Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sau Cánh Cửa Đóng

Jack tài năng và lịch lãm, còn Grace xinh đẹp và thành công. Trong mắt mọi người, họ là một cặp đôi hoàn hảo. Thậm chí, thử thách duy nhất cho mối quan hệ tưởng chừng không gì có thể hủy hoại của họ - sự xuất hiện của Millie, người em gái bị bệnh Down và hoàn toàn sống dựa vào Grace - dường như chỉ là chất xúc tác để họ nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, sự bao dung và lòng vị tha vô bờ bến của nhau… Nhưng, liệu có thật là như thế, hay thực ra, cái tam giác Jack - Grace - Millie chính là căn nguyên cho một bi kịch khủng khiếp, là vỏ bọc hoàn hảo để kẻ ác tự do đùa giỡn và hành hạ con mồi của mình?  Và, có mấy ai biết đến sự tồn tại của những bí mật kinh khủng, trái ngang đằng sau cánh cửa luôn khép chặt của một gia đình lý tưởng, nơi hạnh phúc hoàn hảo và tội ác hoàn hảo nhiều khi chỉ cách nhau một cánh cửa đóng? *** HIỆN TẠI Chai sâm panh va vào bệ đá hoa cương trong bếp khiến tôi giật nẩy người. Tôi đưa mắt nhìn Jack, hy vọng anh không nhận thấy tôi đang căng thẳng đến nhường nào. Anh mỉm cười khi bắt gặp tôi đang nhìn. “Hoàn hảo,” anh nhẹ nhàng nói. Jack cầm tay tôi dắt ra chỗ khách khứa đang chờ. Trên đường đi qua hành lang, tôi thấy cây loa kèn đang nở hoa được Diane và Adam tặng để chúng tôi trồng trong vườn. Hoa màu hồng đẹp đến mức tôi hy vọng Jack sẽ trồng ở nơi tôi ngắm được từ cửa sổ phòng ngủ. Chỉ cần nghĩ tới khu vườn là nước mắt đã trào lên trong lòng, nhưng tôi vội nuốt xuống. Vào một đêm sống còn như đêm nay, tôi phải tập trung vào thực tại. Lửa đang cháy đều trong lò sưởi cổ tại phòng khách. Đã là cuối tháng Ba nhưng không khí vẫn tê cóng, mà Jack thì muốn khách khứa của chúng tôi được thoải mái hết mức. “Nhà cậu tuyệt thật đấy, Jack ạ,” Rufus ngưỡng mộ nói. “Em có thấy thế không, Esther?” Tôi không biết cả Rufus lẫn Esther. Họ mới chuyển tới khu này và đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, thành ra tôi càng căng thẳng. Nhưng vì không được phép để Jack thất vọng nên tôi phải cố nhoẻn miệng cười, thầm cầu nguyện họ sẽ quý mình. Esther không mỉm cười đáp lại, tôi đoán cô đang dè dặt phán đoán. Nhưng tôi không trách cô được. Kể từ tháng vừa rồi sau khi cô kết bạn với chúng tôi, tôi biết chắc cô đã được nghe đi nghe lại rất nhiều lần rằng Grace Angel, vợ của chàng luật sư sáng giá Jack Angel, là ví dụ hoàn hảo cho một phụ nữ có mọi thứ trên đời - ngôi nhà hoàn hảo, tấm chồng hoàn hảo, cuộc sống hoàn hảo. Nếu là Esther, tôi cũng sẽ dè dặt với tôi như thế. Ánh mắt tôi rơi xuống hộp kẹo sô cô la đắt tiền cô vừa lấy ra khỏi túi xách và một cảm giác kích động chợt dấy lên trong lòng. Không muốn cô đưa hộp kẹo cho Jack, tôi nhẹ nhàng đưa tay về phía cô và theo bản năng, cô chìa hộp kẹo cho tôi. “Cảm ơn cô, trông ngon quá,” tôi cảm kích nói, đặt hộp kẹo lên mặt bàn uống nước để lát nữa khi uống cà phê sẽ mở ra. Tôi thấy khoái Esther. Cô đối lập hoàn toàn với Diane - cao, tóc vàng, người mảnh dẻ, tính kín đáo - và tôi không thể không đánh giá cao cô vì cô là người đầu tiên bước vào nhà chúng tôi mà không nói mãi về vẻ đẹp của nó. Jack nhất quyết đòi tự chọn nhà, bảo ngôi nhà chính là quà cưới cho tôi, vậy nên mãi đến khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật, tôi mới thấy nó lần đầu tiên. Mặc dù Jack đã nói trước là ngôi nhà thực hoàn hảo cho chúng tôi, nhưng tôi không hoàn toàn hiểu hết ý anh, cho tới lúc tận mắt nhìn thấy nó. Nằm trên khu đất rộng lớn ở tận cuối làng, ngôi nhà mang lại sự riêng tư Jack hằng khao khát, đồng thời trao cho anh đặc quyền được làm chủ ngôi nhà đẹp nhất Spring Eaton. Và cũng là ngôi nhà an ninh nhất, được trang bị hệ thống báo động phức tạp, với những cánh cửa chóp bằng thép bảo vệ cửa sổ tầng trệt. Quả cũng kỳ quặc khi những cánh cửa này thường xuyên đóng im ỉm cả ngày, nhưng như Jack vẫn luôn nói mỗi khi có người hỏi đến, một trong những ưu tiên hàng đầu với một người làm công việc như của anh chính là an ninh. Tường phòng khách nhà chúng tôi treo rất nhiều tranh, nhưng mọi người thường bị thu hút bởi bức tranh vải bạt khổ lớn màu đỏ phía trên lò sưởi. Mặc dù đã từng thấy bức tranh này, Diane và Adam vẫn không cưỡng nổi mà phải bước lại gần ngắm thêm lần nữa, Rufus cũng theo họ, còn Esther thì ngồi xuống một trong những chiếc sofa da màu kem. “Thật kỳ diệu,” Rufus nói, mê mẩn ngắm hàng trăm đốm nhỏ li ti đã làm nên phần lớn bức tranh. “Tên tranh là Đom đóm,” Jack nói trong khi tháo sợi dây thép cột nút cổ chai sâm panh. “Tôi chưa từng thấy thứ gì tương tự thế này.” “Grace vẽ đấy,” Diane bảo anh ta. “Anh có tin được không?” “Anh phải xem các bức tranh khác của Grace mới được.” Jack bật nút chai rượu, chỉ làm vang lên một âm thanh nhỏ xíu. “Chúng thật sự ấn tượng lắm đấy.” Rufus nhìn quanh phòng vẻ hứng thú. “Trong phòng này hả?” “Không, chúng được treo ở những nơi khác trong nhà cơ.” “Chỉ để một mình Jack ngắm,” Adam đùa. “Và cả Grace nữa. Phải không, em yêu?” Jack nói, mỉm cười nhìn tôi. “Chỉ để hai ta ngắm.” “Vâng, đúng thế,” tôi đồng tình, quay đầu đi chỗ khác. Chúng tôi ra sofa ngồi cùng Esther và Diane thích thú reo lên khi Jack rót sâm panh vào những chiếc ly cao thành. Cô ta nhìn sang tôi. “Chị đã đỡ hơn chưa?” cô ta hỏi. “Hôm qua, Grace không đi ăn trưa cùng tớ được vì bị ốm,” Diane quay sang nhìn Esther giải thích. “Chỉ nhức đầu thôi mà,” tôi phản đối. “Thật không may, Grace rất hay bị nhức đầu.” Jack nhìn tôi thông cảm. “Nhưng ơn trời, chúng không bao giờ kéo dài quá.” “Lần này là lần thứ hai chị lỡ hẹn với em đấy nhé,” Diane nhận xét. “Tôi rất tiếc,” tôi xin lỗi. “Chậc, ít ra thì lần này không phải do chị quên,” cô ta đùa. “Sao ta không hẹn vào thứ Sáu tuần tới để bù lại nhỉ? Chị có rảnh không, Grace? Không có cuộc hẹn khám răng nào chị đột nhiên nhớ ra vào phút chót đấy chứ?” “Không, và hy vọng cũng sẽ không có cơn nhức đầu nào hết.” Diane quay sang Esther, “Cậu có muốn đi cùng không? Sẽ phải chọn quán trong thị trấn để tớ còn đi làm.” “Cảm ơn cậu, tớ rất thích.” Cô đưa mắt nhìn tôi, chắc để đảm bảo tôi không phiền khi có cô cùng tham dự, và khi mỉm cười đáp lại cô, tôi cảm thấy áy náy kinh khủng vì biết mình sẽ không đến được. Gọi to để mọi người chú ý, Jack đề nghị nâng ly chúc mừng Esther và Rufus, chào mừng họ tới sống trong khu. Tôi nâng cốc nhấp một ngụm sâm panh. Tăm rượu sủi trong miệng khiến cảm giác hạnh phúc chợt bừng lên và tôi cố níu giữ nó. Nhưng nó tan biến nhanh không kém gì lúc ùa tới. Tôi nhìn Jack đang sôi nổi chuyện trò với Rufus. Anh với Adam gặp Rufus tại câu lạc bộ golf hai tuần trước và đã mời Rufus chơi cùng. Khi phát hiện ra Rufus là một tay golf tuy cừ khôi nhưng chưa đủ để đánh bại mình, Jack bèn mời anh ta cùng Esther đến nhà ăn tối. Quan sát hai người họ, có thể thấy rõ mười mươi Jack đang cố gây ấn tượng với Rufus, có nghĩa tôi sẽ phải cố gắng lái Esther theo ý mình. Nhưng việc đó chẳng dễ chút nào; trong khi Diane đơn giản chỉ thán phục tất thảy mọi thứ, Esther lại có vẻ phức tạp hơn nhiều. Tôi cáo lỗi vào bếp để lấy món canapé[1] đã làm từ trước và hoàn thành những công đoạn cuối cùng cho bữa tối. Jack rất mô phạm với các phép tắc xã giao nên tôi không được phép vắng mặt quá lâu. Tôi nhanh tay đánh bông lòng trắng trứng đang chờ sẵn trong tô rồi đổ lên kem bánh souffle đã làm khi nãy. Vừa xúc hỗn hợp này vào từng chiếc khuôn, tôi vừa căng thẳng nhìn đồng hồ, sau đó đặt các khuôn bánh vào khay cách thủy và đưa vào lò nướng, ghi nhớ chính xác thời gian. Tôi thoáng hoảng hồn, sợ mình sẽ không làm xong mọi thứ, nhưng sau khi nhắc nhở bản thân rằng sợ hãi chính là kẻ thù, tôi cố bình tĩnh mang khay canapé quay lại phòng khách. Tôi mời mọi người, cảm kích đón nhận những lời khen ngợi của họ, vì Jack cũng nghe được chúng. Quả vậy, sau khi tặng tôi một nụ hôn lên đỉnh đầu, anh đồng ý với Diane rằng tôi đúng là một đầu bếp xuất sắc và tôi khẽ thở phào nhẹ nhõm. Kiên quyết tạo tiến triển với Esther, tôi ngồi xuống cạnh cô. Thấy thế, Jack liền đỡ khay bánh giùm tôi. “Em nên nghỉ một chút, em yêu, sau những vất vả suốt cả ngày hôm nay,” anh nói, những ngón tay thon dài thanh lịch giữ khay bánh thăng bằng. “Có vất vả gì đâu,” tôi phản đối, mặc dù đó là một lời nói dối và Jack biết rõ điều đó, vì chính anh đã lên thực đơn. Tôi bắt đầu hỏi Esther những câu hỏi hợp tình hợp lý: cô đã thấy hòa nhập với khu này chưa, có thấy tiếc vì đã bỏ Kent ra đi không, hai đứa nhỏ đã ổn định ở trường mới chưa. Chẳng hiểu vì sao, cô có vẻ khó chịu vì thấy tôi biết nhiều thế, vậy nên, tôi cố tình hỏi tên con trai và con gái cô, mặc dù đã biết thừa chúng là Sebastian và Aisling. Tôi còn biết chúng lên mấy nữa, một đứa lên bảy và một đứa lên năm, nhưng tôi vờ như chưa biết. Jack đang lắng nghe từng từ tôi nói nên tôi biết chắc anh sẽ tự hỏi tôi đang chơi trò gì. “Chị chưa có con, đúng không,” Esther nói, nghe như một lời khẳng định hơn là câu hỏi. “Chưa, vẫn chưa. Chúng tôi định dành hai năm đầu tiên cho riêng mình đã.” “Tại sao chứ, hai người đã kết hôn được bao lâu rồi?” Giọng cô biểu lộ sự ngạc nhiên. “Một năm,” tôi thú nhận. “Họ vừa kỷ niệm ngày cưới vào tuần trước,” Diane xen vào. “Và tôi vẫn chưa muốn chia sẻ cô vợ xinh đẹp của mình với ai hết,” Jack nói, rót thêm rượu vào ly cô ta. Nhất thời xao lãng, tôi nhìn một giọt rượu nhỏ xíu trượt khỏi miệng ly rơi xuống đầu gối chiếc quần chino mới tinh của Jack. “Tôi hy vọng hỏi thế này không làm chị khó chịu,” Esther lại nói, nỗi tò mò đã thắng thế, “nhưng đã ai trong hai người từng qua một lần đò chưa?” Có vẻ cô muốn câu trả lời là rồi, như thể một anh chồng cũ hoặc một cô vợ cũ đầy thù hận ẩn nấp trong lai lịch của Jack và tôi sẽ là bằng cớ chứng tỏ chúng tôi không hoàn hảo. “Chưa, cả hai chúng tôi đều kết hôn một lần,” tôi nói. Cô đưa mắt nhìn Jack và tôi biết cô đang băn khoăn tại sao một người đẹp trai như vậy lại có thể độc thân lâu đến thế. Cảm thấy ánh mắt cô đổ dồn vào mình, Jack mỉm cười thiện chí. “Phải thú nhận là ở tuổi bốn mươi, tôi đã bắt đầu tuyệt vọng nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tìm được người phụ nữ hoàn hảo. Nhưng ngay khi thấy Grace, tôi đã biết cô ấy chính là người mình mong chờ bấy lâu nay.” “Lãng mạn thật,” Diane thở dài, biết rõ chuyện tôi với Jack gặp nhau thế nào. “Tớ không còn đếm được mình đã cố giới thiệu cho Jack bao nhiêu cô gái nữa, mối nào cũng không thành cho đến khi anh ấy gặp Grace.” “Còn chị thì sao, Grace?” Esther hỏi. “Với chị cũng là tình yêu sét đánh chứ?” “Đúng,” tôi nói và nhớ lại. “Đúng thế.” Choáng ngợp trước kỷ niệm, tôi đứng dậy hơi nhanh, Jack liền xoay đầu về phía tôi. “Món souffle,” tôi điềm tĩnh giải thích. “Chắc đã chín rồi. Mọi người sẵn sàng ngồi vào bàn chưa?” Được Diane hối thúc và giải thích rằng món souffle không đợi bất kỳ ai, mọi người uống cạn ly rồi ra bàn. Tuy nhiên, Esther đang đi thì dừng lại để nhìn kỹ bức Đom đóm hơn, và khi Jack tới ngắm cùng Esther thay vì giục cô vào bàn, tôi nhẹ nhõm thở hắt ra vì món souffle còn lâu mới chín. Nếu chúng đã chín thì chắc sự kề cà này sẽ khiến tôi phát khóc vì căng thẳng mất, đặc biệt là khi Jack bắt đầu giải thích vài kỹ thuật khác nhau tôi đã sử dụng để vẽ bức tranh. Năm phút sau, khi cuối cùng tất cả đã yên vị, món souffle cũng vừa chín đến độ hoàn hảo. Lúc Diane biểu lộ sự kinh ngạc, Jack mỉm cười nhìn tôi từ đầu bàn đối diện và bảo mọi người rằng tôi quả thực nấu nướng rất khéo. Chính những buổi tối thế này khiến tôi nhớ ra vì sao mình đem lòng yêu Jack. Quyến rũ, vui tính và thông minh, anh biết chính xác mình phải nói gì và nói ra sao. Vì Esther và Rufus mới chuyển đến nên Jack đảm bảo chúng tôi vừa ăn souffle vừa trò chuyện về những điều có ích cho họ. Anh gọi cho Diane và Adam kể ra những thông tin riêng có thể giúp ích cho hai người bạn mới của chúng tôi, chẳng hạn như họ mua sắm ở đâu và chơi môn thể thao nào. Mặc dù Esther lịch sự lắng nghe danh sách các trò tiêu khiển của họ, tên của những người làm vườn và các cô trông trẻ, hay nơi bán cá ngon nhất, nhưng tôi biết mình mới là chủ đề cô quan tâm, tôi cũng biết cô sẽ quay lại với chuyện Jack và tôi kết hôn khá muộn, hy vọng sẽ tìm ra điều gì đó - điều gì cũng được - giúp cô thấy mọi chuyện không hoàn hảo như vẻ bề ngoài. Không may cho Esther, rồi cô sẽ thất vọng thôi. Cô chờ Jack cắt xong miếng thịt bò Wellington rồi ăn cùng khoai tây bỏ lò và cà rốt láng mật ong. Còn có cả những hạt đậu Hà Lan bé xíu tôi đã nhúng vào nước sôi ngay trước khi lấy thịt bò ra khỏi lò. Diane kinh ngạc khi thấy tôi có thể thu xếp hoàn thành tất cả các món cùng lúc, rồi thú nhận rằng mình luôn chọn một món chính như cà ri để có thể nấu sẵn từ sớm và trước khi ăn chỉ việc hâm nóng lên là xong. Tôi muốn nói với cô ta rằng tôi cũng muốn làm như thế, rằng việc tính toán khó nhọc cùng những đêm mất ngủ chính là cái giá tôi phải trả để cho ra mắt một bữa tối hoàn hảo đến thế. Nhưng nấu một bữa ăn thiếu hoàn hảo không phải là lựa chọn dành cho tôi. Esther nhìn tôi từ phía bên kia bàn. “Thế chị với Jack gặp nhau ở đâu?” “Tại công viên Regent,” tôi đáp. “Vào một chiều Chủ nhật.” “Chị kể chi tiết cho cô ấy nghe đi,” Diane giục, làn da nhợt nhạt ửng hồng vì sâm panh. Tôi lưỡng lự trong giây lát vì trước đây đã từng kể chuyện này. Nhưng đó là câu chuyện Jack thích nghe tôi kể nên lặp lại lần nữa sẽ có lợi cho tôi. May thay, Esther giải vây cho tôi. Tưởng tôi lưỡng lự vì ngại, cô nhảy ngay vào. “Chị kể đi,” cô giục. “Chậc, rất có thể tôi sẽ khiến những người đã nghe chuyện này phát ngấy đấy nhé,” tôi bắt đầu với một nụ cười hối lỗi. “Lúc đó, tôi đang cùng em gái, Millie, chơi ngoài công viên. Chúng tôi thường ra công viên vào chiều Chủ nhật. Hôm ấy, tình cờ có một ban nhạc đang chơi. Millie rất thích âm nhạc, nó thích đến nỗi đứng dậy khỏi ghế rồi bắt đầu nhảy trước bục biểu diễn. Nó mới học nhảy valse nên vừa nhảy vừa dang tay ra trước mặt, hệt như đang khiêu vũ cùng ai đó.” Tôi thấy mình mỉm cười trước kỷ niệm này, tuyệt vọng ao ước cuộc đời tôi vẫn đơn giản và trong sáng như trước. “Mặc dù mọi người nói chung rất độ lượng và vui vẻ khi thấy Millie thích thú như thế,” tôi kể tiếp, “nhưng tôi có thể thấy một hai người khó chịu và tôi biết mình nên làm gì đó, tỷ dụ như gọi em mình quay lại ghế ngồi. Nhưng một phần trong tôi cảm thấy miễn cưỡng không muốn làm thế, vì…” “Em gái chị bao nhiêu tuổi?” Esther cắt ngang. “Mười bảy.” Tôi dừng lời một lát, không muốn đối diện với thực tại. “Gần mười tám.” Esther nhướn mày. “Thế thì con bé thuộc loại thích được chú ý rồi.” “Không, không phải vậy, chỉ là…” “Chớ còn gì nữa. Ý tôi là, chẳng ai tự nhiên lại đứng dậy khiêu vũ trong công viên, phải không?” Cô đắc thắng nhìn quanh bàn và khi ai cũng tránh ánh nhìn của cô, tôi không thể không thấy thương hại Esther. “Millie mắc hội chứng Down.” Giọng Jack phá tan sự im lặng khó xử đã buông xuống cả bàn. “Thế nên con bé thường có những hành động cực kỳ bột phát.” Nét mặt Esther ngập tràn vẻ bối rối và tôi thấy khó chịu khi mọi người kể lể đủ chuyện về tôi với cô mà không hề nhắc đến Millie. “Dù sao thì, trước khi tôi kịp quyết định nên làm gì,” tôi nói để giải vây cho Esther, “quý ông hoàn hảo đây bỗng đứng dậy, tới chỗ Millie đang khiêu vũ, cúi chào rồi đưa tay ra cho con bé. Chà, Millie thích lắm. Khi cả hai bắt đầu nhảy valse, mọi người cũng bắt đầu vỗ tay, sau đó vài cặp khác đứng lên và cũng bắt đầu khiêu vũ. Thực là một khoảnh khắc vô cùng, vô cùng đặc biệt. Và tất nhiên rồi, tôi yêu Jack ngay lập tức vì anh ấy đã khiến chuyện đó xảy ra.” “Lúc ấy, Grace không hề biết rằng tôi vốn đã thấy cô ấy cùng Millie trong công viên từ tuần trước và ngay lập tức đem lòng yêu cô ấy. Cô ấy vô cùng ân cần với Millie, không một chút vị kỷ. Tôi chưa bao giờ chứng kiến một tấm lòng tận tụy đến thế và nhất quyết phải làm quen với cô ấy.” “Còn Jack lúc ấy lại không biết một điều,” đến lượt tôi nói, “rằng tôi đã chú ý đến anh ấy từ tuần trước nhưng không bao giờ nghĩ anh ấy lại để ý đến một người như tôi.” Thấy mọi người gật đầu tán thành, tôi thích lắm. Mặc dù tôi là một cô gái hấp dẫn, nhưng vẻ ngoài điển trai như ngôi sao điện ảnh của Jack khiến mọi người nghĩ rằng tôi thật may mắn khi anh muốn kết hôn với tôi. Nhưng ý tôi không phải thế. “Grace không còn anh chị em nào khác nên cô ấy cứ nghĩ vì một ngày nào đó cô ấy rồi sẽ trở thành người duy nhất chăm sóc cho Millie, nên hẳn tôi sẽ mất hết hứng thú,” Jack giải thích. “Như đã xảy ra với những người khác,” tôi bổ sung. Jack lắc đầu. “Ngược lại, khi biết Grace sẽ làm bất cứ điều gì cho Millie, tôi nhận ra cô ấy chính là người phụ nữ tôi đã tìm kiếm cả đời. Với nghề nghiệp của tôi, người ta rất dễ mất niềm tin vào con người.” “Hôm qua, tôi đọc báo thấy đã đến lúc chúc mừng anh một lần nữa,” Rufus nói, nâng ly về phía Jack. “Đúng thế, cừ lắm.” Adam, luật sư cùng công ty với Jack, cũng hùa vào. “Lại một chiến thắng nữa trong tay cậu.” “Vụ ấy khá rõ ràng,” Jack khiêm tốn đáp. “Mặc dù có đôi chút khó khăn vì phải chứng minh những vết thương đó không phải do thân chủ của tôi tự gây ra, trong khi cô ấy có xu hướng tự gây thương tích cho mình.” “Nhưng nhìn chung, chẳng phải các vụ ngược đãi thường rất dễ chứng minh sao?” Rufus hỏi, trong khi Diane nói với Esther, phòng trường hợp cô chưa biết, rằng Jack là người bênh vực cho những người yếu thế, cụ thể hơn là cho những người vợ bị ngược đãi. “Tôi không muốn chê bôi những việc làm tuyệt vời của anh, nhưng các vụ ấy thường có bằng chứng vật lý hay nhân chứng mà, đúng không?” “Jack có biệt tài khiến các nạn nhân tin tưởng và kể hết cho anh ấy nghe những chuyện đã xảy ra,” Diane giải thích, tôi nghi cô ta đã đem lòng thích Jack. “Rất nhiều phụ nữ không biết phải trông cậy vào ai và sợ sẽ chẳng ai tin mình.” “Cậu ấy còn đảm bảo những kẻ gây ra tội ác phải trả giá trong một thời gian dài,” Adam thêm vào. “Trước những kẻ bị phát hiện giở trò bạo lực với vợ mình, tôi không có cảm giác gì khác ngoài khinh thường,” Jack tuyên bố chắc nịch. “Chúng xứng đáng nhận mọi hình phạt dành cho mình.” “Tôi xin uống mừng điều đó,” Rufus lại nâng ly. “Anh chưa bao giờ thua vụ nào, đúng không Jack?” Diane hỏi. “Chưa, tôi cũng không có ý định sẽ để thua vụ nào hết.” “Thành tích không gián đoạn - đúng là tuyệt vời,” Rufus trầm ngâm vẻ ấn tượng. Esther nhìn sang tôi. “Em gái Millie của chị nhỏ hơn chị khá nhiều tuổi nhỉ,” cô nhận xét, hướng cuộc trò chuyện về chủ đề chúng tôi đang nói dở. “Đúng, chúng tôi cách nhau mười bảy năm. Millie ra đời khi mẹ tôi đã bốn mươi sáu. Lúc đầu, do không biết mình đang mang thai nên mẹ tôi có hơi sốc trước việc sẽ được làm mẹ một lần nữa.” “Millie sống với cha mẹ chị à?” “Không, nó học nội trú tại một ngôi trường tuyệt vời ở Bắc London. Nhưng nó sẽ lên mười tám vào tháng Tư nên phải rời trường vào mùa hè này, âu cũng đáng tiếc vì nó rất thích ngôi trường ấy.” “Vậy con bé sẽ đi đâu? Về nhà cha mẹ chị à?” “Không.” Tôi dừng một lát vì biết điều mình sắp nói sẽ khiến cô sửng sốt. “Cha mẹ tôi sống ở New Zealand.” Mất một lúc Esther mới phản ứng lại. “New Zealand?” “Đúng thế. Họ nghỉ hưu và chuyển đến đó vào năm ngoái, ngay sau đám cưới của chúng tôi.” “Tôi hiểu rồi,” cô nói. Nhưng tôi biết cô chẳng hiểu gì. “Millie sẽ chuyển đến sống cùng chúng tôi,” Jack giải thích. Anh nhìn tôi mỉm cười. “Tôi biết đó là điều kiện để Grace đồng ý kết hôn với tôi và tôi hoàn toàn vui lòng chấp nhận.” “Anh cao thượng thật đấy,” Esther nói. “Hoàn toàn không phải thế - tôi rất mừng vì Millie sẽ sống ở đây. Việc đó sẽ mở ra một khía cạnh mới cho cuộc sống của chúng tôi, phải không, em yêu?” Tôi nâng ly nhấp một ngụm rượu để khỏi phải trả lời. “Rõ là anh rất hòa hợp với con bé,” Esther nhận xét. “Chậc, tôi hy vọng con bé cũng yêu quý tôi như tôi yêu quý nó, mặc dù vẫn phải mất một thời gian sau khi tôi và Grace kết hôn mới được như thế.” “Sao lại thế?” “Tôi nghĩ việc chúng tôi kết hôn với nhau khiến con bé bị sốc,” tôi trả lời cô. “Con bé ngay từ đầu đã rất quý Jack, nhưng khi chúng tôi trở về sau tuần trăng mật và Millie hiểu ra Jack sẽ ở bên tôi mãi mãi, nó lại thấy ghen tị. Nhưng giờ thì ổn rồi. Jack lại là người con bé yêu quý nhất rồi.” “May sao, George Clooney đã thế chỗ tôi trở thành đối tượng đáng ghét trong lòng Millie,” Jack phá lên cười. “George Clooney?” Esther thắc mắc. “Đúng thế.” Tôi gật đầu, hài lòng vì Jack đã đề cập đến việc này. “Tôi thích anh ta…” “Ai mà chẳng thích,” Diane lẩm bẩm. “… và Millie ghen tị đến nỗi, khi mấy người bạn tặng tôi một tờ lịch in hình George Clooney vào lễ Giáng sinh, nó đã nguệch ngoạc viết lên đó ‘Tôi không thích George Clooney’, có điều nó viết tên anh ta theo cách phát âm - J-O-R-J K-O-O-N-Y - con bé gặp khó khăn khi phát âm chữ ‘L’,” tôi giải thích. “Đáng yêu thế chứ.” Ai cũng cười. “Giờ thì gặp ai nó cũng nói chỉ thích tôi chứ không thích anh ta. Nghe gần như tụng kinh vậy - ‘Em thích anh, Jack ạ, nhưng em không thích George Clooney.’ “ Jack mỉm cười. “Phải thừa nhận là tôi thấy rất khoái khi được so sánh với anh ta,” anh khiêm tốn nói thêm. Esther nhìn Jack. “Anh biết không, trông anh cũng khá giống anh ta đấy.” “Trừ một điều, Jack đẹp trai hơn nhiều.” Adam nhe răng cười. “Cô không hình dung nổi tất cả chúng tôi đã cảm thấy nhẹ nhõm đến mức nào khi cậu ấy kết hôn với Grace đâu. Ít ra thì đám phụ nữ trong văn phòng không còn mộng tưởng về Jack nữa, cả nam giới cũng vậy,” anh ta vui vẻ thêm vào. Jack thở dài hiền hậu. “Đủ rồi đấy, Adam.” “Chị không đi làm, đúng không?” Esther quay sang hỏi tôi. Tôi nhận ra giọng cô thoáng ẩn giấu sự coi thường mà phụ nữ đi làm thường dành cho những người chỉ ở nhà, điều đó thôi thúc tôi phải bào chữa cho mình. “Ngày trước thì có, nhưng tôi đã nghỉ làm ngay trước khi chúng tôi kết hôn.” “Thật sao?” Esther nhíu mày. “Tại sao lại thế?” “Cô ấy không muốn thôi việc,” Jack xen vào. “Nhưng cô ấy đã có một công việc chức trọng quyền cao và tôi không muốn về nhà khi đã kiệt sức chỉ để thấy Grace cũng kiệt sức như mình. Có lẽ tôi đã ích kỷ khi đề nghị cô ấy thôi việc, nhưng tôi muốn được về nhà để trút bỏ mọi căng thẳng trong ngày hơn là bị người khác trút lên mình. Công việc của cô ấy cũng đòi hỏi phải đi lại khá nhiều và tôi không muốn về một ngôi nhà trống, như cách tôi đã sống suốt bao năm qua.” “Chị làm gì?” Esther hỏi, đôi mắt xanh nhạt nhìn thẳng vào tôi. “Tôi nhập hàng cho Harrods[2].” Mắt cô sáng lên, cho thấy cô rất ấn tượng, nhưng việc cô không hỏi thêm nữa chứng tỏ cô chưa muốn cho tôi thấy điều đó. “Chị ấy thường đi khắp thế giới trên khoang hạng nhất,” Diane nín thở nói. “Không phải khắp thế giới đâu,” tôi chỉnh lại. “Chỉ tới Nam Mỹ thôi. Tôi tìm nguồn hoa quả ở đó, chủ yếu từ Chile và Argentina,” tôi bổ sung, chủ yếu để cho Esther biết. Rufus nhìn tôi đầy thán phục. “Chắc là thú vị lắm.” “Đúng thế.” Tôi gật đầu. “Tôi yêu từng giây từng phút được làm công việc của mình.” “Thế thì chắc chị nhớ lắm,” Esther lại tuyên bố. “Không, cũng không hẳn,” tôi nói dối. “Ở đây có khối việc chiếm trọn thời giờ của tôi rồi.” “Chẳng mấy chốc, chị lại phải chăm sóc cho cả Millie nữa.” “Millie rất tự chủ và dù sao thì con bé cũng sẽ dành phần lớn thời gian làm việc ở Meadow Gate.” “Ở nhà vườn ấy hả?” “Đúng thế. Con bé rất thích cây cối hoa lá và đã may mắn được nhận vào làm một công việc hoàn hảo.” “Thế cả ngày chị thường làm gì?” “Thì cũng như hiện tại thôi - cô biết rồi đấy, nấu ăn, dọn dẹp, làm vườn - nếu thời tiết cho phép.” “Sau này cô phải tới dự bữa trưa Chủ nhật để thăm vườn mới được,” Jack nói. “Grace mát tay trồng trọt lắm.” “Trời ạ,” Esther nhẹ nhàng nói. “Chị nhiều tài thật đấy. Thật mừng là tôi được mời làm việc ở St Polycarp. Ở nhà cả ngày tôi thấy chán lắm.” “Bao giờ cô bắt đầu?” “Tháng sau. Tôi thế chỗ cho một cô giáo nghỉ sinh con.” Tôi quay sang Rufus. “Jack nói với tôi vườn của anh lớn lắm,” tôi gợi ý, và trong khi tôi lấy thêm thịt bò Wellington được giữ ấm cùng rau quả trên bếp điện, cuộc chuyện trò bên bàn bắt đầu xoay quanh chủ đề phong cảnh thay vì về tôi. Khi mọi người cười nói với nhau, tôi thấy mình bâng khuâng nhìn hai người phụ nữ kia, tự hỏi nếu mình là Diane hoặc Esther thì sẽ ra sao, hay nếu không phải chăm lo cho Millie thì tôi sẽ thế nào. Tôi lập tức thấy có lỗi vì tôi yêu Millie hơn cả cuộc đòi này và sẽ không đánh đổi con bé để lấy bất cứ thứ gì. Chỉ cần nghĩ đến Millie, lòng tôi dâng lên một quyết tâm mới và tôi cố ý đứng dậy. “Đã ai muốn ăn tráng miệng chưa?” tôi hỏi. Jack và tôi dọn bàn, sau đó anh theo tôi vào bếp. Tôi bỏ đĩa bát gọn gàng vào bồn rửa để lát nữa xối nước cho sạch, trong khi Jack cất con dao lạng thịt về chỗ cũ. Món tráng miệng tôi làm quả là kiệt tác - một ổ bánh trứng đường hoàn hảo, không một vết rạn, cao bảy phân, phủ đầy kem tươi Devon. Tôi lấy số hoa quả đã chuẩn bị từ trước rồi cẩn thận xếp các khoanh xoài, dứa, đu đủ và kiwi lên trên lớp kem, sau đó thêm dâu tây, mâm xôi và việt quất. Khi cầm quả lựu lên, cảm giác của nó trong lòng bàn tay đưa tôi quay về một thời điểm khác, một địa điểm khác, nơi ánh mặt trời ấm áp rọi trên mặt và tiếng trò chuyện háo hức là những thứ tôi coi như nghiễm nhiên được hưởng trên đời. Tôi nhắm mắt lại trong giây lát, nhớ tới cuộc đời mình từng sống trước đây. Nhận thấy Jack đang giơ tay ra đợi, tôi đưa quả lựu cho anh cắt ra làm đôi, rồi tôi dùng thìa nạo hạt rắc lên chỗ hoa quả kia. Món tráng miệng đã hoàn thành, tôi bê ra phòng ăn, nơi những tiếng trầm trồ trước sự xuất hiện của nó khẳng định Jack đã đúng khi chọn món này thay vì bánh ga tô sô cô la hạt dẻ tôi muốn làm. “Cậu có tin là Grace chưa bao giờ học nấu ăn không?” Diane nói với Esther và cầm thìa lên. “Tớ thật ngưỡng mộ sự hoàn hảo này, cậu có thấy thế không? Mặc dù tớ sẽ không tài nào mặc vừa bộ bikini vừa mua nữa,” cô ta đế thêm, rên rỉ vỗ tay vào bụng dưới lớp váy lanh màu xanh nước biển. “Tớ không nên ăn mới phải, nhất là khi vừa đặt một chuyến nghỉ mát vào mùa hè này, nhưng ngon thế kia thì làm sao cưỡng nổi!” “Hai người định đi đâu?” Rufus hỏi. “Thái Lan,” Adam trả lời. “Chúng tôi định đi Việt Nam, nhưng sau khi xem ảnh kỳ nghỉ vừa rồi của Jack và Grace ở Thái Lan, chúng tôi quyết định sẽ đi Việt Nam vào năm sau.” Anh ta nhìn Diane cười. “Mọi chuyện được quyết ngay khi Diane trông thấy khách sạn họ đã ở.” “Vậy hai người sẽ ở đúng khách sạn ấy chứ?” “Không, khách sạn ấy đã kín chỗ. Không may là chúng tôi không được phép đi nghỉ ngoài thời gian làm việc.” “Hãy cố tận hưởng hết mức có thể,” Esther nói, quay sang nhìn tôi. “Tôi cũng định thế.” “Năm nay hai cậu có định quay lại Thái Lan không?” Adam hỏi. “Nếu có thì phải đi trước tháng Sáu, nhưng chắc tôi không đi được vì vụ Tomasin sắp tới,” Jack nói. Anh ném một cái nhìn đầy ẩn ý về phía tôi ở đầu bàn bên kia. “Còn sau đó thì Millie sẽ đến sống cùng chúng tôi.” Tôi nín thở, hy vọng không ai gợi ý rằng nếu kiên nhẫn chờ đợi, chúng tôi sẽ có thể đưa cả Millie đi cùng. “Vụ Tomasin hả?” Rufus nhướn mày. “Tôi có nghe được chút ít. Có phải vợ anh ta là một trong số các thân chủ của anh?” “Đúng thế.” “Dena Anderson,” anh ta trầm ngâm. “Chắc là một vụ rất thú vị.” “Quả vậy,” Jack đồng tình. Anh quay lại nhìn tôi. “Em yêu, nếu mọi người đã ăn xong, sao em không cho Esther xem ảnh lần trước bọn mình đi nghỉ ở Thái Lan nhỉ?” Tim tôi chùng xuống. “Chắc cô ấy không muốn xem ảnh đi nghỉ của chúng mình đâu,” tôi cố tình nói sao cho thật nhẹ nhàng. Nhưng chỉ một dấu hiệu nhỏ nhoi cho thấy sự bất hòa giữa hai chúng tôi cũng đã đủ cho Esther. “Tôi rất thích xem!” cô kêu lên. Jack đẩy ghế lùi lại rồi đứng dậy. Anh lấy cuốn album ảnh ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Esther. “Vậy thì tôi với Grace đi pha cà phê trong khi cô xem ảnh nhé. Sao cô không sang phòng khách mà ngồi, ở đó thoải mái hơn nhiều.” Lúc chúng tôi mang khay cà phê trở lại từ trong bếp thì Diane đang trầm trồ khen ảnh, trong khi Esther chẳng nói gì nhiều. Tôi phải thừa nhận đó là những tấm ảnh tuyệt vời. Tôi có mặt ở tấm nào là y như rằng đều phô ra ưu điểm của mình trong tấm đó: làn da rám nắng tuyệt đẹp, thân hình thanh mảnh như hồi còn đôi mươi, mặc một trong hằng hà sa số các bộ bikini của mình. Hầu như trong ảnh nào tôi cũng đang đứng trước một khách sạn hạng sang, hoặc nằm dài trên bãi biển riêng, hay ngồi ở một quầy bar hoặc nhà hàng, bên cạnh ly cocktail sặc sỡ cùng một đĩa đồ ăn mới lạ trước mặt. Xem ảnh nào cũng thấy tôi tươi cười nhìn máy ảnh, quả là một ví dụ hoàn hảo về kiểu phụ nữ vô lo được cưng chiều và yêu chồng tha thiết. Jack khá cầu toàn khi chụp ảnh và thường chụp đi chụp lại một kiểu đến khi nào ưng mới thôi, vậy nên tôi đã học cách diễn cho chuẩn ngay lần đầu. Cũng có một số tấm ảnh hai chúng tôi chụp chung, do những người lạ dễ tính nháy máy hộ. Chính Diane đã trêu chọc và chỉ ra rằng trong những bức ảnh ấy, Jack với tôi thường nhìn nhau say đắm chứ chẳng hề nhìn đến ống kính. Jack rót cà phê. “Có ai muốn ăn sô cô la không?” tôi hỏi, cố hết sức làm ra vẻ ngẫu nhiên với lấy hộp sô cô la Esther mang tới. “Anh nghĩ tất cả đều đã ăn khá no rồi,” Jack gợi ý, nhìn quanh tìm kiếm sự đồng tình. “Quả vậy,” Rufus nói. “Tôi không thể ăn thêm bất cứ thứ gì nữa,” Adam rên rỉ. “Thế thì tôi cất đi để dịp khác vậy.” Jack chìa tay đón hộp kẹo. Tôi đang tưởng sẽ phải chấp nhận không bao giờ được nếm chúng thì Diane đã kịp đứng ra giải cứu. “Đừng cất đi - em nghĩ mình còn ăn được một, hai viên sô cô la.” “Nhắc cho em nhớ tới bikini chắc cũng vô ích,” Adam thở dài, lắc đầu tuyệt vọng chế giễu vợ. “Hoàn toàn vô nghĩa,” Diane đồng ý rồi lấy một viên sô cô la từ chiếc hộp Jack đưa cho mình, sau đó chuyền cho tôi. Tôi lấy một viên, bỏ tọt vào miệng và đưa hộp cho Esther. Thấy cô từ chối không ăn, tôi lại lấy thêm một viên nữa trước khi trả hộp cho Diane. “Sao chị làm được như thế?” Diane hỏi, nhìn tôi đầy băn khoăn. “Làm gì cơ?” “Ăn nhiều thế mà chẳng tăng cân chút nào.” “Nhờ may mắn,” tôi nói, thò tay ra lấy thêm một viên kẹo nữa. “Và có kiểm soát.” Đến tận khi đồng hồ nhích đến mười hai rưỡi, Esther mới nhắc đến chuyện đi về. Jack đưa áo khoác cho mọi người khi chúng tôi ra tới hành lang. Trong lúc anh giúp Diane và Esther mặc áo khoác, tôi đồng ý sẽ gặp họ trong thị trấn vào thứ Sáu tới để ăn trưa tại nhà hàng Chez Louis lúc mười hai rưỡi. Diane ôm tôi chào tạm biệt. Khi bắt tay Esther, tôi nói tôi mong được gặp lại cô vào bữa trưa đã hẹn. Hai người đàn ông hôn tạm biệt tôi và trong lúc tất cả ra về, họ đều cảm ơn chúng tôi vì một buổi tối hoàn hảo. Trên thực tế, từ “hoàn hảo” cứ vang lên khắp hành lang khi Jack đóng cửa sau lưng các vị khách, khiến tôi biết chắc mình đã thắng cuộc. Nhưng tôi phải đảm bảo Jack biết rằng tôi đã thắng. “Ngày mai ta sẽ phải lên đường vào lúc mười một giờ,” tôi nói, xoay lại nhìn anh. “Để tới nơi đúng giờ đưa Millie đi ăn trưa.” Mời bạn đón đọc Sau Cánh Cửa Đóng của tác giả B. A. Paris & Lan Young (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Gác Đêm Tập 2
Một “Kị sĩ u linh”, một Sơn Tiêu có thể dễ dàng cải trang dung mạo, một kẻ mang danh “Tai sứt” bí ẩn. Liên tiếp xuất hiện những nhân vật bóng tối tiềm năng. Người gác đêm đang phải đối mặt với đối thủ thần bí, rốt cuộc họ là ai? Ngôi nhà trọ với vụ thảm sát tàn bạo, căn nhà bỏ không hay nghĩa trang hoang vu là nơi ẩn giấu bao điều bí mật, bao ân oán suốt ngần ấy năm, những đứa trẻ non nớt chưa hiểu sự đời đã phải chết yểu. Những vụ kỳ án, dị án được Người gác đêm tiếp nhận, lần lượt được những thành viên trẻ tuổi tinh anh, đầy nhiệt huyết từng bước gợi mở, làm sáng tỏ. Vậy sao mọi việc vẫn còn là một câu đố chưa tìm ra lời giải đáp? Người thầy giáo hướng dẫn tưởng như đã tiếp cận thật gần với sự thật, người phụ nữ bí mật kia rốt cuộc là ai? Khi bóng tối tiềm năng dần được hé mở, là hiểm nguy hay là cơ hội? Bất kể trong bóng tối có những gì; Tôi vẫn luôn là Người gác đêm của bạn! GIới thiệu tác giả: Tần Minh là một bác sĩ pháp y danh tiếng thế hệ 8X tại Trung Quốc. Anh cũng là tác giả dòng tiểu thuyết trinh thám bán chạy nhất hiện nay. Tần Minh bước vào nghề pháp y từ rất sớm, nên anh có kinh nghiệm vô cùng phong phú, được đặt biệt hiệu “Lão Tần”. Anh đã giải mã vô số tử thi, nên thấu hiểu tinh tường đến chân tơ kẽ tóc. Bằng đôi bàn tay “ma mị” của mình, anh đã phá giải bao vụ án bi thảm oan khuất, giúp các oan hồn được siêu thoát. Với tấm lòng từ bi nhân ái, ước nguyện duy nhất của anh là mong cho cuộc sống trên thế giới này luôn yên bình. Tác phẩm tiêu biểu: Series “Pháp y Tần Minh hiện đã xuất hiện đến tập 7; series “Người gác đêm”. Nhiều tác phẩm của anh đã và đang được chuyển thể thành phim truyền hình với tên gọi “Người giải mã tử thi” và “Pháp y Tần Minh”. *** Hồi nhỏ, tôi đã bị ám ảnh bởi ảo tưởng về một tổ chức trừ gian diệt ác luôn nằm trong bóng tối, lặng lẽ bảo vệ nhân dân. Đó là tập hợp những con người kiệt xuất nhất, lòng đầy chính nghĩa và quả cảm, không ngại hiểm nguy, chiến công hiển hách nhưng mãi mãi không bao giờ được lưu danh sử sách. Thậm chí, tôi còn nghĩ nếu mình đủ thông minh, một ngày đẹp trời nào đó, sẽ có một người xuất hiện hỏi: cô có muốn gia nhập đội ngũ Night keepers với chúng tôi không. Chính vì thế, tôi có cảm tình với Người gác đêm ngay khi bắt đầu đọc phần giới thiệu. Một đứa trẻ bị bắt cóc ngay trong nhà, khi đang ngủ cạnh bố mẹ. Mẹ đứa bé là vận động viên điền kinh đang nắm kỷ lục chạy 1000m của tỉnh mà không đuổi kịp kẻ bắt cóc cõng theo đứa bé. Không cần nói cũng biết tên này không phải người thường, nếu đầu quân cho ngành thể thao nước nhà, nhất định làm rạng rỡ tổ tông. Ngoài khả năng chạy nhảy phi tường rất đỉnh ra, hắn còn có thể bẻ khóa, đột nhập không để lại dấu vết gì. Vụ án hoàn toàn rơi vào bế tắc. Vì một sự tình cờ, Tiêu Vọng – một cảnh sát thực tập phát hiện hóa ra đây không phải trường hợp duy nhất. Trong vòng 22 năm qua, đã có 31 đứa trẻ bị bắt cóc như vậy. Bọn bắt cóc chắc xem thầy nên chỉ nhè ngày mùng 8 tháng 6 âm lịch để ra tay. Điểm chung của những đứa trẻ này là bố mẹ chúng có năng lực đặc biệt. (Ơn trời, bố mẹ mình là người thường.) Dường như bọn bắt cóc đang muốn tổ hợp nguồn gen tốt để làm gì đó. Gần như cùng lúc với vụ bắt cóc số 31, 22 tên tội phạm đủ loại ngành nghề đồng loạt trốn thoát bằng một kế hoạch kín kẽ đến mức tưởng có nội gián. Kỳ lạ ở chỗ, những kẻ này không phải tất cả đều nhất thiết phải vượt ngục. Có những tên tội khá nhẹ, ngồi tù vài năm là ra, vượt ngục chỉ tổ tăng tội. Vì thế, nhiệm vụ bắt sống lại 22 tên này để hiểu động cơ của chúng rất quan trọng. Hai vụ án lớn cùng một lúc, thúc đẩy khao khát và nhu cầu thành lập lại tổ hoạt động Người Gác Đêm từng tung hoành giang hồ khiến kẻ xấu khiếp sợ mấy chục năm trước. Gần 1/2 truyện là giới thiệu hoàn cảnh, dẫn dắt đến sự tái khởi động tổ chức này (đặng còn viết mấy tập sau). Hơn 1/2 truyện còn lại là quá trình truy bắt 22 tên tù trốn trại, cũng là bài tập khảo nghiệm lọc thành viên của Người Gác Đêm, là điều kiện để Người Gác Đêm được hoạt động trở lại hay không. Quá trình tìm kiếm này, các vị đọc truyện sẽ biết, khá thú vị. Truyện có đoạn chuyển tông bất ngờ làm tôi ngạc nhiên. Ban đầu, tưởng bạn Tiêu Vọng là nam chính, hóa ra, em trai bản – Tiêu Lãng mới là chính. Tôi thích sự thay đổi này hơi vì bạn Tiêu Lãng là mẫu dương quang thụ điển hình, rất đối lập với lạnh lùng cô đơn sửu công – Lăng Mạc. Hai bạn trẻ đấu trí đấu mồm, cực kỳ tương ái tương sát. Theo kinh nghiệm đọc đam của tôi thì những cp kiểu này sau khi thân ái rồi sẽ vô cùng nóng bỏng và cuồng nhiệt. Người Gác Đêm bày ra một âm mưu khủng khiếp mà bạn Tiêu Vọng phát hiện ra như đã nói trên. Âm mưu lớn như vậy rất thu hút người đọc đón xem tập tiếp. Ở cuối truyện, một nhân chứng quan trọng bị giết, trong tay cầm mảng giấy ghi ba chữ Người Gác Đêm mở cho tôi suy nghĩ rằng nội bộ tổ chức NGĐ năm xưa bị chia cắt bởi 2 tư tưởng: một là nhóm người sẵn sàng ra tay giết những kẻ “họ cho là xấu” mà pháp luật chưa trừng trị và hai là nhóm người giống như bọn Tiêu – Lăng hiện nay – muốn bắt họ về quy án, cố gắng tìm ra kẽ hở pháp luật mà bọn chúng là lợi dụng để thoát tội, dần dần hoàn thiện hóa bộ máy pháp luật, giữ bình an cho nhân dân. Thế hệ kế thừa của 2 nhóm này sẽ đấu trí đấu dũng nhau trong các tập tiếp theo. Kết của tập 1 này kể ra làm tôi hơi chưng hửng vì nó giống như tôi đoán lúc đầu, hơi bị khó tin . Xuyên suốt quá trình phá án, tác giả gài hơi nhiều lời khen ngợi cho cơ quan công quyền và mấy cháu thực tập khiến tôi nghĩ lẽ nào trợ lý mới của Tần Minh là fan của teenfic. Bìa lần này tiến bộ hơn nhiều so với mấy cái bìa đỏ lòe trước nhưng bìa lót cần cải tiến. Khổ sách và lề hơi nhỏ. Tên của nhân vật Trình Tử Mặc bị nhầm thành Trần Tử Mặc. Quynh Anh Thi Dang *** Rất nhiều bạn bè hỏi tôi, series “Người gác đêm” này của anh, rốt cuộc là muốn bày tỏ điều gì? “Chống lại bóng tối, bảo vệ ánh sáng”, đây chính là tâm nguyện trong lòng của những người cảnh sát nhân dân - lực lượng hy sinh to lớn nhất trong thời đại hòa bình. Tôi rất tự hào bản thân mình là một người cảnh sát, tôi cũng muốn kể cho mọi người nghe những câu chuyện của cảnh sát. Nếu như có thể cùng với việc kể những câu chuyện của cảnh sát mà làm cho tinh thần pháp trị thấm sâu vào lòng người, thì càng là việc không mong đợi gì hơn nữa. Trước đây không lâu, trong buổi công bố của Tencent Picture*, tôi đã nói: “Series truyện Người gác đêm sẽ tiếp nối bối cảnh khoa học kỹ thuật hình sự chân thực, khoa học và nghiêm ngặt của series truyện “Pháp y Tần Minh”, nhưng sẽ có những đột phá về mặt phát triển đội ngủ cảnh sát và sự đối kháng trong tổ chức.” Đây chính là nguyện vọng chân thực nhất của tôi. Còn có người hỏi tôi, series “Người gác đêm” là những câu chuyện kể về một số siêu anh hùng trẻ tuổi phải không? Tôi nói không phải. Chúng ta đều biết, chỉ cần là miêu tả chân thực, tự nhiên sẽ không có siêu anh hùng gì cả. Tổ chức Người gác đêmthực ra là có nguyên mẫu thực của nó, đó chính là rất nhiều phòng công tác chuyên môn trực thuộc trung tâm giám định vật chứng Bộ Công an. Những chuyên gia lão luyện đức cao vọng trọng dẫn dắt đội ngũ tinh anh chuyên nghiệp trên mọi miền đất nước lập nên các phòng công tác, có thể nói là đi tới đâu phá được án tới đó, cho dù án khó, nghi án hay kỳ án, họ phá được hết vụ án này sang vụ vụ án khác, lập được rất nhiều chiến công hiển hách. Tôi chỉ là lấy họ làm nguyên mẫu, để cho một nhóm những bạn trẻ tràn đầy nhựa sống làm nhân vật chính mà thôi. Trẻ trung tinh nhuệ, tràn đầy nhiệt huyết, chăng phải cũng chính là trạng thái mà đội ngũ công an chúng ta cần phải có sao? Có điều là, tạo dựng một thế giới quan hoàn toàn mới, đối với một người không đủ trí tưởng tượng là tôi đây mà nói, thực là một việc khó khăn. May mà có sự giúp đỡ của các bạn trẻ trong công ty Văn hóa Truyền thông Nguyên Khí, chúng tôi hết lần này đến lần khác sửa đổi đề cương nội dung, điều chỉnh cốt truyện chính. Sau khoảng thời gian một năm, bản thảo trải qua mười mấy lần chỉnh sửa lớn nhỏ, cấu tứ câu chuyện của chúng tôi cuối cùng cũng dần dần trở nên rõ nét. Cuối cũng thì tôi đã có thể cầm bút tiếp tục sáng tác “Ngườigác đêm 2” rồi. Tại sao phải trải qua nhiều lần chỉnh sửa như vậy chứ? Điều này cần phải nói bắt đầu từ khi xuất bản cuốn “Người gác đêm 1”. Thực ra, trước khi sáng tác series “Người gác đêm”, chúng tôi đã có một tuyến truyện hoàn chỉnh rồi. Chỉ tiếc là, Lão Tần vốn là dân học tự nhiên, năng lực về mặt viết lách thực sự còn nhiều khiếm khuyết. Trong “Người gác đêm 1” cũng đã để lộ ra rất nhiều khuyết điểm. Sau khi “Người gác đêm 1” xuất bản, tôi đã tỉ mỉ đọc những lời nhận xét của các bạn độc giả. Dù phần lớn độc giả nhiệt tình cổ vũ động viên Lão Tần, nhưng cũng có không ít độc giả đưa ra nhiều phê bình, góp ý. Cho dù là động viên hay phê bình, Lão Tần tôi tại đây cũng xin được chân thành cúi đầu cảm ơn! Những tràng pháo tay, tiếng hoan hô và lời cổ vũ động viên của độc giả khiến tôi có thêm sự tự tin trên con đường sáng tác; những lời phê bình của các bạn độc giả cũng khiến tôi có thêm động lực để hoàn thiện bản thân, bổ sung những thiếu sót của mình. Với mong muốn để series “Người gác đêm” càng gần gũi chân thực hơn, để không phụ lòng mong đợi của độc giả, và cũng để cho cả câu chuyện thêm phần cuốn hút hơn, trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của các bạn độc giả, chúng tôi đã điều chỉnh lại tuyến truyện chính. Cá nhân tôi cảm thấy, bản thảo hiện giờ còn ly kỳ và hấp dẫn hơn, ngay bản thân tôi chỉ mới nghĩ đến việc bắt đầu cầm bút viết đã thấy vô cũng hào hứng rồi. Bất luận thế nào, đối với một người vẫn đang không ngừng miệt mài viết tiếp bộ truyện “Pháp y Tần Minh” là tôi mà nói, series “Người gác đêm” là một sự khởi đầu hoàn toàn mới, là mốc giới quan trọng đánh giá sự đột phá vươn lên trong sáng tác của tôi. Trong quá trình viết bộ “Người gác đêm”, tôi luôn cảm thấy tư duy vững chắc của bản thân mình không ngừng bị lung lay, bầu trời trước mắt tôi ngày càng rộng mở. Tôi nghĩ, đây có lẽ chính là quá trình đang tiến bộ đấy nhỉ. Tuy rằng kết quả không chắc chắn hoàn mỹ, nhưng quá trình này khiến cho con người ta mê say. Bởi vậy mà nói series “Người gác đêm” vô cùng quan trọng trên con đường sáng tác của Lão Tần. Tôi biết, những độc giả thân yêu của tôi, nhất định sẽ nắm lấy tay tôi, cũng nhau trải qua những khó khăn trắc trở trên chặng đường sáng tác. Viết đến đây, trong lòng tôi chợt trào dâng cảm giác ấm áp vô ngần. Chính là các bạn độc giả của tôi, đã ở bên tôi trọn vẹn suốt hơn năm năm qua, cũng chính sự hợp lực của chúng ta, khiến cho những câu chuyện pháp y của công an được lưu truyền rộng rãi. Những câu chuyện trong series “Người gác đêm” rất phức tạp, muốn kể cho rõ ràng thì phải cần đến ba cuốn sách, Lão Tần tôi tha thiết mong rằng, mọi người có thể kiên nhẫn, từ từ nghe tôi kể hết câu chuyện. Tôi cũng thực lòng hy vọng, các bạn độc giả của tôi sau khi đọc xong series truyện “Người gác đêm” có thể hấp thu được dù chỉ là một chút dưỡng chất. Không dài dòng nữa, “Người gác đêm 2” là một mắt xích quan trọng kết nối hai phần trước sau series ba cuốn “Người gác đêm”,cũng là mắt xích đặc biệt quan trọng trong cả series, rất nhiều manh mối quan trọng đều sẽ xuất hiện trong cuốn sách này. Các bạn có mong chờ không? Vậy chúng ta cùng bắt đầu nhé! Tần Minh Ngày 20 tháng 9 năm 2017 Mời các bạn đón đọc Người Gác Đêm Tập 2 của tác giả Tần Minh.
Vụ Án Mạng Bên Hồ
Namikishi Yunsuke một mình lái chiếc xe Cima bon bon len lỏi trên con đường dài tít tắp dẫn tới Khu biệt thự hồ Himegami. Anh tới nhập hội với nhóm các ông bố bà mẹ tổ chức một trại ôn luyện cho bốn đứa trẻ chuẩn bị kỳ thi quan trọng vào trường trung học nổi tiếng. Khu biệt thự nằm giữa một rừng cây rậm rạp xanh rì, những tưởng là một nơi nghỉ dưỡng yên tĩnh và lý tưởng. Vậy mà máu đã đổ, một cái chết bất ngờ ập đến, một vụ giết người khó hiểu… Bốn cặp vợ chồng đang ấp ủ những mưu tính quái đản. Làm thế nào để kẻ sát nhân lộ diện? Mặt hồ Himegami phẳng lặng phản chiếu bầu trời xanh kia, có ngày lại gợn sóng… Vụ án mạng bên hồ là tác phẩm trinh thám thể hiện xuất sắc nghệ thuật kể chuyện tài ba của Higashino Keigo. Độc giả thực sự bị cuốn vào trò chơi tâm lý gay cấn, vừa bồn chồn khi gặp những nút thắt này thì lại háo hức trước những manh mối gợi mở khác. Xuyên suốt câu chuyện sẽ là những tình huống móc nối nhau tựa như bí ẩn lồng trong bí ẩn, bất ngờ đến tận những trang sách cuối cùng. *** Giống như những tác phẩm trinh thám trước đây của Higashino Keigo, yếu tố trinh thám vẫn luôn là cái nền móng vững chắc để ông xây dựng vào đó những khía cạnh về xã hội và tâm lý của con người. Với “Vụ án mạng bên hồ”, đi cùng khả năng kể chuyện tài ba và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật tài tình là khả năng tháo gỡ nút thắt trong một câu chuyện với những tình huống đầy nghiệt ngã khiến bất kỳ độc giả nào cũng phải ngả mũ thán phục về cách dẫn dắt người đọc của Higashino Keigo. Sự sắp đặt vấn đề tài tình chỉ trong bốn chương sách “Vụ án mạng bên hồ” của Higashino Keigo có nội dung xoay quanh bốn gia đình tổ chức một trại ôn luyện cho bốn đứa trẻ chuẩn bị kỳ thi quan trọng vào trường trung học nổi tiếng ở một khu biệt thự lý tưởng cách xa thành phố. Vụ án không được kể dưới con mắt của người điều tra theo cách thông thường mà được Keigo đi ngay vào câu chuyện kẻ thú tội và cách bốn cặp vợ chồng cùng nhau che giấu tội ác này. Nghệ thuật kể chuyện từ đầu đến cuối cuốn sách là những nút thắt buộc chặt rồi được gỡ và qua vô số những sự bất thường của những nhân vật trong truyện, người đọc cảm giác như mình đang thực sự bị cuốn vào một trò chơi tâm lý gay cấn. Tưởng chừng là cái kết của “Vụ án mạng bên hồ” khi kẻ giết người đứng ra nhận tội lại mở ra một câu chuyện khắc nghiệt hơn nhiều chờ đợi ở phía sau. Điểm sáng trong “Vụ án mạng bên hồ” chính là cái cách mà Higashino Keigo lựa chọn và sắp đặt vấn đề đầy sáng tạo, có tính gợi mở rất cao. Hai yếu tố quan trọng để quyết định sự thành công cho cuốn tiểu thuyết này của Keigo, đó là: Giới thiệu nhóm các ông bố bà mẹ có cùng ước mơ cho con vào học trường chuyên lớp chọn để con cái sau này đều có một tương lai xán lạn và sự kết nối thầm kín giữa họ – Chính hai yếu tố này là động cơ và là sự lý giải phù hợp cho sự phát triển hành động, suy nghĩ của nhân vật Namikishi Yunsuke xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Sự tài tình của Keigo không chỉ dừng lại ở việc tạo ra một vụ án hay tình tiết ly kỳ, mà còn là sự giằng xé tâm can độc giả. Họ sẽ không tìm thấy câu trả lời cho những câu hỏi chính Keigo đã đặt ra, cũng không tìm thấy sự phán xét cá nhân cách xử lý vấn đề của nhân vật là đúng hay sai từ Keigo. Thứ đọng lại trong lòng độc giả khi gấp lại cuốn sách là sự thấu hiểu mọi đắng cay ngọt bùi mà các nhân vật đã phải trải qua. Tất cả đều được Keigo sắp xếp tài tình, tròn trịa chỉ với bốn chương sách và chắc chắn ông đã giữ chân được độc giả của mình ở lại để đồng hành cùng “Vụ án mạng bên hồ” cho đến những trang cuối cùng. Một cuốn sách đậm tính thời sự Tính thời sự trong tác phẩm đáng bàn nhất có lẽ là việc các bậc phụ huynh sẵn sàng hy sinh tất cả mọi thứ để con mình có thể đỗ vào trường chuyên lớp chọn.  Higashino Keigo một lần nữa khẳng định tài năng đầy sáng tạo với những cốt truyện mới lạ, táo bạo khi lựa chọn một vấn đề tưởng chừng như quá thân thuộc với độc giả và khó để có thể khai thác thêm. Trong “Vụ án mạng bên hồ”, Keigo khai thác triệt để ranh giới khó phân biệt giữa tình thương và sự áp đặt. Bậc làm cha làm mẹ nào cũng hy vọng một tương lai tươi sáng, một cuộc sống ổn định cho con cái mình sau này. Ấp ủ mong muốn này, ở Nhật Bản nói riêng hay các nước phương Đông nói chung ngay từ nhỏ các bậc cha mẹ đều hướng con mình học trường chuyên lớp chọn với những cuộc đua khốc liệt và căng thẳng như “chọi gà’’. Cuối cùng, trên tất cả, phần thưởng cao nhất được vẽ ra trong thời niên thiếu: đỗ vào trường trung học nổi tiếng. Cuộc đua vào trường trung học phổ thông không phải là xem học sinh nào giỏi hơn, mà là so ví tiền của cha mẹ nào dày hơn, sự bất chấp vượt qua mọi rào cản của ai lớn hơn để con có điều kiện đi học chỗ tốt hơn. Ta tự hỏi bọn trẻ làm sao khác đi được, khi chúng đã được dưỡng dục cẩn thận như thế, được tuyển lựa khắt khe qua vòng này vòng kia và được gọt giũa kỹ lưỡng về mặt tư duy? Bọn trẻ sẽ làm bất cứ việc gì người khác yêu cầu, đạp đổ mọi chướng ngại vật để đạt được điều mà chúng tin là đúng. Qua đó, tác phẩm đã thể hiện một góc nhìn về những lý lẽ của các bậc phụ huynh để bắt con cái sống theo kỳ vọng ích kỷ của bản thân đã vô tình khiến những đứa trẻ bị huỷ hoại ngay từ khi còn nhỏ và có lẽ sẽ khó có khả năng nhận ra mình sai khi mắc lỗi. Kết: “Vụ án mạng bên hồ” của Higashino Keigo là một câu chuyện thiên về tâm lý và khiến độc giả phải theo dõi những biến hoá trong từng câu thoại của mỗi nhân vật. Hãy đến với tác phẩm để bạn có thể tự cảm nhận mọi xúc cảm của bản thân khi hòa mình vào câu chuyện của các nhân vật. Để tự vấn chính mình đâu là ranh giới của sự yêu thương bao bọc? Khi ta làm cha làm mẹ sẽ yêu thương con mình như thế nào cho “đúng cách”? ** Trước hết, hãy cứ phải nói rằng tôi là một người đọc đặc biệt không thích trinh thám. Số truyện tôi đọc về thể loại này tính đến hiện tại chắc cũng chỉ xoay quanh đâu đó số 10. Lý do thứ nhất khiến tôi không đọc trinh thám là vì não tôi nhảy số chậm, tôi chẳng bao giờ đoán ra được hung thủ là ai. Lý do thứ 2 là vì đã là trinh thám thì chắc chắn sẽ có kẻ thủ ác, mà đã có điều ác luôn khiến tôi sợ hãi. Tôi sợ không chỉ là hành động tội ác mà hơn hết, là những gì ẩn sâu bên trong lòng người. Thế giới này vốn đã quá phức tạp rồi. Thực cũng khá lâu rồi tôi không đọc truyện của Higashino Keigo. Biết đến tác giả từ Điều kỳ diệu của tiệm tạp hóa Namiya, tôi hoàn toàn bị thuyết phục vì những câu chuyện được ghép lại rất mượt và tinh tế. Đến Bạch dạ hành thì Keigo đã trở thành cái tên không thể bỏ qua đối với những người đọc say mê những câu chuyện tâm lý. Thế nhưng trong rất nhiều fan trinh thám thích thú với những tác phẩm của Higashino Keigo thì thật tiếc là tôi lại không thấy có gì đặc sắc cho lắm. Sau Hoa mộng ảo có cái kết khá kì cục, tôi quyết định thử lại một lần nữa với trinh thám của Keigo. Liệu Vụ án mạng bên hồ đây có phải tác phẩm khiến tôi quay đầu hay không? Vụ án mạng bên hồ của Higashino Keigo có nội dung xoay quanh 4 gia đình cho con tập trung ở khu vực xa thành phố để ôn thi. Vụ án không được kể dưới con mắt của người điều tra thông thường mà được tác giả đi ngay vào đối tượng thực hiện và những hoạt động xử lý sau đó. Từ đầu đến cuối câu chuyện là những nút thắt được buộc, được gỡ và qua vô số những sự bất thường của những nhân vật trong truyện, tôi cũng không bất ngờ với cái kết. Cái kết của Vụ án mạng bên hồ có thể chỉ là bắt đầu cho một câu chuyện khắc nghiệt hơn nhiều chờ đợi ở phía sau. Trong Vụ án mạng bên hồ, Higashino Keigo không khiến tôi bất ngời bằng những cú twist mà ở các nhân vật ông tạo nên. Những kẻ, vì lý do nào đó, vừa thực hiện hành vi liên quan đến tội ác giết người nhưng vẫn còn nhớ là ở đây (trong biệt thự) hình như không cho hút thuốc hay ngủ ở sofa không tốt. Người ta có suy nghĩ rằng, ngoại tình như một chất bôi trơn để tận hưởng cuộc sống. Khi đọc đến những chi tiết này, tôi đều khựng lại để thử nghĩ xem rốt cuộc mình đang đọc thứ gì. Thế nhưng, xét cho cùng thì sự suy đồi về nhân cách, về lối sống không chỉ có ở đất nước cách chúng ta 6 giờ bay. Tuy câu chuyện với thời lượng chủ yếu là nói về người lớn nhưng trọng tâm của họ lại xoay quanh những đứa trẻ. Những lý lẽ của họ luôn dựa trên cái trục là tốt cho con của mình. Fujima đã khiến tôi nghĩ “Ồ, có lẽ mình cũng được xếp vào kiểu phụ huynh đúng chuẩn (bình thường) khi luôn nghĩ bọn trẻ có quyền tự do với quyền lựa chọn của chúng”. Tôi ngẫm nghĩ và thấy anh ta nói cũng không quá sai. Thế nhưng, đến cùng thì những bậc cha mẹ cũng chỉ là những kẻ biện minh quá lỗi thời khi dùng những lý lẽ cũ rích để bắt con sống theo kỳ vọng ích kỷ của bản thân. Họ đã vô tình khiến những đứa trẻ bị huỷ hoại ngay từ khi còn nhỏ và có lẽ sẽ không bao giờ nhận ra mình có lỗi. Trong cả câu chuyện này, tôi thương những đứa trẻ thật sự. Vụ án mạng bên hồ của Higashino Keigo vẫn là câu chuyện thiên về tâm lý và khiến độc giả phải theo dõi những biến hoá trong từng biểu cảm của nhân vật. Sách khá mỏng và dễ đọc. Một câu chuyện có nhiều điều để suy ngẫm. Lá Xanh *** Đám mây trôi lơ lửng trên bầu trời trước mắt, trông như một vết bẩn bị vạch trên nền trời. Những mảng màu xanh tươi len lỏi giữa đám mây. Namikishi Yunsuke buông bàn tay trái khỏi vô-lăng, đưa lên bóp vai phải, rồi lại đổi tay cầm vô-lăng, bóp vai trái. Sau cùng anh lắc đầu sang hai bên, tạo ra những tiếng lục khục. Trên làn xe bên phải của đường cao tốc Chuo, chiếc Cima anh lái đang chạy quá hai mươi kilomet so với tốc độ quy định. Radio trên xe ra rả nhắc đến những cung đường bị tắc do dòng người đổ về quê dịp lễ hội Obon. Có vẻ năm nay tình trạng ùn xe đỡ hơn mọi năm. Chiếc xe xuống hết đường cao tốc, băng qua trạm thu phí, anh lấy điện thoại ra. Rồi anh tìm một số điện thoại lưu trên máy trong lúc dừng xe chờ đèn đỏ. Số điện thoại ấy được lưu dưới cái tên “ET”. Anh bấm gọi, nhưng đầu dây bên kia để chế độ trả lời tự động. Anh tặc lưỡi, đành cất điện thoại vào trong túi quần. Theo hướng dẫn trên màn hình chỉ đường, chiếc xe cứ thế mải miết chạy một hồi lâu. Chẳng mấy chốc sau đó, nó đã len vào một con đường nằm lọt thỏm giữa rừng cây. Con đường vẽ ra những đường cong mềm mại; ở những đoạn quang đãng, hai bên vệ đường lại mọc lên bảo tàng hay quán ăn nhỏ như thể thế chỗ của cây cối. Những căn nhà đó đều khoác lên mình dáng vẻ sang trọng theo phong cách của một đất nước xa lạ nào đó. Tấm biển báo cho biết khu biệt thự hồ Himegami còn cách bao nhiêu cây số hiện ra trước mắt. Trông thấy nó, Yunsuke bất giác thở dài. Con số thể hiện khoảng cách trên tấm biển đã giảm dần. Đến tấm biển cuối cùng với hàng chữ “Khu biệt thự hồ Himegami—rẽ trái ở đây”, anh xoay vô-lăng. Chiếc Cima màu xanh tím than rẽ vào con đường nhỏ bao quanh bởi rừng cây rậm rạp. Những con đường hẹp trong khuôn viên khu biệt thự nối nhau chạy dài như mê cung. Các căn biệt thự không nằm san sát nhau thành từng cụm, mà rải rác như tô điểm cho khu rừng sâu. Bên rìa con đường là một bãi đất trống. Ba chiếc xe ô tô đỗ sát nhau ở đó: một chiếc xe Mercedes-Benz màu xám bạc, một chiếc BMW màu tím than và một xe Wagon màu đỏ. Cả ba xe đều quay đèn hậu về phía mặt đường. Yunsuke cũng đỗ xe vào bãi đất đó, tay cầm túi và áo jacket màu trắng, bước ra ngoài xe. Anh đóng cửa, rồi mặc áo. Ngay bên cạnh bãi đất trống có một cái cầu thang dẫn xuống phía dưới. Một tòa biệt thự màu nâu cháy nằm phía trước cầu thang. Khu rừng trải rộng bao quanh khiến ngôi biệt thự đó trông như thể ngập chìm trong biển cả màu xanh lục. Yunsuke toan bước xuống cái cầu thang trông như thể mấy tảng đá lớn được ghép đại lại, chợt có tiếng phụ nữ loáng thoáng vọng đến tai. Theo phản xạ, anh quay mặt nhìn về hướng giọng nói phát ra, một cái sân tennis xuất hiện trong tầm mắt. Yunsuke chậm rãi đi về phía cái sân tennis đó. Bốn người cả nam và nữ đang ở bên trong khoảng sân chăng lưới thép. Họ đang hăng say chơi bóng hai chọi hai, hay còn gọi là đánh đôi nam nữ. Anh đứng ở gần lưới thép, tháo kính râm. Một người đàn ông và một người phụ nữ đứng cạnh nhau, quay lưng về phía anh. Đội bên kia chuẩn bị phát bóng, người phụ nữ mảnh dẻ đứng ở đầu sân bên kia vung vợt lên vào tư thế chuẩn bị. Cô toan tung quả bóng thì nhìn thấy Yunsuke, liền lập tức dừng lại. Thấy cô dừng tay, ba người còn lại không ai bảo ai đồng loạt hướng mắt nhìn về phía anh. “Tôi xin phép một chút.” Cô nói với những người kia, tay cầm vợt và bóng, vòng ra ngoài sân tennis, đi về phía Yunsuke. Hai người đứng đối diện nhau qua tấm lưới thép. “Anh đến sớm hơn em nghĩ.” Cô thở hổn hển. “Anh xong việc sớm.” Ba người kia cũng đi về phía này. “Chồng cô à?” Người phụ nữ vóc người nhỏ nhắn hỏi. Gương mặt cô ta tròn xoe, trang điểm đậm. “Vâng.” Người phụ nữ mảnh khảnh khẽ gật đầu. “Tôi là Namikishi.” Yunsuke cúi đầu. “Cảm ơn mọi người luôn giúp đỡ Minako và Shota nhà tôi.” “Anh đừng khách sáo, chúng tôi giúp đỡ lẫn nhau mà.” Người đàn ông áng chừng trên dưới năm mươi tuổi nói. Anh ta đeo trên đầu một món đồ màu trắng nổi bật. Cái băng-đô giữ cho chiếc kính màu xanh vàng không bị tuột ra. “Tôi là Fujima. Còn đây là vợ tôi, Kazue.” “Chào cô.” Yunsuke cúi đầu chào. “Đây là anh Sakazaki. Sakazaki Yotaro.” “Tôi là Sakazaki.” Người đàn ông đánh cặp với Minako ban nãy chào hỏi anh. Anh ta khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, theo ước đoán của Yunsuke. Gương mặt rắn rỏi ngự trên thân hình săn chắc. Sakazaki quay sang Fujima. “Anh Namikishi cũng đến đây rồi, chúng ta ngừng chơi thôi nhỉ. Với lại cần sửa soạn cho bữa tối nay nữa.” “Anh nói phải. Để cho mọi người có thời gian tắm táp.” Fujima nói với vợ mình. “Em thì cần nằm ngả lưng một chút.” “Em không biết lượng sức gì cả, có tuổi rồi mà còn thế. Đáng lẽ không nên chơi đấu đôi.” “Nhưng cũng vui mà.” Kazue nhìn sang Minako, ánh mắt như mong mỏi sự đồng tình của cô. Minako gật đầu hưởng ứng. Sakazaki ở bên cạnh dọn đồ, nhưng không quên buông lời khen ngợi. “Vợ anh tiến bộ nhiều đấy. Động tác của cô ấy hoàn toàn khác trước đây.” “À, thế ư? Vậy là tôi có thể tự tin thêm một chút rồi.” “Thôi đi Sakazaki, cô ấy mà lên mặt thì phiền cho tôi đấy.” Sakazaki và Minako bật cười. Yunsuke đứng ở ngoài sân tennis, mắt nhìn xuống chân mình. Mời các bạn đón đọc Vụ Án Mạng Bên Hồ của tác giả Higashino Keigo & Nguyễn Phương Chi (dịch).
Đại Đường Phạm Thiên Ký
“Từ Hà Bắc tới Trường An, trên những trục đường cổ, đao hỏng kích gãy và hài cốt nằm rải rác khắp nơi. Thi thoảng còn xuất hiện chó hoang tha xương người chạy dọc ven đường, nhe nanh trợn tròn cặp mắt đỏ au. Đôi khi chúng bám theo cả những người đi đường, răng nghiến ken két. Đưa mắt nhìn quanh chỉ thấy thôn xóm hoang tàn, cỏ dại mọc tràn lan, cùng vài vết máu khô bám trên những vách tường đổ nát thê lương trong gió.”  “Tiếng đàn văn vẳng, trong núi như có người chết sống lại, lấy da người làm trống, lấy xương người làm dùi, gõ nhịp trống thần bí xa xăm. Lại có lân quang từ hài cốt hóa thành lửa ma trơi lấp lánh, múa lượn dưới ánh trăng.” *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** [Review] 81 án Tây Du – Đại Đường Phạm Thiên Kí DECEMBER 29, 2019 HA LAM Tên: 81 án Tây Du – Đại Đường Phạm Thiên ký. Tác giả: Trần Tiệm. Thể loại: trinh thám Đây là quyển thứ ba trong chuỗi “81 án Tây Du” của tác giả Trần Tiệm. Trong tập này, Đường Tăng khi ấy đã trải qua mười hai năm học tập ở chùa Na Lan Đà, trở thành một đại tăng đức cao vọng trọng ở Tây Vực. Những vụ án cuốn ngài vào lần này còn rắc rối hơn cả trước đây, liên quan tới sự tồn vong của nhiều quốc gia ở cả Tây Vực và Đại Đường. Đọc hết cuốn sách, mình mở lại trang đầu để tìm lại một số thông tin, bỗng cảm thấy như vừa trải qua một kiếp người, thật thật ảo ảo, mộng tưởng và hồi ức đan xen vào nhau. Như Đường Tăng nói với Giới Nhật Vương: “Thưa bệ hạ, bần tăng không bao giờ so sánh thật với giả”. “Sao?”, Giới Nhật Vương hỏi: “Vậy nên so sánh thật với thứ gì?”. “Ảo!” Huyền Trang nói: “Phật gia nói thật chính là không điên đảo, không hư vọng, không thể bàn cãi, chí lí vĩnh hằng. Nhưng vĩnh hằng này trên thực tế cũng nằm trong sinh diệt vô thường, vạn vật như bong bóng. Đó chính là ảo. Thật và ảo là sự khác nhau của các tầng lớp sinh mệnh. Bệ hạ hãy xem tổ kiến dưới gốc cây sa la kia”. Giới Nhật Vương nhìn lại, bên cạnh sân khấu kịch, dưới gốc cây sa la quả nhiên có một tổ kiến. “Kiến chúa ngồi trên vương toạ nhìn kiến thợ trong vương quốc vất vả bận rộn nuôi dưỡng nó, nó đương nhiên cho rằng đây là chân thật chứ không phải hư ảo” Huyền Trang cười nói: “Nếu có ngày nó luân hồi vãng sinh thành người, đứng dưới gốc cây nhìn tổ kiến này, nhìn kiến chúa trên vương toạ và nhớ lại kiếp trước, vậy đó là chân tướng hay là ảo giác?” Quyển sách thứ ba này không làm mình thất vọng. Với lối kế chuyện mang đầy Phật pháp như hai quyển đầu, cùng màu sắc li kì hoang đường nhưng được lí giải cặn kẽ, tác giả đã nói về sự sống và cái chết, tình yêu và sự luân hồi nghiệp quả kiếp trước kiếp này một cách thuần thục tài tình. Một điểm mình nhận thấy ở ba quyển là quyển nào cũng có tình yêu chân thành sâu sắc đến chết đi sống lại giữa đôi trai tài gái sắc nhưng bị chia tách. Ờm, chỉ là điều mình nhận thấy thôi, không có ý gì khác hết.
Tây Vực Liệt Vương Ký
“Gia Tư Đinh trước khi chết nói với Huyền Trang rằng: “Trong bình có quỷ…” Ấy vậy mà lại có ma quỷ thật. Con quỷ trong chiếc bình nhìn thấu dục vọng của chúng sinh, khuấy đảo cả một vùng Tây Vực vốn đã bất ổn nay lại càng hỗn loạn hơn. Chiếc bình của vua Đại Vệ đi đến đâu, nơi đó máu chảy nhuộm đỏ sa mạc, ánh nắng mặt trời không thể chiếu rọi. Nhưng ma quỷ có thần thông quảng đại đến mức một tay che kín cả bầu trời…” *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** Reviewer: Điền Yên —– Tập 2 này hay không thua gì tập 1, các câu chuyện lồng ghép vào nhau, khi ta vừa tưởng đây là kẻ chủ mưu thì lại lòi ra một boss khác to hơn. Bối cảnh của truyện là phần sau của tập 1 nhưng không đọc tập 1 mà bay vào tập 2 cũng không quá mức lạ lẫm. Sau khi phá vỡ một âm mưu tày đình nhắm vào hoàng đế Trung Hoa thì Huyền Trang lại tiếp tục đường Tây Du, và lần này thì nâng level lên phá án xuyên quốc gia. Ở Tây Vực lưu truyền câu chuyện về Chiếc bình của vua Đại Vệ, giống như thần đèn, hắn cho ngươi 3 điều ước, sau khi điều ước số 3 hoàn thành, ngươi phải trả tự do cho hắn. Chiếc bình này là vật trấn quốc của Tát San Ba Tư suốt 400 năm. Có chiếc bình trong tay, không kẻ thù nào xâm phạm được vương quốc. Bởi vì quốc vương không bao giờ ước đủ 3 điều, cứ xong điều 2 thì truyền cho kế hoàng đế, cứ như thế lừa gạt, lợi dụng chiếc bình để duy trì thái bình thịnh trị. Nhưng sức hút của chiếc bình quá lớn, ai mà chẳng ôm ấp những khát vọng khó thành, bỗng nhiên xuất hiện một vị thần có thể biến chúng thành hiện thực, ngay đến người thiền tâm trấn định như Huyền Trang cũng không khói có chút lung lay, đừng nói những người dã tâm sâu nặng. Chính vì thế, chiếc bình trở thành vật bị tranh đoạt khắp Tây Vực. Nhưng thực tế hơn cả chiếc bình, đó là Con đường Tơ Lụa, các quốc gia nhỏ đều phải dựa vào con đường này mà tồn tại, chỉ cần tuyến đường thay đổi là có thể dẫn đến sự hưng thịnh hay suy tàn của cả vương quốc.Nhân vật chính trong cuộc chiến giành Con đường Tơ Lụa trong Tây Vực liệt vương ký là Yên Kỳ và Cao Xương. Mối tình như Romeo và Juliette của Tam hoàng tử Cao Xương và công chúa Yên Kỳ trở thành công cụ chính trị, có điều, ở đây khác một chút. Công chúa Yên Kỳ xinh đẹp cơ trí, từ nhỏ đã biết mình nặng gánh giang san nên hoàn toàn khinh bỉ chàng hoàng tử si tình tội nghiệp không màng vương vị. Nhưng nếu có thể lợi dụng tình yêu của chàng để đạt được mục đích thì nàng không ngại diễn một vở kịch tình yêu thống thiết. Tam hoàng tử này, ban đầu tôi cực kỳ ngứa mắt vì chàng ta ngoài tình yêu với Long Sương công chúa ra thì chẳng để ý tới bất kỳ cái gì. Giang sơn xã tắc, cha mẹ huynh đệ, danh dự mặt mũi chỉ là mây bay, chàng sẵn sàng tung hê tất cả chỉ vì một nụ cười của giai nhân. Sao trên đời lại có cái loại đàn ông bạc nhược ngu xuẩn thế không biết?! Long Sương Nguyệt Chi nghĩ thế, tôi đồng tình với nàng, cả thiên hạ không ai nghĩ khác, trừ Chu công công – người chăm sóc cho hoàng tử từ nhỏ. Trong mắt ông, chàng là người thông tuệ nhất. Mãi khi đọc đến cuối truyện tôi mới nhận ra Chu công công đã đúng. Không phải chàng là boss cuối, toàn bộ câu chuyện đều là mưu kế của chàng như tôi đã đoán mò ban đầu mà tận đến phút cuối cùng, Khúc Trí Thịnh vẫn là 1 người chỉ đặt Long Sương Nguyệt Chi làm mục tiêu tối thượng. Đó chính là điểm cao minh của chàng, biết rõ mình muốn gì, luôn một mực bám đuổi mục đích, không hề suy chuyển, bất chấp thế nhân, nhưng về sau, trên con đường Tây Du với Huyền Trang, chàng đã học được nhiều điều, biết buông bỏ mà không từ bỏ.Thực ra, gây ấn tượng sâu sắc nhất với tôi trong bộ truyện này là hai câu chuyện. Câu chuyện thứ nhất có thể viết thành một bộ ngôn tình. Khi đọc lịch sử, tôi luôn suy nghĩ về số phận của các nàng công chúa hòa thân – những cô gái chân yếu tay mềm gánh trọng trách của cả dân tộc, phải phát triển duy trì mối quan hệ giữa 2 quốc gia, phải đóng vai trò gián điệp công khai. Các nàng có khác gì chất tử, là con tin đưa đến dị quốc, quan hệ hai nước tốt đẹp thì nàng được tử tế, bằng không, sự khó khăn mà các nàng phải đối mặt thật khó tưởng tượng nối. Nếu quốc gia của nàng bị diệt vong, nàng chỉ là con bài vứt đi. Chết không chết được vì còn phải gánh trách nhiệm với lưu dân sống sót, sống cũng không xong, nhất là khi trượng phu của nàng là một kẻ khốn nạn. Vũ Văn Ngọc Ba là công chúa thời Tùy Mạt, sang Cao Xương hòa thân. Năm đầu tiên, phu thê ân ái, nhưng sang năm tiếp theo, nhà Tùy sụp đổ, vương triều Cao Xương bị đảo chính, nàng cùng hoàng tộc Cao Xương phải nương nhờ Đột Quyết. Một nàng công chúa vong quốc như nàng thì còn có tác dụng gì ngoài nhan sắc? Chồng nàng đẩy nàng lên giường quý tộc Đột Quyết, cố giành chút lợi ích. 6 năm lưu lạc là 6 năm nàng chịu đủ khuất nhục, đến khi giành lại được vương quyền, hắn vẫn phong nàng làm vương phi nhưng đêm đêm hàng hạ tra tấn nàng, khiến toàn thân nàng đầy vết thương thê thảm, khiến tâm hồn nàng chết tàn chết lụi. Nhưng nàng không dám tự sát vì con dân nàng vẫn còn sống, vì nàng tìm được một người yêu nàng. Người ấy vì nàng mà ủ mưu mười mấy năm, chỉ cần hắn lên ngôi, nàng sẽ là vương phi của hắn. Nhưng cả nàng và hắn lại đều chỉ là quân cờ trong một ván cờ của người khác. Người này cũng vì oán hận mà âm thầm lập kế 20 năm, không ngại hủy hoại ngàn vạn người. Trí tuệ của y thật khó lòng đo đếm được. Rốt cuộc, Ngọc Ba – nàng công chúa hòa thân của vong quốc vẫn không thể đến được với người mình thương. “Nhà gả ta tới phương trời xa, tới vùng dị quốc vua Ô Tôn cai trị. Lều vải thay nhà, tường là chăn dạ, lấy thịt thay cơm, sữa dùng thay nước. Ở nơi này thường đau lòng tưởng nhớ, muốn làm cánh hạc tìm về lại cố hương.” Và câu chuyện thứ hai khiến tôi nhớ đến Bạch Dạ Hành, dù người ấy đang ở dưới ánh mặt trời chói lọi vẫn như bước đi trong bóng tối u ám vĩnh hằng. Câu chuyện này, nếu tôi kể ra thì sẽ lộ hết bí mật. Huyền Trang là mắt xích kết nối tất cả những câu chuyện này. Là Phật tử nhưng dường như ngài theo chủ nghĩa duy vật, ngay từ đầu đã không tin ma quỷ, không tin chiếc bình kia thực sự có thần yêu trấn yểm mà đã dự đoán có người bày ra mưu ma chước quỷ hòng xáo động lòng người. Ngài làm mọi kế hoạch thay đổi, là người chứng kiến nỗi bi thương, lòng tham hận của con người, ý chí tới Thiên Trúc thỉnh kinh của ngài càng thêm sắt đá. Bằng lòng nhân từ và trí thông minh của mình, ngài đã phá giải bí mật lưu truyền hơn 400 năm về Chiếc bình của vua Đại Vệ. Nhưng dù sao, ngài cũng chỉ là một cá nhân nhỏ nhoi trong dòng chảy lịch sử, bánh xe số phận không vì ngài chặn mà dừng lại. Người phải chết vẫn chết, người không phải chết cũng chết. Hành sự tại nhân, thành sự tại thiên, người tính không bằng trời tính, tưởng đã xong hết rồi mới đau đớn nhận ra bao công lao khổ cực của mình bấy lâu chỉ đổ ra sông ra biển, toàn bộ kế hoạch đã hỏng ngay từ bước đầu tiên. Văn phong tác giả vẫn như tập 1, viết rất chắc tay, tìm hiểu kỹ càng lịch sử, lồng những chi tiết có thật vào tác phẩm tưởng tượng của mình. Lời văn vừa gay cấn vừa hóm hỉnh. Ví dụ như đoạn Huyền Trang và Khúc Trí Thịnh bị bắt, ném xuống một cái giếng hoang: “- Sư phụ, đệ tử sợ chết. – Khúc Trí Thịnh thành thật nói – người dùng Phật pháp khuyên răn đệ tử đi. – Bần tăng không có cách nào dùng Phật pháp để khuyên răn con, – Huyền Trang tiếp tục ngáp. – Tại sao? – Khúc Trí Thịnh buồn bực. – Bởi vì… – Huyền Trang duỗi chân ra cho hỏi mái một chút, nước tron giếng ào ào vang lên, – trong lòng bần tăng đang niệm A Di Đà Phật, khi sợ chết, ta lập tức nghĩ rằng có lẽ sau khi chết rồi vừa nhắm mắt lại liền có thể nhìn thấy Phật. Như vậy bản thân lại cảm thấy vui vẻ. Nhưng con thì sao? Trong lòng con chỉ nhớ đên Long Sương Nguyệt Chi, nếu vừa nhắm mắt mà lại nhìn thấy Phật A Di Đà, con chắc là không thấy vui vẻ đâu.” Dịch giả của tập 2 này cũng rất tốt. Truyện có khoảng hơn chục lỗi chính tả và ngữ pháp. Giá bìa 186K nhưng với lượng trang sách này thì giá đó là xứng đáng. Sách nặng 850g, nằm đọc chỉ sợ rơi vào mặt thì lại được lý do chính đáng đi làm lại mũi. Cùng một hình vẽ, màu cát rất hợp với cái tên truyện vì vùng Tây Vực luôn làm tôi nghĩ đến gió, cát và sa mạc. Truyện hay, đáng đọc. Vô cùng ngóng chờ tập 3 và các tác phẩm khác của Trần Tiệm, Dang Thi Quynh Anh *** Công Nguyên năm 628, Đại Đường năm Trinh Quán thứ hai. Mùa xuân tháng Hai. Tại lưu vực Lưỡng Hà cách Trường An một vạn bốn nghìn dặm, đế quốc Tát San Ba Tư[1] (Sassan) đã tồn tại được bốn trăm năm, đúng vào năm trị vì thứ ba mươi tám của vị hoàng đế vĩ đại cuối cùng - Khố Tư Lỗ đệ nhị[2] (Khosrow II). Khố Tư Lỗ đệ nhị đã già yếu và sa đọa. Ba mươi tám năm trước, sau khi phế vị rồi giết chết phụ vương mình, ông ta đã dành hai mươi năm để càn quét Bái Chiêm Đình[3] (Đế quốc Đông La Mã/Byzantium), chinh phục Tiểu Á Tế Á[4] (Anatolia), cướp sạch Tự Lợi Á (Syria), chiếm đóng An Điều Khắc[5] (Antiochia), Đại Mã Sĩ Cách[6] (Damascus), Gia Lộ Tát Lãnh[7] (Jerusalem) và toàn bộ Ai Cập[8], thánh vật của Bái Chiêm Đình - cây thập giá hành quyết Chúa Gia Tô (Chúa Jesus) - cũng trở thành chiến lợi phẩm cho ông ta tùy ý đem ra khoe mẽ, trưng giễu trên đường diễu binh, dưới sự trị vì của ông ta Tát San Ba Tư đã chuyển biến, đạt đến đỉnh điểm của sự huy hoàng. Sau đó, chỉ mất vỏn vẹn có hai năm để Khố Tư Lỗ đệ nhị đưa đế chế của mình từ đỉnh cao huy hoàng trượt dài xuống đáy sâu trụy lạc. Vị hoàng đế xấu xa của Bái Chiêm Đình là Hi Lạp Khắc Lược[9](Heraclius) và người Đột Quyết bí mật câu kết với nhau, chia làm hai cánh quân, từ hai mặt trận phía đông và tây đánh úp vào, đại quân của Hi Lạp Khắc Lược thế như chẻ tre, đánh thẳng từ Tiểu Á Tế Á tới Thái Tây Phong[10] (Ctesiphon). Trong thủ phủ của đế quốc, nơi nơi đều là những quý tộc ấp ủ tham vọng riêng, là những vị tướng quân cao ngạo không chịu tuân phục hoàn toàn, là những người dân thường đang chờ đợi thời cơ tạo phản và đám nhi tử lòng dạ hiểm ác khó lường. Ánh mặt trời chiếu rọi lên cung điện Thái Tây Phong, hương liệu an thần được đốt trong lư hương bằng ngọc lưu ly tỏa ra làn khói xanh nhàn nhạt, hòa trong ánh mặt trời, chờn vờn giữa tẩm cung nguy nga lộng lẫy. Khố Tư Lỗ đệ nhị mệt mỏi tỉnh dậy, nhưng xem chừng không muốn mở mắt ra. Hai năm nay lão hoàng đế mắc phải bệnh kiết lị, tháo dạ nghiêm trọng khiến sức khỏe suy sụp hẳn, cũng khiến cho tính tình càng trở nên cáu kỉnh, nóng nảy. Trong suy nghĩ, Khố Tư Lỗ đệ nhị hoài niệm đến hành cung Hải Nhĩ Vượng[11] (Dastgerd), nơi đó khiến ông ta nhớ đến những ngày tháng ở cùng với ái phi Hi Lâm[12] (Shirin). Ông ta vì nàng mà cho xây dựng cung điện Tháp Cách Địch Tư[13] (Behistun), vòm mái điện dát vàng, nạm bạch ngọc làm thành mặt trời, mặt trăng và các vì sao, kết hợp cùng nhiều cơ quan vận hành phức tạp, để khi bọn họ nằm trên giường, có thể nhìn thấy được sự chuyển động của mặt trời và sự thay đổi của bốn mùa. Mặc dù năm nay Hi Lâm đã gần năm mươi tuổi, ông ta vẫn cho rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất trên thế gian này. Đáng tiếc, hành cung Hải Nhĩ Vượng đã bị hoàng đế Hi Lạp Khắc Lược phá hủy, lúc này gã vẫn đang nán lại ở ngoài thành Thái Tây Phong chưa muốn dời binh, chờ đợi thời cơ giáng cho Tát San Ba Tư một đòn trí mạng. Nhớ đến Hi Lâm, gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị dịu dàng hẳn, ông ta quyết định nghe theo lời khuyên nhủ của Hi Lâm, lập hài tử của nàng là Mã Nhĩ Đan Sa (Mardanshah) làm thái tử, mặc dù đứa nhỏ mới chỉ sáu tuổi. Vậy thì đã sao? Ta vẫn là vua của Tát San Ba Tư, vua của vạn vua, vua của toàn vũ trụ! Khố Tư Lỗ đệ nhị hạ quyết tâm, gắng cựa người ngồi dậy, thì bất chợt có một bàn tay xuất hiện trong làn khói hương an thần chờn vờn trước mắt, áp lên trán và dùng sức ấn cơ thể ông ta nằm xuống giường. Khố Tư Lỗ đệ nhị còn chưa kịp phản ứng, đã thấy có thêm vô số bàn tay xuất hiện trong màn khói hương, cổ, tay và chân của ông ta đều bị giữ chặt, bị đè ép trên giường thành hình chữ đại (大). Sự tình quái lạ xảy ra trong nháy mắt, dường như đang có rất nhiều người khéo léo phối hợp cùng với nhau để đối phó với ông ta, nỗi sợ hãi khôn cùng dâng trào, nhưng lão hoàng đế không nhìn thấy bóng dáng những người đó. Khố Tư Lỗ đệ nhị cố há miệng ra, muốn kêu thét lên, nhưng miệng đã bị bịt chặt lại, bọn họ dùng một cái kìm bằng đồng xanh kẹp lấy một viên trầm an thần còn cháy đỏ lửa ra khỏi lư hương rồi nhét vào miệng ông ta. Lão hoàng đế không ngừng giãy giụa, phát ra những tiếng kêu rên rỉ vì đau đớn. Nhưng chiếc kìm kia vẫn đâm sâu vào trong cổ họng của ông ta, cho đến tận khi viên trầm nóng nghẹn lại trong cổ họng mới thôi. Cơn đau xé họng cùng sự khó thở đã khiến cho Khố Tư Lỗ đệ nhị ngất lịm đi. Cũng không biết qua bao lâu, Khố Tư Lỗ đệ nhị giật mình tỉnh lại trong cơn đau co giật, ông ta thấy trưởng tử của mình là Hi Lỗ Gia[14](Shiruya) đang kính cẩn đứng bên đầu giường. Hai mắt của Khố Tư Lỗ đệ nhị trợn ngược lên, nhất thời quên cả đau đớn, vì giờ ông ta đã nhận ra Hi Lỗ Gia đang khoác trên người bộ triều phục dành cho hoàng đế, tay nắm quyền trượng, đầu đội vương miện vàng. Lão hoàng đế cảm thấy tức tối vô cùng, nhưng cổ họng lại chỉ phát ra được những tiếng ú ớ không rõ ràng, cùng cơn đau bỏng rát đến khó chịu. “Suỵt!” Hi Lỗ Gia dùng tay nhẹ nhàng áp xuống, che miệng phụ vương của mình, rồi lại chỉ ra phía ngoài cửa sổ, “người nghe đi!”. Lúc này, những âm thanh nhiễu loạn ào ạt như sóng thần ập tới từ phía ngoài cung điện, Khố Tư Lỗ đệ nhị chú tâm lắng nghe, sắc mặt của ông ta cũng dần biến đổi. Đó không phải là tiếng sóng thần ập tới, mà là tiếng reo hò của vô số người. Tiếng reo hò từ xa vọng đến gần, càng lúc càng rõ ràng, cho đến khi vang rần làm chấn động cả tầng mái của cung điện - “Hoàng đế Ca Ngõa Đức (Kavadh)!”. “Ca Ngõa Đức đệ nhị”, Hi Lỗ Gia sửa lại, “chính là con, Hi Lỗ Gia.” Khố Tư Lỗ đệ nhị nằm đờ người ra, suy sụp hoàn toàn, lão hoàng đế hiểu được rằng mình đã bị phế truất, giống như ba mươi tám năm trước, ông ta phế truất ngôi vị của phụ vương mình là Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ[15] (Hormizd IV). “Phụ vương đáng kính của con, vị vua của vạn vua Ba Tư, người có biết tại sao con lại phải thiêu cháy cổ họng của người như vậy không?” Ca Ngõa Đức đệ nhị cười khẽ, “vì con không thể để người đọc câu thần chú đó được. Cũng giống với cách người từng làm trước khi soán ngôi của tổ phụ thôi, người đã khiến tổ phụ mù cả hai mắt. Tát San Ba Tư vĩ đại có thể tồn tại được suốt bốn trăm năm nay đều dựa cả vào sự bảo hộ từ Chiếc bình của vua Đại Vệ[16] (David), nên suốt ba mươi tám năm nay, dẫu cho người có dốc hết binh lực đi gây chiến, xa hoa lãng phí, hoang dâm vô đạo, cũng không có ai dám chống đối người cả. Ma lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ khiến cho vạn quốc khiếp sợ, đến Bái Chiêm Đình cường đại là thế cũng phải run sợ dưới ánh hào quang chói lọi của nó, để mặc cho quân đội của người giày xéo. Vậy tại sao chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi, sức mạnh của đế quốc chúng ta lại suy giảm, phải run sợ trước lưỡi đao của quân đội Bái Chiêm Đình và người Đột Quyết? Lẽ nào câu thần chú của người đã hết tác dụng rồi sao?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị nhắm mắt lại. “Nói cho con biết đi, phụ vương vĩ đại!” Ca Ngõa Đức đệ nhị lôi ra một tờ giấy đay của phương đông đã được cắt vuông vức, đặt trước ngực của Khố Tư Lỗ đệ nhị, rồi đưa cho ông ta một cây bút lông ngỗng, “Chiếc bình của vua Đại Vệ đang ở đâu? Con muốn là chủ nhân mới của nó và lại có được ba điều ước toàn năng. Con sẽ dẫn dắt Tát San Ba Tư đạt tới đỉnh cao huy hoàng thêm lần nữa, kiến lập nên một đế quốc hùng mạnh trước nay chưa từng có”. Trên gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị bỗng hiện lên một nụ cười lạnh lẽo, lão hoàng đế hất tay viết lên tờ giấy đay: "Chiếc bình của vua Đại Vệđã rời khỏi Ba Tư. Ngươi sẽ không bao giờ có được nó”. “Nó ở đâu?” Ca Ngõa Đức đệ nhị chết sững rồi đột nhiên nổi giận đùng đùng, “nói cho con biết, nó ở đâu?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị bật cười ha hả rồi viết lên tờ giấy: “Quê hương của tờ giấy này”. “Quê hương của tờ giấy này ư?” Ca Ngõa Đức đệ nhị suy nghĩ một lúc, hắn biết rằng tờ giấy này có xuất xứ từ Đại Đường ở phương đông, là giấy đay Ích Châu ngự dụng của cung đình Đại Đường, do đám người Túc Đặc[17] (Sogdiana) tham tài háo lợi kia đã liều mình vượt qua Con đường Tơ lụa dài hơn một vạn dặm để vận chuyển tới Ba Tư. “Không… không…” Ca Ngõa Đức đệ nhị khó mà tin được, “Đây là bảo vật trấn quốc của Tát San Ba Tư ta, đã truyền thừa suốt bốn trăm năm nay, sao người có thể đưa nó đến tận Đại Đường cách đây hơn vạn dặm được?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị tiếp tục viết: “Mưu lược của bậc đế vương, ngươi không hiểu đâu. Một năm sau, khi Chiếc bình của vua Đại Vệ đến được hoàng cung Đại Đường, cục diện thế giới này sẽ chao đảo, Tát San Ba Tư sẽ lại được trùng sinh. Còn ngươi, nhi tử của ta, cả đời này ngươi sẽ luôn phải sống dưới cái bóng của ta, bị oai danh huy hoàng của ta che lấp”. “Không!” Ca Ngõa Đức đệ nhị gào thét tuyệt vọng, hai tay bóp chặt lấy cổ của Khố Tư Lỗ đệ nhị, vẻ mặt dữ tợn, cơ bắp co giật: “Người đã hủy hoại cơ đồ vương nghiệp của con, con sẽ ban cho người chút tôn nghiêm cuối cùng của bậc đế vương, để người chết sạch sẽ, không có đổ máu!”. Cổ họng của Khố Tư Lỗ đệ nhị run lên, phát ra những thanh âm ọ ọe, trước mắt tối sầm, nhưng nét mặt của ông ta lại tựa như đang cười, trong nụ cười ấy hàm chứa cả những giọt nước mắt. Mời các bạn đón đọc Tây Vực Liệt Vương Ký của tác giả Trần Tiệm & Lucia Nanami (dịch).