Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đoạn Đầu Đài - Tchinguiz Aitmatov

Tiểu thuyết gia Kyrgyz - người khiến cả thế giới biết đến đất nước Trung Á nhỏ bé, lắm núi nhiều đồi của mình qua những tác phẩm về cuộc sống thường nhật dưới thời Xô viết. Aitmatov bắt đầu nổi tiếng từ năm 1958 với cuốn tiểu thuyết Jamilya. Lấy bối cảnh Thế chiến II, tác phẩm là câu chuyện về một phụ nữ trẻ người Kyrgyz dám bỏ chồng để chạy theo một cựu quân nhân. Jamilya từng làm dấy lên những cuộc tranh luận tại cộng đồng Hồi giáo cũng như ở các nước tồn tại nam quyền về việc liệu một phụ nữ có nên bỏ chồng vì một người đàn ông khác. Tuy nhiên, nhà thơ Pháp nổi tiếng Louis Aragon ca ngợi, Jamilya là “thiên tình sử hay nhất mọi thời đại”. Trong những sáng tác khác, Aitmatov miêu tả cuộc sống con người dưới thời Xô viết. Ông đặc biệt chú trọng đến những thân phận từng bước bị biến thành nô lệ, bị nô dịch hóa. Aitmatov là nhà văn quyết liệt bảo vệ sự tồn tại và phát triển độc lập của nền văn hóa và ngôn ngữ ở những quốc gia không nói tiếng Nga trong khối Xô viết. Trong cuốn Một ngày dài hơn thế kỷ, nhà văn xây dựng một nhân vật giết chết mẹ mình vì không còn nhớ ra bà. Nhiều sáng tác của Aitmatov đã được dựng thành phim. Trong đó Người thầy đầu tiên - bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của ông, dưới bàn tay của đạo diễn Nga nổi tiếng Andrei Konchalovski - đã trở thành một tác phẩm điện ảnh lay động lòng người tại nhiều quốc gia trên thế giới. Sau năm 1991, tiểu thuyết của Aitmatov được dịch và phổ biến rộng rãi tại phương Tây. Nhà văn có thêm hàng triệu độc giả, đặc biệt là tại Đức. Là một trong số hiếm hoi những người Kyrgyz có danh tiếng vượt ra khỏi biên giới quốc gia 5 triệu dân của mình, Aitmatov là nhân vật có ảnh hưởng đặc biệt trong đời sống chính trị Kyrgyzstan. Sự ủng hộ của nhà văn dành cho Askar Akayev đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Akayev trở thành Tổng thống Kyrgyzstan nhiệm kỳ 1990-2005. Chingiz Torekulovich Aitmatov sinh ngày 12/12/1928 tại làng Sheker, vùng tây bắc Kyrgyzstan. Năm 1935, gia đình ông chuyển đến Matxcơva, Nga. 3 năm sau, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Trong văn nghiệp của mình, Aitmatov từng đoạt giải thưởng Lênin (1963) và 3 giải thưởng Nhà nước (1968, 1977, 1983). Tuy đoạt rất nhiều giải thưởng và những vinh quang văn học nhưng trước sau, Aitmatov, theo đánh giá của nhà văn Nga Viktor Yerofeyev, vẫn là một con người “trung thực, khiêm nhường và liêm khiết”. *** Khi Chinghiz 10 tuổi, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Tiểu thuyết Đoạn đầu đài là tác phẩm lớn cuối cùng, cũng là tác phẩm tổng kết kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật của Aitmatov. Đoạn đầu đài chứa đựng những nét đặc biệt trong tư duy sáng tạo của nhà văn. Nổi bật lên trong tác phẩm là kiểu tư duy huyền thoại, kiểu cốt truyện huyền thoại tạo nên tính chất đa nghĩa, mơ hồ cho tác phẩm. Thực ra, cốt truyện huyền thoại, kiểu tư duy huyền thoại, sự đậm đặc yếu tố huyền thoại đã thể hiện ngay trong những tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ của ông trước đó như ở Cánh đồng mẹ, Con chó khoang chạy ven bờ biển, Vĩnh biệt Gunxarư, Và một ngày dài hơn thế kỉ. Tuy nhiên, ở Đoạn đầu đài, có sự hội tụ, tập trung cao không chỉ của tài năng và kinh nghiệm sáng tạo, mà còn của tư tưởng, trí tuệ của nhà văn. Vấn đề huyền thoại, do đó, cũng được kết tinh lại trong cuốn tiểu thuyết này. *** Sau một ngày ấm áp ngắn ngủi, nhẹ nhàng như hơi thở trẻ em, thời tiết trên những sườn núi quay về phía mặt trời chẳng mấy chốc đã thay đổi lúc nào không biết. Gió bắt đầu nổi lên từ các tảng băng trôi và bóng tối sớm sủa, dày đặc, thấm sâu vào khắp nơi, đã bắt đầu len lỏi vào các khe hẻm, đem theo màu xám lạnh lẽo của đêm tuyết sắp đến. Tuyết thật nhiều khắp xung quanh, trên suốt dãy núi vùng ven hồ Ixức-Cun, ngọn núi nào cũng phủ đầy những tuyết. Mới hai ngày trước đây, một trận bão tuyết đã tràn qua những nơi này chẳng khác gì một đám cháy bỗng bùng lên dữ dội do sự đỏng đảnh của những lực lượng thiên nhiên muốn gì làm nấy. Quang cảnh diễn ra thật khủng khiếp. Núi non biến mất, bầu trời biến mất, toàn bộ thế giới nhìn thấy được trước đây cũng biến mất trong cảnh bão tuyết mù mịt. Sau đó mọi vật lặng đi và trời trở nên quang đãng. Từ khi ấy, cùng với trận bão tuyết đã dịu đi, những ngọn núi bị các khối tuyết khổng lồ làm tê liệt, đứng sừng sững trong không khí tĩnh mịch lạnh cóng, tê buốt và tách khỏi mọi vật trên đời. Chỉ có tiếng ầm ầm của chiếc máy bay lên thẳng cỡ lớn là vang lên diết dóng mỗi lúc một to, mỗi lúc một mạnh. Vào giờ phút hoàng hôn ấy, chiếc máy bay lên thẳng này bay lần theo lũng sâu Udun-Sát về phía đèo Ala-Mônguy phủ kín băng, bị những đám mây xoắn ốc che mờ mờ như khói tỏa trên chốn trời cao lộng gió. Tiếng ầm ầm mỗi phút một vang to hơn cứ lớn lên, cứ tiến lại gần, và cuối cùng thì vang lên đầy đắc thắng. Nó đã hoàn toàn chế ngự được khoảng không và vang động mãnh liệt, đầy uy lực, bên trên những dãy núi, những đỉnh cao, những khối băng cao tít mà không một thứ gì với tới nổi, ngoài âm thanh và ánh sáng. Được tăng cường thêm bởi vô số tiếng vọng nối tiếp nhau giữa các núi đó và các khe hẻm, tiếng ầm ầm trên đầu ấy cứ tràn đến mãi với một sức mạnh ghê gớm, dữ dội, hình như chỉ một chút nữa thôi là sẽ xảy ra một cái gì đó khủng khiếp như lúc động đất. Vào một thời điểm kịch liệt nào đó quả có xảy ra như vậy thật. Tại một sườn dốc đá dựng đứng phơi mình ra trước gió và nằm trên hướng bay của chiếc máy bay lên thẳng kia, một khối đá không lớn lắm bị sóng âm thanh mãnh liệt làm lung lay, trượt đi và bỗng dừng sững lại như dòng máu đang chảy chợt đông lại bởi những câu phù chú. Nhưng nền đất không chắc chắn chỉ cần cái hích đó thôi là đủ. Một vài tảng đá nặng trịch rời khỏi triền dốc, lăn xuống dưới, mỗi lúc một chạy tứ tung, cuốn theo sỏi đá, làm bụi bay mù lên, và khi đến chân dốc thì băng như đạn pháo qua những bụi craxnôtan và hoàng liên gai, đã xuyên thẳng các đống tuyết, lan đến tận hang sói của một gia đình sói xám nằm ở đây, dưới chân núi đá, trong khe hẻm ẩn sau các bụi cây rậm rạp, cạnh một con suối nhỏ ấm áp nay đã đóng băng tới một nửa. Con sói cái Acbara nhảy phắt sang bên để tránh sỏi đá lăn từ trên xuống và tuyết rơi lả tả, rồi lùi vào bóng tối của khe, co mình lại như lò xo, dựng bờm lên và nhìn phía trước bằng cặp mắt sáng quắc, đỏ rực một cách man rợ trong bóng tối mờ mờ, sẵn sàng giao chiến vào bất kì lúc nào. Nhưng nỗi lo sợ của nó là thừa. Ngoài kia, ngoài thảo nguyên lồ lộ thì đáng sợ thật, khi chẳng biết trốn đâu cho thoát chiếc máy bay lên thẳng cứ bám riết lấy mà săn đuổi, mà theo sát gót, với tiếng cánh quạt rú rít làm inh tai nhức óc, với những loạt đạt tiểu liên làm kinh hoàng; khi trên khắp thế giới không có một cách gì tránh nổi chiếc máy bay lên thẳng; khi không có một khe hẻm nào có thể giấu đi chiếc đầu sói hoảng loạn – mặt đất đâu có chịu nứt ra để tạo nơi trú ẩn cho những kẻ bị săn đuổi. Còn trong núi thì khác. Ở đây bao giờ cũng có thể chạy trốn, bao giờ cũng tìm được chỗ ẩn náu để chờ cho mối đe dọa qua đi. Ở đây, chiếc máy bay lên thẳng không đáng sợ, núi non mới đáng sợ cho máy bay lên thẳng. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi là phi lý, nhất là nỗi sợ hãi đã quen thuộc, đã nếm trải. Khi chiếc máy bay lên thẳng lại gần, con sói kêu lên ăng ẳng, thu tròn lại, rụt đầu vào, vậy mà thần kinh của nó vẫn không chịu nổi, vẫn như bị đứt phựt. Nó rú lên dữ dội, bị nỗi sợ hãi bất lực, mù quáng xâm chiếm lấy, nó quằn quại bò sát bụng ra cửa hang, răng lập cập va vào nhau đầy giận dữ và tuyệt vọng, sẵn sàng giao chiến ngay tại đây, dường như hy vọng là sẽ tống cổ được con quái vật bằng sắt đang bay ầm ầm bên trên khe hẻm, con quái vật mà khi xuất hiện đã làm sỏi đá cũng phải lăn rào rào từ trên xuống như khi động đất.. Nghe thấy tiếng gào rú kinh hoàng của Acbara, con sói đực là Tastrainar thò đầu vào hang. Tastrainar nghĩa là ‘máy nghiền đá’, biệt danh đó là do những người chăn cừu địa phương đặt cho nó vì nó có đôi hàm cực khỏe. Từ khi vợ nó trở nên nặng nề, nó phần lớn không ở trong hang mà ở một nơi hẻo lánh giữa các bụi cây. Nhưng nay nó bò vào chỗ sói vợ nằm và gừ gừ dịu dàng như muốn lấy thân mình che chở cho vợ khỏi cơn nguy hiểm. Nép vào sói chồng mỗi lúc một sát hơn, con sói cái vẫn tiếp tục kêu ăng ẳng, ai oán kêu gọi hoặc là ông Trời bất công, hoặc là một kẻ nào đó không biết là ai, hoặc là số phận bất hạnh của mình. Toàn thân nó còn run rẩy một hồi lâu nữa. Nó không thể tự chủ lại được ngay cả khi chiếc máy bay lên thẳng đã biến mất sau băng hà Ala-Mônguy đồ sộ và tiếng ầm ầm đã tắt hẳn sau các đám mây dày. Và trong không khí lặng lẽ đột nhiên tràn ngập vùng núi non này, một không khí vắng lặng tựa như sụp đổ của cảnh tịch mịch trong vũ trụ, con sói cái bỗng cảm thấy rõ hơn trong bụng nó. Hiện tượng tương tự cũng đã xả ra trong thời kì đầu cuộc đời săn bắt của Acbara, khi nó nhảy xổ ra giết chết một con thỏ cái lớn. Trong bụng con thỏ cái này, nó cũng cảm thấy những cựa quậy như vậy của những sinh vật vô hình nào đó mà mắt không thấy được. Điều lạ lùng ấy khiến con sói cái non trẻ và hiếu kỳ vừa ngạc nhiên lại vừa tò mò. Nó kinh ngạc dỏng tai lên, ngờ vực nhìn con mồi đã chết. Và nó thấy kỳ lạ và khó hiểu đến nỗi thậm chí, nó định đùa nghịch với những sinh vật vô hình kia, hệt như mèo chơi trò vờn nghịch với con chuột đã dở sống dở chết. Giờ đây, chính nó cũng cảm thấy trong bụng mình một thứ gì đó nằng nặng và sống động hệt như thế. Đó là dấu hiệu của những sinh vật sẽ chào đời khoảng gần hai tuần nữa, nếu các hoàn cảnh trùng hợp một cách thuận lợi. Nhưng hiện nay thì những con vật non nớt chưa ra đời ấy vẫn gắn bó khăng khít với lòng mẹ, vẫn là một phần của cơ thể sói mẹ, và bởi vậy, trong tiềm thức mơ hồ đang hình thành của chúng, chúng cũng trải qua cơn kinh hoàng và tuyệt vọng như chính sói mẹ. Đó là sự tiếp xúc gián tiếp đầu tiên của chúng với thế giới bên ngoài, với hiện thực thù nghịch đang chờ đợi chúng. Do đó, chúng bắt đầu cựa quậy trong bụng mẹ để đáp lại những nỗi đau khổ của mẹ chúng. Chúng cũng cảm thấy khiếp sợ và sự khiếp sợ này là do máu mẹ truyền sang chúng. Trong cặp sói này thì Acbara quyết định mọi việc. Nó có quyền đề xướng các cuộc săn bắt, còn Tastrainar là kẻ thừa hành trung thành, tin cậy, thực thi không mệt mỏi và không điều kiện mọi ý muốn của sói vợ. Mối quan hệ đó không bao giờ bị vi phạm. Chỉ có một lần đã xảy ra một trường hợp bất ngờ, lạ lùng, khi sói đực biến mất tới tận rạng sáng và trở về với mùi lạ của một con sói cái khác, thứ mùi ghê tởm của thời kỳ động đực trơ trẽn luôn khêu gợi và vẫy gọi con đực từ một nơi cách xa hàng chục dặm. Thứ mùi đó khiến Acbara giận điên lên. Nó lập tức xua đuổi sói chồng đi và bất ngờ cắm phập răng nanh sâu vào vai sói chồng, buộc sói chồng phải đi khập khiễng mấy ngày liền để trừng phạt. Nó không cho sói chồng lại gần và dù con sói đực ngốc nghếch kia có tru lên thế nào chăng nữa cũng không một lần đáp lại, không một lần chịu dung hòa, dường như Tastrainar không còn là chồng nó nữa, không còn tồn tại đối với nó nữa. Nếu như Tastrainar lại dám mon men đến gần để mua chuộc và lấy lòng nó thì chắc hẳn nó sẽ đọ sức thật sự. Không phải ngẫu nhiên mà nó là cái đầu, còn Tastrainar chỉ là tay chân trong cặp sói xám từ nơi khác đến này. Cái ngày xáo động khủng khiếp với con sói cái Acbara đang tàn dần như vậy. Do bản năng không thể tiêu diệt nổi của tình mẹ, nó không lo lắng cho bản thân nó bao nhiêu mà chủ yếu là lo lắng cho đàn con sắp sửa ra đời tại hang này. Cũng chính vì đàn con tương lai ấy, hai vợ chồng nó đã mất công tìm kiếm và xây dựng ở đây, trong khe sâu dưới vòm ngọn núi đá um tùm cây cối và phủ đầy những cây đổ cùng sỏi đá tràn xuống, một tổ ấm của gia đình sói để có chỗ sinh nở và trú ẩn. Mới một năm trước đây, vùng này không hề hay biết gì về loại sói bờm xám. Một lần chúng có xuất hiện, nhưng chúng vẫn tiếp tục sống biệt lập. Lúc đầu, giống sói đến từ nơi khác đến này tránh va chạm với giống sói địa phương, chúng lang thang phần lớn là tại các khu vực trung lập của các lãnh địa do giống sói địa phương cai quản. Chúng sống vất vưởng, kiếm gì ăn nấy, và trong khi tìm mồi, chúng thậm chí lấn ra các cánh đồng, tới những vùng đất thấp có người ở, nhưng vẫn không chịu quan hệ với các bầy sói trong vùng. Tính cách quá độc lập của con sói cái mắt xanh Acbara không cho phép nó gia nhập các bầy khác để rơi vào tình trạng phụ thuộc. Hơn nữa, Acbara và Tastrainar lại từ những nơi khác đến đây. Đối với con mắt giàu kinh nghiệm thì ngay cả về vẻ ngoài chúng cũng khác với giống sói địa phương. Trước hết là lớp lông cổ rậm rạp khuôn chặt lấy hai vai tựa như chiếc áo choàng lộng lẫy màu xám bạc, chạy suốt từ dưới ngực cho đến u vai. Lớp lông này của chúng thì sáng màu, đặc trưng cho lũ sói vùng thảo nguyên. Cả về tầm vóc cũng vậy, giống sói Ăcgiala, tức là giống sói bờm xám, bao giờ cũng to lớn hơn giống sói bình thường ở cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun. Còn nếu như một người nào đó trông thấy con sói Acbara ở gần thì nhất định phải sửng sốt trước đôi mắt xanh trong veo của nó – một trường hợp hiếm hoi và có thể độc đáo duy nhất. Nó được những người chăn cừu địa phương đặt cho biệt danh là Acđalư, có nghĩa là ‘u vai trắng’, nhưng chẳng bao lâu sau, do những qui luật biến đổi của ngôn ngữ, nó biến thành Abarư rồi Acbara, có nghĩa là ‘vĩ đại’, tuy nhiên không một ai biết rằng trong việc đó có dấu hiệu của thiên mệnh. Giờ đây, sau khi Acbara đã yên tâm ít nhiều và sưởi ấm bên thân hình to lớn của Tastrainar, nó cảm thấy biết ơn sói chồng vì đã chia sẻ nỗi sợ hãi của nó và do đó đã khiến nó thấy tự tin trở lại, vì vậy nó không cưỡng lại những cử chỉ vuốt ve kiên nhẫn của sói chồng. Hơn nữa, để đáp lại những cử chỉ ấy, nó hai lần liếm vào môi sói chồng và trong khi cố chế ngự nỗi kinh hoàng vẫn còn thỉnh thoảng vẫn làm nó run bần bật, nó hướng mọi ý nghĩ vào bản thân. Nó lắng nghe lũ sói nhỏ trong thai động đậy một cách khó hiểu và lo ngại. Nó bằng lòng với những gì hiện có. Nó bằng lòng với cả hang sói, cả với mùa đông giá lạnh trong núi, cả với ban đêm rét cóng đang từ từ đến gần. Khi lắng nghe những biến chuyển xảy ra ngoai ý muốn trong phần bụng đã sống động của nó, con sói cái Acbara cảm thấy xúc động. Tim nó đập nhanh hơn và tràn dâng lên lòng dũng cảm, tràn dâng mối quyết tâm nhất định sẽ bảo vệ, sẽ che chở những sinh vật nhỏ nhoi mà nó đang ấp ủ trong bụng. Giờ đây, nó sẽ không do dự giao chiến với bất kỳ kẻ nào. Trong người nó, bản năng duy trì nòi giống – một bản năng vĩ đại của tự nhiên – bắt đầu lên tiếng. Và ngay lúc đó, một cảm giác thương mến trào lên trong lòng nó như một làn sóng ấm nóng, nó cảm thấy nhu cầu được vuốt ve, được sưởi ấm những đứa con tương lai, truyền cho chúng dòng sữa của mình y hệt như chúng đã nằm bên cạnh. Đó chính là mối tiên cảm hạnh phúc. Nó lim dim mắt, rên rỉ vì sung sướng, vì chờ đợi sữa dồn lên hai hàng vú phồng căng đến mức đỏ lên. Nó mệt mỏi và chậm rãi duỗi thẳng người ra trong chừng mực khuôn khổ hang cho phép. Cảm thấy đã yên tâm hẳn, nó lại định đến cạnh con sói chồng Tastrainar bờm xám của nó. Tastrainar lực lưỡng, bộ lông ấm áp, đàn hồi và rộng. Tuy luôn luôn cau có, Tastrainar cũng thấy được những gì mà con sói cái sắp làm mẹ này đang cảm thấy. Trực giác giúp nó hiểu được những gì đang diễn ra trong bụng sói vợ, và có lẽ nó cũng xúc động. Vểnh một bên tai, Tastrainar hơi ngửng cái đầu nặng nề và kềnh càng lên. Trong ánh mờ tối của đôi đồng tử lạnh lẽo giữa cặp mắt đen thẫm trũng sâu vào trong, có thoáng lướt qua một vết đen nào đó, một linh cảm dễ chịu mơ hồ nào đó. Nó dè dặt kêu gừ gừ, khịt khịt mũi và rên ư ử, biểu lộ tâm trạng hồ hởi của mình, tỏ ý sẵn sàng phục tùng không điều kiện con sói vợ mắt xanh và che chở cho vợ. Rồi nó bắt đầu ân cần và âu yếm đưa cái lưỡi to ẩm ướt và ấm áp liếm đầu sói vợ. Acbara yêu thích lưỡi sói chồng vào những lúc sói chồng vuốt ve âu yếm nó, người run lên vì nôn nóng, lưỡi nóng bừng vì máu hừng hực dồn lên, trở nên chắc nịch, lanh lẹn và mạnh mẽ như rắn. Vào những lúc ấy, nó hết sức thích thú tuy lúc đầu cố làm ra vẻ bình thản, thờ ơ. Nó cũng thích thú như vậy cả vào những giờ phút êm đềm hạnh phúc sau khi ăn uống no nê, khi lưỡi sói chồng vừa mềm mại vừa ẩm ướt vuốt ve nó. Người phán xét cao nhất là thời gian. Dần dần, hai con sói bờm xám từ nơi khác đến đã có thể tự bảo vệ mình. Trong vô số những cuộc giao chiến dữ dội, chúng đã giành được phần đất trên cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun và giờ đây chúng đã trở thành chủ nhân. Lũ sói địa phương không còn dám xâm phạm vào lãnh địa của chúng nữa. Có thể nói rằng, vậy là cuộc sống của những con sói bờm xám mới xuất hiện đã ổn định thành công trên đất Ixức-Cun. Nhưng trước đó là cả một giai đoạn lịch sử. Nếu như thú vật có thể nhớ lại quá khứ thì Acbara – một con sói rất sáng ý và cảm nhận tinh tế – sẽ lại nếm trải tất cả những gì mà đôi khi nó chợt nhớ lại, chua xót đến mức chảy nước mắt và rền rĩ vì đau đớn. Trong thế giới đã mất ấy, trong đồng cỏ Môiuncumư mênh mông xa xôi ấy, đã từng diễn ra một cuộc sống đầy những chuyến săn mồi rộng lớn với việc đuổi bắt liên miên những bầy sơn dương Môiuncumư bao la. Từ thời cổ đại, giống sơn dương Xaigắc đã sinh sống trên những vùng thảo nguyên lúc nào cũng rậm rạp loại cây muối đen chịu được tiết trời khô khốc ấy, và trong số những loài móng kép thì chúng thuộc loài lâu đời nhất, lâu đời như chính thời gian vậy. Những bầy súc vật mũi khoằm này chạy không biết mệt,. Lỗ mũi to tướng của chúng dồn không khí qua phổi với một mức độ mãnh liệt hệt như cá voi dồn những dòng nước đại dương qua bộ lược răng, và do đó chúng được trời phú cho khả năng chạy liên tục suốt từ sáng đến tối. Khi chúng bắt đầu chạy vì bị kẻ thù vĩnh viễn và lúc nào cũng bám riết lấy chúng là chó sói săn đuổi; khi một bầy này kinh hoàng khiến bầy bên cạnh, đôi khi cả bầy thứ ba thứ tư nữa, cũng kinh hoàng theo; khi cuộc chạy trốn đồng loạt này lôi cuốn cả những bầy lớn nhỏ khác gặp trên đường chạy; khi chúng lướt vun vút trên thảo nguyên Môiuncumư, qua các gò đồi, các bình nguyên và các bãi cát, chẳng khác gì cơn đại hồng thủy đổ sụp xuống trái đất… thì mặt đất tựa như chạy ngược về phía sau và kêu rào rào như khi mưa đá vào lúc mùa hè. Không khí lúc đó tràn ngập hơi thở quay cuồng của chuyển động, tràn ngập bụi đá và những tia lửa bắn tóe ra từ dưới móng, tràn ngập mùi mồ hôi của bầy súc vật – mùi đua tranh điên cuồng không phải giành lấy cái sống mà là giành lấy cái chết. Và lũ sói chạy tản ra, bám sát gót, cố xua bầy xaigắc vào những ổ mai phục, nơi nằm chờ chúng giữa những bụi cây muối đen là những con sói lão luyện, ranh năng nhọn hoắt, sẵn sàng từ chỗ mai phục nhảy phắt lên gáy con mồi đang lao vùn vụt, ngã lộn nhào cùng với nó, cắn đứt cổ làm máu phụt ra lênh láng rồi lại lao vào cuộc săn đuổi. Nhưng lũ Xaigắc không hiểu sao thường nhận ra những nơi sói mai phục và kịp né tránh những nơi ấy. Và cuộc săn đuối lại bắt đầu một vòng mới với tốc độ và mức dữ dội còn lớn hơn nữa. Tất cả những con thú ấy, cả những con bị săn đuổi và những con săn đuổi – một mắt xích của quá trình tồn tại nghiệt ngã – đều dốc hết sức vào cuộc chạy thi, khiến máu dường như sôi lên chẳng khác gì trong cơn hấp hối, để sống và để sống sót. Và có lẽ chỉ Chúa Trời mới có thể dừng cả hai bầy thú lại, bởi vì đây là chuyện sống chết của những con vật khao khát sống khỏe mạnh. Những con sói nào không chịu đựng nổi tốc độ điên cuồng như vậy và những con sói nào không phải sinh ra để ganh đua trong cuộc đấu tranh sinh tồn – trong cuộc chạy đua sinh tồn – đều ngã lăn ra và trút hơi thở cuối cùng trong lớp bụi bốc lên của cuộc săn đuổi đang cuốn xa dần như cơn bão. Nếu chúng còn sống chăng nữa thì chúng cũng phải bỏ đến những miền khác, nơi chúng tha hồ hoành hành giữa những bầy cừu hiền lành, hiền lành đến mức thậm chí không tìm cách chạy trốn nữa. Nhưng quả thật, những nơi ấy có mối nguy hiểm riêng. Mối nguy hiểm đáng sợ nhất trong số tất cả những mối nguy hiểm có thể xảy ra ở đấy: bên cạnh đàn cừu là những con người, những kẻ vừa là Chúa Trời vừa là nô lệ của bầy cừu, những kẻ muốn sống nhưng lại không cho loài khác sống, đặc biệt là những ai không phụ thuộc vào họ và thích được tự do. Con người! Con người! Họ thật ghê gớm như Chúa Trời vậy! Họ cũng săn bắt lũ xaigắc của đồng cỏ Môiuncumư mênh mông. Trước kia, họ xuất hiện trên mình ngựa, mặc quần áo da thú, trang bị bằng cung tên. Sau này họ xuất hiện với những khẩu súng nổ vang, vừa hò hét vừa phi ngựa hết nơi này đến nơi nọ, – còn lũ xaigắc thì chạy nườm nượp hết phía này đến phía khác – tha hồ mà lùng chúng trong những cánh rừng cây muối đen. Nhưng rồi, đến lúc những con-người-Chúa-Trời ấy bắt đầu tổ chức những cuộc săn lùng bằng xe ôtô nhằm làm cho chúng phải kiệt sức vì mệt mỏi, hệt như lũ sói vẫn làm, lũ xaigắc quỵ ngã và họ vừa ngồi trên xe vừa bắn giết. Tiếp đấy, họ sử dụng máy bay lên thẳng. Lúc đầu, họ từ trên trời quan sát các bầy xaigắc trên thảo nguyên rồi bao vây chúng trong những toạ độ đã định sẵn. Những tay xạ thủ dưới mặt đất thì phóng vun vút khắp những vùng đất bằng với tốc độ một trăm kilômet giờ hoặc hơn thế nữa để lũ xaigắc không kịp ẩn nấp. Máy bay lên thẳng thì từ trên cao hiệu chỉnh mục tiêu và hướng săn đuổi. Ôtô, máy bay lên thẳng, súng trường cao tốc… – và thế là cuộc sống ở đồng cỏ Môiuncumư bị lộn nhào hết lên. Con sói cái Acbara mắt xanh còn chưa thay lông và con sói chồng tương lai nó là Tastrainar mới nhỉnh hơn nó một chút, thì chúng đã đến lúc phải làm quen với những cuộc săn đuổi lớn. Lúc đầu, chúng không theo kịp, chúng xé xác những con sơn dương đã gục ngã và giết chết những con nào chưa chết hẳn. Nhưng dần dần, về sức lực và sức chịu đựng chúng đã trội hơn nhiều con sói từng trải, nhất là những con sói đang về già. Nếu như mọi việc đều diễn ra theo qui luật tự nhiên thì chỉ ít lâu nữa là chúng sẽ đứng đầu cả bầy sói. Nhưng tình hình lại ngoặt theo chiều hướng khác… Năm này không giống năm khác. Vào mùa xuân năm đó, các bầy xaigắc sinh đẻ đặc biệt nhiều, không ít con cái còn sinh đôi nữa, bởi vì mùa thu trước, trong thời gian săn đuổi, lớp cỏ khô đã hơi lên xanh lại sau một vài trận mưa tầm tã vào lúc tiết trời ấm áp. Thức ăn thừa thãi, do đó tỉ lệ sinh đẻ tăng lên. Trong thời gian sinh đẻ, lũ xaigắc ngay từ đầu xuân đã đi đến những vùng cát lớn không có tuyết ở mãi sâu trong đồng cỏ Môiuncumư, nơi chó sói không dễ dàng tới được. Mà săn đuổi lũ Xaigắc trên các cồn cát là một việc vô vọng. Trên các cồn cát thì chó sói không thể đuổi kịp lũ xaigắc được. Để bù lại, chó sói thường sống no đủ vào mùa thu và mùa đông. Khi việc di cư theo mùa của động vật khiến những vùng nửa sa mạc và thảo nguyên đầy ắp những bầy xaigắc đông vô kể, đó là lúc Chúa hậu đãi loài sói. Còn về mùa hè, đặc biệt vào thời tiết nóng nực, chó sói thường không ưa động chạm đến xaigắc bởi vì đã có đủ một loại con mồi khác, dễ săn đuổi hơn, là ngân thử. Vô số ngân thử lang thang khắp thảo nguyên để bù đắp lại những gì chúng đã trượt mất vào thời kỳ ngủ đông. Trong mùa hè, chúng phải kịp làm tất cả những gì mà các thú vật khác đã làm trong một năm trời. Chính vì thế mà chúng hối hả xục xạo khắp nơi, không thèm để ý đến nguy hiểm. Vậy tại sao lại không săn bắt kia chứ – bởi vì cái gì cũng có giờ phút của nó, mà về mùa đông thì không thể săn bắt kia mà, chúng không hề xuất hiện. Lại còn các loại thú nhỏ và chim chóc – đặc biệt là gà gô – dùng làm thức ăn cho sói vào những tháng hè. Nhưng việc kiếm ăn chủ yếu – những cuộc săn đuổi rộng lớn lũ xaigắc – là vào mùa thu và kéo dài từ mùa thu cho đến tận cuối đông. Lại một lần nữa là cái gì cũng có giờ phút của nó, trong đó thể hiện một sự hợp lý riêng, do thiên nhiên ban cho, của vòng quay cuộc đời trong đồng cỏ. Chỉ thiên tai và con người mới có thể phá vỡ quá trình tự lâu đời này của tình hình ở Môiuncumư.   Mời các bạn đón đọc Đoạn Đầu Đài của tác giả Tchinguiz Aitmatov,

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trái Tim Bạc Nhược
Trái tim bạc nhược đã đặt những giá trị vốn bắt rễ vững chắc trong nền văn hóa phương Tây vào tình trạng khủng hoảng. Cuộc xung đột bùng nổ trong lĩnh vực hôn nhân, một cơ cấu xã hội vốn có nhiệm vụ khó khăn là quy chuẩn hóa mối quan hệ yêu đương mà về mặt lý thuyết là người ta hoàn toàn được tự do lựa chọn. Juan, thông dịch viên cho các tổ chức quốc tế, kết hôn với Luisa, một nữ đồng nghiệp. Hai người quen biết nhau khi cùng làm phiên dịch trong một cuộc gặp gỡ giữa hai chính khách cao cấp: một quý bà người Anh và một quý ông người Tây Ban Nha...Trong năm đầu tiên sau khi kết hôn với Luisa, ngay từ buổi hôn lễ anh đã cảm thấy một nỗi lo sợ mơ hồ, khi Ranz, người cha xuất sắc, kẻ đã làm giàu trên cương vị một nhà phê bình nghệ thuật dưới thời chế độ độc tài Franco, khuyên nhủ anh ta rằng: đừng bao giờ kể bất cứ điều bí mật nào với người phụ nữ vừa làm lễ thành hôn. Người cha, vốn rất tự tin, đặt một bàn tay lên vai con, và đã đưa ra lời khuyên nhủ kỳ quặc này cho người con vốn đã chất chứa trong lòng đầy những nghi ngờ. Lời cảnh báo vừa dịu dàng vừa bí hiểm, lại không thể đối đáp lại, cùng cử chỉ mơ hồ kia, một thứ cử chỉ vừa có nghĩa là bảo vệ vừa là đe dọa. Nghi ngại về thái độ này của người cha, từ hôm đó Juan bắt đầu công việc thám tử đầy vất vả nhằm vào người cha, và phát hiện ra một câu chuyện kinh hoàng... Mặt khác, với câu nói nổi tiếng "Tôi không muốn biết nhưng rồi đã biết" dùng để bắt đầu câu chuyện của mình, Juan ám chỉ rằng mình không hề muốn là chính mình, cũng không muốn kể điều mà đang kể, cho thấy một cuộc đấu tranh nội tâm day dứt giữa việc nói ra hay là im lặng. *** Lời cảnh báo “Nếu như con đã có một bí mật nào đó, thì đừng bao giờ tiết lộ với ai” luôn là nỗi ám ảnh đối với bất cứ ai. Bởi ai cũng sẽ có một bí mật nào đó trong đời không muốn tiết lộ, mà bản tính con người luôn nghi ngờ, tò mò, dằn vặt khiến cho trái tim trở nên bạc nhược. Và khi bí mật đó được tiết lộ thì rất có thể họ trút được gánh nặng, cũng có thể họ suy sụp… Đó là nội dung cuốn sách “Trái tim bạc nhược” mà nhà văn Javier Marías muốn đề cập đến. Câu chuyện xung quanh nhân vật - Juan làm nghề thông dịch viên trong các hội nghị cao cấp quốc tế, anh yêu và sau đó cưới Luisa, đồng nghiệp. Ngay từ buổi hôn nhân, Juan đã xuất hiện trong lòng một  mối linh cảm xấu, một mối linh cảm thảm họa. Trong lễ thành hôn, người cha đã đặt tay lên vai Juan và nhẹ  nhàng đặt câu hỏi mà Juan đang băn khoăn bao nhiêu lâu: Và bây giờ thì sẽ ra sao đây? Lời cảnh báo đó đã thực sự ám ảnh Juan, và anh bắt đầu muốn tìm hiểu nó. Cùng với quá trình tìm hiểu câu chuyện bí mật về cuộc hôn nhân của bố. Anh luôn cảm thấy một linh cảm, dường như chính mình đang tiến gần hơn đến thảm họa trong cuộc hôn nhân của mình. Trong lần đi hưởng tuần trăng mật ở La Habana, Juan và Luisa đã nghe được một cuộc nói chuyện của người đàn ông với người phụ nữ ở phòng kế  bên, họ đang mưu đồ giết hại người vợ của người đàn ông, người vợ đang ở Tây Ban Nha, để được đến với nhau. Câu chuyện này mở ra như một móc nối với các cặp đôi về sau: Berta (một người bạn gái của anh ở New York) và Bill (một kẻ lạ mặt làm quen với Berta qua chương trình quảng cáo), Ranz - bố của Juan - và người vợ đầu tiên, mà Juan luôn tưởng tượng ra. Tất cả những gì Juan biết về cuộc hôn nhân của bố mình là cuộc tự sát của người bác gái và cái chết của ông ngoại vì bị bệnh tim mà chỉ một số người biết nguyên nhân, ngoài ra không một ai, tất nhiên là cả anh. Mọi chuyện bí mật được hé lộ phần nào khi hai vợ chồng Juan và Luisa ngồi nói chuyện với một vị giáo sư, người bạn của bố Juan. Khiến cho hai vợ chồng cùng quyết định sẽ tìm hiểu ra câu chuyện của bố. Và đặt trách nhiệm đó vào Luisa, như một điều hiển nhiên, không thể khác, bởi cô là người duy nhất có thể gần gũi và nói chuyện một cách vui vẻ, thân mật được với Ranz, bố Juan. Khi Ranz trở về nhà sau một chuyến công tác, anh trở về mà không báo trước cho vợ. Và anh đã được chứng kiến cuộc nói chuyện đã được chính Luisa sắp xếp cho Juan có thể nghe thấy được. Ngồi ở mép giường trong phòng ngủ, cánh cửa khép hờ nhìn ra phòng khách, Juan đã được nghe toàn bộ câu chuyện của người bố với vợ mình, một câu chuyện kinh hoàng mà anh không bao giờ muốn biết, cuối cùng cũng đã phải biết. Đó là người bố anh đã giết chết người vợ đầu, một người phụ nữ Cuba, vì tình yêu với bác gái của anh, Teresa. Sau khi đã kết hôn với người phụ nữ Cuba, một cuộc hôn nhân không có tình yêu, ông gặp Teresa và hai người yêu nhau, bắt đầu những cuộc hẹn hò bí mật. Vì yêu Terera, và muốn kết thúc sớm cuộc hôn nhân với người phụ nữ Cuba kia, ông đã giết chết vợ, trong một lần khi mà suy nghĩ bệnh hoạn thoáng hiện trong đầu, và ông đã thực hiện luôn ngay lúc đó. Sau đó ông cưới Teresa, nhưng không lâu, trong một lần trên giường ngủ, ông đã tiết lộ bí mật ấy, bí mật về một việc đã âm thầm làm, không một ai biết cho Teresa. Sau khi biết câu chuyện kinh khủng mà chồng mình đã làm, Teresa cảm thấy kinh tởm ông, sợ hãi ông, và vì thời đó, họ không được phép ly hôn, bà đã tìm đến cái chết, bằng một cuộc tự sát trong phòng tắm, bằng chính khẩu súng của cha mình, ngay sau khi đi hưởng tuần trăng mật trở về. Một cái chết trong hoảng loạn, sợ hãi. Sau đó ông lấy người em gái của Teresa: Juana, mẹ của Juan sau này. Và bà đã im lặng, không hỏi đến nguyên nhân cái chết của chị gái mình cho đến hết cuộc đời. Ông bố của bà, sau cái chết của người vợ đầu người Cuba, đến cái chết của cô con gái thứ nhất của mình, Teresa, bây giờ lại đến đứa con gái thứ hai trở thành vợ của Ranz, ông luôn sống trong lo lắng, sợ hãi, ông lo cho đứa con gái thứ hai của mình, sẽ bị lặp lại thảm họa giống như hai người vợ trước, vừa là một nỗi ám ảnh mê tín, vừa là sợ hãi chính Ranz, người con rể của mình. Cuộc sống luôn trong phấp phỏng, lo âu đã khiến ông nhanh chóng bị kết thúc cuộc đời. Câu chuyện tưởng như sẽ vĩnh viễn chìm vào im lặng, xóa mọi dấu vết của nó theo thời gian và sự im lặng của tất cả những người trong cuộc, nhưng rồi cuối cùng nó cũng phải quay trở lại, trong cuộc nói chuyện giữa người bố và người con dâu, và đây cũng là lần cuối cùng nó trở lại. Người bố sau bao nhiêu năm trời luôn tỏ ra là một con người phong độ, trẻ trung so với tuổi tác, luôn thanh lịch, hào hoa, như những gì ông cố tỏ ra, xí xóa toàn bộ mọi chuyện đã qua như chưa từng có gì để sống, nhưng sau cuộc nói chuyện này, như sau một lần quay lại đối diện với sự thật mình đã gây ra, ông đã thay đổi tất cả: trở nên già hơn, trầm tư hơn, buồn bã hơn. Điều đã làm và điều nghe thấy, điều được truyền đạt lại là hoàn toàn khác nhau. Một sự thật xảy ra với một sự thật được sắp xếp lại. Và điều đã xảy ra, một sự việc đã xảy ra, nếu như người ta im lặng, không nhắc tới nó, thì nó cũng không khác gì một việc chưa từng xảy ra, chưa từng có.  Đó là một chân lý mà tác giả đã xuyên suốt cả tác phẩm. Thảm họa đã xảy ra trong gia đình Juan, nó giống như một điều đã xảy ra, một điều đã làm. Nó gần như đã bị xí xóa hoàn toàn, không ai nhắc đến nữa, nghĩa là nó chưa từng tồn tại, cho đến một ngày câu chuyện được nhắc lại qua lời kể của người bố. Và sau khi tất cả nghi ngờ được hóa giải, tất cả bí mật được hé lộ, thì những mối linh cảm, lo sợ về một thảm họa cũng tan biến hoàn toàn trong Juan. Dù sau khi biết được sự thật kinh hoàng, có bất ngờ, có choáng váng, nhưng anh cũng cảm giác nhẹ nhàng hơn, như rũ bỏ được một gánh nặng. *** Một câu nói ám ảnh cả nhân vật lẫn người đọc: Nếu có một bí mật thì đừng bao giờ tiết lộ với ai. Những con người có thể sống với trái tim bạc nhược vì nghi ngờ, vì tò mò, vì dằn vặt, vì nỗ lực xóa bỏ quá khứ. Nhưng nếu bí mật được tiết lộ, có người sụp xuống mà cũng có người cảm thấy như vừa trút được gánh nặng... Người ta sống thế nào khi "trái tim bạc nhược"?... Juan làm nghề thông dịch viên trong các hội nghị cao cấp quốc tế, anh yêu và sau đó cưới Luisa, đồng nghiệp. Trong lễ thành hôn, người cha cảnh báo: Nếu như con đã có một bí mật nào đó, thì đừng bao giờ tiết lộ với ai. Lời cảnh báo đó đã thực sự ám ảnh Juan, và anh bắt đầu muốn tìm hiểu nó. Tất cả những gì Juan biết về cuộc hôn nhân của bố mình là cuộc tự sát của người bác gái và cái chết của ông ngoại vì bị bệnh tim mà chỉ một số người biết nguyên nhân. Ranz trở về nhà sau một chuyến công tác, không báo trước cho vợ. Anh đã được nghe toàn bộ câu chuyện mà bố kể với vợ mình, một câu chuyện kinh hoàng anh không bao giờ muốn biết nhưng cuối cùng cũng phải biết. Đó là bố anh đã giết chết người vợ đầu, một người phụ nữ Cuba, vì tình yêu với bác gái của anh, Teresa. Sau khi đã kết hôn với người phụ nữ Cuba, một cuộc hôn nhân không có tình yêu, ông gặp Teresa và hai người yêu nhau, bắt đầu những cuộc hẹn hò bí mật. Vì yêu Terera, muốn kết thúc sớm cuộc hôn nhân với người phụ nữ Cuba kia, ông đã giết chết vợ. Sau đó ông cưới Teresa, và ông đã tiết lộ bí mật về việc đã âm thầm làm cho Teresa biết. Sau khi biết câu chuyện kinh khủng, Teresa cảm thấy kinh tởm ông, sợ hãi ông, và bà đã tự sát trong phòng tắm, bằng khẩu súng của cha mình, ngay sau khi đi hưởng tuần trăng mật trở về. Sau đó ông lấy người em gái của Teresa: Juana, mẹ của Juan sau này. Và bà đã im lặng, không hỏi đến nguyên nhân cái chết của chị gái mình cho đến hết cuộc đời. Câu chuyện tưởng như sẽ vĩnh viễn chìm vào im lặng, xóa mọi dấu vết của nó theo thời gian và sự im lặng của tất cả những người trong cuộc, nhưng rồi cuối cùng nó quay trở lại, trong cuộc nói chuyện giữa người bố và con dâu. Người bố từ bao năm luôn tỏ ra phong độ, trẻ trung, thanh lịch nhằm xí xóa mọi chuyện đã qua để tiếp tục sống, nhưng sau cuộc nói chuyện này, ông trở nên già hơn, trầm tư hơn, buồn bã hơn. Một sự việc đã xảy ra, nếu như người ta im lặng, không nhắc tới nó, thì nó cũng không khác gì một việc chưa từng xảy ra, chưa từng có. Đó là một chân lý xuyên suốt cả tác phẩm. Sau khi tất cả nghi ngờ được hóa giải, tất cả bí mật được hé lộ, thì những mối linh cảm, lo sợ về một thảm họa cũng tan biến hoàn toàn trong Juan. Dù sau khi biết được sự thật kinh hoàng, có bất ngờ, có choáng váng, nhưng anh cũng cảm giác nhẹ nhàng hơn, như rũ bỏ được một gánh nặng. Nhưng bố anh thì khác... Cuốn sách này của Javier Marías - tác giả của Lãnh địa của Sói, Đường xuyên chân trời, Đấng Quân vương của thời đại, Thế kỷ, Người đàn ông đa cảm vừa đến với độc giả Việt Nam qua bản dịch của Lê Xuân Quỳnh. Gia Bách review     *** Nhà văn Javier Marías sinh năm 1951 tại Madrid (Tây Ban Nha). Ông vừa viết văn vừa giảng dạy tại các trường Đại học Oxford và trường Đại học Complutense Madrid. Ông đã được trao nhiều giải thưởng khu vực và quốc tế: Năm 1997, giải thưởng Sách Nelly ở Dortmund; năm 1998 giải thưởng Cộng đồng Madrid; năm 2000, giải thưởng Grizane Cavour ở Turín và giải thưởng Alberto Moravia ở Roma. Sách của Javier Marías đã được dịch sang ba mươi tư ngôn ngữ, xuất bản tại bốn mươi bốn nước với hơn năm triệu bản, gồm các thể loại:  Tiểu thuyết và truyện vừa như: Lãnh địa của Sói, Đường xuyên chân trời, Đấng Quân vương của thời đại, Thế kỷ, Người đàn ông đa cảm (giải thưởng quốc tế Ennio Flaiano), Hết thảy mọi linh hồn (giải thưởng thành phố Barcelona), Trái tim trong trắng (giải thưởng La Critica, giải thưởng l´Oeil et la Lettre, giải thưởng IMPAC international Dublín Literary), Ngày mai trên chiến trận anh hãy nhớ đến em (giải thưởng Fastenrath, giải thưởng quốc tế Rómulo Gallegos, giải thưởng Tổng giám mục Juan de San Clemente, giải thưởng Femenina Étranger và giải thưởng Mondillo Città di Palermo), Mặt tối của thời gian, Gương mặt ngày mai của em: sự cuồng nhiệt và ngọn giáo (giải thưởng Salambó) và Gương mặt ngày mai của em: vũ điệu và giấc mơ. Mời các bạn đón đọc Trái Tim Bạc Nhược của tác giả Javier Marías & Lê Xuân Quỳnh (dịch).
Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng
Khi cuộc nội chiến Hoa Kỳ gần kết thúc, những tay súng cuồng tín của Câu lạc bộ Súng ở Baltimore rất nhàn rỗi. Một ngày đẹp trời, chủ tịch Impey Barbicane đưa ra một đề xuất được chào đón một cách nhiệt tình. Đó là việc liên hệ với Mặt trăng bằng cách phóng một quả đạn khổng lồ bằng một khẩu pháo khổng lồ! Trong khi dự án đáng kinh ngạc này đang được thực hiện, một người Paris, Michel Ardan, gửi điện báo cho Barbicane: “Hãy thay thế quả đạn hình cầu bằng quả đạn hình nón. Tôi sẽ ngồi vào trong đó”... Với các nhân vật được xây dựng hoàn hảo, sự hài hước luôn hiện hữu, Từ Trái đất đến Mặt trăng là một trong những tác phẩm vĩ đại của Jules Verne, một trong những dự đoán táo bạo nhất của ông. Tác phẩm được Thanh Yên dịch từ bản dịch tiếng Anh. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** T rong cuộc nội chiến Hoa Kỳ, hay còn gọi là cuộc chiến tranh giữa các tiểu bang (1861-1865), tại thành phố Baltimore, bang Maryland đã xuất hiện một câu lạc bộ mới và có sức ảnh hưởng ngoài mong đợi của những người sáng lập. Nó nổi lên cùng với nguồn năng lượng đến từ những tham vọng quân sự đang lớn dần giữa các nhóm chủ tàu, chủ hiệu và thợ cơ khí. Các nhà buôn thuần túy bỏ bàn tính để trở thành đại úy, đại tá và tướng lĩnh mà chưa hề có mặt dù chỉ một ngày ở Trường đào tạo West Point; thế mà, họ vẫn mau chóng sánh ngang với những kẻ đồng cấp nơi lục địa già và cũng như những kẻ kia, giành được thắng lợi nhờ các khoản chi vô tội vạ vào đạn dược, tiền bạc và con người. Nhưng lĩnh vực trong đó người Mỹ đặc biệt bỏ xa người châu Âu là khoa học chế tạo đại bác. Không phải vũ khí của họ có độ hoàn hảo cao hơn mà đơn giản chỉ là họ tạo ra các kích thước lớn hơn; lớn chưa từng thấy, thậm chí lớn tới mức xưa nay chưa từng thấy. Có người còn bạo mồm nói rằng kể cả mãi mãi về sau… Ở các khoản bắn quét, phóng, xiên, hay lia, hoặc bắn thẳng, người Anh, Pháp và Phổ chẳng có gì cần học hỏi; nhưng súng đại bác, bích kích pháo và súng cối của đám người này chỉ là thứ súng lục bỏ túi nếu so với những cỗ máy ghê gớm của pháo binh Mỹ. Sự thật này chẳng làm bất ngờ ai. Người Yankee, dù đây là theo cách gọi coi thường của người miền Nam trong thời kỳ nội chiến dành cho dân Bắc Mỹ, thì chính họ, những thợ cơ khí đầu tiên trên thế giới, là các kỹ sư – cũng như người Ý là nhạc công còn người Đức là các nhà siêu hình học bẩm sinh. Chẳng gì nghiễm nhiên hơn, thế đấy, việc nhìn họ ứng dụng tài hoa ấn tượng của mình vào khoa học chế tạo đại bác. Chứng kiến sự kỳ diệu của các loại súng Parrott, Dahlgren và Rodman, thì lục địa già với những súng Armstrong, Palliser và Beaulieu vang lừng tên tuổi một thời đã buộc phải cúi đầu trước những kình địch ở bên kia Đại Tây Dương. Giờ đây khi một người Mỹ có kế hoạch hành động, anh ta sẽ trực tiếp tìm một anh Mỹ thứ hai để bàn bạc và mời hợp tác. Nếu có ba, họ sẽ chọn ra một thủ lĩnh. Khi có bốn, họ sẽ chỉ định người quản lý hồ sơ và văn phòng sẵn sàng hoạt động. Nếu có năm, họ sẽ tiến hành mọi nghi lễ cần thiết để cho ra đời một câu lạc bộ. Chính là cái câu lạc bộ nói trên. Mọi thứ diễn ra tại Baltimore. Nhà sáng chế ra loại đại bác mới ủng hộ các thợ đúc và thợ khoan. Từ đó hình thành nên cốt lõi, nền tảng cho sự ra đời Câu lạc bộ Súng. Rồi, chỉ vẻn vẹn một tháng sau ngày thành lập, câu lạc bộ đã có tới 1.833 hội viên hợp thức và 30.565 hội viên thông tấn. Một điều kiện được coi như yếu tố tiên quyết đối với mỗi ứng viên khi gia nhập câu lạc bộ này, là phải đã hoặc đang thiết kế, hoặc (ít hay nhiều) từng hoàn thiện một khẩu đại bác; hoặc, nếu không đại bác, chí ít cũng là loại súng ngắn nào đó. Ấy thế mà, nghe nói, chỉ các tay sáng chế ra súng lục ổ quay, súng cạc bin khạc lửa và các vũ khí tương tự cỡ nhỏ, mới gặp ít soi xét nhất. Riêng lính pháo binh luôn được xếp hạng ưu trong điều khoản chiếu cố. Quy ước để tổ chức các quý ông này, theo một trong những diễn giải khoa học nhất và cũng mơ hồ nhất, của Câu lạc bộ Súng, là “tương ứng với số lượng súng của họ và tỷ lệ thuận với bình phương khoảng cách đạt được khi đạn bắn ra”. Khi Câu lạc bộ Súng được thành lập, tương lai về các thiên tài phát minh của người Mỹ thật quá dễ mường tượng. Vũ khí quân sự của họ đạt tới tầm vóc khổng lồ, còn đạn của họ, vượt mọi giới hạn quy chuẩn, thỉnh thoảng chẳng may cắt đôi vài khách bộ hành vô tội. Những sáng chế này, trên thực tế, bỏ xa các thiết bị nhút nhát của pháo binh châu Âu lại phía sau. Cũng là lẽ công bằng khi nói thêm rằng những người Yankee này, dũng cảm như họ từng thể hiện, đã không hạn chế chính mình trong các học thuyết và công thức, nhưng đã phải trả giá đắt, bằng chính bản thân, cho các sáng chế của họ. Trong số họ có đủ các cấp sĩ quan, từ trung úy tới cấp tướng; quân nhân thuộc mọi lứa tuổi, trong đó có người vừa mới gia nhập ngành vũ khí cho tới những người đã già đi cùng xe chở pháo. Phần còn lại của nhiều người được tìm thấy trên chiến trường và dòng tên viết in hoa trong Cuốn sách Danh vọng của Câu lạc bộ Súng, nhiều người khác tỏa ánh vinh quang mang theo những dấu tích của lòng dũng cảm không thể bàn cãi. Nạng đỡ, chân gỗ, tay giả, móc thép, hàm cao su, sọ bạc, mũi bạch kim, đều được tổng kết lại; và nhà thống kê xuất sắc Pitcairn tính toán rằng, suốt thời gian hoạt động của Câu lạc bộ Súng, cứ bốn người thì một thiếu đôi tay toàn vẹn và sáu người thì một không có đôi chân đủ đầy. Tuy nhiên, những pháo thủ can đảm này chẳng dành chút chú ý đặc biệt nào tới những thừa thiếu nhỏ nhoi này, mà chỉ cảm thấy niềm tự hào dâng tràn khi thông báo kết quả gửi về từ trận chiến: Con số tử vong gấp mười lần lượng đạn tiêu hao. Một ngày nọ, ấy vậy mà lại là ngày u buồn! Hòa bình được ký kết giữa những kẻ sống sót sau cuộc chiến; tiếng gầm rú của đạn pháo dần vơi, súng cối trở nên câm lặng, bích kích pháo bị bịt kín miệng trong thời gian không hạn định, đại bác, với những họng súng rầu rĩ, bị kéo vào kho… những hồi ức đẫm máu cũng lu mờ; cây bông mọc sum suê trên những cánh đồng được bón phân cẩn thận, tất cả đồ tang lễ được xếp sang một bên, cùng với nỗi đau thương; còn Câu lạc bộ Súng bị đẩy xuống trạng thái trì trệ vô thời hạn. Dăm ba nhà lý luận cấp cao thâm căn cố đế quay lại với việc sửa đổi các trù tính về luật súng đạn. Họ khăng khăng lật lại vấn đề về đạn pháo khổng lồ và bích kích pháo ngoại cỡ. Nhưng thiếu thực tiễn, mớ lý thuyết này có giá trị gì? Và như vậy, các phòng trong câu lạc bộ trở nên vắng ngắt, những người phục vụ ngủ gà gật nơi tiền sảnh, báo chí mốc meo trên bàn, tiếng ngáy vọng ra từ góc tối, còn hội viên của Câu lạc bộ Súng, khi xưa ầm ĩ trong cả phiên họp lẫn giờ giải lao, nay tụt xuống im ắng vì thứ hòa bình tai họa này và buông bỏ toàn bộ bản thân vào những giấc mơ về một nền pháo binh thuần khiết. “Thật là tệ hại!” Tom Hunter nói khi chiều tối, trong lúc đang mau chóng tôi cacbon cặp chân giả trong lò sưởi phòng hút thuốc. “Chẳng có gì để làm!” anh nói, giọng hằn học. “Chẳng có gì để trông mong! Cái loại tồn tại ghê tởm này! Đến khi nào súng ống lại đánh thức chúng ta dậy buổi sáng bằng tiếng nổ dễ chịu của nó đây?” “Những ngày đó qua rồi,” Bilsby dễ mến nói, cố duỗi đôi tay đã mất. “Đã là ngày xưa vui vẻ rồi! Một người phát minh ra súng và khó khăn lắm mới đúc ra nó, một người vội vã thử dùng để đối đầu với kẻ thù! Sau đó một người quay về doanh trại cùng lời cổ vũ của Sherman hoặc cái bắt tay thân thiện với McClellan. Nhưng giờ các tướng đều quay lại với bàn tính; và thay vì súng đạn, họ gửi đi các kiện bông. Trời ơi, tương lai ngành chế tạo đại bác của nước Mỹ tiêu rồi!” “Ây! Còn chẳng có viễn cảnh chiến tranh nào!” James T. Maston nổi tiếng tiếp lời, cào cào cái sọ nhựa kết của mình bằng bàn tay móc thép. “Chẳng có nguy cơ nào trong tương lai! Mà lại còn ở cái giai đoạn then chốt trong sự phát triển của khoa học pháo binh! Đúng thế đấy, các quý ông! Tôi, người đang nói với các bạn đây, sáng nay đã hoàn thiện một mẫu, đủ cả, gồm bố trí, mặt cắt, góc nâng, vân vân và vân vân của loại súng cối sẽ thay đổi mọi tình thế chiến trận!” “Không… không! Có thể như vậy ư?” Tom Hunter kêu lên, vô tình nhớ lại sáng chế trước kia của ngài J. T. Maston, bằng cách nào đó, trong lần thử nghiệm đầu tiên, đã tiêu diệt ba trăm ba mươi bảy tên địch. Một thành công hơn cả mơ ước. “Nhưng mà,” anh nói tiếp, “tiến hành nhiều nghiên cứu, đánh bại nhiều khó khăn thì cũng có ích lợi gì đâu? Chỉ lãng phí thời giờ! Tân Thế Giới có vẻ đã quyết tâm sống trong hòa bình; còn vị lãnh đạo hiếu chiến của chúng ta dự đoán rằng một số thảm họa sắp phát sinh từ sự gia tăng dân số tồi tệ này.” “Tuy nhiên,” đại tá Blomsberry đáp lời, “ở châu Âu họ luôn phải vật lộn để duy trì nguyên tắc của các dân tộc.” “Thì sao?” “Thôi nào, có thể là vẫn có chỗ cho lòng can đảm ở bên đó và nếu họ chấp nhận sự phục vụ của chúng ta…” “Cậu mơ mộng cái gì đấy?” Bilsby hét lên, “chế tạo đại bác vì lợi ích của lũ ngoại quốc ư?” “Thế chả hơn là vô công rỗi nghề ở đây sao?” đại tá đáp trả. “Chính xác,” J. T. Matson nói, “nhưng chúng ta không cần tính đến cái kế đó.” “Tại sao không?” đại tá gặng hỏi. “Vì quan điểm về sự tiến bộ ở Cựu Thế Giới của họ trái ngược với thói quen tư duy của người Mỹ chúng ta. Những kẻ đó tin rằng không ai có thể trở thành tướng mà ban đầu không phục vụ với vai trò người cầm cờ; thế thì chẳng khác gì nói một người không thể chĩa súng nếu không tự làm ra một khẩu súng trước đó!” “Lố lăng!” Tom Hunter vừa nói vừa gọt đẽo tay ghế bành bằng một lưỡi mác, “nhưng nếu như vậy, tất cả những gì còn lại cho chúng ta chỉ là trồng thuốc lá và chưng dầu cá voi.” “Gì đây!” J. T. Maston gầm lên, “Sao chúng ta không tận dụng những năm còn lại của đời mình để hoàn thiện loại súng cầm tay? Chẳng lẽ không bao giờ có cơ hội tử tế để thử tầm đạn à? Chẳng lẽ ánh chói ngời từ súng của chúng ta sẽ không bao giờ làm bừng sáng không gian nữa à? Không có mâu thuẫn quốc tế nào nảy sinh để chúng ta tuyên bố chiến tranh chống lại các thế lực bên kia Đại Tây Dương hay sao? Chẳng lẽ không người Pháp nào đánh chìm tàu hơi nước của chúng ta, hay người Anh, bất chấp quyền lợi giữa hai dân tộc, treo cổ vài đồng hương của chúng ta hay sao?” “Không may mắn thế đâu,” đại tá Blomsberry đáp, “chẳng cái gì tương tự có khả năng xảy ra đâu, mà dù có, chúng ta cũng chả lợi dụng được gì từ nó. Tính nhạy cảm của người Mỹ đang sụt giảm mau chóng, rồi tất cả chúng ta đều sẽ lụn bại.” “Quá đúng,” J. T. Maston trả lời với giọng giận dữ chưa tan, “Có hàng ngàn chiến trường để chiến đấu, nhưng chúng ta không chiến đấu. Chúng ta hy sinh tay chân cho lợi ích của các dân tộc – những kẻ không biết phải làm gì với chúng! Nhưng khoan – khỏi tốn công tìm động cơ chiến tranh – chẳng phải Bắc Mỹ một lần nữa lại thuộc về người Anh?” “Chắc chắn thế rồi,” Tom Hunter đáp, giậm giậm nạng của mình trong cơn giận dữ. “Chà, nếu vậy,” J. T. Maston nói, “tại sao không đổi lại nước Anh thuộc về người Mỹ?” “Thế mới thích đáng và công bằng,” đại tá Blomsberry đáp lại. “Hãy kiến nghị với tổng thống Mỹ đi,” J. T. Maston ré lên, “và xem xem ông ta sẽ tiếp đón anh thế nào.” “Hừ!” Bilsby gầm gừ giữa bốn chiếc răng chiến tranh đã để lại cho mình, “Điều đó không bao xảy ra!” “Trời ơi!” J. T. Maston la lớn, “Thế thì ông ta hẳn không cần phiếu của tôi cho lần bầu cử tiếp rồi!” “Cũng không cần của chúng tôi luôn,” tất cả các thương binh hiếu chiến nhất trí đáp lời. “Trong lúc ấy,” J. T. Maston tiếp tục, “cho phép tôi nói điều này, nếu tôi không thể tóm được một cơ hội để thử nghiệm súng cối mới của mình trên chiến trường chân chính, tôi sẽ nói lời tạm biệt với tất cả thành viên của Câu lạc bộ Súng và đi chôn vùi bản thân trong các thảo nguyên ở Alaska!” “Trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ đi theo anh,” những người khác kêu lên. Chuyện là trong tình cảnh đáng tiếc ấy, câu lạc bộ bị đe dọa trước nguy cơ giải tán, thì một tình huống bất ngờ đã xảy ra và ngăn chặn một kết thúc bi đát. Vào ngày tiếp theo sau cuộc trò chuyện này, mỗi thành viên của hội đều nhận được một giấy báo có niêm phong thuật lại nội dung sau: BALTIMORE, Ngày mùng ba tháng Mười, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng trân trọng thông báo tới các đồng sự rằng, tại buổi họp khẩn cấp lần thứ năm, ngài sẽ mang đến cho họ một tin tức vô cùng thú vị. Ngài yêu cầu, do đó, họ sẽ phải chuẩn bị sẵn sàng để tham gia theo đúng lời mời này. Rất thân ái. IMPEY BARBICANE, Chủ tịch Câu lạc bộ Súng. Mời các bạn đón đọc Từ Trái Đất Đến Mặt Trăng của tác giả Jules Verne & Thanh Yên (dịch).
Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 2
Vốn là học sinh của một trường chuyên cấp hai tại thành phố lớn, Anri đột ngột phải chuyển về học ở một ngôi trường vùng quê vào mùa hè. Những tưởng sẽ mất nhiều thời gian để làm quen với cuộc sống nơi đây, nhưng cô bé lập tức yêu bầu không khí khoáng đạt và dễ chịu của ngôi trường mới, khác hẳn với ngôi trường trước kia, đặc biệt là những ô cửa luôn để mở... Và cũng chính nơi đây, Anri đã có được những tình bạn thật đẹp cùng những rung động trong trẻo đầu đời… TỪ KHUNG CỬA SỔ LỚP 7D của nữ tác giả Atsuko Asano sẽ đánh thức những kí ức quý giá về thời thanh xuân hoa mộng trong mỗi chúng ta… *** Asano Atsuko sinh năm 1954 ở Okayama. Bà đạt giải Văn học Thiếu nhi Noma với “Battery” giải của Hiệp hội tác giả sáng tác văn học Nhật Bản với “Battery II” ngoài ra loạt truyện “Battery” cũng đạt giải Văn hóa Xuất bản Thiếu nhi của shogakukan. Năm 2011, bà đạt giải Văn học lãng mạn Shimase lần thứ 18 với “Tamayura” (Thoáng chốc). Bà là một tác giả đa dạng về thể loại, từ văn học thiếu nhi cho đến văn học đại chúng, tiếu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thế thao. Trong các tác phầm tiêu biếu, ngoài các truyện dài tập như “Trăng của Di Lặc”, “Anh đào Dạ Xoa”, “Hồng chín cây”, “Con đường bình minh”, “Bày vì sao trài đông”, “Làm tổ trên đất” của loạt truyện “Di Lặc”, loạt truyện “No. 6”, loạt truyện “The MANZAI”, “Sáng chói”, còn có “Tựa như quầng lửa”, “Bầu trời của sân”, “Tỉnh mộng”… ***   Nhóm bốn người bạn thân thiết Ijima Anri, Ichii Kazuma, Satodate Miho, Maehata Hisakuni đã lên lớp 9. Một bức tường mới dựng lên phía trước, bốn cô cậu thiếu niên đang đối mặt với ngưỡng cửa chuyển cấp và sẵn sàng tiến bước về phía ước mơ của mình. Mời các bạn tiếp tục đón đọc cuốn tiểu thuyết khắc họa thời thanh xuân của Asano Atsuko, vẽ nên lứa tuổi mười lăm vừa trăn trở với nỗi lo về tương lai, về môi trường mới, vừa trưởng thành trong sự chở che của gia đình, bạn bè.     ***   Gió thổi. Những cành anh đào nở rộ rì rào đung đưa. Vô vàn cánh hoa rơi rụng. Chúng phất phơ bay lên cao như đang chơi đùa với gió trước khi biến mất ở một phương trời xa xăm nào đó. Một khung cảnh làm người ta sinh ra ảo giác rằng cả gió và hoa đều đang bị hút về phía bầu trời. - Ghét quá đi! Vừa khua khoắng chiếc chổi tre, Satodate Miho vừa trề môi. Suốt từ nãy đến giờ cô đã bĩu môi không biết bao nhiêu lần. - Quét hoài quét mãi mà chả hết. Làm vệ sinh ngoài trời mùa này đúng là kinh khủng nhất trần đời. Nói thật, tớ thấy phiền chết được ấy. - Vậy sao? Tớ lại thích quét dọn ngoài trời hơn. Anri trả lời và quét cánh hoa. Từng cánh từng cánh mỏng tang, tưởng như trắng một màu trong suốt, nhưng khi gom với nhau lại chuyển sang màu hồng nhạt. Trong trường trung học cơ sở Ashiwara số I có rất nhiều cây anh đào. Chúng được trồng cả ở hai bên cổng trường, sau bãi đỗ xe lẫn sân trong. Hàng cây anh đào cũng chạy dài như đường viền bao bọc rìa phía Tây của sân trường. Ngôi trường nằm trên một con dốc thoai thoải đầy ắp cỏ hoa này cứ như bị chôn vùi trong hoa anh đào vậy. Mùi hương thoang thoảng ngọt ngào len lỏi vào từng ngóc ngách trong phòng học, nếu vô tình mở cửa sổ thì vô số cánh hoa sẽ ùa vào cùng làn gió. Anri ngừng quét, ngước lên nhìn hoa anh đào. Những đóa anh đào nở rộ lấp lánh trên nền trời xanh trong quang đãng. Thật đẹp làm sao. Cô suýt buông ra một tiếng thở dài. Nếu là Ichii, cậu ấy có muốn vẽ những đóa anh đào này không nhỉ? Không biết từ lúc nào, Anri bắt đầu nghĩ về Ichii Kazuma. Cô tự thấy ngượng ngùng với suy nghĩ ấy. Không muốn bị Miho trông thấy gương mặt đỏ dừ như cà chua chín của mình, Anri càng ngửa mặt lên. - Từ năm ngoái tớ đã thấy hoa anh đào ở đây nở đẹp tuyệt rồi. Với cả, chẳng phải ngắm hoa cũng là sự kiện trong tháng Tư của trường sao? Năm ngoái tớ thấy bất ngờ cực kì luôn. - Hả, thế á? Các trường khác không tổ chức ngắm hoa à? - Ừ. Chắc là không đâu. Tớ chẳng thấy ai nói gì về chuyện này cả. Lòng đen trong mắt Miho đảo qua đảo lại. - Ra thế. Tớ sinh ra ở Ashiwara, lớn lên ở Ashiwara. Bố và mẹ tớ cũng đều học ở trường trung học cơ sở Ashiwara số I, nên tớ không biết gì về những trường khác. Tớ cứ tưởng việc đó rất đỗi bình thường cơ. Nhưng nếu biết về thế giới bên ngoài như Anri thì sẽ thấy khác nhỉ. - Ôi trời. Thế giới bên ngoài nào chứ? Miho lại nói quá rồi. - Tớ nghĩ vậy thật mà. Khi nói chuyện với Anri, tớ nhận ra, a, hóa ra có thể nghĩ như vậy, thì ra có cách nhìn như thế… Ừm, còn có câu thành ngữ cái gì rơi khỏi mắt í. - Vảy cá rơi khỏi mắt?* • Thành ngữ Nhật, ý là nhờ có việc gì đó mà bỗng nhiên hiểu ra điều trước nay không thể hiểu nổi. — end note — - Phải phải, cảm giác như vảy cá rơi khỏi mắt vậy. Cảm tưởng như những thứ đã đông cứng trong đầu bỗng dưng tan chảy. Cho nên… Miho im lặng trong chốc lát, môi vẫn mím, cô bé dùng lòng bàn tay đỡ một cánh hoa đang rơi xuống, nắm lấy nó rồi quay về phía Anri. - Cho nên, Anri chuyển trường về đây là một niềm hạnh phúc lớn lao đối với tớ. Thực sự hạnh phúc vô cùng. - Miho… - À há! Nghe như tớ lại vừa bày tỏ ấy nhỉ. Không rõ có phải vì xấu hổ hay không, Miho bắt đầu hăm hở quét và gom cánh hoa lại. Anri nắm chặt lấy cán chổi. Cô rất vui trước lời bày tỏ của Miho. Dù đồng giới hay khác giới, lời bày tỏ “Tớ thích cậu” vẫn luôn là thứ làm trái tim con người xao xuyến. Ý nghĩ mình làm ai đó hạnh phúc cũng mang lại hạnh phúc cho chính bản thân Anri. - Miho, cảm ơn cậu. - Hử? Cậu nói gì cơ? Chẳng biết Miho không nghe thấy thật hay giả bộ, cô vẫn tiếp tục khua chổi thật lực. Thế rồi, cô vờ than thở. - Ai đó phải làm gì với cây anh đào này đi chứ. Mùa xuân là cánh hoa, mùa hè đến sâu bướm, mùa thu thì lá rụng. Chỉ khổ người phụ trách dọn vệ sinh thôi. - Nhưng hoa anh đào đẹp đấy chứ. Trường học ngập tràn hoa anh đào cũng khá tuyệt mà. Từ xưa trường mình đã nhiều hoa anh đào như thế này rồi à? Anri chuyển trường tới Ashiwara vào học kì hai năm lớp bảy. Trường cấp hai dân lập mà cô theo học trước đó tọa lạc ở vị trí gần như là trung tâm thành phố nên chẳng có lấy một cây hoa nào ấy chứ đừng nói tới anh đào. Và dĩ nhiên sự kiện ngắm hoa cũng không có luôn. Miho dừng tay, lắc đầu hai lần. - Không phải từ xưa đâu… Ừm, theo những gì tớ nghe được thì hiệu trưởng đời thứ năm hay thứ sáu gì đó cực kì thích hoa anh đào, nên vừa nhậm chức một cái là thầy lập tức hăm hở đi trồng cây anh đào khắp trường luôn. - Ồ, thầy hiệu trưởng thích hoa anh đào à? Nghe cũng hay đấy. Chắc hẳn đó là một thầy giáo rất tốt bụng nhỉ. Thấy Anri gật đầu nói vậy, Miho bèn cười ranh mãnh. Khóe môi nhếch lên hết cỡ, nhìn gian không chịu được. - Chuyện đó thì… cậu nhầm rồi. - Ớ? Nhầm là sao? - Phải nói là nhầm to ấy chứ. Nghe đồn thầy hiệu trưởng đó ác như ma, thầy sẽ dùng hình phạt hết sức hết sức tàn khốc với những học sinh chống đối giáo viên hay không tuân thủ nội quy trường. - Hình phạt tàn khốc? - Đúng vậy. Nào là quật kẻ phạm lỗi bằng roi đến mức rách cả da, bắt chạy trên sân với độc bộ đồ lót cho đến khi gục ngã, dội hàng chục gáo nước lên đầu dù đang mùa đông. Thậm chí trong số học sinh chịu hình phạt có người đã chết bởi những hình phạt hà khắc ấy đấy. - Chết á? Như vậy chẳng phải thành to chuyện rồi? - Bây giờ thì đúng. Nhưng ngày xưa quản lí lỏng lẻo lắm. Có điều sau đó thầy hiệu trưởng bị vong hồn đứa trẻ đã chết ám, rồi một ngày nọ, thầy ấy biến thành cái xác lạnh ngắt dưới gốc cây anh đào. Chấm hết. - Miho, cậu đừng dựng chuyện thế chứ. - Hì hì, nhưng thú vị phải không? - Hừm… cũng không đến mức đó. Đến giữa chừng là đọc vị được đoạn tiếp theo rồi. Cảm giác hơi bị thiếu bước ngoặt một chút. - Oa, Anri, cậu có cần nói toạc ra như thế không? Miho cất tiếng cười. Anri cũng cười theo. - Mà nè, lên lớp chín mà chúng mình vẫn được chung lớp, may thật. Khi nhìn bảng xếp lớp hôm khai giảng, tớ còn vô tình giơ nắm đấm lên cơ. Như thế này này. Bắt đầu tái hiện lại cảnh! Nói xong, Miho vung nắm đấm lên cao. - Phải đấy. Chủ nhiệm cũng vẫn là cô Funaki. Lớp 9B chắc sẽ ổn ra trò. 9B. Đó là lớp mới của Anri và Miho. Ichii Kazuma và Maehata Hisakuni học lớp C kế bên. Miho, Kazuma, Hisakuni. Nếu mượn lời của Miho thì việc gặp gỡ ba người bạn này là “hạnh phúc lớn lao” đối với Anri. Ở cùng ba người họ, lúc nào cô cũng vui vẻ, không hề mệt mỏi. Cô hoàn toàn chẳng cần để tâm lựa chủ đề nói chuyện cho khớp, đọc vị không khí xung quanh, hay chú ý để không buột miệng nói ra những điều mình nghĩ. Cô có thể nói thẳng nói thật, ghét thì bảo là ghét, khổ sở thì kêu khổ sở, vui thì nói là vui. Đương nhiên cũng có lúc vô tình làm tổn thương đối phương hay xảy ra trục trặc, nhưng mỗi lần như thế, Anri đều vượt qua được. Đó là bởi đối với Anri, ba người họ là những người bạn không gì có thể thay thế, là những người mà cô chẳng muốn đánh mất từ sâu thẳm trong tim. Anri muốn giữ gìn điều đó. Cô muốn giữ gìn quãng thời gian được ở bên ba người bạn này. Không phải quan sát sắc mặt của nhau hay vì giữ ý mà giấu giếm những điều mình muốn nói, mà là nói ra suy nghĩ của bản thân trong khi vẫn dành cho nhau sự quan tâm chân thành. Truyền đạt suy nghĩ của bản thân và lắng nghe suy nghĩ của đối phương, đó mới chính là giữ gìn. Có phải không nhỉ? Biết đâu như thế lại là nhầm lẫn. Có thể đó chỉ là do cô cả nghĩ thì sao. Trước đây Anri sợ điều đó vô cùng. Suy nghĩ khác biệt hay có cảm xúc lệch lạc so với bạn bè đều làm cô sợ hãi vô cùng. Cô có cảm giác mình toàn bị bạn bè nói: “Anri nghĩ ngợi nhiều quá rồi.”, “Phải phải, cậu nên thoải mái, cởi mở hơn một chút.”, và toàn thân cô như căng cứng lại. Bây giờ cô đã có thể nghĩ rằng dù nhầm lẫn cũng không sao cả. Miễn đó là điều bản thân cảm nhận, suy nghĩ, tâm niệm, dù có khác người thì vẫn nên gạt bỏ nỗi sợ hãi để nói ra. Nghĩ được như vậy, Anri có thể hít thở dễ dàng hơn. Tựa như lồng ngực cô được mở rộng ra và căng tràn không khí trong lành, tươi mới. - Anri này! - Ừ? - Tranh của Kazu thì sao? - Ừm, tớ không biết nữa. Anri trả lời một cách mơ hồ. Kazuma tham gia câu lạc bộ mĩ thuật. Ước mơ của cậu ấy là tương lai tiếp tục tiến bước trên con đường hội họa. Cậu ấy nói rằng muốn vẽ tranh suốt đời, dù dưới hình thức nào đi chăng nữa. Cậu ấy cừ quá, Anri thầm thán phục. Một người còn chưa tròn mười lăm tuổi đã nhìn ra con đường để đánh cược cả cuộc đời thì thật đáng nể. Bề ngoài Kazuma có vẻ hiền lành, nhưng bên trong lại có ý chí mạnh mẽ và kiên định. Đối với Anri, ý chí đó vô cùng rực rỡ. Tuy nhiên, dạo này Kazuma đang rơi vào giai đoạn trì trệ. Bức tranh chân dung vẽ Anri hình như mãi vẫn không tiến triển theo đúng ý cậu. Anri đã hứa rằng sau giờ học, nếu nhận được lời nhờ vả của Kazuma và không bận việc gì, cô sẽ làm người mẫu cho cậu. Trước đây cô cũng đã làm mẫu mấy lần tại phòng học lớp 7D - phòng học bỏ trống nay đã thành kho chứa đồ, đồng thời là nơi Anri và Kazuma lần đầu gặp mặt. Nhưng gần đây, Kazuma không nói gì hết. Hôm trước, cậu ấy đã lẩm bẩm xen lẫn những tiếng thở dài. - Có vẻ như tác phẩm tớ vẽ ra và thứ bản thân muốn vẽ là hai thứ hoàn toàn khác biệt. Vậy nên tớ chẳng hiểu bản thân muốn vẽ bức tranh như thế nào nữa. Cứ đà này thì không vẽ được gì là điều đương nhiên chăng? Tuy giọng điệu có phần hơi tự mỉa mai của Kazuma làm Anri lo lắng, nhưng cô không thể nói được gì. Kazuma muốn vẽ tranh một cách nghiêm túc, không phải như một môn học hay một thú vui. Mà nghiêm túc vẽ là như thế nào thì Anri lại chẳng hiểu được. Chính vì thế, cô không thể tùy tiện thốt ra lời an ủi hay động viên. Miho nói như bông đùa. - Kazu cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ thế nào ấy. Nói khác đi thì là đau khổ, ủ dột, tựu chung lại là đang gặp rắc rối. Tuy tỏ vẻ như đang đùa, nhưng cô thực sự lo lắng. - Kiểu tính cách nghệ sĩ như thế, hễ chán nản là kéo dài dai dẳng lắm. A, ha-ha-ha-hắt xì! Miho phát ra một tiếng hắt hơi rất đáng yêu. Hình như có cánh hoa chui vào mũi cô. Những cánh hoa trắng rơi trên tóc, trên vai, tựa như những hình họa tiết. Anri vỗ bộp hai tay vào nhau. - Nè, hay mình tổ chức ngắm hoa đi? - Ngắm hoa á? - Bốn đứa tụi mình cùng đi ngắm hoa nhé? Vào Chủ Nhật tới. - A, ý hay đấy. Dù cưỡng ép cũng phải lôi Kazu đi bằng được. Miho lại cười ranh mãnh. Gió thổi, hoa anh đào rơi rụng, cơn bão hoa anh đào ôm lấy hai cô gái.   Mời các bạn đón đọc Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 2 của tác giả Atsuko Asano & Phương Anh (dịch).
Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 1
Vốn là học sinh của một trường chuyên cấp hai tại thành phố lớn, Anri đột ngột phải chuyển về học ở một ngôi trường vùng quê vào mùa hè. Những tưởng sẽ mất nhiều thời gian để làm quen với cuộc sống nơi đây, nhưng cô bé lập tức yêu bầu không khí khoáng đạt và dễ chịu của ngôi trường mới, khác hẳn với ngôi trường trước kia, đặc biệt là những ô cửa luôn để mở... Và cũng chính nơi đây, Anri đã có được những tình bạn thật đẹp cùng những rung động trong trẻo đầu đời… TỪ KHUNG CỬA SỔ LỚP 7D của nữ tác giả Atsuko Asano sẽ đánh thức những kí ức quý giá về thời thanh xuân hoa mộng trong mỗi chúng ta… *** Asano Atsuko sinh năm 1954 ở Okayama. Bà đạt giải Văn học Thiếu nhi Noma với “Battery” giải của Hiệp hội tác giả sáng tác văn học Nhật Bản với “Battery II” ngoài ra loạt truyện “Battery” cũng đạt giải Văn hóa Xuất bản Thiếu nhi của shogakukan. Năm 2011, bà đạt giải Văn học lãng mạn Shimase lần thứ 18 với “Tamayura” (Thoáng chốc). Bà là một tác giả đa dạng về thể loại, từ văn học thiếu nhi cho đến văn học đại chúng, tiếu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thế thao. Trong các tác phầm tiêu biếu, ngoài các truyện dài tập như “Trăng của Di Lặc”, “Anh đào Dạ Xoa”, “Hồng chín cây”, “Con đường bình minh”, “Bày vì sao trài đông”, “Làm tổ trên đất” của loạt truyện “Di Lặc”, loạt truyện “No. 6”, loạt truyện “The MANZAI”, “Sáng chói”, còn có “Tựa như quầng lửa”, “Bầu trời của sân”, “Tỉnh mộng”… *** Ijima Anri phải chuyển nhà vào mùa hè năm lớp 7. Cô đã đặt chân vào phòng học lớp 7D, một phòng học không còn được sử dụng nằm trong khuôn viên ngôi trường cấp hai lạ lẫm mà cô mới chuyển đến. Ở đây, cô gặp Ichii Kazuma. Kazuma sau khi gặp gỡ Anri đã nhờ Anri làm người mẫu cho tranh của mình. Rồi câu chuyện khởi đầu từ đó… Anri, Kazuma, và cả những người bạn không thể thay thế cùng gia đình. Cuốn tiểu thuyết khắc họa thời thanh xuân của Asano Atsuko, vẽ nên lứa tuổi mười bốn, vừa trăn trở vừa trưởng thành. *** Phòng học đó nằm ở cuối hành lang tầng ba, bên cạnh lớp 7C. Từ lớp 7A, 7B, 7C, luồng sinh khí, tiếng cười đùa, tiếng hò hét và giọng hát của các học sinh vang tới ồn ào đẩy sức sống. Thế nhưng, phía trước căn phòng đó lúc nào cũng lặng ngắt như tờ. Cái vẻ yên tĩnh ấy cứ như đang thủ thỉ “Chỉ có nơi này là khác biệt, chỉ có ở đây…” Vừa mở cửa, cô đã hắt xì hơi. Trong mũi cũng có cảm giác ngưa ngứa. Lấy tay phải bịt mũi, cô thử thở ra từng hơi ngắn. Phù, phù, phù, đúng ba lần. Ai đã chỉ cho mình cái mẹo chữa chứng hắt hơi này nhỉ? Vẫn bịt mũi, cô ngó quanh một lượt. Có thứ gì đó đang phát sáng lung linh. Là bụi. Trong luồng sáng xuyên vào từ khung cửa sổ, mỗi hạt bụi hóa thành từng hạt sáng nhỏ li ti, ánh lên lấp lánh. Phải chăng đây chính là nguyên nhân làm minh hắt hơi? Nhưng mà đẹp thật đó. Khung cửa sổ treo rèm màu kem, nhưng tấm rèm ấy mới chỉ được kéo hai phần ba. Cái kiểu dở dang như thể ai đó vội vàng không kịp kéo hết hoặc chỉ kéo qua loa cho xong. Cô lại đưa mắt quan sát khắp phòng một lượt. Ánh sáng xuyên qua lớp kính cửa sổ tràn vào trong phòng. Nó làm những hạt bụi sáng lấp lánh. Nắng chiếu sáng trắng cả sàn nhà. Bàn ghế được xếp chổng lên nhau ở trong góc, cạnh đó là chiếc xô, cây chổi (có vẻ) chưa sử dụng và một chiếc bàn giáo viên cũ kĩ. Thứ nào thứ nấy đều phủ lên mình một lớp bụi mỏng. Nhìn kĩ sẽ thấy, bụi cũng phủ lên cả sàn nhà. Chẳng biết nơi này trở thành phòng học bỏ không bao lâu rồi. Nghển cổ lên, tầm mắt Anri chạm tới tấm bảng đen. Tim cô bỗng đập dồn. Ở góc bảng ghi tên những người tới phiên trực nhật có hai cái họ “Otani” và “Ijima” nằm cạnh nhau. ”Ijima” là họ của Anri. Thị trấn này là quê hương của bố cô, có rất nhiều người mang họ Ijima. Ijima nằm rải rác khắp mọi nơi, nào là bệnh viện Ijima, hiệu sách Ijima, cả nhà hàng IJIMA nữa chứ. Khi căn phòng này vẫn còn là một lớp học, khi hai mươi tới ba mươi học sinh tập trung lại cùng học, cùng sinh hoạt, cùng cười đùa hay làm tổn thương lẫn nhau, chắc hẳn đã có một nam sinh hay một nữ sinh mang họ Ijima. Có điều, chuyện cỏn con đó sao lại làm tim cô đập nhanh đến vậy nhỉ? Phải chăng là vì cái tên “Otani” được ghi bên cạnh thật giống với “Kitani”? Dường như gương mặt rám nắng nhìn nghiêng của Kitani Shuya vừa lướt qua trước mắt Anri. Đó là gương mặt nhìn nghiêng cô luôn ngắm nghía từ cửa sổ lớp học. vẫn chưa đầy hai tháng mà cô cảm thấy chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi. Từ cửa sổ phòng học, ánh mắt của cô từng đuổi theo bóng hình một thiếu niên ở trên sân. Cô đã chầm chú ngắm cậu mãi mà không biết chán. Chỉ nhìn thôi cũng làm cô thấy hạnh phúc. Quãng thời gian ấy, những ngày hạnh phúc tột bậc ấy, đã thuộc về quá khứ, một quá khứ vô cùng xa xôi. Những giọt mồ hôi chảy xuống đôi gò má. Đặt tay lên trán, Anri nhận ra mình đang mướt mát mồ hôi. Cô luôn bị vã mồ hôi ở mặt trước tiên, rồi mới tới lưng và phần dưới cánh tay. Từ nhỏ đã vậy. Chạng vạng rồi mà ánh mặt trời tháng Chín vẫn gay gắt như mùa hè, khiến cho căn phòng đóng kín cửa sổ nóng như một cái nồi hấp. Anri đặt tay lên cửa, lưỡng lự hồi lâu. Làm sao đây… Anri tự hỏi. Mình có nên bước vào không gian bụi bặm và nóng nực này không nhỉ? Đến giờ này rồi mà mày còn nói gì thế? Chính mày đã hạ quyết tâm rồi còn gì! Một giọng nói có phần cộc lốc và lạnh lùng đáp lại. Đó là giọng nói của chính Anri. Khi phân vân hay trán trở chuyện gì, dù nỏ nhỏ nhặt đến mức nào, Anri vẫn thường tự hỏi bản thân. Nè, phải làm sao đây? Có lúc cô nhận được câu trả lời ngay lập tức, cũng có khi không nghe thấy bất cứ điều gì. Còn lúc này, cô có cảm giác mình bị vỗ mạnh một cái vào lưng và bảo: “Cố gắng lên.” Đây là việc tự mình đã quyết cơ mà. Hãy làm cho đến nơi đến chốn. Lạch cạch. Lạch cạch. Nghe trên đầu có tiếng động, cô ngẩng mặt lên. Tấm biển nhựa ghi “7D” đang đung đưa. Nhiều khi không rõ là do truyền thống của trường hay tính cách của thầy hiệu trưởng, nhưng nhắc tới bầu không khí bao trùm khắp nơi ở ngôi trường cấp hai tư thục mà Anri đã theo học cho đến trước kì nghỉ hè, nếu nói tốt thì là nghiêm trang chuẩn mực, mà nói không tốt thì là xét nét, chú trọng tiểu tiết. So với nơi đó thì ngôi trường cấp hai này, ngôi trường cô mới chuyển tới sau khi kết thúc kì nghỉ hè vào tuần trước, có bầu không khí dễ thở hơn nhiều. Nhìn chung vẫn có quy định về đồng phục và nội quy, nhưng các thấy cô không cứng nhắc bắt học sinh tuân theo. Hôm nay, Anri đã quyết tâm thử buông xõa mái tóc mà cô vẫn luôn buộc túm hai bên. Cô cũng thử sơn lên móng tay chút sơn bóng không màu. Cô còn nâng gấu váy lên cao trên đầu gối. Đó toàn là những việc cô đã muốn làm từ rất lâu rồi. Xõa tóc, sơn bóng móng tay, cuộn váy ngắn lại. Những việc cô rất muốn làm, nhưng lại không biết làm vậy có nên không. Suốt buổi sáng hôm nay, cô cứ để ý ánh mắt của giáo viên, trống ngực đánh thùm thụp rồi lại bất giác cúi gằm mặt. Nhưng không ai nói gì cô cả. Không có lấy một lời nhắc nhở hay giáo huấn nào làm cô thấy hơi hẫng hụt. Trường công lập ở địa phương dễ dãi đến vậy sao? Hay là ngôi trường trung học cơ sở Ashiwara số I này là nơi đặc biệt có tư tưởng phóng khoáng? Khi cô đang mải suy nghĩ chuyện này chuyện kia thì, - Tớ cho cậu mượn dấy chun nhé? Một giọng nói vang lên từ chỗ ngồi kế bên. Đó là một nữ sinh với gương mặt tròn và bầu má láng bóng (dễ làm người ta liên tưởng đến trái táo). Trong lòng bàn tay cô ấy là một chiếc chun màu đen dùng để cột tóc. Ngực áo không đính bảng tên. - A? ơ? Ừm… cậu là… Cô bạn rút chiếc bảng tên bị giấu trong túi áo ngực ra rồi giơ lên trước mặt Anri. Ở đó có viết hai chữ Hán. - Satodate? Cặp mắt đen láy của cô bạn chợt dao động, bờ môi căng mọng hé mở. Nét mặt lộ rõ vẻ ngạc nhiên. - Bất ngờ nha! Sau khi nói vậy, cô ấy lặp lại thêm một lần nữa với giọng rất nhỏ “Bất ngờ thật đấy”. - Chỉ mình Ijima là đọc được họ của tớ ngay lần đấu tiên. Bất ngờ thật, bất ngờ thật nghen. Ijima thông minh ghê. - Không phải đâu… Tớ chuyển trường tới đã được một tuần, cũng nhớ được họ của các bạn thôi ấy mà… - Ôi dào, cậu lại khiêm tốn rồi. Mà vừa rồi là nói dối đúng không? Cô bạn quay mặt về phía Anri nở nụ cười láu lỉnh. - Từ sau hôm Ijima chuyển tới tớ đã nghỉ học suốt mà. Cậu đâu rảnh để nhớ họ của tớ chứ. - Ừm, nhưng mà… cái này… Quả thực là cô đã thốt ra một lời nói dối nho nhỏ. Đến tận ban nãy cô vẫn chẳng hề biết chỗ ngồi bên cạnh mình là của nữ sinh họ Satodate. Tuy biết cô bạn ấy nghỉ học nhưng Anri chẳng hề bận tâm. Cô bạn nhổm hẳn người lên. Từ cô ấy tỏa ra một mùi hương ngọt ngào. Có lẽ là mùi của son môi. - Tớ là Satodate Miho. Chữ Hán của “Miho” gồm có chữ “mi” (mĩ, xinh đẹp) và “ho” trong “inaho” (bông lúa). Bình thường, sau khi giới thiệu bản thân, người ta vẫn hay nói kèm thêm mấy câu chào hỏi xã giao kiều như “Mong sau này được bạn giúp đỡ” hay là “Từ từ làm quen với nhau nhé”, nhưng Miho không hề nói lời nào như vậy. Cô chỉ chìa lòng bàn tay đặt dây chun về phía Anri mà thôi. - Cậu có dùng cái này không? - Hả? - Cậu có thể dùng nó buộc tóc. Chắc thấy nóng lắm hả? - À… Ý cậu là vậy à? - Là vậy đó. Cậu dùng không? - Tớ không cần. Anri lắc đầu. Cô buộc tóc hai bên mãi rồi. Hôm nay là lần đầu tiên cô thả tóc ở nơi được gọi là trường học mà. Kể ra thì cô cũng thấy phần gáy và vai bị tóc phủ lên quả thực rất nóng, nhưng không hề có ý định buộc chúng lại. Sau khi từ chối thẳng thừng, Anri mới nhận ra Miho đã mở lời với cô bởi lòng tốt chứ không phải kiểu lăng xăng nhiều chuyện. Cô bắt đầu bối rối. - Xin lỗi cậu. Tớ để nguyên thế này là được rồi. Miho gật đầu. Cô nắm lấy sợi dây chun và nhét vào túi. Sau đó, cô mở vở và bắt đầu ghi chép gì đó, không có ý định nhìn về phía Anri thêm lần nào nữa. Anri băn khoăn tự hỏi chẳng biết có phải mình đã làm Miho cụt hứng không.   Mình đã chiếu cố bắt chuyện tử tế rồi, thế mà cậu ta lại cự tuyệt. Đồ khó ưa! Cứ thấy chảnh chảnh thế nào ấy nhỉ. Có phải cậu ta nghĩ mình là dân thành phố nên xem thường chúng mình không? Khó ưa quá, khó ưa quá! Đúng là kiểu người không thể mê nổi. Anri cảm giác như nghe thấy tiếng các nữ sinh xì xầm sau lưng. Cô chợt rầu rĩ. Nhưng cũng chẳng sao. Cô thì thầm trong lòng, bàn tay thu thành nắm đấm và đặt trên đầu gối. Vậy cũng được. Dù bị xì xầm sau lưng thế nào, bị ghét bỏ ra sao, bị đối xử tệ cỡ nào, mình vẫn sẽ sống đúng theo cảm xúc của mình. Cô đã quyết định như vậy rồi. Khi việc chuyển trường trở thành hiện thực, cô đã hạ quyết tâm. Mình sẽ sống đúng theo cảm xúc của mình. Không phải vì ai khác, mà sẽ thành thật với chính bản thân. Từ nay về sau mình sẽ làm như thế. Nếu không sẽ bị cuốn trôi, tình cảm của chính mình củng sẽ bị nhấn chìm. Thế cho nên… Miho bỗng ngẩng mặt lên. - Tớ có cả trắng và hồng đấy. - Hả? - Chun buộc tóc ấy. Chắc chả phải do Ijima ghét màu đen đâu nhỉ? Cậu không muốn buộc tóc thôi đúng không? - Ừ, đúng thế. Không liên quan đến màu chun đâu. - Thế thôi vậy. Cậu hợp với tóc dài lắm. Mỉm cười thêm một lần nữa, Miho lại cắm cúi nhìn vào vở. Hoàn toàn không thầy thái độ khó chịu gì hết. Dường như cô chẳng hề bận tâm tới sự cự tuyệt của Anri. Có thể cô cũng chẳng nghĩ là mình vừa bị cự tuyệt. Đối với Miho, chuyện có thể chỉ đơn thuần là “Tóc xõa trông có vẻ nóng → Tính cho mượn chun → Người ta đáp lại là không cần”. Chỉ vậy thôi. Tất cả mọi thứ thật khác với trước kia. Trước đây, bất kể là việc gì cũng đều cần chuẩn bị tinh thần để từ chối, cự tuyệt đề nghị của đối phương. Bởi hành động ấy đi kèm theo nguy cơ phá hủy tận gốc mối quan hệ bạn bè, quan hệ giữa người và người mà ta đã dày công xây dựng cho đến thời điểm đó. Cả Anri lẫn những người xung quanh cô đã phải mài giũa thần kinh thật nhạy bén, sao cho không bước chân vào phạm vi nguy hiểm. Họ phải luôn đề cao cảnh giác. Cảm giác thật nhẹ nhõm. Mọi thứ ở ngôi trường này đều được nới lỏng. Lạch cạch, lạch cạch. Tầm biển “7D” đang đung đưa. Ừm, đúng là lỏng thật. Nếu là trường cũ của mình thì nhất định không có chuyện để nguyên tấm biển của một lớp đã trở thành phòng học trống như vậy. Chắc hẳn người ta sẽ nhanh chóng tháo biển xuống, khóa cửa phòng lại và cấm học sinh ra vào. Rèm chắc chắn cũng sẽ được kéo nghiêm chỉnh, không để lộ một khe hở nào. Quan trọng nhất là, gần đây, vì mức độ ưa chuộng của dân tình dành cho khối cấp hai trực thuộc trường đại học dân lập nổi tiếng mà Anri theo học trước khi chuyển trường đột ngột tăng cao nên chẳng dám nghĩ đến cảnh số lượng học sinh thuyên giảm. Kể cả có mở rộng thì chắc cũng chẳng còn lấy 1 một phòng học trống nào. Anri từng là học sinh lớp 7D của ngôi trường cấp hai đó. Mời các bạn đón đọc Từ Khung Cửa Sổ Lớp 7D - Tập 1 của tác giả Atsuko Asano & Phương Anh (dịch).