Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám (Toan Ánh)

Muốn tìm về quá khứ, đã có Nếp cũ. Còn bạn muốn Toan Ánh có chút "phù phiếm" và rộn ràng, hãy đến với Hội hè đình đám.

Tiếp tục hành trình khai quật "lối cũ lề xưa" trong đời sống của người Việt Nam, trong Hội hè đình đám, Toan Ánh sẽ nói về những niềm vui của một thời đơn sơ, những ý niệm tôn giáo lẫn những nỗi niềm khao khát gửi gắm, những nỗi sợ hãi và cả những sự ghi ơn,...

Người nông dân cày cấy ròng rã một năm trời để mong đến mùa xuân, để hội làng lại "về" cho gái trai gặp gỡ, cho những cụ già xúng xính áo hoa... Dù là một tác phẩm mang nhiều tính nghiên cứu và thu nhập, tập sách vẫn rộn rã không khí hân hoan của buổi "hội hè".

Vừa mang tính tâm linh trang nghiêm vừa là chốn vui chơi trần tục, hội hè là sự phản chiếu thú vị và đa chiều nhất về văn hóa người Việt Nam xưa. Xin giới thiệu cùng bạn đọc một cách tiếp cận thi vị với Hội hè đình đám.***

Chúng ta phải trở lại thời tiền-đệ-nhị thế-chiến, hay gần nhất cũng phải từ đầu năm Ất-Dậu (1945) trở về trước, cái thời mà phong tục tập quán của dân ta chưa chịu nhiều sự biến-đổi trước áp-lực của thời cuộc, với những sinh hoạt cổ truyền theo tổ-chức xã-hội trong một nếp sống nông nghiệp của tiền-nhân. Những phong-tục tập-quán này biểu-lộ dân-tộc tính Việt Nam với nhiều cái hay cái đẹp, nhiều điều cao-khiết lành-mạnh ngày nay đã dần phai mờ trước cuộc hưng-vong của đất nước. Muốn tìm lại tất cả những cái hay đẹp cao-khiết lành-mạnh ấy, tuy chỉ mới trải qua mấy chục năm, mà sao coi như xa-xôi lắm, và do đó cũng không phải là dễ dàng. Tìm mua: Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám TiKi Lazada Shopee

Trong tập sách này, chúng tôi muốn nói tới những Hội-hè Đình-đám của dân ta, những hội-hè đã từng mua vui cho người dân, đã từng chứng tỏ ý niệm thiêng-liêng tôn-giáo của người dân qua lễ-nghi, đã từng nêu cao lòng biết ơn của người dân đối với các bực anh-hùng đất nước cũng như đối với các vị thần-linh, nhất là các vị Thành Hoàng đã che chở phù-hộ cho dân mỗi xã, và nhất là đã từng là những dịp để người dân ôn lại lễ-nghi, nhớ lại phong-tục.

Những Hội-hè đình-đám lại là những dịp để thắt chặt thêm tình thân giữa dân làng, và có khi giữa dân các làng lân-cận bởi những tục giao-hảo hoặc bởi hội-hè đình-đám làng này đã kéo dân làng khác tới chung vui.

Ngày nay ở miền Trung và miền Nam, một đôi nơi, nhân những ngày thần kỵ vẫn còn tổ-chức những cuộc tế-lễ, những trò vui, tuy về mọi phương-diện lễ-nghi, du-hí cũng đã tỉnh-giảm nhiều.

Được hân hạnh sống những năm đầu hiểu biết ở một vùng quê, thời đó, mặc dầu là dưới thời Pháp-thuộc, người dân Việt-Nam còn căm-hờn người Pháp đang thống-trị đất nước, người ta vẫn không bỏ qua hội hè, chúng tôi đã được dịp đi dự nhiều hội quê, nhất là những hội ở các tỉnh Bắc-Ninh, Bắc-Giang, Vĩnh-Yên, Phúc-Yên, Hà-Đông, Nam-Định và Thái-Bình, thời đó cách đây tuy xa, nhưng ngày nay hồi tưởng lại có lúc chúng tôi tưởng như mình đang đứng trước một cây đu, đang nghe kể hạnh trong chùa, đang xem một đám vật, đang dự một đám hát quan-họ…

Nhớ lại các hội quê, tất cả cái phong-vị hội-hè đình-đám như trở lại trong đầu óc chúng tôi. Và giờ đây, viết những dòng chữ này, chúng tôi muốn bạn đọc cùng thấy với chúng tôi cái không khí của làng xóm quê-hương thuở xưa với bóng cờ ngũ sắc, với những tiếng trống thờ, với đám trai gái vùng quê, quần áo mới màu Tết lũ-lượt dắt-dìu tới những hội làng, vẻ mặt hớn hở, vừa đi vừa nói cười hân-hoan.

Hội quê có hội Xuân và hội Thu, hai thời gian mà người dân quê được nghỉ-ngơi rảnh-rỗi, Xuân sau khi đã cấy chiêm và Thu sau khi đã thoát vụ lụt con nước mã và công việc cày cấy vụ lúa tháng Mười cũng đã xong.

Trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM, chúng tôi đã trình bầy về đạo thờ Thần, chúng tôi coi như một tôn-giáo hoàn-toàn Việt Nam, và chính do ở sự thờ-phụng thần-linh mà có HỘI HÈ ĐÌNH ĐÁM. Nếu các bạn không lấy làm trở ngại, chúng tôi xin phép coi tập sách này như tập Phụ lục của Bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT NAM.

Về Hội-hè đình-đám mùa Xuân, ca-dao ta có câu:

Tháng Giêng ăn Tết ở nhà,

Tháng Hai cờ bạc, Tháng Ba hội hè.

Câu ca-dao này đã nói lên đủ sự nhàn-rỗi của người dân quê, nhất là người dân quê miền Bác trong ba tháng Xuân. Lúc ấy là lúc cấy chiêm đã xong, mùa gặt tháng Năm lại chưa tới, người dân quê có thì giờ giải-lao, ăn Tết và hội hè.

Sống ở một nơi đất hẹp dân đông, riêng ở miền Bắc và miền Trung lại thêm lắm đồi nhiều núi, kỹ-nghệ không có gì, suốt năm người dân quê vất-vả với nông-nghiệp, đầu tắt mặt tối, làm buổi hôm lo buổi mai, hết công việc đồng áng đến công việc vườn tược, rất ít dịp nghỉ ngơi để cùng nhau vui chơi ca hát, ăn uống. Hàng năm chỉ có dịp Xuân là công việc đồng-áng nhàn-rỗi, công việc vườn-tược thưa-thớt, người dân quê có thể cùng nhau chia vui để hưởng thú thanh-bình.

Hơn nữa, Xuân tới nghĩa là Đông đã qua, cái mùa rét mướt đã hết, tiết Xuân ấm-áp đã khiến con người hết phải lo vì mưa phùn gió bấc, hết phải lo vì trời lạnh đêm dài, và với mưa Xuân, người ta cũng hết lo đất nẻ ruộng khô, hết lo gió lạnh làm cho cây mạ héo vàng. Người ta có thể nghỉ-ngơi để hưởng thụ mừng xuân, mừng năm mới.

Hơn nữa từ ngàn xưa, người Việt-Nam lấy gia-đình làm trọng, lấy quây-quần đoàn-tụ làm hơn, nên trong những dịp giải-lao hưởng thụ, người ta không nghỉ-ngơi riêng-rẽ, và trong lúc vui, người ta muốn được vui chung cùng bạn hữu, cùng họ hàng thân thuộc, cùng mọi kẻ quen người biết ở làng trên xã dưới. Bởi vậy nhân dịp Tết với mùa Xuân, nơi nơi, người ta đều kéo hội để cho dân chúng trong thôn ngoài xã hàng tổng và có khi hàng huyện được cùng nhau chung vui gặp-gỡ.

Trong các hội Xuân có hai loại: hội đình và hội chùa. Xin kể gộp cả vào hội đình các hội ở đền, miếu, là những hội tổ chức ở ngay những nơi thờ tự này hoặc ở những khoảng đất chung quanh, nhân dịp khánh-tiết tân-xuân hoặc nhân dịp kỵ-nhật các vị Thành-hoàng, có thể có những trò vui được tổ-chức vào dịp hội, không ở gần các nơi thờ-tự trên, ở một chỗ khác trong làng. Hội chùa tổ-chức tại Chùa làng nhân dịp tân xuân hoặc vào ngày giỗ các vị sư tổ.

Ngày hội tuỳ theo mỗi làng thay đổi, có làng mở hội sớm, có làng mở hội muộn, có làng bắt đầu mở hội từ trong năm cho đến ngoài giêng mới hết, có làng sang tháng ba mới mở hội, nhưng thường tháng giêng là nhiều hội-hè hơn cả.

Dù trong hội Đình hay hội Chùa, dù hội kéo trong năm hay ngoài Xuân, bao giờ ở hội cũng có rất nhiều trò vui để dân làng và khách trẩy hội giải-trí. Có những trò vui chung thông thường cho mọi hội như: rún đu, cờ bỏi, đốt pháo… lại có những trò vui riêng của từng địa phương: đánh phết, hát quan-họ, kéo co, bơi chải… Trong các thú vui chung có những thú dành riêng cho người già như tổ-tôm điếm, cờ bỏi, thi thơ,… và cũng có những trò vui riêng cho bạn trẻ nam nữ thanh niên, những trò vui này rất nhiều và rất thú vị: đánh phết, đánh trung-bình-tiên, hát quan-họ, hát đúm, thổi cơm thi, nấu cô thi, bơi thuyền, đánh vật… Các cụ bà trong ngày hội, dù là hội đình, có thú đi chùa, nghe kể hạnh…

Đấy là chúng tôi không nhắc tới những cuộc tế lễ rước xách chúng tôi đã trình bày trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM, trong chương ĐẠO THỜ THẦN.

Về hội hè đình đám mùa thu, thì đây là thời gian dân quê vừa thắng trận phòng đê tháng bảy với con nước Mã nguy-hiểm hàng năm. Vả lại tiết thu mát-mẻ, trời thu trong sáng, tháng tám lại nhằm vào thu-tế, các làng xã mở hội, vào đám dường như muốn ăn mừng đã tránh được nạn lụt, và để tạ ơn thần-linh đã bảo hộ dân làng, mùa tháng mười sẽ được bội thu. Đã vất-vả suốt từ tháng năm, sau vụ gặt chiêm, nay được dịp cấy mùa đã xong, công việc đồng áng đã vơi, người dân quê cũng như dịp xuân tới, phải nghỉ-ngơi và phải hưởng những ngày nghỉ-ngơi. Trời thu đẹp báo hiệu một vụ lúa mùa tốt đẹp, gió thu mát, trăng thu trong như tăng sự hân-hoan của con người trước viễn-ảnh thóc lúa đầy bồ, người người no ấm.

Mùa Xuân người ta đã hội-hè, mùa thu người lại hội-hè. Hoặc giả có làng nào, mùa Xuân chưa đình đám ăn chơi, thì mùa thu nhất là tháng tám, là dịp để làng vào đám, dân làng nghỉ ngơi hội-hè. Cũng những cuộc tế lễ rước xách như mùa Xuân, với những trò vui thay đổi tuỳ theo mỗi địa-phương.

Trình bày về hội-hè đình-đám của mùa Xuân cũng như mùa Thu, chúng tôi chỉ nói tới những hội-hè chúng tôi biết, lẽ tất nhiên không là bao nhiêu so với số hội hè hằng có xưa ở vùng quê suốt từ Nam tới Bắc. Biết tới đâu chúng tôi nói tới đó, còn những điều không biết, chúng tôi xin nhường lại cho những bậc biết hơn.

Ngoài những hội hè đình đám mùa Xuân và Thu, rải rác quanh năm cũng vẫn có những hội làng ở một số các xã thôn, như hội đền Phù-Đổng Thiên vương ở làng Phù-Đổng, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc-Ninh vào ngày mồng 9 tháng 4; Hội bơi thuyền trên sông Tiểu Đáy của làng Yên-Hạ, tục gọi là làng Me tỉnh Vĩnh Yên vào thượng tuần tháng 5, hội đền Tả quận Lê-văn-Duyệt xã Bình-Hoà, Tỉnh Gia-Định vào ngày 30 tháng 7 v.v… Những ngày tháng của hội này theo kỵ-nhật của vị thần linh được dân làng thờ-phụng.

Trong các hội quê, chúng ta có thể phân biệt:

- Các hội về lịch-sử liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử được dân làng thờ-phụng làm thần-linh, hoặc liên-quan tới một sự-kiện lịch-sử được dân chúng kỷ-niệm. Hội đền Hai Bà, Hội đền Đức Hưng-Đạo-Vương là những hội liên-quan tới các nhân-vật lịch-sử, giỗ Trận Đống-Đa là hội liên-quan tới sự kiện lịch sử, vua Quang Trung đại thắng quân Thanh của Tôn-Sĩ-Nghị.

- Các hội về Tôn-giáo. Trong các hội này thường là hội Chùa như hội Chùa Thầy, tỉnh Sơn-Tây, hội Chùa Hương, tỉnh Hà-Đông. Lễ vía bà núi Sam, tỉnh Châu-Đốc, lễ kỷ niệm đức Huỳnh Giáo-Chủ ở Thánh-Địa Hòa-hảo cũng là những hội-hè về tôn giáo.

- Các hội hè về phong-tục. Đây có thể là một hội tại một làng thờ một nhân vật lịch-sử không mấy quan trọng, hoặc ở một ngôi chùa làng có những tục lạ của dân chúng từng địa phương. Tất cả những hội nào, không xếp vào hai loại hội trên chúng tôi đều xếp vào loại thứ ba này.

Viết về mỗi hội, chúng tôi sẽ cố gắng lần-lượt trình bày:

- Nơi và ngày có hội

- Thân-tích

- Các trò vui trong ngày hội, ngoại trừ những cuộc tế lễ và rước xách thông thường đã có nói trong bộ TÍN NGƯỠNG VIỆT-NAM.

Chúng tôi cũng hiểu, với sự hiểu-biết nông cạn của chúng tôi, tất-nhiên có những điều thiếu sót và có cả những sự sai lầm, nhưng dù sao chúng tôi cũng cố gắng đem hết thiện-chí để mong đạt được tối đa những điều đáng viết về mỗi hội. Để bớt những sự thiếu sót chúng tôi đã tham khảo xem tài liệu ghi trong các sách báo chúng tôi đã được dịp đọc qua, ngoài những điều tai nghe mắt thấy xưa kia ở các hội quê.

Saigon, ngày 17 tháng 5 năm 1969

TOAN ÁNHDưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Toan Ánh":Nếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển HạNếp Cũ - Tín Ngưỡng Việt Nam Quyển ThượngNếp Cũ - Lễ Tết, Hội, HèMúa Thiết Lĩnh... Ném Bút Chì...Nếp Cũ, Hội Hè Đình ĐámNếp XưaPhong Tục Việt NamNếp Cũ - Làng Xóm Việt NamNếp Cũ - Tiết Tháo Một ThờiNho Sĩ Đô VậtNếp Cũ - Bó Hoa Bắc Việt

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Nếp Cũ, Hội Hè Đình Đám PDF của tác giả Toan Ánh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan (Nguyễn Công Hoan)
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, rất ngắn, cấu trúc gọn và đầy tính hài hước. Ngôn ngữ của ông giản dị, chữ dùng chọn lọc chính xác gợi những hình ảnh đậm nét, dí dỏm và thông minh. Gấp trang sách, người đọc cảm thấy không thể chịu đựng nổi nếu những cảnh huống như vừa đọc còn tiếp tục diễn ra trong cuộc sống con người. Nghệ thuật trào phúng của ông không chỉ bộc lộ rõ ưu thế trong truyện ngắn eBook Tuyển Tập Nguyễn Công Hoa gồm có:Bạc đẻ Báo hiếu: trả nghĩa cha Báo hiếu: trả nghĩa mẹ Chiếc quan tài Con ngựa già Tìm mua: Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan TiKi Lazada Shopee Công dụng của cái miệng Cụ chánh bá mất giày Đào kép mới Đồng hào có ma Hai cái bụng Hai thằng khốn nạn Kép Tư Bền Ngậm cười Ngựa người và người ngựa Người thứ ba Người vợ lẽ bạn tôi Oẳn tà roằn Phành phạch Răng con chó của nhà Tư sản Sáng, chị phu mỏ Sáu mạng người Thằng ăn cắp Thằng điên Thanh! Dạ! Thật là phúc Thế là mợ nó đi tây Thịt người chết Tinh thần thể dục Tôi cũng không hiểu tại làm sao Vợ Xin chữ cụ nghè Xuất giá tòng phu Nguyễn Công Hoan được tăng lương sau khi… tạ thế? Ái tình tiểu thuyết Anh xẩm Bà chủ mất trộm Bà lái đò Biểu tình Bố anh ấy chết Cái lò gạch bí mật Cái nạn ô-tô Cái tết của những nhà đại văn hào Cái thú tổ tôm Cái ví ấy của ai Cái vốn để sinh nhai Cấm chợ Cậu ấy may lắm đấy Cây mít Chiếc đèn pin Lại chuyện con mèo Hé! Hé! Hé! Chính sách thân dân Cho tròn bổn phận Chuyện chó chết cái thâm ý của anh chàng sợ vợ Chuyện của cô ấy Cô Kếu, gái tân thời Đàn bà là giống yếu *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Công Hoan":Bước Đường CùngKép Tư BềnLá Ngọc Cành VàngLệ DungMột Đứa Con Đã Khôn NgoanNgười Ngựa, Ngựa NgườiNợ NầnOẳn Tà RroằnTấm Lòng Vàng Và Ông ChủTắt Lửa LòngTiểu Thuyết Nguyễn Công HoanTuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công HoanBơ VơDanh TiếtÔng ChủTấm Lòng VàngTruyện Ngắn - Nguyễn Công HoanĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan PDF của tác giả Nguyễn Công Hoan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan (Nguyễn Công Hoan)
Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, rất ngắn, cấu trúc gọn và đầy tính hài hước. Ngôn ngữ của ông giản dị, chữ dùng chọn lọc chính xác gợi những hình ảnh đậm nét, dí dỏm và thông minh. Gấp trang sách, người đọc cảm thấy không thể chịu đựng nổi nếu những cảnh huống như vừa đọc còn tiếp tục diễn ra trong cuộc sống con người. Nghệ thuật trào phúng của ông không chỉ bộc lộ rõ ưu thế trong truyện ngắn eBook Tuyển Tập Nguyễn Công Hoa gồm có:Bạc đẻ Báo hiếu: trả nghĩa cha Báo hiếu: trả nghĩa mẹ Chiếc quan tài Con ngựa già Tìm mua: Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan TiKi Lazada Shopee Công dụng của cái miệng Cụ chánh bá mất giày Đào kép mới Đồng hào có ma Hai cái bụng Hai thằng khốn nạn Kép Tư Bền Ngậm cười Ngựa người và người ngựa Người thứ ba Người vợ lẽ bạn tôi Oẳn tà roằn Phành phạch Răng con chó của nhà Tư sản Sáng, chị phu mỏ Sáu mạng người Thằng ăn cắp Thằng điên Thanh! Dạ! Thật là phúc Thế là mợ nó đi tây Thịt người chết Tinh thần thể dục Tôi cũng không hiểu tại làm sao Vợ Xin chữ cụ nghè Xuất giá tòng phu Nguyễn Công Hoan được tăng lương sau khi… tạ thế? Ái tình tiểu thuyết Anh xẩm Bà chủ mất trộm Bà lái đò Biểu tình Bố anh ấy chết Cái lò gạch bí mật Cái nạn ô-tô Cái tết của những nhà đại văn hào Cái thú tổ tôm Cái ví ấy của ai Cái vốn để sinh nhai Cấm chợ Cậu ấy may lắm đấy Cây mít Chiếc đèn pin Lại chuyện con mèo Hé! Hé! Hé! Chính sách thân dân Cho tròn bổn phận Chuyện chó chết cái thâm ý của anh chàng sợ vợ Chuyện của cô ấy Cô Kếu, gái tân thời Đàn bà là giống yếu *** Nguyễn Công Hoan quê ở làng Xuân Cầu, tổng Xuân Cầu, huyện Văn Giang, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Ông sinh trong một gia đình quan lại xuất thân Nho học thất thế. Trong gia đình, từ nhỏ Nguyễn Công Hoan đã được nghe và thuộc rất nhiều câu thơ, câu đối và những giai thoại có tính chất trào lộng, châm biếm, đả kích tầng lớp quan lại. Điều đó ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong cách văn chương của ông sau này. Ông có ba người em trai đều tham gia hoạt động cách mạng và giữ cương vị quan trọng là Nguyễn Công Miều (Lê Văn Lương) Ủy viên Bộ Chính trị, Nguyễn Công Bồng nguyên Phó Tổng Giám đốc Nha Công an và Nguyễn Công Mỹ nguyên Tổng Giám đốc đầu tiên của Nha bình dân học vụ. Năm 1926, ông tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, làm nghề dạy học ở nhiều nơi (như Hải Dương, Lào Cai, Nam Định,…) cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra. Nguyễn Công Hoan viết văn từ sớm, tác phẩm đầu tay Kiếp hồng nhan (viết năm 1920, được Tản Đà thư điếm xuất bản năm 1923) là một đóng góp cho nền văn xuôi Việt Nam bằng chữ Quốc ngữ. Sau Cách mạng tháng Tám, ông giữ chức Giám đốc kiểm duyệt báo chí Bắc Bộ, kiêm Giám đốc Sở Tuyên truyền Bắc Bộ. Sau đó ông gia nhập Vệ quốc quân, làm biên tập viên báo Vệ quốc quân, giám đốc trường Văn hóa quân nhân, chủ nhiệm và biên tập tờ Quân nhân học báo. Ông là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1948. Năm 1951 ông làm việc ở Trại tu thư của ngành giáo dục, biên soạn sách giáo khoa và sách Sử Việt Nam hiện đại từ Pháp thuộc đến năm 1950 dùng cho lớp 7 hệ 9 năm. Ông cũng viết bài cho báo Giáo dục nhân dân, cơ quan ngôn luận đầu tiên của Bộ Quốc gia giáo dục lúc bấy giờ. Từ sau năm 1954, ông trở lại nghề văn với cương vị Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam (khóa đầu tiên 1957-1958), ủy viên Ban Thường vụ trong Ban Chấp hành Hội nhà văn Việt Nam các khóa sau đó. Ông cũng là ủy viên Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam, chủ nhiệm tuần báo Văn (tiền thân của báo Văn nghệ). Nguyễn Công Hoan mất ngày 6 tháng 6 năm 1977 tại Hà Nội. Tên ông được đặt cho một phố ở Hà Nội, đoạn giữa hai phố Ngọc Khánh và Nguyễn Chí Thanh. Nguyễn Công Hoan được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Công Hoan":Bước Đường CùngKép Tư BềnLá Ngọc Cành VàngLệ DungMột Đứa Con Đã Khôn NgoanNgười Ngựa, Ngựa NgườiNợ NầnOẳn Tà RroằnTấm Lòng Vàng Và Ông ChủTắt Lửa LòngTiểu Thuyết Nguyễn Công HoanTuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công HoanBơ VơDanh TiếtÔng ChủTấm Lòng VàngTruyện Ngắn - Nguyễn Công HoanĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Tuyển Tập Truyện Ngắn Nguyễn Công Hoan PDF của tác giả Nguyễn Công Hoan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chuyện Kể Của Chú Ngựa Đen (Anna Sewell)
"Chuyện kể của chú Ngựa Đen rất phổ biến ở Anh. Truyện đã làm Anna Sewell (1820 - 1878) nổi tiếng và là tác phẩm quý của văn học Anh thế kỉ XIX về loài vật" (NXB Kim Đồng) Tác phẩm gồm 31 chương, dưới đây trích giới thiệu chương 29: THỜI KÌ GIAN KHỔ Tôi không ở nhà người làm bánh mì lâu. Người làm bánh mì không phải là một người xấu, nhưng người giúp việc cho ông ta là một gã ngu ngốc. Đúng thế, gã là một kẻ ngu ngốc! Tôi không thấy xấu hổ khi dùng từ ấy bởi vì gã quả là một kẻ ngu ngốc. Gã không biết một tí gì về ngựa. Gã cho rằng, một con ngựa cũng như một cái máy hơi nước vậy. Gã chất hàng lên xe bao giờ cũng rất nặng, phải hai con ngựa mới kéo nổi. Gã bảo phải làm như thế để tranh thủ thời gian. "Trước hết phải là công việc - Gã thường nói - Nhanh lên! Không nên nghĩ về những con ngựa". Sau này, tôi nghe nói là gã đã làm hại nhiều con ngựa theo cách ấy. Những người đánh xe dùng dây cương ngắn và cái đó làm cho công việc của tôi càng khó khăn hơn. Công việc như vậy chẳng mấy chốc đã làm cho sức khoẻ của tôi giảm sút. Sau ba hoặc bốn tháng gì đó, tôi chỉ có thể chạy một cách chậm chạp, nặng nề. Do đó, người làm bánh mì quyết định bán tôi cho một người mua ngựa khác. Tìm mua: Chuyện Kể Của Chú Ngựa Đen TiKi Lazada Shopee Than ôi! Nơi ở mới của tôi lại càng tồi tệ hơn. Tôi sẽ không kể lại cuộc sống của tôi ở đây. Sẽ hoàn toàn đầy đủ đầy đủ nếu tôi nói rằng ông chủ mới của tôi nên gọi là ông Lột Da. Ông ta thuộc loại người như ông chủ của Sam rách rưới và Củ Gừng đáng thương. Tôi sẽ không bao giờ quên con người ấy. Ông ta có đôi mắt đen, cái mũi diều hâu, mồm đầy răng như răng nanh của loài chó. Tất cả mọi người đều ghét ông ta và ông ta cũng ghét tất cả mọi người. Ông ta chỉ yêu có mỗi thứ là tiền. Khi tôi quỵ và không thể làm được việc gì nữa, ông ta đưa tôi đến một bác sĩ thú y. Ông ta làm thế vì ông ta sợ mất món tiền đã mua tôi. Ông bác sĩ thú y khám cho tôi rất cẩn thận và nói: - Con ngựa này không có bệnh gì. Đây là kết quả của những công việc quá nặng nhọc. Con vật đáng thương này không thể đi được nữa. Sức khoẻ của nó đã bị giảm sút quá mức! Nếu ông cho nó nghỉ ngơi sáu tháng, nó sẽ lại có thể làm việc được đấy. - Ngựa không làm việc được thì chẳng khác gì con chó. Tôi chỉ nuôi một con ngựa khi nó có thể làm việc được mà thôi. Nếu nó không làm việc được và không kiếm ra tiền cho tôi thì tôi bán da nó để lấy tiền vậy. Công việc là công việc. Rất may mắn cho tôi là ông bác sĩ khuyên Lột Da không nên giết tôi ngay. - Sẽ tốt hơn nhiều - ông bác sĩ nói - nếu ông cho nó nghỉ ngơi và ăn uống khá, trong vòng mười ngày nó sẽ thành một con ngựa đẹp. Tôi chắc chắn ông sẽ kiếm được nhiều tiền hơn là ông bán da nó lúc này! Những lời ấy hình như đúng ý Lột Da. Ông cho tôi ăn tốt và chăm sóc tôi chu đáo. Mười ngày hoàn toàn nghỉ ngơi, nhiều lúa mạch và cỏ ngon đã giúp tôi tốt hơn bất cứ một thứ thuốc nào. Tôi cảm thấy khoẻ hơn nhiều. Thậm chí, tôi cho rằng, những ngày này, tôi được sống tốt hơn những con chó. Ngày thứ mười hai, Lột Da đem tôi đến một phiên chợ ngựa cách không xa Luân Đôn. Tôi nghĩ "gắng lên, Giắc! Bất cứ một chỗ nào cũng sẽ tốt hơn là chỗ của mày hiện tại". Vì vạy, tôi ngẩng cao đầu lên và hi vọng những điều tốt đẹp sẽ đến. Phan Trọng Cầu dịchĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chuyện Kể Của Chú Ngựa Đen PDF của tác giả Anna Sewell nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bí Thư Tỉnh Ủy (Vân Thảo)
Nhà văn Vân Thảo và tiểu thuyết “Bí thư tỉnh ủy” Với nhà văn Vân Thảo, người đã trải qua 40 năm mặc áo lính, chiến tranh là đề tài xuyên suốt trong các tiểu thuyết và truyện ngắn của ông. Ông từng viết về đề tài nông thôn với vấn đề nông thôn trong thời kỳ đổi mới như: “Vui buồn sau lũy tre làng”, “Hương đất”... nhưng là kịch bản phim truyền hình. Trong năm 2009, ông cho ra mắt kịch bản phim “Bí thư tỉnh ủy” với độ dài 50 tập, sau đó chuyển thể kịch bản này thành tiểu thuyết. “Bí thư tỉnh ủy” là tiểu thuyết đầu tay của ông viết về đề tài nông thôn. Dưới đây là cuộc trò truyện với tác giả về cuốn tiểu thuyết này. - Xin ông cho biết, tiểu thuyết “Bí thư tỉnh ủy” được “thai nghén” từ bao giờ? Nhà văn Vân Thảo: Thật khó trả lời tôi “thai nghén” tiểu thuyết “Bí thư tỉnh ủy” từ bao giờ. Chuyện khoán hộ của ông Kim Ngọc tôi biết từ những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Thời ấy cứ mỗi lần học nghị quyết, người ta lôi chuyện khoán hộ của ông Kim Ngọc ra làm dẫn chứng cho hành động đi trái lại con đường tập thể hóa xã hội chủ nghĩa của Đảng. Đưa nông dân trở về con đường làm ăn riêng lẻ của chủ nghĩa tư bản. Rồi mọi chuyện bẵng đi hàng chục năm thấy không ai còn nhắc đến chuyện ấy nữa. Vào khoảng năm 1995 hay 1996, vô tình tôi đọc một bài báo của hai tác giả Nguyên Bảng và Hải Thanh đăng trên một số báo xuân nói về chuyện khoán hộ của ông Kim Ngọc. Sau đó tôi đọc một bài báo khác của nhà báo Xuân Ba đăng trên báo An ninh thế giới, bấy giờ trong tôi bắt đầu xuất hiện ý nghĩ phải viết một cái gì đó về nhân vật này. Nhưng viết gì và viết như thế nào thì tôi vẫn chưa nghĩ được, vì tôi không hiểu biết bao nhiêu về ông Kim Ngọc. Giữa năm 2007 nhà văn Thùy Linh, Phó giám đốc Trung tâm sản xuất phim truyền hình (VFC) gọi điện bảo muốn làm một bộ phim dài tập lấy nguyên mẫu từ bí thư Kim Ngọc, liệu tôi có nhận viết kịch bản được không? Được lời như cởi tấm lòng, tôi nhận lời ngay. Trong quá trình thâm nhập thực tế lấy tài liệu để viết kịch bản, trong tôi cũng hình thành ý định sẽ làm một cuốn tiểu thuyết về nhân vật Kim Ngọc. Tôi muốn nói điều này, nếu cuốn tiểu thuyết của tôi thành công ít hay nhiều thì tôi cũng cám ơn nhà văn Thùy Linh. Nếu như không có cuộc hành hương tìm lại hình ảnh nhân vật Kim Ngọc thì không bao giờ tôi viết được cuốn tiểu thuyết này. Tìm mua: Bí Thư Tỉnh Ủy TiKi Lazada Shopee - Ông có thể chia sẻ những khó khăn và thuận lợi khi ông viết cuốn tiểu thuyết này? Nhà văn Vân Thảo: Nói về thuận lợi thì phải nói sau ba tháng tôi sống ở tỉnh Vĩnh Phúc, được sự ủng hộ nhiệt tình của Tỉnh ủy, sự giúp đỡ tận tình của chính quyền và nhân dân ở các địa phương, tôi đã có trong tay những tư liệu vô cùng quý giá của thời kỳ diễn ra sự kiện khoán hộ. Tuy nhiên, do tôi phải viết kịch bản phim trước khi viết tiểu thuyết nên phải lúng túng mất một thời gian mới từ bỏ được lối tư duy của phương pháp viết kịch bản điện ảnh trong đầu để lấy lại tư duy của phương pháp viết tiểu thuyết. Đại thể là khi viết kịch bản, phương pháp chủ yếu là chi tiết hành động. Qua hành động để bộc lộ được tính cách nhân vật. Còn tiểu thuyết đi vào miêu tả chiều sâu của nhân vật. Chỉ tính việc loại bỏ hơn 1.300 trang của kịch bản xuống còn khoảng 600 trang của tiểu thuyết đã là một việc làm rất vất vả rồi. Bỏ chi tiết nào, lấy chi tiết nào đôi khi phải đắn đo cân nhắc mãi mới dám xóa. Tâm lí mà nói, bỏ chi tiết nào cũng thấy tiếc...Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bí Thư Tỉnh Ủy PDF của tác giả Vân Thảo nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.