Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đoạn Đầu Đài - Tchinguiz Aitmatov

Tiểu thuyết gia Kyrgyz - người khiến cả thế giới biết đến đất nước Trung Á nhỏ bé, lắm núi nhiều đồi của mình qua những tác phẩm về cuộc sống thường nhật dưới thời Xô viết. Aitmatov bắt đầu nổi tiếng từ năm 1958 với cuốn tiểu thuyết Jamilya. Lấy bối cảnh Thế chiến II, tác phẩm là câu chuyện về một phụ nữ trẻ người Kyrgyz dám bỏ chồng để chạy theo một cựu quân nhân. Jamilya từng làm dấy lên những cuộc tranh luận tại cộng đồng Hồi giáo cũng như ở các nước tồn tại nam quyền về việc liệu một phụ nữ có nên bỏ chồng vì một người đàn ông khác. Tuy nhiên, nhà thơ Pháp nổi tiếng Louis Aragon ca ngợi, Jamilya là “thiên tình sử hay nhất mọi thời đại”. Trong những sáng tác khác, Aitmatov miêu tả cuộc sống con người dưới thời Xô viết. Ông đặc biệt chú trọng đến những thân phận từng bước bị biến thành nô lệ, bị nô dịch hóa. Aitmatov là nhà văn quyết liệt bảo vệ sự tồn tại và phát triển độc lập của nền văn hóa và ngôn ngữ ở những quốc gia không nói tiếng Nga trong khối Xô viết. Trong cuốn Một ngày dài hơn thế kỷ, nhà văn xây dựng một nhân vật giết chết mẹ mình vì không còn nhớ ra bà. Nhiều sáng tác của Aitmatov đã được dựng thành phim. Trong đó Người thầy đầu tiên - bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của ông, dưới bàn tay của đạo diễn Nga nổi tiếng Andrei Konchalovski - đã trở thành một tác phẩm điện ảnh lay động lòng người tại nhiều quốc gia trên thế giới. Sau năm 1991, tiểu thuyết của Aitmatov được dịch và phổ biến rộng rãi tại phương Tây. Nhà văn có thêm hàng triệu độc giả, đặc biệt là tại Đức. Là một trong số hiếm hoi những người Kyrgyz có danh tiếng vượt ra khỏi biên giới quốc gia 5 triệu dân của mình, Aitmatov là nhân vật có ảnh hưởng đặc biệt trong đời sống chính trị Kyrgyzstan. Sự ủng hộ của nhà văn dành cho Askar Akayev đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Akayev trở thành Tổng thống Kyrgyzstan nhiệm kỳ 1990-2005. Chingiz Torekulovich Aitmatov sinh ngày 12/12/1928 tại làng Sheker, vùng tây bắc Kyrgyzstan. Năm 1935, gia đình ông chuyển đến Matxcơva, Nga. 3 năm sau, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Trong văn nghiệp của mình, Aitmatov từng đoạt giải thưởng Lênin (1963) và 3 giải thưởng Nhà nước (1968, 1977, 1983). Tuy đoạt rất nhiều giải thưởng và những vinh quang văn học nhưng trước sau, Aitmatov, theo đánh giá của nhà văn Nga Viktor Yerofeyev, vẫn là một con người “trung thực, khiêm nhường và liêm khiết”. *** Khi Chinghiz 10 tuổi, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Tiểu thuyết Đoạn đầu đài là tác phẩm lớn cuối cùng, cũng là tác phẩm tổng kết kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật của Aitmatov. Đoạn đầu đài chứa đựng những nét đặc biệt trong tư duy sáng tạo của nhà văn. Nổi bật lên trong tác phẩm là kiểu tư duy huyền thoại, kiểu cốt truyện huyền thoại tạo nên tính chất đa nghĩa, mơ hồ cho tác phẩm. Thực ra, cốt truyện huyền thoại, kiểu tư duy huyền thoại, sự đậm đặc yếu tố huyền thoại đã thể hiện ngay trong những tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ của ông trước đó như ở Cánh đồng mẹ, Con chó khoang chạy ven bờ biển, Vĩnh biệt Gunxarư, Và một ngày dài hơn thế kỉ. Tuy nhiên, ở Đoạn đầu đài, có sự hội tụ, tập trung cao không chỉ của tài năng và kinh nghiệm sáng tạo, mà còn của tư tưởng, trí tuệ của nhà văn. Vấn đề huyền thoại, do đó, cũng được kết tinh lại trong cuốn tiểu thuyết này. *** Sau một ngày ấm áp ngắn ngủi, nhẹ nhàng như hơi thở trẻ em, thời tiết trên những sườn núi quay về phía mặt trời chẳng mấy chốc đã thay đổi lúc nào không biết. Gió bắt đầu nổi lên từ các tảng băng trôi và bóng tối sớm sủa, dày đặc, thấm sâu vào khắp nơi, đã bắt đầu len lỏi vào các khe hẻm, đem theo màu xám lạnh lẽo của đêm tuyết sắp đến. Tuyết thật nhiều khắp xung quanh, trên suốt dãy núi vùng ven hồ Ixức-Cun, ngọn núi nào cũng phủ đầy những tuyết. Mới hai ngày trước đây, một trận bão tuyết đã tràn qua những nơi này chẳng khác gì một đám cháy bỗng bùng lên dữ dội do sự đỏng đảnh của những lực lượng thiên nhiên muốn gì làm nấy. Quang cảnh diễn ra thật khủng khiếp. Núi non biến mất, bầu trời biến mất, toàn bộ thế giới nhìn thấy được trước đây cũng biến mất trong cảnh bão tuyết mù mịt. Sau đó mọi vật lặng đi và trời trở nên quang đãng. Từ khi ấy, cùng với trận bão tuyết đã dịu đi, những ngọn núi bị các khối tuyết khổng lồ làm tê liệt, đứng sừng sững trong không khí tĩnh mịch lạnh cóng, tê buốt và tách khỏi mọi vật trên đời. Chỉ có tiếng ầm ầm của chiếc máy bay lên thẳng cỡ lớn là vang lên diết dóng mỗi lúc một to, mỗi lúc một mạnh. Vào giờ phút hoàng hôn ấy, chiếc máy bay lên thẳng này bay lần theo lũng sâu Udun-Sát về phía đèo Ala-Mônguy phủ kín băng, bị những đám mây xoắn ốc che mờ mờ như khói tỏa trên chốn trời cao lộng gió. Tiếng ầm ầm mỗi phút một vang to hơn cứ lớn lên, cứ tiến lại gần, và cuối cùng thì vang lên đầy đắc thắng. Nó đã hoàn toàn chế ngự được khoảng không và vang động mãnh liệt, đầy uy lực, bên trên những dãy núi, những đỉnh cao, những khối băng cao tít mà không một thứ gì với tới nổi, ngoài âm thanh và ánh sáng. Được tăng cường thêm bởi vô số tiếng vọng nối tiếp nhau giữa các núi đó và các khe hẻm, tiếng ầm ầm trên đầu ấy cứ tràn đến mãi với một sức mạnh ghê gớm, dữ dội, hình như chỉ một chút nữa thôi là sẽ xảy ra một cái gì đó khủng khiếp như lúc động đất. Vào một thời điểm kịch liệt nào đó quả có xảy ra như vậy thật. Tại một sườn dốc đá dựng đứng phơi mình ra trước gió và nằm trên hướng bay của chiếc máy bay lên thẳng kia, một khối đá không lớn lắm bị sóng âm thanh mãnh liệt làm lung lay, trượt đi và bỗng dừng sững lại như dòng máu đang chảy chợt đông lại bởi những câu phù chú. Nhưng nền đất không chắc chắn chỉ cần cái hích đó thôi là đủ. Một vài tảng đá nặng trịch rời khỏi triền dốc, lăn xuống dưới, mỗi lúc một chạy tứ tung, cuốn theo sỏi đá, làm bụi bay mù lên, và khi đến chân dốc thì băng như đạn pháo qua những bụi craxnôtan và hoàng liên gai, đã xuyên thẳng các đống tuyết, lan đến tận hang sói của một gia đình sói xám nằm ở đây, dưới chân núi đá, trong khe hẻm ẩn sau các bụi cây rậm rạp, cạnh một con suối nhỏ ấm áp nay đã đóng băng tới một nửa. Con sói cái Acbara nhảy phắt sang bên để tránh sỏi đá lăn từ trên xuống và tuyết rơi lả tả, rồi lùi vào bóng tối của khe, co mình lại như lò xo, dựng bờm lên và nhìn phía trước bằng cặp mắt sáng quắc, đỏ rực một cách man rợ trong bóng tối mờ mờ, sẵn sàng giao chiến vào bất kì lúc nào. Nhưng nỗi lo sợ của nó là thừa. Ngoài kia, ngoài thảo nguyên lồ lộ thì đáng sợ thật, khi chẳng biết trốn đâu cho thoát chiếc máy bay lên thẳng cứ bám riết lấy mà săn đuổi, mà theo sát gót, với tiếng cánh quạt rú rít làm inh tai nhức óc, với những loạt đạt tiểu liên làm kinh hoàng; khi trên khắp thế giới không có một cách gì tránh nổi chiếc máy bay lên thẳng; khi không có một khe hẻm nào có thể giấu đi chiếc đầu sói hoảng loạn – mặt đất đâu có chịu nứt ra để tạo nơi trú ẩn cho những kẻ bị săn đuổi. Còn trong núi thì khác. Ở đây bao giờ cũng có thể chạy trốn, bao giờ cũng tìm được chỗ ẩn náu để chờ cho mối đe dọa qua đi. Ở đây, chiếc máy bay lên thẳng không đáng sợ, núi non mới đáng sợ cho máy bay lên thẳng. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi là phi lý, nhất là nỗi sợ hãi đã quen thuộc, đã nếm trải. Khi chiếc máy bay lên thẳng lại gần, con sói kêu lên ăng ẳng, thu tròn lại, rụt đầu vào, vậy mà thần kinh của nó vẫn không chịu nổi, vẫn như bị đứt phựt. Nó rú lên dữ dội, bị nỗi sợ hãi bất lực, mù quáng xâm chiếm lấy, nó quằn quại bò sát bụng ra cửa hang, răng lập cập va vào nhau đầy giận dữ và tuyệt vọng, sẵn sàng giao chiến ngay tại đây, dường như hy vọng là sẽ tống cổ được con quái vật bằng sắt đang bay ầm ầm bên trên khe hẻm, con quái vật mà khi xuất hiện đã làm sỏi đá cũng phải lăn rào rào từ trên xuống như khi động đất.. Nghe thấy tiếng gào rú kinh hoàng của Acbara, con sói đực là Tastrainar thò đầu vào hang. Tastrainar nghĩa là ‘máy nghiền đá’, biệt danh đó là do những người chăn cừu địa phương đặt cho nó vì nó có đôi hàm cực khỏe. Từ khi vợ nó trở nên nặng nề, nó phần lớn không ở trong hang mà ở một nơi hẻo lánh giữa các bụi cây. Nhưng nay nó bò vào chỗ sói vợ nằm và gừ gừ dịu dàng như muốn lấy thân mình che chở cho vợ khỏi cơn nguy hiểm. Nép vào sói chồng mỗi lúc một sát hơn, con sói cái vẫn tiếp tục kêu ăng ẳng, ai oán kêu gọi hoặc là ông Trời bất công, hoặc là một kẻ nào đó không biết là ai, hoặc là số phận bất hạnh của mình. Toàn thân nó còn run rẩy một hồi lâu nữa. Nó không thể tự chủ lại được ngay cả khi chiếc máy bay lên thẳng đã biến mất sau băng hà Ala-Mônguy đồ sộ và tiếng ầm ầm đã tắt hẳn sau các đám mây dày. Và trong không khí lặng lẽ đột nhiên tràn ngập vùng núi non này, một không khí vắng lặng tựa như sụp đổ của cảnh tịch mịch trong vũ trụ, con sói cái bỗng cảm thấy rõ hơn trong bụng nó. Hiện tượng tương tự cũng đã xả ra trong thời kì đầu cuộc đời săn bắt của Acbara, khi nó nhảy xổ ra giết chết một con thỏ cái lớn. Trong bụng con thỏ cái này, nó cũng cảm thấy những cựa quậy như vậy của những sinh vật vô hình nào đó mà mắt không thấy được. Điều lạ lùng ấy khiến con sói cái non trẻ và hiếu kỳ vừa ngạc nhiên lại vừa tò mò. Nó kinh ngạc dỏng tai lên, ngờ vực nhìn con mồi đã chết. Và nó thấy kỳ lạ và khó hiểu đến nỗi thậm chí, nó định đùa nghịch với những sinh vật vô hình kia, hệt như mèo chơi trò vờn nghịch với con chuột đã dở sống dở chết. Giờ đây, chính nó cũng cảm thấy trong bụng mình một thứ gì đó nằng nặng và sống động hệt như thế. Đó là dấu hiệu của những sinh vật sẽ chào đời khoảng gần hai tuần nữa, nếu các hoàn cảnh trùng hợp một cách thuận lợi. Nhưng hiện nay thì những con vật non nớt chưa ra đời ấy vẫn gắn bó khăng khít với lòng mẹ, vẫn là một phần của cơ thể sói mẹ, và bởi vậy, trong tiềm thức mơ hồ đang hình thành của chúng, chúng cũng trải qua cơn kinh hoàng và tuyệt vọng như chính sói mẹ. Đó là sự tiếp xúc gián tiếp đầu tiên của chúng với thế giới bên ngoài, với hiện thực thù nghịch đang chờ đợi chúng. Do đó, chúng bắt đầu cựa quậy trong bụng mẹ để đáp lại những nỗi đau khổ của mẹ chúng. Chúng cũng cảm thấy khiếp sợ và sự khiếp sợ này là do máu mẹ truyền sang chúng. Trong cặp sói này thì Acbara quyết định mọi việc. Nó có quyền đề xướng các cuộc săn bắt, còn Tastrainar là kẻ thừa hành trung thành, tin cậy, thực thi không mệt mỏi và không điều kiện mọi ý muốn của sói vợ. Mối quan hệ đó không bao giờ bị vi phạm. Chỉ có một lần đã xảy ra một trường hợp bất ngờ, lạ lùng, khi sói đực biến mất tới tận rạng sáng và trở về với mùi lạ của một con sói cái khác, thứ mùi ghê tởm của thời kỳ động đực trơ trẽn luôn khêu gợi và vẫy gọi con đực từ một nơi cách xa hàng chục dặm. Thứ mùi đó khiến Acbara giận điên lên. Nó lập tức xua đuổi sói chồng đi và bất ngờ cắm phập răng nanh sâu vào vai sói chồng, buộc sói chồng phải đi khập khiễng mấy ngày liền để trừng phạt. Nó không cho sói chồng lại gần và dù con sói đực ngốc nghếch kia có tru lên thế nào chăng nữa cũng không một lần đáp lại, không một lần chịu dung hòa, dường như Tastrainar không còn là chồng nó nữa, không còn tồn tại đối với nó nữa. Nếu như Tastrainar lại dám mon men đến gần để mua chuộc và lấy lòng nó thì chắc hẳn nó sẽ đọ sức thật sự. Không phải ngẫu nhiên mà nó là cái đầu, còn Tastrainar chỉ là tay chân trong cặp sói xám từ nơi khác đến này. Cái ngày xáo động khủng khiếp với con sói cái Acbara đang tàn dần như vậy. Do bản năng không thể tiêu diệt nổi của tình mẹ, nó không lo lắng cho bản thân nó bao nhiêu mà chủ yếu là lo lắng cho đàn con sắp sửa ra đời tại hang này. Cũng chính vì đàn con tương lai ấy, hai vợ chồng nó đã mất công tìm kiếm và xây dựng ở đây, trong khe sâu dưới vòm ngọn núi đá um tùm cây cối và phủ đầy những cây đổ cùng sỏi đá tràn xuống, một tổ ấm của gia đình sói để có chỗ sinh nở và trú ẩn. Mới một năm trước đây, vùng này không hề hay biết gì về loại sói bờm xám. Một lần chúng có xuất hiện, nhưng chúng vẫn tiếp tục sống biệt lập. Lúc đầu, giống sói đến từ nơi khác đến này tránh va chạm với giống sói địa phương, chúng lang thang phần lớn là tại các khu vực trung lập của các lãnh địa do giống sói địa phương cai quản. Chúng sống vất vưởng, kiếm gì ăn nấy, và trong khi tìm mồi, chúng thậm chí lấn ra các cánh đồng, tới những vùng đất thấp có người ở, nhưng vẫn không chịu quan hệ với các bầy sói trong vùng. Tính cách quá độc lập của con sói cái mắt xanh Acbara không cho phép nó gia nhập các bầy khác để rơi vào tình trạng phụ thuộc. Hơn nữa, Acbara và Tastrainar lại từ những nơi khác đến đây. Đối với con mắt giàu kinh nghiệm thì ngay cả về vẻ ngoài chúng cũng khác với giống sói địa phương. Trước hết là lớp lông cổ rậm rạp khuôn chặt lấy hai vai tựa như chiếc áo choàng lộng lẫy màu xám bạc, chạy suốt từ dưới ngực cho đến u vai. Lớp lông này của chúng thì sáng màu, đặc trưng cho lũ sói vùng thảo nguyên. Cả về tầm vóc cũng vậy, giống sói Ăcgiala, tức là giống sói bờm xám, bao giờ cũng to lớn hơn giống sói bình thường ở cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun. Còn nếu như một người nào đó trông thấy con sói Acbara ở gần thì nhất định phải sửng sốt trước đôi mắt xanh trong veo của nó – một trường hợp hiếm hoi và có thể độc đáo duy nhất. Nó được những người chăn cừu địa phương đặt cho biệt danh là Acđalư, có nghĩa là ‘u vai trắng’, nhưng chẳng bao lâu sau, do những qui luật biến đổi của ngôn ngữ, nó biến thành Abarư rồi Acbara, có nghĩa là ‘vĩ đại’, tuy nhiên không một ai biết rằng trong việc đó có dấu hiệu của thiên mệnh. Giờ đây, sau khi Acbara đã yên tâm ít nhiều và sưởi ấm bên thân hình to lớn của Tastrainar, nó cảm thấy biết ơn sói chồng vì đã chia sẻ nỗi sợ hãi của nó và do đó đã khiến nó thấy tự tin trở lại, vì vậy nó không cưỡng lại những cử chỉ vuốt ve kiên nhẫn của sói chồng. Hơn nữa, để đáp lại những cử chỉ ấy, nó hai lần liếm vào môi sói chồng và trong khi cố chế ngự nỗi kinh hoàng vẫn còn thỉnh thoảng vẫn làm nó run bần bật, nó hướng mọi ý nghĩ vào bản thân. Nó lắng nghe lũ sói nhỏ trong thai động đậy một cách khó hiểu và lo ngại. Nó bằng lòng với những gì hiện có. Nó bằng lòng với cả hang sói, cả với mùa đông giá lạnh trong núi, cả với ban đêm rét cóng đang từ từ đến gần. Khi lắng nghe những biến chuyển xảy ra ngoai ý muốn trong phần bụng đã sống động của nó, con sói cái Acbara cảm thấy xúc động. Tim nó đập nhanh hơn và tràn dâng lên lòng dũng cảm, tràn dâng mối quyết tâm nhất định sẽ bảo vệ, sẽ che chở những sinh vật nhỏ nhoi mà nó đang ấp ủ trong bụng. Giờ đây, nó sẽ không do dự giao chiến với bất kỳ kẻ nào. Trong người nó, bản năng duy trì nòi giống – một bản năng vĩ đại của tự nhiên – bắt đầu lên tiếng. Và ngay lúc đó, một cảm giác thương mến trào lên trong lòng nó như một làn sóng ấm nóng, nó cảm thấy nhu cầu được vuốt ve, được sưởi ấm những đứa con tương lai, truyền cho chúng dòng sữa của mình y hệt như chúng đã nằm bên cạnh. Đó chính là mối tiên cảm hạnh phúc. Nó lim dim mắt, rên rỉ vì sung sướng, vì chờ đợi sữa dồn lên hai hàng vú phồng căng đến mức đỏ lên. Nó mệt mỏi và chậm rãi duỗi thẳng người ra trong chừng mực khuôn khổ hang cho phép. Cảm thấy đã yên tâm hẳn, nó lại định đến cạnh con sói chồng Tastrainar bờm xám của nó. Tastrainar lực lưỡng, bộ lông ấm áp, đàn hồi và rộng. Tuy luôn luôn cau có, Tastrainar cũng thấy được những gì mà con sói cái sắp làm mẹ này đang cảm thấy. Trực giác giúp nó hiểu được những gì đang diễn ra trong bụng sói vợ, và có lẽ nó cũng xúc động. Vểnh một bên tai, Tastrainar hơi ngửng cái đầu nặng nề và kềnh càng lên. Trong ánh mờ tối của đôi đồng tử lạnh lẽo giữa cặp mắt đen thẫm trũng sâu vào trong, có thoáng lướt qua một vết đen nào đó, một linh cảm dễ chịu mơ hồ nào đó. Nó dè dặt kêu gừ gừ, khịt khịt mũi và rên ư ử, biểu lộ tâm trạng hồ hởi của mình, tỏ ý sẵn sàng phục tùng không điều kiện con sói vợ mắt xanh và che chở cho vợ. Rồi nó bắt đầu ân cần và âu yếm đưa cái lưỡi to ẩm ướt và ấm áp liếm đầu sói vợ. Acbara yêu thích lưỡi sói chồng vào những lúc sói chồng vuốt ve âu yếm nó, người run lên vì nôn nóng, lưỡi nóng bừng vì máu hừng hực dồn lên, trở nên chắc nịch, lanh lẹn và mạnh mẽ như rắn. Vào những lúc ấy, nó hết sức thích thú tuy lúc đầu cố làm ra vẻ bình thản, thờ ơ. Nó cũng thích thú như vậy cả vào những giờ phút êm đềm hạnh phúc sau khi ăn uống no nê, khi lưỡi sói chồng vừa mềm mại vừa ẩm ướt vuốt ve nó. Người phán xét cao nhất là thời gian. Dần dần, hai con sói bờm xám từ nơi khác đến đã có thể tự bảo vệ mình. Trong vô số những cuộc giao chiến dữ dội, chúng đã giành được phần đất trên cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun và giờ đây chúng đã trở thành chủ nhân. Lũ sói địa phương không còn dám xâm phạm vào lãnh địa của chúng nữa. Có thể nói rằng, vậy là cuộc sống của những con sói bờm xám mới xuất hiện đã ổn định thành công trên đất Ixức-Cun. Nhưng trước đó là cả một giai đoạn lịch sử. Nếu như thú vật có thể nhớ lại quá khứ thì Acbara – một con sói rất sáng ý và cảm nhận tinh tế – sẽ lại nếm trải tất cả những gì mà đôi khi nó chợt nhớ lại, chua xót đến mức chảy nước mắt và rền rĩ vì đau đớn. Trong thế giới đã mất ấy, trong đồng cỏ Môiuncumư mênh mông xa xôi ấy, đã từng diễn ra một cuộc sống đầy những chuyến săn mồi rộng lớn với việc đuổi bắt liên miên những bầy sơn dương Môiuncumư bao la. Từ thời cổ đại, giống sơn dương Xaigắc đã sinh sống trên những vùng thảo nguyên lúc nào cũng rậm rạp loại cây muối đen chịu được tiết trời khô khốc ấy, và trong số những loài móng kép thì chúng thuộc loài lâu đời nhất, lâu đời như chính thời gian vậy. Những bầy súc vật mũi khoằm này chạy không biết mệt,. Lỗ mũi to tướng của chúng dồn không khí qua phổi với một mức độ mãnh liệt hệt như cá voi dồn những dòng nước đại dương qua bộ lược răng, và do đó chúng được trời phú cho khả năng chạy liên tục suốt từ sáng đến tối. Khi chúng bắt đầu chạy vì bị kẻ thù vĩnh viễn và lúc nào cũng bám riết lấy chúng là chó sói săn đuổi; khi một bầy này kinh hoàng khiến bầy bên cạnh, đôi khi cả bầy thứ ba thứ tư nữa, cũng kinh hoàng theo; khi cuộc chạy trốn đồng loạt này lôi cuốn cả những bầy lớn nhỏ khác gặp trên đường chạy; khi chúng lướt vun vút trên thảo nguyên Môiuncumư, qua các gò đồi, các bình nguyên và các bãi cát, chẳng khác gì cơn đại hồng thủy đổ sụp xuống trái đất… thì mặt đất tựa như chạy ngược về phía sau và kêu rào rào như khi mưa đá vào lúc mùa hè. Không khí lúc đó tràn ngập hơi thở quay cuồng của chuyển động, tràn ngập bụi đá và những tia lửa bắn tóe ra từ dưới móng, tràn ngập mùi mồ hôi của bầy súc vật – mùi đua tranh điên cuồng không phải giành lấy cái sống mà là giành lấy cái chết. Và lũ sói chạy tản ra, bám sát gót, cố xua bầy xaigắc vào những ổ mai phục, nơi nằm chờ chúng giữa những bụi cây muối đen là những con sói lão luyện, ranh năng nhọn hoắt, sẵn sàng từ chỗ mai phục nhảy phắt lên gáy con mồi đang lao vùn vụt, ngã lộn nhào cùng với nó, cắn đứt cổ làm máu phụt ra lênh láng rồi lại lao vào cuộc săn đuổi. Nhưng lũ Xaigắc không hiểu sao thường nhận ra những nơi sói mai phục và kịp né tránh những nơi ấy. Và cuộc săn đuối lại bắt đầu một vòng mới với tốc độ và mức dữ dội còn lớn hơn nữa. Tất cả những con thú ấy, cả những con bị săn đuổi và những con săn đuổi – một mắt xích của quá trình tồn tại nghiệt ngã – đều dốc hết sức vào cuộc chạy thi, khiến máu dường như sôi lên chẳng khác gì trong cơn hấp hối, để sống và để sống sót. Và có lẽ chỉ Chúa Trời mới có thể dừng cả hai bầy thú lại, bởi vì đây là chuyện sống chết của những con vật khao khát sống khỏe mạnh. Những con sói nào không chịu đựng nổi tốc độ điên cuồng như vậy và những con sói nào không phải sinh ra để ganh đua trong cuộc đấu tranh sinh tồn – trong cuộc chạy đua sinh tồn – đều ngã lăn ra và trút hơi thở cuối cùng trong lớp bụi bốc lên của cuộc săn đuổi đang cuốn xa dần như cơn bão. Nếu chúng còn sống chăng nữa thì chúng cũng phải bỏ đến những miền khác, nơi chúng tha hồ hoành hành giữa những bầy cừu hiền lành, hiền lành đến mức thậm chí không tìm cách chạy trốn nữa. Nhưng quả thật, những nơi ấy có mối nguy hiểm riêng. Mối nguy hiểm đáng sợ nhất trong số tất cả những mối nguy hiểm có thể xảy ra ở đấy: bên cạnh đàn cừu là những con người, những kẻ vừa là Chúa Trời vừa là nô lệ của bầy cừu, những kẻ muốn sống nhưng lại không cho loài khác sống, đặc biệt là những ai không phụ thuộc vào họ và thích được tự do. Con người! Con người! Họ thật ghê gớm như Chúa Trời vậy! Họ cũng săn bắt lũ xaigắc của đồng cỏ Môiuncumư mênh mông. Trước kia, họ xuất hiện trên mình ngựa, mặc quần áo da thú, trang bị bằng cung tên. Sau này họ xuất hiện với những khẩu súng nổ vang, vừa hò hét vừa phi ngựa hết nơi này đến nơi nọ, – còn lũ xaigắc thì chạy nườm nượp hết phía này đến phía khác – tha hồ mà lùng chúng trong những cánh rừng cây muối đen. Nhưng rồi, đến lúc những con-người-Chúa-Trời ấy bắt đầu tổ chức những cuộc săn lùng bằng xe ôtô nhằm làm cho chúng phải kiệt sức vì mệt mỏi, hệt như lũ sói vẫn làm, lũ xaigắc quỵ ngã và họ vừa ngồi trên xe vừa bắn giết. Tiếp đấy, họ sử dụng máy bay lên thẳng. Lúc đầu, họ từ trên trời quan sát các bầy xaigắc trên thảo nguyên rồi bao vây chúng trong những toạ độ đã định sẵn. Những tay xạ thủ dưới mặt đất thì phóng vun vút khắp những vùng đất bằng với tốc độ một trăm kilômet giờ hoặc hơn thế nữa để lũ xaigắc không kịp ẩn nấp. Máy bay lên thẳng thì từ trên cao hiệu chỉnh mục tiêu và hướng săn đuổi. Ôtô, máy bay lên thẳng, súng trường cao tốc… – và thế là cuộc sống ở đồng cỏ Môiuncumư bị lộn nhào hết lên. Con sói cái Acbara mắt xanh còn chưa thay lông và con sói chồng tương lai nó là Tastrainar mới nhỉnh hơn nó một chút, thì chúng đã đến lúc phải làm quen với những cuộc săn đuổi lớn. Lúc đầu, chúng không theo kịp, chúng xé xác những con sơn dương đã gục ngã và giết chết những con nào chưa chết hẳn. Nhưng dần dần, về sức lực và sức chịu đựng chúng đã trội hơn nhiều con sói từng trải, nhất là những con sói đang về già. Nếu như mọi việc đều diễn ra theo qui luật tự nhiên thì chỉ ít lâu nữa là chúng sẽ đứng đầu cả bầy sói. Nhưng tình hình lại ngoặt theo chiều hướng khác… Năm này không giống năm khác. Vào mùa xuân năm đó, các bầy xaigắc sinh đẻ đặc biệt nhiều, không ít con cái còn sinh đôi nữa, bởi vì mùa thu trước, trong thời gian săn đuổi, lớp cỏ khô đã hơi lên xanh lại sau một vài trận mưa tầm tã vào lúc tiết trời ấm áp. Thức ăn thừa thãi, do đó tỉ lệ sinh đẻ tăng lên. Trong thời gian sinh đẻ, lũ xaigắc ngay từ đầu xuân đã đi đến những vùng cát lớn không có tuyết ở mãi sâu trong đồng cỏ Môiuncumư, nơi chó sói không dễ dàng tới được. Mà săn đuổi lũ Xaigắc trên các cồn cát là một việc vô vọng. Trên các cồn cát thì chó sói không thể đuổi kịp lũ xaigắc được. Để bù lại, chó sói thường sống no đủ vào mùa thu và mùa đông. Khi việc di cư theo mùa của động vật khiến những vùng nửa sa mạc và thảo nguyên đầy ắp những bầy xaigắc đông vô kể, đó là lúc Chúa hậu đãi loài sói. Còn về mùa hè, đặc biệt vào thời tiết nóng nực, chó sói thường không ưa động chạm đến xaigắc bởi vì đã có đủ một loại con mồi khác, dễ săn đuổi hơn, là ngân thử. Vô số ngân thử lang thang khắp thảo nguyên để bù đắp lại những gì chúng đã trượt mất vào thời kỳ ngủ đông. Trong mùa hè, chúng phải kịp làm tất cả những gì mà các thú vật khác đã làm trong một năm trời. Chính vì thế mà chúng hối hả xục xạo khắp nơi, không thèm để ý đến nguy hiểm. Vậy tại sao lại không săn bắt kia chứ – bởi vì cái gì cũng có giờ phút của nó, mà về mùa đông thì không thể săn bắt kia mà, chúng không hề xuất hiện. Lại còn các loại thú nhỏ và chim chóc – đặc biệt là gà gô – dùng làm thức ăn cho sói vào những tháng hè. Nhưng việc kiếm ăn chủ yếu – những cuộc săn đuổi rộng lớn lũ xaigắc – là vào mùa thu và kéo dài từ mùa thu cho đến tận cuối đông. Lại một lần nữa là cái gì cũng có giờ phút của nó, trong đó thể hiện một sự hợp lý riêng, do thiên nhiên ban cho, của vòng quay cuộc đời trong đồng cỏ. Chỉ thiên tai và con người mới có thể phá vỡ quá trình tự lâu đời này của tình hình ở Môiuncumư.   Mời các bạn đón đọc Đoạn Đầu Đài của tác giả Tchinguiz Aitmatov,

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trời Xanh Đổ Lệ
Kể từ khi tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết “Bên ngoài cửa sổ”, cũng đã tròn 26 năm. Đôi lúc thật sự không tin rằng, một phần tư thế kỷ của tôi đã trôi đi trong những trang sách. Trong 26 năm, bất kể tôi gặp bao nhiêu sóng gió, trải qua bao hỷ nộ ái ố của cuộc đời, thì cái sự “viết lách” của tôi vẫn cứ là mạch chính trong cuộc sống. Khi tôi buồn rơi lệ, tôi trốn vào trang viết, khi tôi vui, tôi thể hiện niềm vui trên trang viết, khi tôi cô đơn, tôi bù đắp sự trống trải bằng viết lách, khi tôi đầy sinh lực, tôi lại vội vàng cầm bút, viết lên cảm xúc của mình. Bởi thế, trong suốt 26 năm đằng đẵng, tôi thi thoảng cũng có lúc giấu mình, có lúc nghỉ ngơi, nhưng chưa bao giờ thực sự dừng viết lách. Chính bởi thế, đếm kỹ ra, kể từ cuốn “Bên ngoài cửa sổ” đến “Chuyện đời tôi”, trong 26 năm, tôi đã xuất bản bốn mươi tư cuốn sách. Đầu năm ngoái, do Đại lục có chính sách mở cửa, cho ngoại kiều về thăm thân nhân, tôi lần đầu trở về Đại lục, sau 39 năm xa quê hương. Trở về Bắc Kinh, phát hiện ra hơn 40 cuốn sách của tôi đã xuất bản tản mạn, rời rạc. Lúc đó, tôi có nguyện vọng tha thiết là sắp xếp lại những tác phẩm đó. Sau khi trở lại Đài Loan, lại có mấy tác phẩm cần tái bản, nên tôi và Hâm Đào quyết định nhân cơ hội này, chỉnh sửa các tác phẩm trước đây, thay đổi hình thức, biên tập lại một cách hệ thống, xuất bản “Quỳnh Dao toàn tập”. Do thời đại thay đổi, xuất bản phẩm cũng ngày càng phát triển. Giấy in, biên tập, hình thức đều vượt xa so với trước kia. Hơn nữa, những tác phẩm trước kia của tôi, có cuốn sách quá mỏng, như “Dưới ánh trăng cô đơn”, có cuốn lại quá dày, như “Ngọn cỏ may mắn”, có cuốn dàn trang quá sít, có cuốn lại cách dòng quá thưa. Rồi cuốn thì chữ quá nhỏ, cuốn thì chữ quá lớn. Lần này, chúng tôi sửa lại tất cả những nhược điểm đó, điều chỉnh một cách toàn diện. Nội dung tác phẩm cũng có chỉnh sửa, ví như trong cuốn “Sáu giấc mơ”, lại có bảy câu chuyện, điều này thật phi lý, nên chúng tôi bỏ đi một câu chuyện, giữ nguyên tên là “Sáu giấc mơ”. Lại như cuốn “Dưới ánh trăng cô đơn”, chỉ là một cuốn tiểu thuyết vừa, miễn cưỡng in thành sách, cứ luôn cảm thấy không đủ dung lượng, thì bây giờ, tôi bổ sung thêm mấy cuốn tiểu thuyết loại vừa, đóng lại thành tập. Trong tất cả các tác phẩm của tôi, đặc biệt nhất là cuốn “Chưa từng mất nhau” là một bộ sách mà bản thân tôi “tự thuật còn thiếu sót”, có phần “thời niên thiếu”, lại khuyết mất quá trình sau khi trưởng thành. Mùa xuân năm nay, tôi viết lại cuốn sách này, bổ sung phần sau khi trưởng thành, đổi tên thành “Chuyện đời tôi”. Cuốn này đã thay cho cuốn “Chưa từng mất nhau” trong “Quỳnh Dao toàn tập”. Bởi thế, 44 cuốn tiểu thuyết, sau khi chỉnh sửa, còn lại 43 cuốn. Về những bài tản văn trong cuốn “Chưa từng mất nhau”, sau này, có thể tôi sẽ gộp vào với những bài tản văn khác, xuất bản thành cuốn chuyên về tản văn. Đương nhiên, biên tập lại cả một bộ toàn tập là một việc tốn rất nhiều công sức, trong các tác phẩm trước đây, chữ dùng sai, bỏ sót rất nhiều, lần này, tôi sửa lại hết. Công trình đồ sộ như vậy, không thể hoàn thành trong một sớm một chiều, nhưng chúng tôi vẫn đã bắt tay vào chỉnh sửa. Trong lúc lựa chọn lại bìa sách, lựa chọn lại kiểu chữ, lựa chọn lại hình thức in sách, tuy rất bận, nhưng tôi thực sự cảm thấy phấn khích. Những tác phẩm trước kia, dù hay hay dở, đều là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi. Biên tập lại, xuất bản lại, cũng coi như một cách “sống lại” của chính bản thân mình.    Tôi trước nay chưa từng cảm thấy sách mình viết hay, cũng chưa bao giờ tự mãn. Mỗi lần ra sách, lại thấp tha thấp thỏm, như ngồi trên tổ kiến. Chỉ lo rằng tác phẩm của mình không vượt qua được sự đánh giá của độc giả, cũng không thắng được sự kiểm nghiệm của thời gian. Giờ, trước khi “Quỳnh Dao toàn tập” được xuất bản, cảm giác này vẫn vô cùng mãnh liệt. Tôi luôn có cảm giác bản thân mình quá bé nhỏ tầm thường, mỗi cuốn sách viết ra cũng chỉ là chuyện tầm thường bé nhỏ. Cho dù trong sách thường có những chuyện tình “nồng cháy”, nhưng cũng chỉ là tình cảm của người thường.    Cũng bởi vậy, tôi mong được dâng tặng “Quỳnh Dao toàn tập” cho những người bạn bình thường và cả những người phi thường trong thiên hạ. Quỳnh Dao viết ngày 3 tháng 7 năm 1989, tại Đài Bắc “Tự thuật toàn tập” trên đây viết năm 1989, giờ đã là năm 1997. Quãng thời gian 8 năm cũng đã trở thành quá khứ. Trong 8 năm này, viết lách vẫn là chủ đề chính trong cuộc đời tôi. Nên 44 cuốn sách đã nói ở trên, đã dần được bổ sung thành hơn 50 cuốn sách. Tôi tin rằng, trong quãng thời gian sau này, tôi vẫn sẽ viết sách. Vậy cuốn “Toàn tập” này rốt cuộc có bao nhiêu tác phẩm, hiện giờ cũng chưa thể đoán trước. Nhưng mong rằng, độc giả sẽ yêu thích từng tác phẩm của tôi, khích lệ tôi tiếp tục cố gắng, để cuốn “Toàn tập” này ngày càng “trưởng thành lớn mạnh”. Đó chính là nguyện vọng của tôi, hạnh phúc của tôi, và niềm vui của tôi. Quỳnh Dao viết thêm ngày 14 tháng 8 năm 1997, trước khi xuất bản “Hoàn Châu cách cách”, tại Đài Bắc. *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Trời Xanh Đổ Lệ của tác giả Quỳnh Dao.
Thiên Đường Rực Lửa
Cuối tháng mười, là mùa hoa sầu đông nở rộ Bên ngoài khu vườn nhỏ, Hoa sầu đông đang nở đầy trên những cành lá khẳng khiụ Đất trời mang mang một màu tím u buồn Cô bé con ... Ra đời đúng vào mùa hoa sầu đông nở rộ. Ngày 21 tháng 10 năm 1951 (Dân quốc năm thứ 40). Đài Loan như đang bị một bầu khí quyển ẩm thấp bao trùm lên vạn vật, bầu trời mang đầy nét âm u, thời tiết nóng nực và ẩm ướt. Tuy rằng đã cuối mùa thu, thế nhưng, khí hậu nhiệt đới miền châu á vẫn không mang một chút hơi hướm nào của mùa thụ Dưới sức nóng ẩm thấp, người nào người ấy đều nhễ nhại mồ hôị Trong căn nhà nhỏ bằng gỗ, Hứa Mộng Đình đã trải qua suốt hai mươi tiếng đồng hồ vật vã, đau đớn. Căn nhà nhỏ nóng như lò lửạ Hứa Mộng Đình nằm trên giường, quần áo trên người nàng đã ướt mèm vì mồ hôi không ngừng tuôn ra, ngay cả mái tóc nàng cũng ướt như vừa mới nhúng vào trong nước. Mà những giọt mồ hôi vẫn cứ không nhừng chảy tuôn tuôn, trên trán, cả người, từng hạt, từng hạt to lăn dài, ướt đẫm cả toàn thân. Chưa bao giờ biết rằng, thể xác con người lại có thể chịu đựng được sự đau đớn tận cùng đến thế. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê, Hứa Mộng Đình suy nghĩ, chẳng lẽ mình cũng đã từng làm cho mẹ mình chịu đựng sự đau đớn như thế chăng? Mẹ, không, giờ phút này không thể nghĩ đến mẹ được. Tốt nhất là nên nghĩ đến cái sinh mệnh nhỏ bé đang muốn vượt thoát lòng mẹ để ra ngoài thì hơn! Con ơi, nhanh lên, nhanh lên ... Van con, xin con, đừng nên dùng dằng nữa, đừng nên níu kéo nữa, đừng nên làm cho mẹ đau đớn nữa ... á! Một cơn đau kinh thiên động địa lại kéo đến, làm cho nàng không còn chịu đựng nổi, phải buột niệng rú to lên. Giọng nàng kêu lên thảm thiết: - á! Cứu em ... Dương Thăng! cứu em! cứu em.. Dương Thăng đang ngồi chờ phía ngoài căn phòng nhỏ, bị tiếng kêu thảm thiết đó của Mộng Đình làm cho giật bắn người, chàng bật dậy như chiếc lò xo, nhào tới bên căn phòng nhỏ, đẩy toang cánh cửa, loạng choạng xông vào, miệng không ngừng lẩm bẩm, kêu lên rối loạn: - Mộng Đình! Hãy để trời phạt anh! Hãy để trời phạt anh! Chàng muốn nhào thẳng đến bên giường, thế nhưng, ba bà già đang phụ đỡ đẻ đều bị kinh động. Bà ngoại già ở nhà bên cạnh lập tức nhào tới, chụp lấy tay chàng lôi xềnh xệch ra ngoài, miệng không ngừng la lên: - Đi ra! Đi ra! Chỗ đàn bà sinh con, đàn ông đừng nên nhìn! Gấp gáp cái gì? Thai đầu lòng thế nào cũng phải lâu một chút! Đi ra! Đi ra! Chịu khó chờ chút đi! Không sao đâu! Chịu khó chờ thêm chút nữa là sẽ làm cha rồi! Thím Sĩ đã từng đỡ đẻ cho cả trăm đứa nhỏ rồi, kinh nghiệm dữ lắm, không cần chú phải lo lắng! Đi ra ngoài chờ thêm chút nữa đi! Đôi mắt của Mộng Đình, xuyên qua làn nước mắt và mồ hôi trộn lộn, mơ hồ nhìn vào gương mặt trẻ trung, với những đường nét thật sâu của Dương Thăng, cùng đôi mắt mở to chứa đầy nét kinh hoàng của chàng. Chàng đã bị đẩy ra ngoài rồi, đẩy ra ngoài rồi ... nàng bất lực đưa tay ra vói theo chàng, giọng nàng gọi theo, rên rỉ, khóc than: - Dương Thăng, không được ... anh đi thì em đi theo anh! Cho dù bất cứ nơi đâu! Em cũng sẽ cùng đi với anh! Phảng phất đâu đây, nàng lại thấy mình trở về với không khí chiến tranh hỗn loạn của ngày nàọ Phảng phất đâu đây, nàng lại thấy mình trở về với những ngày tháng, toàn bộ gia đình, già trẻ lớn bé, chen chúc nhau trên một toa xe lửạ Trên toa xe lửa không có được một cái ghế ngồi, trên toa xe chất đầy những người là người, có rất nhiều người lạ hoắc, lạ huơ cùng ngồi sát vai nhau, không ai lo được nổi cho aị Toa xe vượt qua những vùng bình nguyên bằng phẳng, từ từ, chậm chạp lăn bánh qua những bãi chiến trường vừa mới tàn phai, cảnh tượng phía ngoài xe trông thật quái dị, những thôn làng vừa bị cháy rụi, đồng cỏ vàng khô vì bị bỏ hoang, không một bóng người, không một làn khói tỏa từ những căn nhà còn sót lại, thấp thoáng vài con chó hoang vật vờ kiếm sống ... *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Thiên Đường Rực Lửa của tác giả Quỳnh Dao.
Hoa Mai Bạc Mệnh
Thành phố Bắc Kinh, thời vua Càn Long. Đối với bà Đại Phước Tấn Tuyết Như ở Hạc Thân Vương Phủ mà nói thì cái mùa thu năm ấy, hình như đến sớm hơn mọi năm. Mới đầu tháng 8 mà sương đã sa nhiều. Rồi tết trung thu, lá trên cây Ngân Hạnh trổ vàng rơi đầy trên đất. Tuyết Như ưỡn chiếc bụng sắp sinh về phía trước, ngày tháng ảm đạm nặng nề như đè nặng trên vai, trên trái tim trên cả đứa bé sắp sinh và những toan tính căng thẳng. Mọi thứ thật khó sử gay go quá. Nỗi lo sự chờ đợi... Càng gần ngày lâm bồn, áp lực càng lúc như càng nặng nề càng trở nên mạnh mẽ, nhiều lúc làm bà muốn nghẹt thở... Mọi chuyện bắt đầu từ mùng 8 tháng 8, vâng... Hôm ấy là sinh nhật của Vương Gia. Trình Đại Phu và Ngô Đại Phu quả là nhiều chuyện, bỗng nhiên rồi dâng "qùa chúc thọ" cho Vương Gia bằng một đội vũ công 24 người và cả Phiên Phiên nữa. Phiên Phiên là cô gái người Hồi, có biệt tài múa bụng. Với làn da trắng nõn nà. Chiếc áo voan mỏng và ánh mắt trẻ tình, Phiên Phiên xuất hiện trên các sàn nhảy, trên các buổi yến tiệc. Có lẽ vì những hành vi gợi cảm cũng có thể vì một chút hấp dẫn lạ của "hàng nước ngoài". Trong phút giây Phiên Phiên đã chiếm được tình cảm của Vương Gia ngay. Và cái tên Phiên Phiên cũng là do Vương Gia đặt cho... Liền lúc ấy Phiên Phiên được nhập cung. Và bắt đầu suốt ba tháng liền, Vương Gia hầu như không còn đặt chân đến phòng của Tuyết Như nữa... Đầu tháng 8 lúc cơn sương đầu mùa rơi, thì cũng có tin là Phiên Phiên đã cấn thai. Qua tháng 9 Phiên Phiên được Vương Gia phong chức Trắc Phước Tấn. Tuyết Như biết ngay là địa vị của mình đang bị lung lay. Được gả vào vương phủ năm 18 tuổi. Mới đấy mà đã mười năm. Mười năm qua là mười năm hạnh phúc được vương gia sủng ái. Tuyết Như đã ba lần cấn thai, ba lần liên tục mang lại cho Vương Gia ba nàng công chúa. Nghĩa là ba lần thất vọng. Nhưng vương gia vì yêu nàng nên vẫn không nạp thêm thê thiếp. Bây giờ chiếc bào thai thứ tư sắp chào đời, thì Phiên Phiên lại được tấn cung... Chuyện được Vương Gia yêu quý không nói, đàng nầy lại cấn thai... Mà nếu như lần này... Tuyết Như lâm bồn lại sinh thêm một đứa con gái, trong khi Phiên Phiên sinh được con trai thì sao? Vấn đề gay go là ở chỗ đó. Vì vậy mùa thu năm nay... Tuyết Như phu nhân cảm thấy tiết trời đặc biệt lạnh. Ngày tháng vẫn vậy mà sao nặng nề thế? Mặc dù cạnh Tuyết Như lúc nào cũng có Tần Má Má, người vú già trung thành, hầu cận Tuyết Như từ nhỏ, rồi theo Tuyết Như tiến cung, vào Vương Phủ. Tần Má Má có thể nói vừa là tớ nhưng cũng như mẹ. Ngay từ tháng sáu. Tần Má Má đã góp ý với Tuyết Như, bằng mọi giá chứ không được khác! Vì tương lai của Phu Nhân có được Vương Gia sủng ái nữa không là do đây cả! Tuyết Như buồn bã lắc đầu. - Chuyện sinh con trai hay gái là do trời sắp đặt, đâu phải do ta quyết định được đâu? Tần Má Má khẽ nói: - Sao lại không? Chuyện này nên mời Đô thống phu nhân sang đây thảo luận. Đô thống phu nhân tức là Tuyết Tịnh, chị ruột của Tuyết Như. Hai chị em cách nhau có hai tuổi. Mặc dù là chị em nhưng hai người tính tình lại khác nhau. Tuyết Tịnh thì cương quyết, cứng rắn, dám nghĩ dám làm, còn Tuyết Như thì yếu đuối nhu mì, nhiều lúc gần như bạc nhược. Có điều hai chị em rất thương yêu nhau. - Chuyện Phiên Phiên thì cũng không thể trách Vương Gia. Bởi vì người năm nay đã 30 tuổi mà chưa có con trai nối dõi, dĩ nhiên là phải nôn nóng. Nếu chị là em thì... sớm đã liệu mà tìm cách... như vậy Phiên Phiên làm sao có cơ hội để vào Vương Phủ, để rồi được phong Trắc Phước Tấn? Lần này nó lại đậu thai... Vậy là sẽ ảnh hưởng nhiều đến địa vị của em đấy. Tuyết Tịnh vừa nói vừa ngắm chiếc bụng tròn của em gái. Tuyết Như băn khoăn. - Tìm cách? Tìm cách nào chứ? Lần nào cấn thai em đều ăn chay niệm phật, đến tổ miếu đốt hương... Vậy mà cũng chẳng sinh được con trai, còn tìm biện pháp nào nữa chứ? Tuyết Tịnh nhìn lên. Ánh mắt sáng và lạnh, làm Tuyết Như sợ hãi. Linh tính cho nàng thấy có cái gì đó không hay. Và quả thật mỗi lời của Tuyết Tịnh thốt ra như những nhát dao sắc bén. - Lần sinh này, nếu là trai thì đương nhiên là ai cũng thích cũng vui, nhưng nếu là gái? Bắt buộc phải hành động, cương quyết, nhanh chóng không được chần chờ gì cả. Áp dụng sách lược chuyển phụng thành long. Tuyết Như vừa nghe nói đã tái cả mặt. Mặc dù biết chuyện đó đã từng xẩy ra trong bao nhiêu vương triều... Bản thân cũng tự nghĩ đến... Nhưng mà "nghĩ" và "làm" là hai chuyện hoàn toàn khác nhau. "Nghĩ" không phạm pháp, còn "làm" là tử tội. Đó là chưa nói. Trên đời nầy có ai nỡ nào cắt bỏ núm ruột của mình tạo ra? Để đi ôm ấp nuôi dưỡng con của người khác? Ta có thể làm chuyện đó được không? Không! Không thể nào được! Không bao giờ... Tuyết Như nghĩ. - Nếu không làm như vậy... Rủi sau đó Phiên Phiên sinh con trai thì... Em cũng biết là... Vương Gia sẽ thế nào chứ? Con trai bao giờ cũng quý... Và em sẽ bị truất để nâng địa vị của Phiên Phiên lên... Hãy suy nghĩ cho kỹ đi nếu em muốn bị bỏ xó như một góa phụ ở lãnh cung thì tùy em hay thiếp tục được sủng ái? Em đừng quên cái gương dì Hai của chúng ta đã phải sống khổ sở thế nào suốt kiếp còn lại? Hãy suy nghĩ cho kỹ đi! Suy nghĩ rồi hãy quyết định! Và Tuyết Như đã suy nghĩ. Trăn trở như vậy suốt ba tháng trời. Từ mùa hạ đến mùa thu. Trong thời gian đó. Tần Má Má vô cùng bận rộn, Tuyết Như cũng thế. Ra vào vương phủ như con thoi. Vương Gia thì suốt ngày mải mê đàn địch yến tiệc bên Phiên Phiên nên chẳng để ý đến những khác thường đó. Và rồi ngày tháng trôi qua... Cứ vậy mà trôi qua... Giữa khuya ngày 2 tháng 10. Tuyết Như lâm bồn. Hôm ấy trong phòng sinh, chỉ có Tần Má Má, Tuyết Tịnh và Tô Má Má là vú già của Tuyết Tịnh cùng sản phụ thôi. Tô Má Má là người đỡ đẻ nhiều kinh nghiệm, đương nhiên cũng là tâm phúc của Tuyết Tịnh và Tuyết Như. Khi đứa bé vừa oa oa chào đời. Tô Má Má cắt nhau rún và băng lại cho đứa bé xong nói nhanh: - Xin chúc mừng Phúc Tấn! Một vị tiểu thiếu gia! Đứa bé được Tô Má Má bế trong vòng tay bà vừa nói vừa bước lùi ra sau. Còn Tuyết Tịnh nhanh chóng mang đứa con trai đã chuẩn bị sẵn đến trước mặt Tuyết Như nói: - Này xem đi! Mau lên ta còn phải mang ra ngoài báo hỉ với mọi người nữa chứ? Trái tim của Tuyết Như chùng hẳn. Cái đau vừa qua đột ngột quay lại. Muốn xé nát lòng Như. Không! Không! Không! Đừng làm thế! Như gào lên trong lòng... Nỗi đau biến thành nước mắt. Như cố nhỏm người dậy, kéo giật tay Tô Má Má lại. - Đừng! Hãy mang con trả lại cho tôi! Trả lại tôi... Tuyết Tịnh thấy thế nghẹn lời. - Tuyết Như này. Bây giờ có muốn thay đổi cũng muộn rồi... Việc phải giải quyết nhanh chóng. Bằng không, ai đó đột ngột bước vào, thì bọn ta chỉ có nước chết. Chị hứa với em là con gái của em sẽ được Tô Má Má mang vào phủ của chị chăm sóc chu đáo như con đẻ. Thỉnh thoảng em còn được ghé qua đó, thăm viếng nó như vậy em chẳng những không bị mất con mà còn có thêm được một đứa con trai... Còn bây giờ thì... Chuyện không thể để trễ nải nữa rồi. Chị sẽ bế tiểu công tử ra gặp Vương Gia. Vì chỉ một lúc nũa thôi cả vương phủ sẽ họp mặt ở tiền sảnh. Còn Tô Má Má thì phải mau chóng mà theo cửa sau phía Tây chuồn mau. Bây giờ chưa ai để ý. Hiểu ý tôi rồi chứ? Tô Má Má gật đầu. Tuyết Tịnh vội bế đứa con trai bước nhanh ra cửa. Có muốn thay đổi đã muộn cũng không được hối hận! Không còn cách nào khác! Tuyết Như đau khổ dành lại Tô Má má cái sinh mệnh yếu đuối nhỏ nhoi, vô tội kia, Tuyết Như ôm chặt trong lòng, nghẹn lời nói: - Tần Má Má! Tần Má Má! Đem cây trâm hoa mai lại đây! Cây trâm hoa mai! Đem ngay lại đây! Tần Má Má nghe gọi vội vàng bước đến bên hỏa lò, dùng kẹp lửa khều than, lấy ra chiếc trâm hình cành hoa mai được nung đỏ từ lâu. Tô Má Má nhìn thấy sợ hãi. - Quý vị định làm gì đó? *** Quỳnh Dao (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1938) là nữ nhà văn, biên kịch, nhà sản xuất người Đài Loan chuyên về tiểu thuyết lãng mạn dành cho độc giả nữ. Tập truyện ngắn đầu tay của bà mang tên Ngoài khung cửa sổ ra đời trong khoảng thời gian bà tốt nghiệp trung học và dự thi vào đại học nhưng không thành công. Các tác phẩm của bà được dịch ra và xuất bản rộng rãi ở Việt Nam từ cuối thập niên 1960. Ngoài ra, bà còn là một nhà sản xuất phim với những bộ phim truyền hình dựa theo chính nội dung các cuốn tiểu thuyết của bà. Tác phẩm: Song Ngoại (1963) Hạnh Vận Thảo (1964) Lục Cá Mộng (1964) Thố Ty Hoa (1964) Dòng sông ly biệt (Yên Vũ Mông Mông - 1964) Triều Thanh (1964) Kỷ Độ Tịch Dương Hồng (1964) Thuyền (1965) Nguyệt Mãn Tây Lâu (1966) Hàn Yên Thúy (1966) Tử Bối Xác (1966) Tiễn Tiễn Phong (1967) Thái Vân Phi (1968) Xóm vắng hay Vườn rộng sân sâu (Đình Viện Thâm Thâm - 1969) Tinh Hà (1969) Thủy Linh (1971) Hồ ly trắng (Bạch Hồ - 1971) Hải Âu Phi Xứ (1972) Băng Nhi (1985) Tuyết Kha (1990) Hoàn Châu cát cát (1999) Đoạn Cuối Cuộc Tình (tháng 8/2006) Không phải hoa chẳng phải sương (2013) Thủy Vân Gian Cỏ Xanh Bên Hồ Giấc Mộng Sau Rèm Mời các bạn đón đọc Hoa Mai Bạc Mệnh của tác giả Quỳnh Dao.
Con Nhà Nghèo
Con nhà nghèo là tác phẩm nổi tiếng của Hồ Biểu Chánh. Nó đã được dựng thành tuồng cải lương, kịch và phim. Lựu mồ côi, ở với anh và chị dâu trong xóm Ðập Ông Canh. Vì có chút nhan sắc nên bị cậu Hai Nghĩa, là con bà Cai Hiếu, chủ điền giàu có lớn, ép uổng đến có thai rồi bỏ. Thị Tố tìm gặp cậu Hai Nghĩa để hỏi cho ra lẽ và tìm cách lấy tiền để chữa bịnh cho Lựu, nhưng không xong. Trên đường về Thị Tố gặp mợ Hai Nghĩa nên kể chuyện cậu Hai có con với em chồng mình. Bà Cai Hiếu sợ mang tiếng cho gia đình nên đuổi gia đình anh của Lựu là Cai Tuần Bưởi phải trả ruộng và không cho cất nhà trong đất của bà. Cai Tuần Bưởi túng thế phải về ở với em vợ. *** Con nhà nghèo là tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh xuất bản năm 1930, được xây dựng với hai tuyến nhân vật là giới điền chủ quyền thế và giới tá điền bị trị, trong một xã hội thuở giao thời giữa phong kiến và Tây hóa. Cô Tư Lựu con nhà tá điền, bố mẹ mất sớm, có hai người anh là cai tuần Bưởi và Ba Cam. Cai tuần Bưởi là tá điền của bà Cai Hiếu và vợ chồng cậu Hai Nghĩa, còn Ba Cam làm tài xế xe hơi cho một ông thầy kiện ở Sài Gòn. Cha mẹ mất đi, Tư Lựu ở chung với cai tuần Bưởi. Năm 17 tuổi, cô trổ mã, đẹp gái và rất có duyên. Nhân lúc cai tuần Bưởi đi làm ăn xa, ông Hai Nghĩa con bà cai Hiếu hám sắc đã hãm hiếp cô. Vì đã có vợ con nên khi biết Tư Lựu có thai, Hai Nghĩa đã bỏ rơi cô. Tư Lựu sinh con, đặt tên là thằng Hai. Cả Hai Nghĩa và bà cai Hiếu đều không nhận máu mủ. Sợ mang tiếng xấu trong vùng nên họ tước hết ruộng mà cai tuần Bưởi đang thuê, trục xuất cả gia đình anh ra khỏi vùng đất của bà cai Hiếu. Tư Lựu sau đó được anh Cu, một nông dân chất phác thương số phận hẩm hiu nên cưới làm vợ và nhận làm cha đứa trẻ. *** Xóm Đập Ông Canh nằm dựa bên Gò Công qua Mỹ Tho, ngang qua ngã ba tẻ vô Ụ Giữa, bây giờ nhà chen rất đông đảo, cây đua mọc sum suê. Cái nhà việc cũ sùm sụp của làng hồi trước đã đổ bao giờ mà cất lại một toà nhà mới, nền cao khoảng khoát, nóc phơi đỏ lòm. Vài cái nhà lá tum hùm, cửa xịt xạc, vách tả tơi, hồi trước ở rải rác chung quanh đó cũng điêu tàn bao giờ mà nhường chỗ lại cho hơn chục cái nhà khác, tuy cũng lợp bằng lá dừa, song cột kê táng, vách đóng be, coi rất đẹp đẽ thơ thới. Cảnh cũ đổi mới, nhà ít thêm đông, nhưng mà mấy chuyện nào trong xóm từ xưa đến nay thì mấy ông già cũng còn nhớ hết. Có khi ăn đám giỗ, người ta thử hỏi ông Tám Tiền, ông câu Hữu vậy chớ nhà việc mới cất hồi nào, ông thôn Tà mất bao giờ, chú chệt Chà về đó mấy năm rồi, thì hai ông trả lời liền, không do dự mà cũng không sai lầm. Có một chuyện hai ổng không chịu nói, là chuyện Cai tuần Bưởi. Một lần nọ, người trong xóm, nhân trăng rầm tháng giêng tỏ rạng, tựu lại sân ông câu Hữu coi đạp lúa. Mỗi người đều nhắc chuyện xưa lại nghe chơi. Có người hỏi tại sao Cai tuần Bưởi lại bán nhà mà đi, thì ông câu Hữu nhíu mặt, chau mày, nín thinh một hồi lâu rồi nói rằng: “Các chú đừng có hỏi. Việc đó nói ra chắc sinh xào xáo trong xóm. Các chú không muốn ở yên chỗ này hay sao, nên hỏi tới chuyện Cai tuần Bưởi?”. Ai nấy nghe nói như vậy thì sợ, nên ngó nhau rồi nói lãng sang chuyện khác, mà từ đó về sau cũng hết dám hỏi tới chuyện Cai Tuần Bưởi nữa. Nói chuyện Cai tuần Bưởi thì phải bị nạn gì mà người ta sợ đến thế? Mình không phải ở xóm Đập Ông Canh mà sợ. Vậy để mình thuật Cai tuần Bưởi cho mỗi người nghe một chút. Cách chừng hai mươi mấy năm trước, trong xóm Đập Ông Canh, ở phía sau nhà việc, có một cái nhà ba căn, cột bằng cây bần, nóc lợp lá xẻ, cửa cặp lá chầm, vách gài bằng tre, trước sân một bên vắt một đống rơm, một bên trồng một cây me, sau kè chuối lá xiêm xơ rơ mấy bụi, mía sanh diệu lố xố mấy dòng. Cái nhà đó là nhà Cai tuần Bưởi. Cai tuần Bưởi sinh trưởng ở xóm nầy, từ hồi cha cho đến bây giờ cũng ở trên đất này là đất của ông Cai Hiếu. Ông ta là con của ông trùm Lại, cha mẹ khuất hết, anh em chỉ có ba người mà thôi. Anh ta là lớn, năm nay đã được ba mươi hai tuổi rồi, có vợ là Thị Tố, gốc ở trên làng Bình Phú Tây. Thằng em kế đó tên Cam, năm nay được hai mươi lăm tuổi, hồi trước nó ở đợ đánh xe ngựa cho Hai Thu ở trong Ụ Giữa, ngựa sanh chứng lật xe gãy bánh, chủ đánh chửi nó nên nó giận, bỏ trốn đi mất mấy năm nay, không lai vãng về Đập Ông Canh, mà cũng không ai gặp nó nơi nào hết. Còn đứa em út là gái, tên nó là Lựu, năm nay nó mới được mười tám tuổi, tuy con nhà nghèo ăn mặc lam lũ, song nết na đằm thắm, đi đứng dịu dàng, ăn nói có duyên, mặt mày sáng sủa, nó ở với anh nó thuở nay. Cai tuần Bưởi làm bạn với Thị Tố đã tám năm rồi, sinh được năm đứa con, ba trai hai gái. Thuở nay anh ta mướn hai dây ruộng của bà Cai Hiếu mà làm, mỗi năm phải đong lúa mướn ba trăm giạ, năm nào lúa trúng thì té ra chừng một trăm giạ đủ nuôi vợ nuôi con và em, năm nào lúa thất, đong lúa ruộng rồi không còn dư hột nào, thì phải lo làm mướn đặng lấy tiền độ nhật. Mùa mới rồi, lúa cấy xong, lúa vừa mới bén, kế bị trời hạn, nắng cháy đọt, nước nóng gốc, lúa nở không được. Cai Tuần Bưởi đi thăm ruộng về, mặt mày buồn hiu, ngồi khoanh tay thở dài mà than rằng: “Trời muốn giết con nhà nghèo”. Chẳng hiểu trời sợ con nhà nghèo chết, hay là sợ chủ điền góp lúa không đặng, mà Cai tuần Bưởi than như vậy. Rồi cách vài bữa trời mưa một đám thật lớn trong cánh đồng Đập Ông Canh. Lúa nhờ mưa mát mẻ nên đâm đọt bén lại, nhưng vì bị hạn đã mất sức rồi, bởi vậy chừng trổ bông vắn vắn mà hột lại thưa thớt nữa. Thương cho Cai tuần Bưởi khi đến gặt, thì số lúa bó coi không thất bao nhiêu mà đến chừng đạp rồi, lường lúa hột thì chỉ có ba trăm hai chục giạ. Số lúa ruộng mướn của chủ điền bề nào cũng phải đong cho đủ ba trăm giạ. Thế thì cực nhọc trót một năm trường dang nắng cấm cà, dầm mưa nhổ mạ chỉ còn lời có hai mươi giạ mà thôi! Mà trong đó còn phải đong lúa mướn trâu, còn phải trả tiền công cấy thì dư nổi gì. Mời các bạn đón đọc Con Nhà Nghèo của tác giả Hồ Biểu Chánh.