vậy thì Đường Thái Tông Lý Thế Dân cùng quần thần đã thực hiện “Trinh Quán chi trị” như thế nào? Các nhà chính trị và sử học từ đầu nhà Đường trở đi đã nỗ lực tìm câu trả lời. Người đầu tiên coi trọng vấn đề này và cung cấp cho hậu thế sử liệu đầy đủ và tư tưởng nghiên cứu cơ bản là Ngô Hách thời Đường qua bộ “Trinh Quán chính yếu”. Ngô Hách (670 − 749) là một nhà sử học, sinh ra vào thời Đường Cao Tông, người Tuấn Nghi, Biện Châu (nay là Khai Phong, Hà Nam). Từ nhỏ ông đã hiếu học, rất thích nghiên cứu sử sách, điều này đã đặt nền tảng vững chắc cho nghề viết sử của ông sau này. Cách viết sử của Ngô Hách trọng “giản hạch” (đơn giản mà trúng trọng tâm), được gọi là “lương sử” (sử tốt). Đồng thời ông cũng coi trọng nguyên tắc viết “thẳng thắn không kỵ húy”, được người đương thời đánh giá rất cao. “Trinh Quán chính yếu” là một bộ sử được viết theo chuyên đề, chủ yếu ghi lại lời bàn luận chính trị của vua tôi Đường Thái Tông. Bộ sách này được các nhà nghiên cứu Nhật Bản đánh giá cao hơn bộ “Tam quốc diễn nghĩa” về tư tưởng chính trị. Mời các bạn đón đọc Trinh Quán Chính Yếu - Phép Trị Nước Của Đường Thái Tông của tác giả Ngô Hách.
Từ Tơ Lụa Đến Silicon - Câu Chuyện Về Toàn Cầu Hóa Thông Qua 10 Cuộc Đời Lạ Thường - Jeffrey E. Garten
Sách nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp của 10 nhân vật có nhiều ảnh hưởng, tạo ra những bước ngoặt trong sự phát triển của lịch sử thế giới, bao gồm: Gengis Khan, hoàng tử Henry, Robert Clive, Mayer Amschel Rothschild, Cyrus Field, John D. Rockefeller, Jean Monnet, Magaret Thatcher, Andrew Grove, Đặng Tiểu Bình và bàn thêm về người giỏi nhất còn chưa xuất hiện. Tuy nhiên, sách không chỉ nói về lịch sử mà bàn về những việc làm của họ xét ở góc độ người quản lý hiện đại, vì thế sách có tính ứng dụng cho hiện tại và tương lai. Mời các bạn đón đọc Từ Tơ Lụa Đến Silicon - Câu Chuyện Về Toàn Cầu Hóa Thông Qua 10 Cuộc Đời Lạ Thường của tác giả Jeffrey E. Garten.
Vĩ Đại Do Lựa Chọn - Jim Collins & Morten T. Hansen
Jim Collins là tác giả của hai đầu sách nổi tiếng - Từ tốt đến vĩ đại và Xây dựng để trường tồn. Cùng với phương pháp nghiên cứu như hai cuốn đầu tiên, trong quyển sách này, Jim Collins cùng với Morten T. Hansen đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, tại sao các công ty vĩ đại vẫn trường tồn trong những lúc khó khăn, hỗn loạn. Qua rất nhiều năm nghiên cứu khoa học từ những công ty và các lãnh đạo hàng đầu, hai tác giả rút ra được kết luận rằng: Chúng tôi không tin cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn hay có một phép nhiệm mầu và đoán định được tương lai, nhưng có thể nói nhữg tác động phức tạp, toàn cầu hóa và công nghệ đang thúc đẩy thay đổi và càng dễ bị thay đổi hơn bao giờ hết. Chúng tôi cảm thấy trấn tĩnh vì chúng tôi đã hiểu hơn phải có những gì để sống sót, lèo lái và chiến thắng. Theo chúng tôi, trường tồn và tiêu vong phụ thuộc vào những hành động của chúng ta hơn là những gì mà thế giới gây cho chúng ta; và sự vĩ đại không chỉ là một cuộc chinh phục về kinh doanh, nó là cuộc chinh phục của con người. Và kết quả nghiên cứu sẽ gây bất ngờ cho nhiều nhà lãnh đạo các tổ chức đọc quyển sách này: Những nhà lãnh đạo của các công ty vĩ đại không sáng tạo hơn, không có tầm nhìn xa hơn, không có cá tính hơn, không có vận may hơn, không thích tìm kiếm rủi ro hơn, không anh hùng hơn, và không có khuynh hướng thực hiện những nước cờ lớn, táo bạo hơn. Nhưng họ đã lèo lái được công ty họ qua những lúc khó khăn để luôn trường tồn, bởi vì họ sống và làm việc theo ba yếu tố cân bằng nhau: kiên định với nguyên tắc, sáng tạo theo kinh nghiệm và biết sợ hãi một cách hữu ích. Quyển sách phù hợp với tầng lớp doanh nhân và lãnh đạo các công ty Việt Nam, những người nghiên cứu về kinh doanh, đang trong quá trình lèo lái con thuyền công ty vươn lên sau khủng hoảng và hướng tới vĩ đại vĩnh cửu. *** Review Trần Kim Huyền: Ai trong mỗi chúng ta đều từng ấp ủ khao khát được vĩ đại, được trở thành một người được vạn người ngưỡng mộ. Nhưng sự thực thì sao? Ít ai trở thành người xứng đáng với hai chữ " vĩ đại ". Tôi cũng vậy, ao ước được vĩ đại, cho dù chỉ là trên tư tưởng, thế nên tôi chọn cuốn sách này " vĩ đại do lựa chọn ". Trong quyển sách này, Jim Collins cùng với Morten T. Hansen đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, tại sao các công ty vĩ đại vẫn trường tồn trong những lúc khó khăn, hỗn loạn hoặc khủng hoảng nghiêm trọng tới mức nào đi nữa. Phải chăng họ táo bạo , họ sáng tạo, họ liều lĩnh, họ tài năng hay nắm bắt tình hình thị trường siêu việt hơn người khác ? Không , không hề, họ cũng như bao người khác mà thôi. Vậy bí mật giúp họ chèo chống, lèo lái cơ ngơi của mình là gì? Bí mật đó được tác giả đúc rút qua 3 nguyên tắc như sau: kiên định với nguyên tắc, sáng tạo theo kinh nghiệm và biết sợ hãi một cách hữu ích. Chúc các bạn thành công với 3 nguyên tắc vàng này. *** Và kết quả nghiên cứu sẽ gây bất ngờ cho nhiều nhà lãnh đạo các tổ chức đọc quyển sách này: Những nhà lãnh đạo của các công ty vĩ đại không sáng tạo hơn, không có tầm nhìn xa hơn, không có cá tính hơn, không có vận may hơn, không thích tìm kiếm rủi ro hơn, không anh hùng hơn, và không có khuynh hướng thực hiện những nước cờ lớn, táo bạo hơn. Ôi!mặt trời mới lên đẹp làm sao! Nhưng họ đã lèo lái được công ty họ qua những lúc khó khăn để luôn trường tồn, bởi vì họ sống và làm việc theo ba yếu tố cân bằng nhau: kiên định với nguyên tắc, sáng tạo theo kinh nghiệm và biết sợ hãi một cách hữu ích. Cố gắng đi!. Cố gắng đi! Tôi thích đọc sách của Jim Collins. Cũng như Từ tốt đến vĩ đại và Xây dựng để trường tồn, Vĩ đại do sự lựa chọn có các tư duy được rút ra dựa trên các số liệu nghiên cứu thực tế nghiêm túc, nhiều công sức và rất thuyết phục, khác với suy nghĩ thông thường. Vĩ đại do sự lựa chọn có rất nhiều điều hữu ích và đáng để tìm hiểu, nhưng nếu so với 2 tác phẩm trước thì có 1 sự đuối sức nhẹ. Sau khi đọc xong, tôi nghĩ đúng người đúng việc vẫn là yếu tố then chốt. Quyển sách phù hợp với tầng lớp doanh nhân và lãnh đạo các công ty Việt Nam, những người nghiên cứu về kinh doanh, đang trong quá trình lèo lái con thuyền công ty vươn lên sau khủng hoảng và hướng tới vĩ đại vĩnh cửu. Nhanh lên , đi nào. Dù sao thì mọi việc cũng qua rồi. Đúng với tựa sách Vĩ đại do lựa chọn, ai chọn mua quyển sách này đã có được ưu thế hơn người khác rất nhiều. Họ đã may mắn được, Jim Collins, nhà tư tưởng đương thời giàu ảnh hưởng nhất làm người thầy gián tiếp cho mình. Có những công ty dù có bao nhiêu giông bão cũng điều vượt qua được, còn có những công ty thì chỉ có một cơn gió nhỏ cũng không vượt qua được. Nguyên nhân là do đâu, những con người trong tổ chức thành công có những phẩm chất gì mà những tổ chức thất bại không hề có? Mời các bạn đón đọc Vĩ Đại Do Lựa Chọn của tác giả Jim Collins & Morten T. Hansen.
Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt - John C. Maxwell
Những người tư duy tốt luôn luôn có rất nhiều mong muốn và đòi hỏi. Những người biết đặt câu hỏi “làm thế nào” luôn  tìm được một công việc hợp lý, còn những người biết đặt câu hỏi “tại sao” thì luôn luôn trở thành những nhà lãnh đạo. Những người có tư duy tốt có thể giải quyết các vấn đề một cách hiệu quả, họ luôn luôn dồi dào ý tưởng và luôn hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn. Và mặc dù mỗi người vươn tới thành công theo những cách khác nhau nhưng ta đều nhận ra rằng họ có một điểm chung: Đó là cách mà họ suy nghĩ! Đây cũng là điểm duy nhất phân biệt những người thành công và những người không thành công. Điều này cũng thật may mắn với chúng ta vì cách tư duy của những người thành công có thể được tiếp thu và học hỏi. Nếu bạn thay đổi suy nghĩ, cuộc sống của bạn cũng sẽ đổi thay! *** John C. Maxwell là nhà sáng lập của Tập đoàn INJOY, một tổ chức giúp mọi người phát huy tối đa tố chất cá nhân và tiềm năng lãnh đạo. Ông là tác giả của một loạt cuốn sách nằm trong danh sách bán chạy của New York Times, cũng là sách bán chạy trên bảng xếp hạng của Business Week. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt Phát Triển Kỹ Năng Lãnh Đạo 21 Nguyên Tắc Vàng Của Nghệ Thuật Lãnh Đạo 21 Phẩm Chất Vàng Của Nhà Lãnh Đạo Nhà Lãnh Đạo 360° Lãnh Đạo Giỏi Hỏi Câu Hỏi Hay 15 Nguyên Tắc Vàng Về Phát Triển Bản Thân 101 Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Mối Quan Hệ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Lãnh Đạo 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Tự Phát Triển 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cố Vấn 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Thành Công 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Làm Việc Nhóm 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Thái Độ 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Trang Bị 101 – Những Điều Nhà Lãnh Đạo Cần Biết Cuốn Sách Nhỏ Cho Nhà Lãnh Đạo Lớn Nghệ Thuật Kết Nối Đỉnh Cao Trong Giao Tiếp Thuật Đắc Nhân Tâm 17 Nguyên Tắc Vàng Trong Làm Việc Nhóm Dám Ước Mơ, Biết Thực Hiện Nhà Lãnh Đạo Giỏi Giải Quyết Vấn Đề Như Thế Nào? Để Trở Thành Nhà Lãnh Đạo Quần Chúng Xuất Sắc Kỹ Năng Lãnh Đạo ...   Mời các bạn đón đọc Tôi Tư Duy Tôi Thành Đạt của tác giả John C. Maxwell.