Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kho Báu Bị Nguyền Rủa

Cuốn sách mới nhất của ông hoàng trinh thám Pháp Michel Bussi. Một loạt các quan chức cao cấp của hiệp hội chuyên trợ giúp người nhập cư bị sát hại giữa khung cảnh được bài trí như trong Nghìn lẻ một đêm. Mọi nghi ngờ đổ dồn về một cô gái gốc Mali quyến rũ dường như đang che giấu một bí mật khủng khiếp. Bussi - một lần nữa lại giăng ra vô số cái bẫy, khiến độc giả không ngừng nghi vấn, không ngừng suy đoán cho đến trang sách cuối cùng, để rồi bị choáng ngợp. -------------- Giới thiệu tác giả: Michel Bussi sinh ngày 29 tháng Tư năm 1965 tại Normandie. Ông là nhà văn, nhà chính trị học, giáo sư địa lý tại đại học Rouen và được biết đến chủ yếu với những cuốn tiểu thuyết trinh thám. Theo tạp chí Le Figaro, ông đứng thứ hai trong danh sách nhà văn Pháp có tác phẩm bán chạy nhất năm 2018, với 975.800 bản. Các tác phẩm của Michel Bussi đã được dịch sang 34 thứ tiếng, một số được chuyển thể thành phim điện ảnh và phim truyền hình. *** Là cuốn sách thứ năm của Michel Bussi được xuất bản ở Việt Nam, "Kho báu bị nguyền rủa" đề cập câu chuyện nhập cư với góc nhìn trinh thám. Cuốn sách Kho báu bị nguyền rủa của nhà văn trinh thám Michel Bussi đem đến cho độc giả câu chuyện nhiều bi thương về phận nhập cư. Câu chuyện dài nghìn lẻ một đêm Cuốn sách mở ra bằng cái chết của các quan chức cấp cao nằm trong hiệp hội giúp đỡ người nhập cư. Loạt xác chết được phát hiện trong những khách sạn được bày trí như trong Nghìn lẻ một đêm. Một camera ghi lại hình ảnh của cô gái trùm kín khuôn mặt, chỉ lộ mắt đang nhìn thẳng vào camera như thách thức. Tin nhắn, bức ảnh trên Facebook và những cái tên trở thành manh mối để cảnh sát truy tìm hung thủ. Leyli - bà mẹ của ba người con - thường xuyên lui tới ủy ban hành chính để xét duyệt một căn nhà mới đủ rộng cho một gia đình bốn người. Nơi đây, những tập hồ sơ cao chất ngất xin duyệt nhà ở cho người nhập cư như Leyli, những nụ cười, cái nhìn, ánh mắt và cả những bí mật còn dài hơn cả đêm trường trong Nghìn lẻ một đêm. Đan xen giữa hiện tại và quá khứ, câu chuyện của Leyli được kể song song cùng những vụ án mạng xảy ra. Cô gái xinh đẹp Bamby bị tình nghi là hung thủ, chính là con gái của Leyli. Cô đi tìm cha mình trong những người đàn ông từng ngủ với mẹ. Manh mối chỉ là những cái tên trong quyển nhật ký mà mẹ cô giấu dưới gầm giường. Hóa thân thành nàng Sheherazade của Nghìn lẻ một đêm, Leyli kể cho hàng xóm nghe câu chuyện đời mình từ thuở ấu thơ đến khi nhập cư vào Pháp. Những bi kịch được bóc tách từng lớp và chỉ còn trơ lại cái lõi sự thật, Leyli là người bắt đầu, đồng thời cũng kết thúc hành trình đi tìm kho báu bị nguyền rủa. Những cảnh đời được trình hiện sống động bằng giọng kể của phụ nữ từng trải dường như hòa thành một, dẫn độc giả đến cái kết khó đoán định. Nàng Sheherazade bước ra từ bi kịch Những vụ án mạng, những cuộc điều tra, những chi tiết được hé lộ gây tò mò cho độc giả dường như chỉ là ba phần nổi của câu chuyện. Bảy phần chìm còn lại, được vùi lấp bởi những bí mật trong quá khứ, nơi hai bờ đại dương nối kết bằng bi kịch đen tối và hé mở về một hành trình có một không hai của Leyli. Câu chuyện của Leyli được chia thành nhiều chương, và mỗi chương được kể bằng những sắc thái khác nhau. Tuổi thơ được kể bằng thứ màu trong trẻo, những vạt nắng neo đậu trên dòng sông Niger hùng vĩ. Những chiếc thuyền độc mộc đi ngang, cô bé Leyli nhanh chân bì bõm chạy đến để chào bán những món trang sức, đồ gốm, thuốc lá và cả bao cao su. Tuổi thơ ấy chứa đựng cả những câu chuyện mà cô đã đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Đến khi thị giác không còn, cô gái mù Leyli dần trở nên xinh đẹp và thông thái khi ghi nhớ tất cả bằng trí não. 17 tuổi, cô trở thành người dẫn đường cho chuyến vượt biên sang châu Âu. Tất cả bị bắt, trừ Leyli ngồi co quắp trong một góc tối bất động. Cũng nơi đó, cô được giải cứu bởi tình yêu đầu đời của mình. Nói đúng hơn là bị cầm tù trong hy vọng được hạnh phúc, cô bị dẫn dắt làm điếm bởi kẻ đầu ấp tay gối. Những vị khách cấp cao mà cô tiếp, cô chỉ biết tên mà không biết mặt. Cô ghi nhớ những câu chuyện mà họ kể và nhờ người bạn mình ghi chép lại. Không chỉ tiền mà còn là vàng bạc, đồng hồ, những món đồ có giá trị sau cuộc đổi trao với đích đến là cuộc phẫu thuật mắt. Tất cả đều trở thành kho báu bị nguyền rủa được cất giấu dưới hầm sâu. Nhập cư - đêm trường ngập trong nước mắt Thông qua câu chuyện của Leyli, những phận người nhập cư được khắc họa. Ở đó, những cuộc vượt biển được ngã giá bằng chính tài sản và tính mạng. Những chiếc vòng với màu sắc khác nhau định giá "thứ bậc" trên con thuyền lênh đênh đến Pháp. Có người tìm được người thân bên kia đại dương bằng tài sản cả đời kiếm được, nhưng cũng có người bị quăng xuống biển khi mới đi được nửa hành trình. Kho báu bị nguyền rủa của Michel Bussi đã chạm vào bí mật đen tối với đường dây vượt biên được tổ chức bởi những kẻ đứng đầu một hiệp hội chuyên trợ giúp người nhập cư. Vài nghìn euro cho một vị trí trên thuyền với xác suất 50% cập bến, 50% còn lại sẽ nằm dưới đáy biển sâu bởi những tai nạn chìm xuồng được ngụy tạo. Khoác lên chiếc áo trinh thám, Kho báu bị nguyền rủa đánh dấu sự dấn thân của tác giả vào đề tài xã hội gai góc. Thân phận những con người vượt đại dương với bi kịch chất chồng bi kịch. Tội ác đội lớp tiếng nói nhân danh công lý. Số phận được bày biện và bện chặt thành một sợi dây dẫn lối độc giả về cuối hành trình của sự cảm thông. Không chỉ xuất sắc trong việc "bày binh bố trận", thắt chiếc nút hoàn hảo trên sợi dây câu chuyện, Michel Bussi đã vượt qua ngưỡng của một tác giả trinh thám thông thường. Ông đưa câu chuyện gần gũi và thực tế hơn bởi những nhân vật bình thường đã làm nên những điều phi thường với trái tim biết thương yêu. Michel Bussi được mệnh danh là ông hoàng trinh thám Pháp với phong cách viết lắt léo, bất ngờ và tài tình. Ông từng giáo sư địa lý, một nhà chính trị học trước khi trở thành nhà văn trinh thám nổi tiếng giành được hơn 15 giải thưởng văn học lớn. Các tác phẩm của ông đã được dịch sang tiếng Việt gồm: Hoa súng đen, Xin đừng buông tay, Mẹ đã sai rồi, Vết khắc hằn trên cát. *** Có lẽ Hoa Súng Đen là cái bóng quá lớn của Michel Bussi nên các tác phẩm sau của tác giả được Nhã Nam giới thiệu khiến các bạn thấy kém hơn, hoặc thấy không thoả mãn, không hài lòng. Trước khi bắt đầu đọc Kho báu bị nguyền rủa mình đã thấy một số ý kiến chê quyển này. Nhưng không vì cái sự chê đó mà mình bỏ qua không đọc. Trái lại, Kho báu bị nguyền rủa lại là quyển mà mình thích của Bussi, nó đem lại cho mình nhiều cảm xúc và suy ngẫm về bi kịch và số phận của các nhân vật. Cá nhân mình còn thích Kho báu bị nguyền rủa hơn cả Mẹ đã sai rồi được phát hành khá lâu trước đó của Bussi mà mình đã đọc. Câu chuyện mở đầu bằng cái chết của một quan chức cao cấp của hiệp hội chuyên trợ giúp người nhập cư trong căn phòng được trang trí như trong Nghìn lẻ một đêm. Nhưng đó chỉ là một mảnh trong bức tranh về chủ đề nhập cư mà tác giả muốn đề cập tới. Mà chủ đề về những người nhập cư là chủ đề mà mình rất thích và quan tâm. Bởi nó là chủ đề rất nóng và nhạy cảm cách nay không lâu. Và có lẽ đến bây giờ nó vẫn là bài toán khiến Châu Âu và các nước khác phải đau đầu. Không hiểu sao khi đọc quyển này mình luôn nghĩ đến hình ảnh xác cậu bé Syria bị chết đuối trên bãi biển Thổ Nhĩ Kỳ khi theo gia đình vượt biển nhập cư trái phép vào Châu Âu. Sinh ra ở vùng đất Châu Phi nghèo đói, nuôi ước vọng tới miền đất hứa Châu Âu mong kiếm tìm một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhưng, để tới được Châu Âu trên các chuyến tàu vượt biển họ đã trải qua không ít những bi kịch, có khi còn mất mạng. Còn bao nhiêu sinh mạng đang tâm bị vứt bỏ để chỉ còn là cái xác được tìm thấy lênh đênh trên biển hay trôi dạt vào bờ. Chưa kể có nhập cư trái phép vào được Châu Âu thì nguy cơ bị phát hiện, bị trục xuất về nước là rất lớn. Rồi khác về văn hoá, màu da, bị phân biệt, đối xử họ không thể tìm được việc làm để nuôi sống bản thân, sống ở những khu phố nghèo nàn, thiếu thốn. Chưa kể những người phụ nữ bị lừa đảo, bị ép buộc làm gái điếm. Chắc có bạn sẽ cho rằng lối kể chuyện của Michel Bussi quá dài dòng. Nhưng đối với mình Kho báu bị nguyền rủa không hề dài dòng. Kho báu bị nguyền rủa có lối kể mang nét hào hoa đậm chất Pháp, đầy tính nhân văn. Mình thích lối viết trinh thám mà không khô khan, nhẹ nhàng, mượt mà, văn chương của Michel Bussi. Bằng lối viết đó tác giả đã làm cho mình thật sự cảm thông và đồng cảm với thân phận người phụ nữ được khắc hoạ, nhấn mạnh trong Kho báu bị nguyền rủa. Bức tranh về thân phận người phụ nữ nói riêng, người di cư và nhập cư nói chung được khắc hoạ một cách chân thật, đầy cảm thông và nhân văn. Kho báu bị nguyền rủa không nhiều twist, bạn có thể dễ dàng đoán trước được diễn biến của câu chuyện nhưng đem lại rất nhiều trăn trở, suy nghĩ. Ngoài ra, Kho báu bị nguyền rủa còn đưa các bạn tới nhiều vùng đất rất thú vị. Theo như mình biết. Châu Âu hiện nay là châu lục có dân số già, do đó thiếu nguồn lao động trẻ. Trong khi đó lục địa đen Châu Phi là lục địa nghèo, khí hậu khắc nghiệt nhưng lại có lực lượng lao động tương đối rồi rào. Thế thì tại sao Châu Âu không giải quyết bài toán nhập cư từ Châu Phi để có nguồn lao động, giúp cả Châu Âu và Châu Phi cùng phát triển. Bởi những người Châu Phi nhập cư vào Châu Âu cũng chỉ mong là có được nguồn thu nhập, có nhiều tiền hơn để gửi về giúp đỡ gia đình nghèo khó ở quê nhà thôi mà. Họ có định phá hoại, làm tổn hại gì tới Châu Âu đâu. Tóm lại: Đây là quyển mà mình thích của Bussi, đem lại nhiều cảm xúc, sự cảm thông, đồng cảm, đầy tính nhân văn của Bussi. Binh Boog *** — Có chuyện gì không ổn sao, Leyli? Cô xinh đẹp. Cô có ba đứa con xinh đẹp. Bamby, Alpha, Tidiane. Mẹ con cô đã êm ấm rồi. — Êm ấm ư? Toàn bộ những điều đó chỉ là bề ngoài thôi. Vớ vẩn cả thôi. Không, ồ không, chúng tôi không tạo thành một gia đình tốt đẹp. Chúng tôi thiếu điều căn bản nhất. — Một người cha ư? Leyli khẽ bật cười. — Không, không. Một người cha, hay thậm chí là nhiều người cha, thì cả bốn chúng tôi đều không cần đến. — Vậy mẹ con cô còn thiếu điều gì nữa? Đôi mắt Leyli hé mở, giống như một bức rèm để lọt vào một tia nắng mặt trời và chiếu rọi một căn phòng tăm tối, biến bụi bặm thành những ngôi sao. — Ông thật tọc mạch quá, ông bạn thân mến ạ. Chúng ta chỉ vừa mới quen biết nhau, thế mà ông lại tưởng rằng tôi sẽ tiết lộ với ông bí mật lớn nhất của tôi sao? Ông không trả lời. Bức rèm trên đôi mắt Leyli đã khép kín trở lại, lại nhấn chìm căn phòng trong bóng tối. Chị quay về phía biển, nhả ra một làn khói thuốc để nhuộm đen những đám mây. — Còn hơn cả một bí mật, quý ông tò mò thân mến ạ. Đó là một lời nguyền. Tôi là một người mẹ xấu xa. Ba đứa con của tôi đã bị kết án. Hy vọng duy nhất của tôi là một trong số chúng, có thể là một trong số chúng, thoát được lời nguyền đó. Chị nhắm mắt lại. Ông vẫn hỏi tiếp: — Lời nguyền đó, ai đã gieo nó? Đằng sau cánh cửa chớp đóng kín tạo bởi hai mí mắt chị, sấm chớp đùng đoàng. — Ông. Tôi. Cả trái đất này. Không ai vô tội trong vụ này hết. Mời các bạn đón đọc Kho Báu Bị Nguyền Rủa của tác giả Michel Bussi & Nguyễn Thị Tươi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn - Thomas A. Bass
Cuốn này đã được Nhã Nam xuất bản với tựa đề Điệp Viên Z.21 Kẻ Thù Tuyệt Vời Của Nước Mỹ “Đây là câu chuyện xuất sắc về một con người và thời đại của ông. Nó càng củng cố thêm cho cảm giác của tôi khi gặp ông trong giai đoạn cuối đời của ông rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong những người ấn tượng nhất mà tôi từng gặp. Ông là con người của trí tuệ, lòng can đảm và tình yêu đất nước nồng nàn. Ông cũng là - mặc dù có vẻ thật trớ trêu khi nói ra điều này trong hoàn cảnh hiện nay - một con người của sự chính trực phi thường. Ông yêu chúng ta ở khía cạnh tốt đẹp nhất trong khi lại đối đầu với chúng ta ở khía cạnh tồi tệ nhất.” - Daniel Ellsberg, tác giả của Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers (Những bí mật: hồi ức về Việt Nam và tài liệu mật của Lầu Năm Góc) “Thomas Bass kể một câu chuyện tuyệt vời về mưu mô[1], nghề gián điệp và tình bạn. Cuốn sách của ông được viết như thể nó đến từ những bến bờ xa xôi nhất của sự hư cấu, và hẳn tôi sẽ không bao giờ tin nổi lấy một từ nào nếu như chính tôi không gặp rất nhiều nhân vật trong đó và không biết câu chuyện để tin rằng nó có thực và không biết câu chuyện đó có thực hay không.” - H. D. S. Greenway, biên tập viên, The Boston Globe, và là phóng viên chiến tranh Việt Nam cho tạp chí Time và báo Washington Post “Mỗi cựu binh, mỗi học giả, mỗi sinh viên, bất kỳ ai từng sống qua cuộc chiến tranh Việt Nam đều được khuyên đọc cuốn sách này và suy ngẫm về thông điệp của nó. Trong cuốn tiểu sử rất sâu sắc và kích thích này về một trong những điệp viên thành công nhất trong lịch sử, Thomas Bass thách thức một vài giả định cơ bản nhất của chúng ta về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam và về ý nghĩa của nó đối với chúng ta trong hiện tại.” - John Laurence, phóng viên chiến tranh Việt Nam cho CBS News và là tác giả cuốn The Cat from Huế: A Vietnam War Story (Con mèo Huế: một câu chuyện chiến tranh Việt Nam). * Gã cảm thấy mình đang vĩnh viễn quay lưng lại với sự thanh thản. Mắt mở to, ý thức rõ hậu quả, gã đi vào lãnh địa của sự dối trá không mang theo tấm hộ chiếu cho ngày quay trở lại. GRAHAM GREENE Cốt lõi của vấn đề (The Heart of Matter) *** “Nước Mỹ chỉ giỏi tiến hành những cuộc thập tự chinh,” tướng David Petraeus viết trong luận án tiến sĩ của mình về đề tài “Quân đội Mỹ và những bài học từ chiến tranh Việt Nam”. Được đưa ra bảo vệ tại Đại học Princeton năm 1987, luận án của Petraeus công kích những gì đã trở thành quan niệm được giới nhà binh chấp nhận một cách rộng rãi về những bài học từ Việt Nam. Ông coi đây là một “lối suy nghĩ kiểu được ăn cả ngã về không”, mà chung quy là xuất phát từ học thuyết cho rằng nước Mỹ chỉ nên tiến hành những cuộc chiến tranh thông thường với sự ủng hộ áp đảo của một công chúng mang tinh thần thập tự chinh. Petraeus bác bỏ quan điểm “làm ăn như lối suy nghĩ bình thường” này. Thay vào đó, ông lập luận rằng nước Mỹ có nhiều khả năng là thấy mình sa vào những cuộc chiến tranh phi chính quy khác, đôi khi phải chống trả hai, ba, hay nhiều trận chiến kiểu Việt Nam. Sau này Petraeus tiếp tục biên soạn cẩm nang tác chiến cho lục quân về chống nổi dậy được ban hành ấn hành năm 2006. Năm sau, được trao cơ hội tiến hành công tác thực địa về chuyên ngành học thuật của mình, ông được bổ nhiệm vào vị trí tư lệnh lực lượng Mỹ tại Iraq. Chiến tranh không chỉ là những cuộc thập tự chinh; chúng còn là những cuộc dan díu của con tim. Chiến tranh được phát động vì tình yêu, điều này thì chúng ta đã biết từ thời nàng Helen của thành Troy[2] khiến cho cả nghìn chiến thuyền chở đầy những chàng trai mê mẩn sẵn sàng chết vì nàng xung trận. Nhà văn hài hước người Mỹ P. J. O’Rourke đã nhận ra chân lý này trong một bài tiểu luận ông viết về Việt Nam năm 1992. “Ở Huế, cứ chiều đến, những nữ sinh trung học trở về nhà sau khi tan học, từng đoàn nữ sinh đạp xe trên con phố, tất cả đều tha thướt trong những tà áo dài trắng tinh, một kiểu trang phục gồm áo dài may ôm sát người mặc trùm lên quần rộng. Không phải vô cớ mà những nhà thờ Công giáo còn lại gióng lên hồi chuông cầu kinh Đức Bà vào thời điểm này trong ngày. Tôi không hiểu ở một nơi mà cái đẹp đã trở nên quá đỗi bình dị như thế có thể thay đổi được bản chất của một xã hội hay không.” Sau khi trầm trồ trước “tỷ lệ khổng lồ những mỹ nhân ngư và giai nhân tuyệt sắc” ở cái đất nước Địa đàng này, O’Rourke viết: “Giờ thì tôi hiểu tại sao chúng ta lại can dự vào Việt Nam. Chúng ta đã phải lòng… [Chúng ta] đã ngây ngất bởi nơi này. Tất cả mọi người, từ những cố vấn đầu tiên mà Ike3 gửi tới đây năm 1955 cho đến Henry Kissinger ở bàn đàm phán hòa bình Paris, thảy đều mê mệt đến phát cuồng vì Việt Nam. Nó làm tan vỡ trái tim họ. Họ cứ tiếp tục đến thăm và gửi hoa mãi không thôi. Họ không thể tin nổi rằng đây là lần chia tay cuối cùng.” Trước khi bắt đầu câu chuyện của mình về Việt Nam và nước Mỹ (với đôi nét điểm qua về nước Pháp và những khu vực khác trên thế giới), tôi xin phép được nói rằng cuốn sách này nói về chiến tranh và tình yêu, về những bài học Việt Nam, tác chiến chống nổi dậy và những cuộc xung đột khác bị gọi là phi chính quy. Nó cũng nói về những điệp viên và phóng viên cùng sự lẫn lộn giữa hai nghề này. Một số người sẽ cho rằng các phóng viên góp phần làm cuộc chiến (của chúng ta) tại Việt Nam thất bại. Trong trường hợp này, tôi xin khẳng định rằng có một phóng viên đã góp phần mang đến chiến thắng trong cuộc chiến - cho phía người Việt. Cuốn sách phiền muộn này nói về thông tin và hỏa mù cùng sự mơ hồ không thể tránh khỏi trong việc xác định ranh giới nơi hai yếu tố này hòa nhập vào nhau. Cuốn sách không đưa ra thêm chân lý nào có thể được đúc rút thành những bài học mới về chiến tranh Việt Nam. Nó nói về cuộc sống đơn giản của một con người phức tạp. Sự thật nằm trong các chi tiết. Chúng ta hãy bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Điệp Viên Yêu Chúng Ta: Chiến Tranh Việt Nam Và Trò Chơi Nguy Hiểm Của Phạm Xuân Ẩn của tác giả Thomas A. Bass.
Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.
Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.