Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Con Đường Đau Khổ - Aleksey Nikolayevich Tolstoy

Con đường đau khổ là đỉnh cao chói lọi của tài năng A.Tôlxtôi, là cuốn tiểu thuyết cổ điển của nền văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa. A.Tôlxtôi đã viết bộ tiểu thuyết này trong hơn hai mươi năm (từ 1919 đến 1941) và quá trình viết cuốn tiểu thuyết ấy cũng là quá trình lớn lên trong tầm nhận thức của nhà văn đối với cách mạng. Tập đầu của bộ tiểu thuyết, cuốn Hai chị em, có thể xem là một thiên tự sự về vận mệnh cá nhân của các nhân vật trí thức đang tìm đường giữa những biến động dữ dội của cuộc sống. Mở đầu cuốn sách, A.Tôlxtôi đưa ta vào không khí của kinh thành Pêtecburg năm 1914, những ngày trước chiến tranh. Pêtecburg và cả nước Nga đang sống trong những ngày tháng hấp hối của xã hội tư sản, những ngày tháng chán chường, phờ phạc, sặc nồng mùi vốtka và ái ân không tình yêu. Xã hội tư sản đang sống những ngày tàn của nó và những nguời trí thức tiểu tư sản, như "những con bướm", "không dính dáng gì đến khía cạnh nào của nước Nga cả", đang khắc khoải, hoảng hốt đi tìm "con đường thứ ba" làm giải pháp phá vỡ bế tắc của cuộc sống. Sống trong không khí xã hội ấy, những nhân vật của A.Tôlxtôi do bản chất của mình, cũng đã dấn mình vào những cuộc tình phù du, những cuộc "dạ đàm" triết học và nghệ thuật, vào những suy tư dằn vặt vô vọng và đau đớn để tìm cách thoát ra khỏi xã hội và thoát ra khỏi chính mình. Katia, Đasa, Rốtsin... kẻ ít người nhiều, đều đã sống như những "thân phận cô đơn", những kẻ bị "lưu đày" trong xã hội ấy. Cuối cùng, họ sẽ đi tới đâu với những ưu tư ấy? Như tác giả sau này sẽ cho thấy, con đường của họ sẽ là con đường lạc lối, nếu không có một giải pháp thực sự cách mạng. Mặc dù trong tập đầu này, A.Tôlxtôi không có ý định mô tả chính quá trình lịch sử và có ý định viết một cuốn tiểu thuyết sử thi về nội chiến và cách mạng, Hai chị em vẫn không phải là một cuốn tiểu thuyết thuộc loại sinh hoạt gia đình tầm thường. "Hai chị em không phải là tiểu thuyết lịch sử. Đó là hình ảnh thời đại qua những ấn tượng riêng tư" (A.Tôlxtôi). Trong tập đầu tác phẩm này, A.Tôlxtôi đã chú ý xác định mối quan hệ giữa trí thức và cách mạng hơn là mô tả những biến cố đang diễn ra trên dòng lịch sử. Vào thời bấy giờ, đây chính là vấn đề thời sự của toàn thể giới trí thức Nga. Âm điệu của cuốn tiểu thuyết là âm điệu triết lý xã hội đi đôi với trữ tình cá nhân và điều đó được thể hiện ngay từ những trang đầu của cuốn tiểu thuyết. Sức hấp dẫn của tác phẩm trước hết là ở chỗ này, ở chỗ vận mệnh cá nhân các nhân vật đã được A.Tôlxtôi thể hiện trong sự tha thiết đối với vận mệnh của nước Nga, trong nhiệt hứng cải biến cách mạng, mặc dù chính tác giả đã không hiểu rõ thực chất của cách mạng. Nghệ thuật của tác giả trong việc tạo ra những bức tranh giàu màu sắc, trong việc sử dụng ngôn từ và chất thơ trữ tình đằm thắm, sự "miêu tả lý thú và tinh tế tâm lý của một người con gái Nga đến tuổi yêu đương" như lời nhận xét của Gorki... tất cả đã góp phần tạo nên hứng thú đặc biệt của cuốn sách. Kết thúc tập I, tác giả, qua lời nhân vật Rốtsin như muốn nói lên một tư tưởng chính của tác phẩm: "Năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, những cuộc cách mạng sẽ thôi gào thét và sẽ còn lại không phôi pha tấm lòng em nhẫn nại dịu dàng và chan chứa tình yêu thương..." Các nhân vật trong tập I đã tìm đến với tình yêu và nghĩ rằng tình yêu ấy sẽ là điểm chót cùng của hạnh phúc và hi vọng. Tình yêu muốn vượt lên cao hơn cuộc sống, tự biến thành vương quốc của tự do, vịnh biển bình yên cho những con tàu trong bão táp. Đối với A.Tôlxtôi, đây là một tư tưởng không mới. Đây chỉ là một tư tưởng mà A.Tôlxtôi khẳng định lại một lần nữa trong hoàn cảnh khác. Trong phần mở đầu vở kịch Ngày chiến trận viết từ năm 1914, qua lời nhân vật của mình, A.Tôlxtôi cũng đã tuyên bố sức mạnh toàn năng của tình yêu: "Những ngày của chúng ta sẽ trôi qua, những cơn bão táp sẽ lắng dần, lúc bấy giờ niềm vui sẽ trở thành sức mạnh thống trị toàn năng... Cần phải tin vào thời đại trị vì của niềm vui và biết rằng con đường của nó dẫn đến những cánh cổng vàng của tình yêu...". Nhưng chủ đề đi tìm hạnh phúc cá nhân, chủ đề chủ yếu trong phần đầu của cuốn tiểu thuyết, về sau đã bị phủ định vì chính cuộc sống đã bác bỏ quan niệm cũ kỹ này. Và nếu như tác phẩm kết thúc ở đấy, thì chính A.Tôlxtôi đã bỏ rơi các nhân vật của mình vào lúc cuộc sống của họ bước vào một giai đoạn gay go hơn bao giờ hết trước những biến chuyển đột ngột của cuộc đời. Thực ra, đây là một vấn đề dễ hiểu vì chính bản thân A.Tôlxtôi cũng đang choáng váng trước những chuyển động cách mạng, bản thân ông cũng đang ở trong tâm trạng hoài nghi, đau đớn. Với một tâm trạng như vậy làm sao có thể tìm thấy lối ra cho nhân vật? Tác giả bế tắc, thì nhân vật cũng bế tắc, đó là điều có tính quy luật trong nghệ thuật. Trong một bức thư viết sau này. A.Tôlxtôi đã giải thích sự kết thúc Hai chị em trong tâm trạng ấy: "Tôi đã viết xong Con đường đau khổ ở Campa, nơi đây tôi đã viết các chương cuối trong vòng một tháng. Đoạn cuối tôi đã thất bại, và tôi đã có lần xé nó đi, vứt qua cửa sổ. Sở dĩ tôi thất bại trong phần cuối là do một mẫn cảm sâu sắc có tính quy luật của nghệ sĩ, vì ngay từ lúc bấy giờ tôi hiểu rằng cuốn này chỉ là phần đầu của một thiên anh hùng ca và thiên anh hùng ca đó sẽ khai triển. Chính vì thế mà có sự thất bại ở phần cuối chứ không phải vì như người ta nói, hồi bấy giờ tôi chưa bước lên những đỉnh cao để nhìn lại những sự việc đã xảy ra. Người nghệ sĩ còn có thể bước lên đỉnh cao như thế nào khi mà anh ta bắt đầu hiểu rằng mình đang ở trong sương mù, đang mò mẫm trong bóng tối, rằng mọi sự đều trở thành mơ hồ, rối ren, và muốn hiểu được những điều ấy thì phải đợi đến một lúc nào đó trong tương lai. Ngay khi tôi đã chữa lại, cuốn tiểu thuyết này vẫn không thể nói là có một kết thúc. Vả chăng không thể có như thế được vì nó chỉ là phần đầu của một bộ tiểu thuyết ba tập". * K.Fêđin, một nhà văn Liên Xô nổi tiếng, đã có một nhận xét đáng chú ý về sự chuyển tiếp giữa Hai chị em và cuốn tiếp theo Năm 1918: "Trong Hai chị em ta nghe thấy bước đi của chính lịch sử, lúc đầu vang lên khe khẽ, sau đó rõ dần, kiên trì, kéo dài và cuối cùng lấn át tất cả. Trong khi xây dựng cuốn tiểu thuyết Năm 1918 tác giả đã để cơn bão táp tràn vào tất cả các cửa lớn, cuốn phăng đi tất cả những số phận cá nhân nhỏ bé, đáng yêu và tuyệt vọng của nhân vật tiểu thuyết". Hai chị em là tác phẩm về số phận của mình, của thế hệ mình. "Ấn tượng riêng tư về thời đại", tính chất "phi lịch sử" - nếu như có thể nói được như vậy - của cuốn Hai chị em lộ ra trong cách hình dung cách mạng, xem cách mạng như sự bùng nổ những sức mạnh tự phát tàn nhẫn. Các nhân vật của Hai chị em thấy cách mạng, chiến tranh, lịch sử như là một cái gì trớ trêu, thù địch, thay đổi bất thường, và họ cố đem đối lập tính chất "bấp bênh" của lịch sử với sự "vững vàng" của hạnh phúc cá nhân. Tính chất phi lịch sử đó cũng biểu lộ rõ qua việc mô tả phiến diện những người đại diện của cách mạng, những người cộng sản. Vaxilli Rubliôp trong Hai chị em, trong cách nhìn của Têlêghin, tuy là một con người tiêu biểu cho nước Nga đang thức tỉnh, cũng chỉ là một người được mô tả gọn lỏn trong mấy tiếng "rất thông minh, ác như quỉ". Viết cuốn Năm 1918, A.Tôlxtôi đã chuyển hẳn cách nhìn và cách miêu tả đời sống nhân vật. Quá khứ đang còn nóng bỏng được tái hiện và tác phẩm bản lề này chuyển hẳn tác phẩm ba tập thành tác phẩm sử thi, anh hùng ca. A.Tôlxtôi đã thể nghiệm lại cuộc sống của đất nước Xô viết trong một giai đoạn đột biến, ông phải suy nghĩ lại, cảm xúc lại tất cả dưới một cái nhìn mới và bản thân tầm rộng lớn của cuộc sống chiến đấu định tái hiện vào tác phẩm đã đòi hỏi một dung lượng tiểu thuyết rộng lớn, buộc A.Tôlxtôi phải chuyển sang sử dụng thể loại anh hùng ca. Nhưng bản thân tầm rộng lớn của dung lượng tiểu thuyết không phải bao giờ cũng dẫn đến tính chất sử thi, hoành tráng. Vấn đề là "với tư cách một sử gia" A.Tôlxtôi đã cảm thụ thời đại mình như là lịch sử. Ông đã nhìn thấy trong vô số biến cố của quá khứ những bước tiến của lịch sử, nhìn thấy ngọn nguồn của lịch sử hoành tráng trong hiện thực của đất nước Xô viết đang diễn ra sôi động từng ngày. Nếu như đi tìm hạnh phúc cá nhân là mô-típ chủ yếu của phần đầu cuốn tiểu thuyết thì trong Năm 1918 những sự kiện lịch sử dường như đối lập với số phận cá nhân các nhân vật. Trong tác phẩm này, các nhân vật của A.Tôlxtôi đã đi vào cuộc sống và sự tiếp xúc với nhân dân đã dần dần thủ tiêu những mâu thuẫn cá nhân và xã hội, cuối cùng hòa hợp lại trong tình yêu đối với Tổ quốc và nhân dân. Cùng với việc miêu tả chính quá trình lịch sử của đất nước Nga, trong Năm 1918 và sau đó trong Buổi sáng ảm đạm đã xuất hiện hàng loạt những nhân vật cộng sản đầy sức sống và có ý nghĩa lớn lao. Những con người này, những người đã cứu đất nước và nhân dân ra khỏi bàn tay của bọn phản động và bọn can thiệp nước ngoài, đã là "tinh hoa, lực lượng và tương lai của đất nước" (Lê Nin). Đấy là những người yêu nước chân chính, chiến đấu kiên định, những người thông minh mà giản dị, đôn hậu, được tôi luyện vững vàng trong chính cuộc chiến đấu sinh tử với kẻ thù. Ivan Gôra, người công nhân cộng sản có ý thức, người chính ủy đã dương cao ngọn cờ đỏ trong trận ác liệt trên bờ sông Manyts và khi hi sinh rồi, anh vẫn còn "dang rộng hai tay ra như muốn ôm lấy đất, chết rồi mà vẫn không chịu để cho quân thù chiếm mảnh đất này" Tsugai, người cán bộ tổ chức quần chúng thông minh, giàu kinh nghiệm đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Số phận của Anyxya tượng trưng khát vọng vươn tới cái đẹp và chứng tỏ cách mạng đã mở rộng, thức tỉnh những khát vọng chưa từng có đối với văn học của nhân dân lao động, Cô thanh niên cộng sản Maruxya được miêu tả chỉ trong vài trang, nhưng hình bóng của cô thấm nhuần chất thơ của sự trong trắng và niềm tin ở lý tưởng... Qua tất cả những nhân vật này, cũng như qua việc thể hiện một cách chân xác hình tượng đám đông thủy thủ, hình tượng của những người lao động, A.Tôlxtôi muốn vạch rõ ảnh hưởng và tác động của họ đối với những người trí thức, vạch rõ sự xuất hiện con người mới. Năm 1939, Tôlxtôi viết cuốn Buổi sáng ảm đạm, tập cuối của bộ ba Con đường đau khổ và đã chấm dấu hết vào đúng ngày nổ ra chiến tranh vệ quốc vĩ đại - ngày 22-6-1941. Nối tiếp nhiệm vụ mô tả những biến cố lịch sử của Năm 1918, trong phần cuối này của bộ tiểu thuyết, A.Tôlxtôi đã sáng tạo một cách thể hiện độc đáo. Trong khi thu hẹp nhiệm vụ mô tả các sự kiện lịch sử vào vùng Ukrain và vùng xung quanh Xarítxưn, A.Tôlxtôi đi vào chiều sâu nội tâm của nhân vật, chiều sâu do cuộc cách mạng và nội chiến, do cuộc sống tác động vào ý thức và tâm lý của hàng triệu người. Trong Buổi sáng ảm đạm cũng như trong Năm 1918, A.Tôlxtôi đã sử dụng rộng rãi những tài liệu lưu trữ lịch sử. Và do đó có thể gọi Buổi sáng ảm đạm và Năm 1918 là biên niên sử của cuộc nội chiến. Dễ có ấn tượng là kết cấu của cuốn tiểu thuyết bị xé lẻ do sự mô tả luân phiên, chồng chéo nhau giữa hai tuyến sự kiện và con người, nhưng dụng ý của A.Tôlxtôi là muốn làm nổi bật tính chất bão táp của thời đại. Một bên là số phận cá nhân của các nhân vật, tình yêu, cuộc sống, những ưu tư dằn vặt, những tìm tòi đau đớn... và một bên là chính lịch sử đang chuyển động và soi bóng mình vào vận mệnh của mỗi cá nhân. Lịch sử không chỉ chuyển động trong các lớp tầng riêng tư của tiểu thuyết, chính lịch sử là một nhân vật lớn. Đã có nhiều nhà văn viết về nội chiến cách mạng của nước Nga. Nhưng sức mạnh của tài năng A.Tôlxtôi là ở chỗ ông đã miêu tả thành công những bức tranh sử thi rộng lớn, đồng thời đã mô tả một cách tinh tế, đầy cảm hứng thơ ca những tình cảm sâu kín nhất của con người. *** Nếu ví văn học Nga thế kỷ 19 như một cánh rừng đại ngàn thì Puskin, Lermantov, Gôgôl, Turghênhiev, Lev Tôlxtôi, Đôxtôiépxki, Tsêkhốv... là những đại thụ của rừng Nga mênh mông ấy. Các nhà văn Xô viết trong thế kỷ này cũng đã tạo ra một rừng Nga mới, trong đó cũng có những cây lớn mà bóng mát hẳn sẽ che rợp cho cả thế hệ mai sau. Lần lượt ta có thể điểm qua: Corki, con người khổng lồ của nền văn học Xô viết, cái gạch nối vĩ đại giữa văn học cổ điển Nga với nền văn học mới, người mở ra kỷ nguyên của nền văn học vô sản toàn thế giới. Maiacôvxki, nhà thơ Xô viết vĩ đại, Đăng tơ của thời đại mới, người bằng trái tim lớn đập mãnh liệt trong lòng ngực khỏe của mình, lần đầu tiên kết hợp thành công thơ ca và chủ nghĩa cộng sản. Sôlôkhôv, cánh chim đại bàng đã bất thần vẫy lên đôi cánh mênh mông trong văn học, người đã khắc họa vận mệnh của nhân dân Nga trong tiểu thuyết bằng những nét dao trổ tàn nhẫn, với một vẻ đẹp chói gắt, xốn xang... Và Phađêev, và Phuốcmanôv, và Axtơrốvxki... những nhà văn bước thẳng từ chiến trường nội chiến vào văn học, đã để lại những tiểu thuyết Chiến bại, Tsapaev, Thép đã tôi thế đấy như là những tượng đồng đen vững chắc trong văn học. Giữa những nhà văn ấy, con người có khuôn mặt hiền lành phúc hậu không lẫn với ai - A.Tôlxtôi - đã bước vào văn học Xô viết bằng con đường riêng của mình. Sinh năm 1889, A.Tôlxtôi đã qua thời thơ ấu tại một châu thành nhỏ trên bờ sông Vôlga nước Nga, con sông mà những người nông nô đã còng lưng kéo thuyền trong bức họa nổi tiếng của Rêpin   Ngoài tiểu thuyết Con đường đau khổ, trong thời gian từ 1923 đến khi mất (1945) A.Tôlxtôi đã lao động sáng tạo không ngừng, đạt đến những đỉnh cao của tài năng nghệ thuật với những cuốn "Piốt đệ nhất" (1925-1945), "Truyện của Ivan Xuđarep" (1942-1944), "Ivan Lôi đế" (kịch- 1943), "Bánh mì" (1937)... Là một người yêu mến nồng nhiệt Tổ quốc của mình không phải chỉ với tư cách là một công dân, một nghệ sĩ mà còn với tư cách một sử gia, A.Tôlxtôi đã viết về những bước ngoặt quan trọng nhất của lịch sử Nga: thời đại Ivan Lôi đế; thời đại Piốt đệ nhất; thời đại cách mạng Tháng Mười và nội chiến cách mạng, thời kỳ chiến tranh chống phát-xít xâm lược. Năm 1937, A.Tôlxtôi được bầu vào Xô viết tối cao của Liên Xô; năm 1938 ông được thưởng huân chương Lê Nin và được bầu vào Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, năm 1942 ông được trao giải thưởng Xtalin (sau này đổi thành giải thưởng Lê Nin, giải thưởng cao nhất về văn học của Liên Xô). Tổ quốc và nhân dân đánh giá rất cao những công trình sáng tạo nghệ thuật của A.Tôlxtôi. Tiếc thay cái chết quá sớm của ông đã làm nền văn học Xô viết mất đi những tác phẩm hùng vĩ mà ông chưa kịp viết hoặc còn đang viết dở dang. Mời các bạn đón đọc Con Đường Đau Khổ của tác giả Aleksey Nikolayevich Tolstoy.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Oan Nghiệt - Nguyễn Văn Thịnh
Hoàng Yến không hiểu được nàng đang sống trong thực hay hư. Mới đây thôi nàng còn là cô chủ được mọi người kính trọng và mơ ước. Nàng là người điều hành thông minh, tháo vát, người quản lý tận tụy trung thành một cơ ngơi lớn đang trên đà phát triển và cái cơ ngơi ấy sẽ là gia sản cho con trai nàng là người thừa kế đương nhiên. Thế mà giờ đây cả hai mẹ con nàng đều bơ vơ không nơi nương tựa, phải sống tránh né mọi người, không dám mở mặt nhìn ai ngay cả với cha mẹ ruột của mình. Cả một chuỗi tháng năm u ám của quá khứ nặng nề hiện lên che khuất hướng tương lai. Trước mặt nàng là cả một không gian mù mờ ảm đạm… Hoàng Yến nghỉ ở khách sạn này đã hơn một ngày rồi. Nàng chưa biết sẽ đi đâu, về đâu. Quá khứ đã như một tấm cửa thép lạnh lùng khép chặt. Với nàng thật là đơn giản, cuộc sống này càng sớm kết thúc thì càng mau được giải thoát thôi. Nhưng còn đứa con nàng? Nó chẳng tội tình gì… Đứa con nào chẳng mong có mẹ. Nhưng đứa trước không được thành người, để ai oán cho nó, chẳng lẽ nàng không có lỗi? Đến thằng Tý Ty này, đã thành người, nó không thể xa nàng được nữa. Nhưng mẹ con sẽ sống thế nào? Nàng không thể để đứa bé phải tủi hổ khi biết về mẹ nó. Nàng đã mang tội với đấng sinh thành, giờ lại thêm tội nữa với con! Mai là Mồng Một Tết. Hôm nay là ngày cuối năm. Hôm qua nhìn thấy Quyền hối hả về quê ăn Tết, Hoàng Oanh quay về thành phố lại với những trận cười cuộc vui nhàm chán. Nàng đã không thể nhìn lại mẹ cha và bạn bè xưa cũ. Nàng cũng không thể tìm đến với Hoàng Oanh để cả hai mẹ con cùng chui đầu vào thòng lọng. Nhưng biết đi đâu? Nàng hoàn toàn bế tắc. Nàng ra bàn, có để sẵn cuốn tập và cây viết. Nàng tách một tờ giấy đôi ở giữa, cúi đầu ngồi viết. Mấy lần nàng viết được dăm chữ vài dòng lại bỏ đấy ra ngồi với con rồi nằm vật trên giường ôm thằng bé vào lòng và nàng thiếp đi… ... Mời các bạn đón đọc Oan Nghiệt của tác giả Nguyễn Văn Thịnh.
Mẫu Thượng Ngàn - Nguyễn Xuân Khánh
Văn hóa Việt, bản sắc văn hóa Việt là vấn đề, là câu hỏi đã được nêu ra và được hàng trăm, nếu không nói hàng nghìn nhà nghiên cứu tìm cách lý giải từ rất lâu. Nguyễn Xuân Khánh là nhà tiểu thuyết, anh cũng có câu trả lời của mình không phải bằng lý lẽ uyên bác mà bằng một cuốn tiểu thuyết sinh động, Mẫu Thượng Ngàn, còn dày dặn, bề thế, phong phú hơn cả cuốn Hồ Quý Ly từng gây xôn xao của anh mấy năm trước. Và có vẻ đây có thể là câu trả lời hấp dẫn hơn cả, nếu không nói là thuyết phục hơn cả. Mẫu Thượng Ngàn là cuốn tiểu thuyết về văn hoá phong tục Việt Nam được thể hiện qua cuộc sống và những người dân ở một vùng quê bán sơn địa Bắc Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trong bối cảnh Pháp xâm lược Việt Nam. đạo Phật suy tàn, đạo Khổng bị gạt bỏ, đạo Thiên chúa đang lan rộng, người dân quê trở về với đạo Mẫu - một tôn giáo có từ ngàn đời. Mẫu Thượng Ngàn  cũng là cuốn tiểu thuýêt  lịch sử xã hội về Hà Nội cuối thế kỷ 19, gắn với việc người Pháp đánh thành Hà Nội lần thứ hai, việc xây Nhà Thờ Lớn, cuộc chiến của người Pháp với quân Cở Đen...  Mẫu Thượng Ngàn  còn là câu chuyện tình yêu của những người đàn bà Việt trong khung cảnh một làng cổ. Đó là tình yêu vừa bao dung, vừa mãnh liệt của những người phụ nữ với bao nỗi đắng cay, đầy chất phồn thực, bi, hài hoà quyện với mộng mơ và cao thượng. Tác giả của Hồ Quý Ly một lần nữa chứng tỏ bút lực mạnh mẽ, sâu sắc, trữ tình qua cuốn tiểu thuyết đầy ấn tượng Mẫu Thượng Ngàn. *** Cô Mùi lấy Tây! Cô Mùi làm me Tây! Một sự việc động trời! Cả làng Cổ Đình lẫn đồn điền Messmer đều ồn ào ngạc nhiên và dè bỉu. Không ai có thể ngờ cô Mùi lại tự ý bằng lòng. Giá như cô Mùi là con cái nhà khác người ta còn có thể hiểu nổi, đằng này cô lại là con ông đồ Tiết. Cô là người đầu tiên ở vùng này lấy chồng Tây nên càng được người ta chú ý. Những lời bàn tán kéo dài hàng tháng. Điều lạ lùng khó hiểu nhất vẫn là tại sao cô lại tự ý bằng lòng. Câu hỏi ấy cuối cùng vẫn là một câu đố chẳng ai tìm ra lời giải. Cũng có người thân cận hỏi thực cô, song cô chẳng trả lời. Người ta chỉ đoán già đoán non, nhưng chỉ đưa ra được một nhận xét: - Dạo này cô ta ít nói hơn, hình như thoáng vẻ buồn. Nhưng lạ chưa? Cô càng ngày càng đẹp. Philippe sắm sửa lễ vật đến nhà cụ Tiết ăn hỏi. Cũng trầu, cũng cau, cũng rượu, cũng chè, lại thêm bánh cốm, bánh xu xê học theo kiểu thành phố. Một chục cô gái mặc áo tứ thân đội mâm đồng lễ vật trên phủ vải đỏ. Philippe cưỡi con ngựa hồng. Nhà trai còn có Pierre, René, quản Liến và lý Cỏn, quản Boong. Nhà cụ đồ cài chặt cửa ngõ, không tiếp nhận đồ sính lễ. Gọi khản cổ vẫn chỉ có đàn chó một con mẹ bốn con chó con thi nhau sủa lên ăng ẳng. Chó trong xóm đua nhau sủa theo làm náo động cả làng. Quản Liến tức quá định lên tiếng, song Philippe gạt ngay. Hắn sai người vượt rào vào trong, tự mở cổng lấy, rồi bưng cả mười mâm sính lễ phủ nguyên vải đỏ xếp làm hai hàng đặt giữa sân. Sau đó, cả đoàn rút lui. ... Mời các bạn đón đọc Mẫu Thượng Ngàn của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Tình Yêu Vượt Thời Gian - Catherine Bybee
Dựa vào manh mối là một cuốn sách bí ẩn cùng giác quan thứ sáu của mình, Helen Adams đã tới Scotland để tìm hiểu về sự mất tích bí ẩn của một thiếu niên. Một cơn địa chấn bất ngờ đã đưa cô vượt thời không, rời bỏ thế kỷ XX đểtrở về Scotland thời Trung Cổ và gặp gỡ những thành viên của gia đình MacCoinnich.  Lần đầu du hành vượt thời gian trở về quá khứ, Simon McAllister - MacCoinnich vẫn còn là một thiếu niên. Trải qua nhiều biến cố, anh đã coi Scotland thế kỷ XVI là nhà của mình và trở thành một chiến binh Cao nguyên đáng gờm với kỹ năng biến hình cũng như giao tiếp với động vật. Và cũng tại đây, số phận đã đưa Helen đến với anh. Cùng lúc đó, gia đình Simon liên tục phải đối mặt với các cuộc tấn công từ kẻ thù bí ẩn, còn Helen lại trở thành mục tiêu bị truy đuổi ngay trong thời đại của cô. Để giải quyết những mối nguy hiểm, đồng thời bảo vệ gia đình MacCoinnich, Simon và Helen phải trải qua các chuyến du hành vượt thời gian cùng với nhau, rồi tình yêu của họ bắt đầu chớm nở. Nhưng cho dù vượt qua được mọi chuyện, làm thế nào họ có thể giữ một mối quan hệ với khoảng cách thời gian hàng thế kỉ?   *** Catherine Bybee là tác giả ăn khách nhất của các tờ: - New York Times  - USA Today  - Wall Street Journal - Amazon  - Indie Reader Năm 2001, bà đã giành được giải thưởng More Than Magic – giải thưởng văn học cao quý dành cho các tác giả văn học lãng mạn pha viễn tưởng.  Tìm hiểu thêm thông tin về tác giả tại: www.catherinebybee.com Lớn lên ở tiểu bang Washington, nhưng sau khi tốt nghiệp trung học, Catherine Bybee đã chuyển đến sống ở miền Nam California với hy vọng trở thành một ngôi sao điện ảnh. Phát chán với thời gian chờ đợi sự nổi tiếng đến với mình, Catherine đã quay trở lại trường và trở thành một y tá. Nhưng cuối cùng, sau mười năm làm y tá ở bệnh viện thành phố, giờ đây Catherine cống hiến phần còn lại của cuộc đời mình cho sự nghiệp viết lách. Với nhiều series ăn khách như MacCoinnich Time Travel (đang được BachvietBooks xuất bản ở Việt Nam), Weekday Brides, Not Quite. Catherine Bybee bị “nghiện” tiểu thuyết lãng mạn từ thuở học sinh, bà luôn sống với niềm say mê đó và có khả năng ghi nhớ rất tuyệt vời những gì đã đọc. Chính tình yêu mãnh liệt dành cho thể loại văn học này đã thôi thúc và tạo động lực để bà viết nên các tác phẩm của chính mình. Sự sáng tạo nên thế giới của những xúc cảm mạnh mẽ, những âm mưu và tình tiết gay cấn, nơi người sói cũng bị rơi vào lưới tình đem đến cho Catherine sự cân bằng hoàn hảo. Sau mười năm làm y tá tại một bệnh viện thành phố, giờ đây Catherine cống hiến thời gian còn lại của cuộc đời mình vào sự nghiệp viết lách để mang lại niềm vui cho mọi người. Catherine hiện đang sống cùng chồng và hai con trai tại miền Nam California. Binding Vows là cuốn đầu tiên trong series MacCoinnich Time Travel: - Binding vows (Phía sau một lời thề) - tải eBook - Silent vows (Thề ước thầm lặng) - tải eBook - Redeeming vows *** Helen đưa mỗi lần vài người thuộc gia tộc MacCoinnich về nhà họ. Trong lần cuối cô quay lại để đưa Simon và Cian, Ian và Lora hỏi cô có thể đưa họ theo cùng để nói lời tạm biệt với Amber không. Mọi chuyện diễn ra quá nhanh. Helen hầu như không còn đủ thời gian để nói lời từ biệt của mình. Lizzy ôm ghì lấy cô trong vòng tay và nhắc cô nhớ rằng họ ở đó nhưng chỉ cần một ý nghĩ thoáng qua thôi là cô đã có thể gặp nếu cần tới họ. Nhưng sống ở thế kỷ XVI không đơn giản chỉ là một sự hy sinh mà Helen có thể làm. Bên cạnh đó, bà Dawson cần có cô. Amber cần có người bầu bạn và người hướng dẫn. Nơi thuộc về cô là thời đại của mình, không phải là đây, nơi thuộc về Simon. Cả hai không nói chuyện với nhau, chuyện chia tay đã khiến cô khóc suốt mỗi khi nghĩ tới. Với đại bộ phận người nhà MacCoinnich, an toàn là để họ ở trong pháo đài, Helen đưa Ian cùng Lora về theo. Khi cơn lốc ngừng, Lora là người thấy Amber đầu tiên. Cả hai lao vào ôm chầm lấy nhau. “Ơn Chúa, mẹ đã lo lắng cho con.” Lora kéo con gái hơi nhích ra xa, nhìn cô từ đầu đến chân, và ghi nhớ. “Bộ quần áo này hợp với con.” “Chúng có cảm giác hơi lạ”, Amber thừa nhận. “Rồi con sẽ quen thôi.” “Mẹ chắc chứ? Con phải ở lại sao?” Đây là lần duy nhất Helen nghe Amber dò hỏi về số phận của cô ấy. “Phải, con gái. Con sẽ tìm thấy hạnh phúc của mình ở đây.” Amber cúi gằm mặt xuống đất. “Hai người hẳn phải là Lãnh chúa MacCoinnich cùng phu nhân. Tôi là bà Dawson.” Bà Dawson bước xuống nấc thang cuối và ngắt lời họ. “Cháu xin lỗi, bà Dawson, cháu nên giới thiệu bà”, Helen nói. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Vượt Thời Gian của tác giả Catherine Bybee.
Khu Vườn Ngôn Từ - Shinkai Makoto
Khu vườn ngôn từ kể về một tình yêu còn xa xưa hơn cả tình yêu. Khái niệm tình yêu trong tiếng Nhật hiện đại là luyến hoặc ái, nhưng vào thời xưa nó được viết là cô bi, nghĩa là nỗi buồn một mình. Shinkai Makoto đã cấu tứ Khu vườn ngôn từ theo ý nghĩa cổ điển này, miêu tả tình yêu theo khái niệm ban sơ của nó, tức là cô bi - nỗi buồn khi một mình thương nhớ một người. Những ngày mưa triền miên.... Nơi hàng hiên ngập tràn màu xanh của một khu vườn Nhật Bản... Có một cảm xúc êm dịu đến không thốt nên lời cứ thế manh nha, tựu hình và lửng lơ tồn tại. Trong lúc dòng đời cuồn cuộn chảy trôi, tất cả hối hả tiến về phía trước, thì cậu và cô lại dừng chân, chìm xuống trong tĩnh lặng riêng mình, và ở cái vũng tĩnh lặng đó, họ tìm thấy nhau. Dần dần và mạo hiểm, quên đi cả các chênh lệch về tuổi tác và vị trí, họ thả hồn mình trôi về nhau hòa điệu. Làm nền cho tất cả là mưa rơi không ngừng, là lá mướt mát rung rinh. Nhưng khi mưa tạnh và trời quang trở lại, mọi đường nét của hiện thực trở nên rõ rệt đến khắc nghiệt, thì những êm dịu và lửng lơ kia liệu còn khả năng tồn tại? *** Tôi luôn mang trong mình một mối tình đơn phương với tiểu thuyết. Mà không chỉ tiểu thuyết, tôi luôn có cảm giác mình đang yêu đơn phương truyện tranh, điện ảnh, phim hoạt hình và những cảnh sắc hiện thực. Tình yêu đơn phương tôi đang nói đến là trạng thái bản thân mình rõ ràng rất thích nhưng đối phương lại không có hứng thú tới mức độ đó với mình. Dù đôi lúc tôi thấy mình đã ở tuổi trưởng thành rồi mà còn có những tình cảm như vậy thì cũng khá không hợp, nhưng tôi không tài nào thoát khỏi cảm giác này. Công việc của tôi là đạo diễn phim hoạt hình, coi như tôi cũng có rất nhiều cơ hội để nói với phim hoạt hình rằng, “Tôi rất thích em!” Tuy nhiên đối với tiểu thuyết thì không được như vậy. Thời gian rảnh trong ngày, những khi ngồi trên tàu điện, những lúc chờ kết xuất đồ hoạ, tôi thường lật giở các trang văn và không ngừng thán phục, “Tiểu thuyết đúng là tuyệt vời!” Bởi vậy khi tiểu thuyết Khu vườn ngôn từ được đăng dài kỳ trên nguyệt san Da Vinci thì tôi hạnh phúc không sao tả được. Công việc viết lách quả là nhiều hứng thú. Tôi đã định sẽ viết tất cả những gì phim hoạt hình không thể hoặc khó lòng thể hiện thành công. Giả dụ như khi viết “gương mặt ngơ ngác như đứa bé lạc đường…”, lòng tôi đã reo lên đắc thắng với người đạo diễn phim hoạt hình trong mình, “Sao hả? Thấy thế nào, câu này khó thể hiện ra thành hình ảnh lắm!” Liệu có diễn viên nào tái hiện được đúng hình ảnh đó không? Liệu người làm phim hoạt hình có vẽ được gương mặt trông như đứa bé đi lạc không. Câu trả lời đầu tiên trong tôi là “Không thể!” Có lẽ họ sẽ tạo ra được một khuôn mặt lo lắng, nhưng để thể hiện hình ảnh so sánh trực tiếp và ngắn gọn như “đứa bé lạc đường” là một điều rất khó. Hoặc câu “Tiếng ồn ào tan học phía sau cánh cửa kia giờ chỉ như những âm thanh lạo xạo thoát ra khỏi tai nghe của ai đó” nữa, chắc chắn hình ảnh không thể diễn tả hết, tôi đã cười thầm. Khán giả sẽ không liên tưởng những âm thanh xung quanh lớp học với tiếng nhạc lọt ra ngoài từ tai nghe. Sự kết nối giữa những con chữ chính là bí quyết tạo nên thần thái sảng khoái của tiểu thuyết, tôi đã cảm nhận được điều này trong khi viết. Khi nhìn lại như thế này tôi nghĩ có lẽ cũng chỉ có mình tôi thấy hài lòng với những điều này nên trở nên phấn khích, nhưng quả thật quãng thời gian sáng tác ấy rất vui. Quay lại với cuốn tiểu thuyết, Khu vườn ngôn từ này chính là phiên bản tiểu thuyết của bộ phim hoạt hình cùng tên do tôi làm đạo diễn, công chiếu từ năm 2013. Tức là tôi tự chuyển thể tác phẩm của mình sang tiểu thuyết. Trong nguyên gốc thì bộ phim hoạt hình chỉ dài 46 phút, được kể lại từ góc nhìn của Takao và Yukino, còn trong cuốn tiểu thuyết này, tôi đã tăng số lượng nhân vật tự sự lên, kéo theo đó là sự gia tăng nội dung. Một hàm lượng nội dung thế này mà chuyển thành phim thì rất khó trình bày gọn gàng trong hai tiếng đồng hồ. Tôi mong muốn các bạn đọc đã xem phim cũng như chưa xem đều thấy thú vị khi đọc cuốn sách này.   Tôi đã viết với tâm trạng vui mừng, háo hức đến vậy, nhưng tâm trạng đó không sao duy trì mãi được. Lẽ dĩ nhiên thôi. Tôi nhận ra hình ảnh vẫn là phương tiện truyền tải tuyệt vời, và đôi khi còn có nhiều cách thể hiện thích hợp hơn. Ví dụ như khi thể hiện cảm xúc của con người, tôi chọn vẽ cảnh thành phố lúc về đêm và chèn thêm một đoạn nhạc buồn vào đó nữa. Bất cứ thời điểm nào cũng được, một khung cửa sổ, một ánh đèn vụt sáng hoặc vụt tắt… Chỉ cần như vậy thôi, hình ảnh đã tạo được cảm xúc cho người xem rồi. Cảm xúc nói chung chính là những tình cảm nảy nở từ cuộc sống thường ngày. Bởi thế đối với hình ảnh, chỉ cần ánh sáng từ một khung cửa sổ thôi cũng có thể khơi gợi vô vàn cảm xúc. Còn trong tiểu thuyết, tôi đã phải đau đầu suy nghĩ để tìm ra cách diễn đạt tương ứng. Tôi không kể cụ thể hơn được vì sẽ rất dài, nhưng trong những biện pháp ẩn dụ khác, sử dụng hình ảnh vẫn có tác dụng mạnh hơn. Đôi khi dùng hàng trang bản thảo tiểu thuyết diễn tả một vằn sóng vẫn là không đủ, nhưng đúng một cảnh trong phim hoạt hình thôi lại thể hiện xong. Hơn nữa, điểm mấu chốt hóa ra lại không liên quan gì đến kỹ thuật, điều khiến tôi trăn trở suốt, một điều hết sức đương nhiên, đó chính là việc không biết cần phải viết gì. Khi hoàn thành bản thảo, tôi thất vọng nghĩ, “Tiểu thuyết, tiểu thuyết, tiểu thuyết gia nữa, họ thật tuyệt vời, mình không tài nào đến gần được vị trí của họ.” Sau khi hoàn thành xong cuốn sách, điều cuối cùng đọng lại chính là mối tình đơn phương dành cho tiểu thuyết và phim hoạt hình lại trở nên sâu sắc hơn nữa. Tôi cũng không mong tình cảm đơn phương này biến thành tình cảm hai chiều. Đôi lúc tôi chợt nghĩ nó giống như tình cảm mà Takao dành cho Yukino. Các nhân vật khác trong quyển sách này cũng thế, dù ít dù nhiều họ đều mang theo một mối tình đơn phương. Tôi lại có dịp để nhận ra mình muốn viết về những cảm xúc như vậy của con người. Có lẽ bởi niềm khao khát một ai đó, một điều gì đó trong cô độc chính là cảm hứng để dệt nên thế giới này. Đây là điều tôi muốn diễn tả trong cuốn sách này. “Khu vườn ngôn từ là câu chuyện về một tình yêu (孤悲 cô bi) thậm chí còn xa xưa hơn cả tình yêu (愛 ái).” Đây là câu tiêu đề cho bộ phim hoạt hình gốc. Có lẽ rất nhiều người thời nay khi đọc câu này vẫn thấu hiểu một cách sâu sắc. Bởi chúng ta biết rằng ở thời đại của Vạn diệp tập, cách đây một nghìn ba trăm năm, tình yêu không phải là “ái” mà là “cô bi”, tức “nỗi buồn khi thương nhớ một người trong hiu quạnh”38. Trong thời gian viết tác phẩm, tôi đã học hỏi được từ rất nhiều người. Đầu tiên phải nhắc đến cô Kurazumi Kaoru, người đã giúp tôi chọn dùng những bài phù hợp trong Vạn diệp tập. Thứ đến là những nghệ nhân làm giày, thầy cô và học sinh sinh viên trong các trường cấp ba và đại học, nhân viên kinh doanh trong các doanh nghiệp chế tạo… Câu chuyện của mọi người đã đem đến sức nặng cho cuốn sách này. Tôi chân thành cảm ơn tất cả. Ngoài ra tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến biên tập của tôi. Ochiai Chiharu, người đã luôn ủng hộ cho tác phẩm của tôi từ phim đến truyện bằng tất cả tình yêu và sự quan tâm sâu sắc. Tôi viết tác phẩm này trong lúc bộ phim Khu vườn ngôn từ được công chiếu, thành ra hầu hết bản thảo đều thực hiện trên đường công tác. Dù không có nhiều liên hệ với nội dung truyện nhưng tôi đã đi viết ở rất nhiều nơi, ghi lại cũng hay, nào Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Sri Lanka, Đài Loan, Nga, Scotland, Pháp, rồi Việt Nam. Tôi đến đó chủ yếu để tham dự các liên hoan phim và sự kiện về phim hoạt hình, cũng có những điểm đến là để tìm bối cảnh cho phim, nhưng khoảng thời gian ở khách sạn cũng như di chuyển trên máy bay tôi đều dành cho viết. Và đoạn kết truyện tôi đã viết khi ngồi trên chuyến tàu điện vượt qua biển Yosan. Có lẽ rằng những khung cảnh lướt qua những khung cửa sổ đó cũng đã thấm vào từng trang văn của tôi. Cuối cùng, bạn đọc thân mến, những người đang cầm trên tay cuốn sách và lần lượt lật giở, tôi chân thành cảm ơn các bạn. Tháng Hai năm 2014 Shinkai Makoto    Ầm ì sấm dội cuồn cuộn mây trôi Mưa rơi chăng tá? để ta lưu người…   Mời các bạn đón đọc Khu Vườn Ngôn Từ của tác giả Shinkai Makoto.