Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuồng Vọng

Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dài nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt... *** Clive Cussler sinh năm 1931 tại bang Illinois (Mỹ) nhưng tuổi thơ và quá trình trưởng thành lại gắn liền với vùng đất California. Ông từng là thợ máy phục vụ trong Không quân Mỹ suốt thời kỳ Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1973, tác phẩm đầu tay của ông được phát hành. Sau đó, tên tuổi của Cussler nhanh chóng được khẳng định khi cho ra mắt cuốn "Raise the Titanic!" vào năm 1976, số lượng phát hành cuốn sách này cùng cuốn "Sahara" lên tới hàng chục triệu bản và được coi là tác giả của những tiểu thuyết bán chạy nhất nước Mỹ. Theo New York Times, Cussler sở hữu khối tài sản lên tới 80 triệu USD. Có thể thấy, trong sự nghiệp sáng tác của mình, Cussler đã phát hành hơn 80 cuốn sách trong đó phần lớn mang đề tài bí hiểm và những tác phẩm của ông được phát hành ở hơn 100 nước trên thế giới, đồng thời được dịch ra khoảng 40 thứ tiếng. Bên cạnh công việc tiểu thuyết gia, Clive Cussler còn sở hữu và điều hành Cơ quan Hàng hải và dưới nước quốc gia Mỹ - một tổ chức phi lợi nhuận, phát hiện hơn 60 xác tàu, thuyền dưới lòng đại dương. Đặc biệt, Cussler chính là người đã là tìm ra con tàu Carpathia – con tàu tham gia giải cứu những người sống sót trong vụ đắm tàu Tinanic lịch sử. Các tác phẩm được dịch và xuất bản tại Việt Nam: Thác Lũ Cuồng Vọng Bí Ẩn Titanic Sóng Dữ Hoang Mạc Băng Cháy ... *** SỰ VA CHẠM KHỦNG KHIẾP   Năm 7.120 trước Công nguyên sự va chạm đã tạo ra Vịnh Hudson tại Canada ngày nay.   Vật lạ đến từ một nơi nào đó trong không gian. Đó là một khối tinh vân rắn - một đám mây khổng lồ do nhiều khối băng, đá, bụi bặm và các loại khí kết tụ lại - có mặt cùng lúc với sự hình thành của vũ trụ, khi những hành tinh trong hệ thống mặt trời xuất hiện từ bốn tỉ sáu trăm triệu năm trước. Ngay sau khi những hạt li ti rời rạc của nó đông lại thành một khối cứng rắn có đường kính rộng một dặm, nó bắt đầu lặng lẽ di chuyển cực nhanh qua không gian trống trải, mênh mông, trên một quĩ đạo quanh mặt trời và những ngôi sao gần nhất, một hành tinh kéo dàỉ nhiều ngàn năm từ lúc khởi đầu đến khi chấm dứt. Phần lõi của sao chổi, còn gọi là hạt nhân, là một khối kết hợp gồm hơi nước đông đặc, carbon monoxỉde, khí mê tan và những tảng đá kim loại vỡ nát. Có thể mô tả chính xác nó là một quả bóng tuyết bẩn thỉu bị ném mạnh qua không gian của hệ thống mặt trời, hoặc sự bức xạ của mặt trời phản ứng lại với nhân của nó và xảy ra sự biến đổi hình dạng. Một con vịt con xấu xí nhanh chóng trở thành một vật xinh đẹp. Khi nó bắt đầu hấp thụ nhiệt lượng và tia tử ngoại của mặt trời, một vệt dài hình thành và chậm chạp phát triển thành một cái đuôi lóng lánh khổng lồ, cong và trải rộng ra phía sau cái lõi với một chiều dài đến chín mươi triệu dặm. Một cái đuôi ngắn hơn, màu trắng, do bụi tạo thành rộng hơn một triệu dặm cũng hình thành và nằm cong theo cái đuôi lớn giống như những cái vây trên mình một con cá. Mỗi lần sao chổi đi qua mặt trời, nó mất đi một phần khối băng của nó và lõi cũng giảm bớt. Sau cùng, trong một thời gian hai trăm triệu năm, nó mất hết khối băng và vỡ vụn thành một khối mây bụi gồm vô số thiên thạch nhỏ. Tuy nhiên, sao chổi này không bao giờ lệch khỏi quĩ đạo của nó trong hệ thống mặt trời hoặc đi qua quanh mặt trời một lần nữa. Nó không được phép chết một cách chậm chạp và lạnh lẽo tại một nơi xa thẳm nào đó trong không gian tối tăm. Chỉ trong vài phút ngắn ngủi, sự sống của nó vụt tắt. Nhưng trên quĩ đạo cuối cùng của nó, sao chổi vẫn đi qua chín trăm ngàn dặm của sao Mộc, và trọng lực rất lớn của sao này làm nó đổi chiều sang một hành trình khác và chạm mạnh vào một hành tinh thứ ba trong hệ thống mặt trời, một hành tinh mà cư dân của nó gọi là Trái Đất. Lao vào bầu khí quyển của Trái Đất với vận tốc một trăm ba mươi ngàn dặm mỗi giờ theo một góc bốn mươi lăm độ, vận tốc của nó càng tăng thêm vì sức hút của trọng lực, sao chổi gây ra sự va chạm khủng khiếp và phát sáng với kích thước rộng mười dặm, và sức nặng bốn tỉ tấn của nó vỡ vụn vào lúc đó. Bảy giây sau, khối sao chổi méo mó trở thành một quả cầu lửa sáng rực, đập vỡ bề mặt Trái Đất với một sức công phá không thể tưởng tượng. Hậu quả tức thì từ vụ nổ làm thoát ra những năng lượng phá hủy khoét sâu vào vỏ Trái Đất tạo thành một lòng chảo rộng bằng hai lần diện tích đảo Hawaii khi nó bốc hơi và chiếm chỗ một khối khổng lồ gồm nước và đất đá. Toàn bộ Trái Đất rung chuyển do sự va chạm, tạo ra một vụ động đất lên tới mười hai độ rít-te. Hàng triệu tấn nước các loại trầm tích và các thứ đổ nát bị tống vào bầu khí quyển phía trên chỗ va chạm và xâm nhập vào tầng bình lưu, cùng với khối bụi nước khổng lồ bị phá hủy, khối đá bị cháy đỏ thoát ra và lao vào những quĩ đạo chung quanh trước khi rơi xuống lại trên mặt đất như những thiên thạch cháy sáng. Những trận bão lửa thiêu rụi những khu rừng trên khắp mặt đất. Những núi lửa đã ngủ yên hàng ngàn năm đột nhiên hoạt động trở lại, tống vào các đại dương những dung nham lỏng lan rộng trên một triệu dặm vuông, phủ lên mặt đất một lớp dày đến trên một ngàn bộ. Vô số khói và bụi bị tống vào tầng khí quyển, sau đó bị những trận gió khủng khiếp từ mặt trời thổi đến từng ngõ ngách trên Trái Đất và biến nó thành một nơi tối tăm kéo dài gần một năm. Khí hậu của Trái Đất đột ngột thay đổi khủng khiếp. Nhiệt độ trên những vùng băng tuyết mênh mông và những băng hà hoặc băng trôi ở phía bắc tăng lên cho tới khi chúng đạt đến chín mươi và một trăm độ Fahrenheit, gây ra sự bốc hơi nhanh chóng. Các chủng động vật từng quen với khí hậu nhiệt đới và những vùng ôn đới trở nên bị tuyệt chủng chỉ trong một đêm. Nhiều chủng loại như loài voi ma-mút có lông chết nhanh chóng đến nỗi cỏ và hoa trong dạ dày chúng vẫn chưa tiêu hóa kịp. Cây cối cùng với lá và trái của chúng nhanh chóng chín muồi. Chỉ vài ngày, cá trong các sông ngòi hồ ao đều nằm phơi bụng. Những đợt sóng cao từ năm đến mười dặm tràn lên các lục địa, tàn phá tất cả những gì cản đường chúng. Nước tràn qua những bình nguyên thấp dọc bờ biển, cuốn đi hàng trăm dặm vào trong đất liền. Vô số những trầm tích và các thứ cặn bã từ đáy những đại dương trải rộng trên những vùng đất thấp. Chỉ đến khi đợt trào dâng kinh khủng này đập vào chân những ngọn núi, dội lại và bắt đầu chậm chạp rút lui sau khi đã làm thay đổi dòng chảy những con sông, lấp đầy những chỗ trũng trên mặt đất - nơi trước kia không có sự sống - biến đổi những hồ ao rộng lớn thành những sa mạc. Chuỗi phản ứng này có vẻ kéo dài bất tận. Với những tiếng động ì ầm phát triển thành tiếng gầm rú liên tục như tiếng sấm, những ngọn núi bắt đầu lắc lư như những cây cọ dưới một làn gió nhẹ. Những sa mạc và những đồng cỏ nhấp nhô khi những đợt tấn công dữ dội từ các đại dương lại tràn lên đất liền. Sự chấn động từ vụ va chạm của sao chổi đã tạo ra sự thay đổi vị trí hoàn toàn và nhanh chóng trên lớp vỏ mỏng của Trái Đất. Lớp ngoài cùng, dày chưa tới bốn mươi dặm, và mặt đất bao bọc cái lõi nóng chảy của Trái Đất trở nên vặn vẹo như lớp vỏ của một trái táo bị bóc ra rồi ráp lại để nó có thể chuyển động quanh cái lõi của trái táo bên trong. Như được kiểm soát bởi một bàn tay vô hình, toàn bộ lớp vỏ Trái Đất chuyển động như một bộ phận duy nhất. Toàn bộ các lục địa trôi nổi đến những vị trí mới. Những ngọn đồi nhô cao thành núi hoa. Những hòn đảo khắp Thái Bình Dương biến mất, trong lúc những đảo khác trồi lên lần đầu tiên. Nam Cực, về phía tây Chi Lê, trượt dài hơn hai ngàn dặm về phía nam, tại đây nó nhanh chóng bị chôn vùi dưới những lớp băng mới thành hình. Khối băng khổng lồ từng trôi nổi trên Ấn Độ Dương và phía tây Úc châu giờ đây lạc lõng tại vùng ôn đới và nhanh chóng bắt đầu bốc hơi. Tình trạng đó cũng xảy ra tại nơi trước kia là Bắc Cực, lan rộng tới vùng bắc Canada. Địa cực mới nhanh chóng sản xuất ra một khối băng dày giữa một nơi trước kia là một đại dương rộng lớn. Sự tàn phá thật khắc nghiệt. Sự chấn động và đổ nát tiếp tục xảy ra như thể chúng sẽ không bao giờ chấm dứt. Đó là lúc lớp vỏ mỏng của Trái Đất chồng chất hết biến động này tới biến động khác. Sự bốc hơi đột ngột của những khối băng trước kia kết hợp với các băng hà và băng trôi bao phủ khắp các đại dương đột ngột trôi vào hoặc gần những vùng nhiệt đới, làm cho các đại dương dâng cao tới bốn trăm bộ, nhấn chìm những vùng đất đã bị tàn phá với những đợt sóng thủy triều khổng lồ phát sinh từ vụ va chạm của sao chổi. Chỉ trong một ngày, nước Anh, từng nối liền với phần còn lại của lục địa châu Âu bởi một bình nguyên khô ráo, lúc này biến thành một hòn đảo, trong lúc một sa mạc bị nhận chìm trở thành vịnh Ba Tư. Sông Nil từng chảy vào một thung lũng phì nhiêu mênh mông rồi đổ ra một đại dương ở phía tây lúc này lại kết thúc dòng chảy của nó tại một nơi đột ngột biến thành Địa Trung Hải. Kỷ nguyên băng hà rộng lớn cuối cùng chấm dứt về mặt địa chất chỉ trong nháy mắt. Sự thay đổi ngoạn mục trong các đại dương và sự lưu thông của chúng quanh Trái Đất làm cho các địa cực di chuyển, quấy nhiễu dữ dội sự quân bình cố hữu của Trái Đất. Trục Trái Đất tạm thời bị lệch hai độ, khi Bắc Cực và Nam Cực bị đổi chỗ đến những vùng địa lý mới, làm biến đổi lực hướng tâm quanh mặt ngoài của địa cầu. Vì chúng là lưu chất, các đại dương thay hình đổi dạng trước khi các địa cực ngừng rung lắc và trở nên ổn định quanh cái trục mới của chúng. Trong thời gian đó, mực nước biển cũng trở nên ổn định, cho phép nhiều bờ biển mới được hình thành trong khi những điều kiện khí hậu kỳ quặc tiếp tục được điều chỉnh dần. Những thay đổi trở nên thường xuyên. Thời gian nối tiếp giữa ngày và đêm thay đổi khi số ngày trong một năm giảm còn một nửa. Từ trường của Trái Đất cùng bị ảnh hưởng và di chuyển về hướng tây bắc hơn một trăm dặm. Hàng trăm, có lẽ hàng ngàn những loài động vật và cá khác nhau nhanh chóng bị tuyệt chủng. Tại châu Mỹ, loài lạc đà một bướu, loài voi ma-mút, loài ngựa của kỷ nguyên băng hà và loài cu-li khổng lồ, tất cả đều biến mất. Loài cọp răng kiếm, loài chim khổng lồ với sải cánh dài đến hai mươi lăm bộ và nhiều loài thú khác có trọng lượng nặng cả trăm cân Anh hoặc hơn, phần lớn chết ngạt vì khói và các loại khí độc từ núi lửa thoát ra. Các chủng loại thực vật trên mặt đất cũng không thoát khỏi thảm họa. Đời sống của thảo mộc nếu không biến thành tro thì cũng chết vì thiếu ánh sáng mặt trời, kể cả các loài rong tảo trong nước. Cuôi cùng, trên tám mươi lăm phần trăm sự sống trên Trái Đất đều chết vì lụt lội, lửa, bão táp, tuyết lở, chất độc từ bầu khí quyển và thậm chí vì nạn đói. Các xã hội loài người, đa số đã hoàn toàn tiến triển và vô số nền văn hoá đang trên ngưỡng cửa của một thời đại tiến hóa vàng son bỗng chốc đã bị tiêu hủy chỉ trong một ngày đêm. Hàng triệu đàn ông, phụ nữ và trẻ con trên Trái Đất đã chết một cách khủng khiếp. Mọi dấu vết về những nền văn minh đều tuyệt tích, và một số ít những kẻ sống sót sau thảm họa chẳng còn gì ngoài mớ ký ức u ám về quá khứ. Cỗ quan tài đã nằm trên sự tiến hóa to lớn nhất và không hề gián đoạn của nhân loại, kết thúc một chuyến hành trình dài mười ngàn năm từ những người Cro-Magnon hoang dã cho đến các bậc vua chúa, các kiến trúc sư, những thợ điêu khắc đá, những nghệ sĩ và chiến sĩ. Những công trình của họ và những tồn tại chết chóc của họ đều bị chôn sâu dưới các đại dương và những biển mới, chỉ còn lưu lại một ít mẫu vật và những mảnh vụn của một nền văn hóa tiến bộ cổ đại. Nhiều quốc gia và thành phố chỉ đứng được vài giờ trước khi biến mất không để lại một dấu vết. Biến cố khủng khiếp này hầu như không lưu lại một bằng chứng nào về những nền văn minh ưu việt trước đó. Trong số rất ít những người sống sót, hầu hết đều sống tại những vùng núi cao, họ có thể trú ẩn trong những hang động để trốn tránh những cơn giận của sự hỗn loạn. Không giống những người trong thời kỳ Đồ Đồng tiến hóa hơn, có khuynh hướng tập trung lại và xây dựng trên những bình nguyên thấp gần những con sông và bờ biển, những cư dân sống tại những vùng núi cao đều là dân du mục trong thời kỳ Đồ Đá. Những người tài giỏi nhất của họ về những ngành khác nhau trong kỷ nguyên của họ - những Leonardo da Vinci, những Picasso và những Einstein - đều bốc hơi không lưu lại vết tích. Chỉ còn lại trên mặt đất những kẻ săn bắn du mục, một hiện tượng tương tự như những gì đã xảy ra dành cho sự vinh quang của Hy Lạp và La Mã sau khi sự vinh quang đó bị ném sang một bên, trải qua những thế kỷ chỉ có sự ngu dốt và mê muội. Một thời kỳ Đồ Đá mới đen tối đã che giấu những nền văn minh có văn hóa cao từng có mặt trên Trái Đất, kỷ nguyên đen tối này kéo dài đến hai ngàn năm. Rất chậm chạp, sau cùng nhân loại cũng bước ra khỏi tình trạng đen tối đó để bắt đầu xây dựng và kiến tạo lại những thành phố và những nền văn minh tại Mesopotamia và Ai Cập. Đáng tiếc, rất ít những nhà xây dựng có thực tài và những người có đâu óc sáng tạo còn sống sót từ những nền văn hóa bị thất lạc đạt tới trình độ cao. Nhận thấy nền văn minh của mình đã mất và không bao giờ phục hồi được, họ bắt đầu tìm tòi trong nhiều thế kỷ, để xây dựng những lăng mộ và những ngôi mộ đá huyền bí với những khối đá đồ sộ dựng đứng được tìm thấy trong nhiều vùng tại châu Âu, châu Á, tại quần đảo Pacific đến tận phía nam châu Mỹ. Về sau, ký ức về những ưu thế rực rỡ do tiền nhân để lại trở nên lu mờ dần và trở thành huyền thoại, những kỷ niệm về sự tàn phá và chết chóc vẫn là những cảnh báo về sự hủy diệt các thế hệ trong tương lai. Nhưng trong một thiên niên kỷ, con cháu họ dần dà quên hết những hoạt động xưa kia của tổ tiên để dung nạp kiểu sống của những bộ lạc du mục và chẳng còn biết gì về quá khứ văn minh của họ. Nhiều thế kỷ sau vụ va chạm khủng khiếp đó, nhân loại vẫn còn sợ hãi, không dám mạo hiểm lìa bỏ vùng núi non để xuống sinh sống tại những vùng đất thấp và dọc bờ biển. Những xứ sở có kỹ thuật vượt trội về chuyện đi lại trên biển chỉ còn những ý niệm mơ hồ về quá khứ gần của họ. Kỹ thuật đóng tàu và vượt biển đã thất lạc, và phải đợi đến nhiều thế hệ sau đó mới xuất hiện trở lại. Sự chết chóc và tàn phá này phát sinh do một khối băng bẩn thỉu không lớn hơn một thảo nguyên trung bình. Sao chổi đã tàn phá mọi thứ không chút xót thương. Trái Đất chưa từng bị tàn phá dữ dội như thế từ khi một thiên thạch đâm vào nó sáu mươi lăm triệu năm trước đó trong một thảm họa đã hủy diệt loài khủng long. Nhiều ngàn năm sau vụ va chạm, sao chổi được gắn kết với mê tín dị đoan về những sự cố gây tai họa và được xem như những điềm xấu báo trước những thảm kịch trong tương lai. Chúng bị kết tội đã gây ra chiến tranh và những đại dịch gây chết chóc và hủy diệt. Mãi cho tới lịch sử cận đại, sao chổi mới được xem như những hiện tượng lạ của thiên nhiên, như vẻ đẹp chói lọi của cầu vồng hoặc những đám mây được mạ vàng lúc mặt trời lặn. Sự kiện đại hồng thủy được ghi lại trong Kinh Thánh và những truyền thuyết về các tai họa khác, tất cả đều gắn liền vào thảm kịch này. Những nền văn minh cổ đại của người Olmac, Maya và Aztec tại Trung Mỹ có nhiều truyền thống liên hệ tới một sự cố thảm họa xa xưa. Những bộ lạc người Da Đỏ Indian khắp Hoa Kỳ có truyền thuyết với những câu chuyện về nước lụt tràn ngập xứ sở của họ. Người Trung Hoa, người Polynesian và người Phi châu, tất cả đều nói về một thảm họa đã tàn sát phần lớn tổ tiên của họ. Nhưng một truyền thuyết đã xuất hiện và phát triển qua nhiều thế kỷ, gợi ra sự huyền bí và gây ảnh hưởng nhiều nhất, đó là sự biến mất của lục địa và nền văn minh Atlantis. Mời các bạn đón đọc Cuồng Vọng của tác giả Clive Cussler & Phạm Đăng Phụng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kế Hoạch Làm Bố
Một cái chết bất ngờ liên quan đến Tổng biên tập mới của “Người thời thượng” và Kỳ Tuấn đã quyết tìm ra câu trả lời theo cái cách không giống ai - “Làm bố”. Sự kiêu kỳ và quyến rũ đến từ Minh Thư đã khiến con tim anh xao xuyến, khi ý định chinh phục cô hết lần này đến lần khác thất bại, Kỳ Tuấn đã nghĩ đến âm mưu khác. Tuy nhiên, mọi chuyện đã đi theo chiều hướng khác khi anh nhận ra, tình yêu không phải trò chơi. Vì anh đã yêu thương cái gia đình nhỏ trong một phần “kế hoạch” của mình. Khi những mảng tối dần được hé lộ, câu trả lời chưa kịp có thì viễn cảnh mất đi người phụ nữ và đứa con trai nhỏ đang đến gần. Kỳ Tuấn sẽ phải trả giá ra sao cho Kế hoạch làm bố của mình? Nếu ông trời sắp đặt hai con người xa lạ, có ân oán và thù ghét nhau phải ràng buộc nhau vì một đứa trẻ? Thì đó gọi là duyên số hay cay đắng của định mệnh? Trong c uộc đời này đôi khi từ yêu thương mới nảy sinh chiếm đoạt hoặc chiếm đoạt  bởi vì yêu thương. Đâu cũng chỉ là một lí do nhưng một khi đã chấp nhận thì con người ta ắt hẳn cũng phải có những lí do cho riêng mình. Một cuộc hôn nhân đầy toan tính, có cả sự hiếu kỳ, thù hận lẫn nhau liệu có phải là một sai lầm. Kế hoạch kia của Kỳ Tuấn sẽ đưa anh đến bến bờ hạnh phúc hay là thứ dìm anh mãi mãi vào nỗi đau, vốn còn thậm tệ hơn cuộc sống nhàm chán của anh trước kia? Minh Thư sẽ làm thế nào để có thể chấp nhận con người kinh khủng kia, làm bố của con cô cũng tức sẽ là chồng của mình… "Có lẽ sống trong một không gian nào đó lâu ngày, người ta sẽ hình thành một thói quen, xa tức là sẽ nhớ"Nhưng…Cuộc hôn nhân của họ có được như thế không?Câu trả lời nằm ở cuối truyện! Mời các bạn đón đọc. Cảm nhận của đọc giả numb95:  "Kết thúc tuyệt lắm.Tình yêu đẹp ngày nào của Duy và Lâm giờ đây đã có 1 cái kết thật hạnh phúc, thật ý nghĩa. "Yêu nữa được không ?" là 1 cuốn truyện hay, có ý nghĩa nhất mình từng đọc. Mình ủng hộ truyện này đến cùng. Ủng hộ bạn nữa." cobemuadong_0502 : "những người đã đọc, đang đọc và sẽ đọc rất ngưỡng mộ bạn đấy... mình tin chắc điều đó cảm ơn bạn đã cho mình được đọc 1 truyện thú vị như thế " *** Buổi sáng bắt đầu, tại căng-tin tòa soạn tạp chí khá tên tuổi, tạp chí “Người thời thượng”. - Hôm nay sẽ ra mắt tổng biên tập mới! - Nghe đâu là người miền ngoài. - Hà Nội, Đà Nẵng hay Huế nhỉ? - Dù sao thì đó cũng là một cái giọng lạ lẫm ở cái đất Sài Gòn này. - Tôi đã nhìn lén sơ yếu lí lịch, đó là một phụ nữ. - Thế trẻ hay già? Độc thân hay đã kết hôn? Đẹp hay xấu? - Từ từ đã… có vẻ rất đẹp! Là dân du học, không phải là tuyển dụng mà được ông Minh, chủ tờ tạp chí này đích thân mời đấy. Tiếng đồn xôn xao. Vì là một tạp chí thời thượng nên những con người từ cấp cao tới cấp thấp, từ già hay trẻ, bé hay lớn đều chỉ quan tâm thứ duy nhất chính là “thời thượng”. Công việc đối với họ dường như chỉ là một trò chơi nhàn rỗi. Đó là lí do uy tín của tờ báo ngày càng đi xuống với những thông tin sai lệch, bài viết thiếu trau chuốt,… Không muốn tâm huyết cả đời bị đẩy vào vực thẳm, ông Âu Văn Minh, chủ tờ tạp chí này đã đích thân mời một tổng biên tập mới, có thể giúp ông quản lí khắt khe hơn lấy lại uy tín trước kia. Người duy nhất tâm huyết với nghề ở đây là Thái Kỳ Tuấn, chuyên viên thiết kế trang đầu của tờ tạp chí. Anh là đại diện rõ rệt nhất cho câu nói “có tài có tật” - làm việc thì rất có năng lực nhưng tính tình tự cao, tự đại và kiêu căng cũng khiến nhiều sếp khó bật Tuấn, làm anh chàng phải làm lính lác trong 7 năm công tác ở đây. Tuy nhiên, Kỳ Tuấn lại là một anh chàng giỏi thu hút mọi người, đặc biệt là phái nữ, rất trọng tình nghĩa và lạnh lùng. Tuấn vừa đặt túi xách xuống thì đã có cả đám con gái bu lại: - Anh Tuấn, uống cà phê nhé? - Thôi. Anh có việc một lát. - Anh Tuấn, bánh qui mà anh thích nè! Em làm đấy! - Ừ. Anh sẽ ăn. - Anh đã ăn sáng chưa? - Ăn rồi. Cảm ơn em. Là một anh chàng hào hoa chính hiệu nhưng Tuấn không ngã lòng với bất cứ ai trong cái tòa soạn của tờ tạp chí toàn những kiều nữ này. Với anh, Chúa đã phú cho anh những cái lợi thế như thế thì nên làm những việc lớn hơn thay vì chỉ thu hút những cô gái chỉ vì tách cà phê, đĩa bánh ngọt. Tuấn nhận được điện thoại của ông chủ, anh lên phòng riêng và gặp mặt: - Sếp gọi tôi? - Bắt đầu từ mai tôi sẽ không làm tổng biên tập nữa. Chiếc ghế này sẽ thuộc về người khác. - Tôi có nghe. Chỉ là chưa biết lí do. - Cậu nhìn xuống thử đi… Có ai thực sự chú tâm với công việc không? - Điều đó không phải lỗi của ông. - Nằm ở tôi cả đấy chứ. Tôi già rồi, tôi đã làm việc suốt hơn ba mươi năm qua rồi. Bây giờ là lúc tôi dành thời gian cho gia đình, đặc biệt là bà vợ già của tôi. Những chuyến du lịch châu Âu, châu Phi hay châu Mỹ chính là mục tiêu sắp tới của tôi… nhưng tôi không muốn từ bỏ tờ tạp chí này. - Tùy ông. Sao cũng được! Tôi chỉ là nhân viên. - Tôi tưởng cậu sẽ thắc mắc tại sao tôi không chọn cậu ngồi chiếc ghế này. - Tôi cũng không cần thiết phải biết. Tôi chưa đủ tài, chắc là vậy phải không? - Kỳ Tuấn, cậu nên biết là cậu hoàn toàn có thể. Chỉ một chút xíu nữa thôi! - Đó là gì? - Vì cái câu “Tùy ông, sao cũng được” mà cậu vừa thốt ra đấy. - Nếu tôi nói với ông tôi muốn là có được cái ghế này dù không cần phải thay đổi câu đó ông có tin không? Ông Minh chỉ mỉm cười và đứng dậy vỗ vai Tuấn rồi nói: - Chuyến bay đáp lúc 10 giờ. Còn khoảng một tiếng cho cậu chuẩn bị để đón tân Tổng biên tập về ra mắt đấy. - Tại sao lại là tôi? - Vì ngày hôm nay tôi vẫn là chủ. Còn cậu vẫn là nhân viên của tôi. Tuấn lầm bầm mấy câu rồi trở về bàn làm việc lấy chìa khóa xe và đi ra sân bay. Không quên mua một bó hoa hồng to thể hiện chất lịch thiệp lãng mạn. Chờ một lúc, một cô gái bước ra, tóc rất đẹp, có làn da trắng, ăn mặc rất phong cách và đeo kính râm. Tuấn nhìn lâu một chút rồi tiếp tục quay lại tìm, cô nàng đi ngang mặt anh và hỏi: - Đang tìm người à? Tuấn gật đầu rồi mỉm cười: - Nhưng rất tiếc người tôi tìm không phải là cô gái xinh đẹp như cô. Tôi cần tìm một cô nói giọng Bắc cơ. Cô nàng mỉm cười bỏ đi. Tuấn đứng gần một tiếng đồng hồ rồi anh phải tặc lưỡi quay trở về vì lúc đi gấp quá quên hỏi tên tuổi và làm cách nào để tìm gặp. Trời giữa trưa nắng mà lại không một giọt nước thấm giọng. Tuấn về tới tòa soạn, máy lạnh thổi vù vù làm anh cảm thấy dễ chịu, anh nghe có tiếng xôn xao từ phòng họp, Tuấn vừa định bước vào thì mọi người đã đi ra và gương mặt nhăn nhó. Tuấn hỏi: - Này, có chuyện gì thế? - Ra mắt sếp mới, tình hình căng đây. Chết mấy bà tám chuyên lo nhiều chuyện đỏng đảnh rồi. Tuấn đang gãi đầu nhăn nhó thì ông Minh bước ra và trách móc: - Cậu ra sân bay tán gái hay sao mà để sếp mới của cậu tự về tòa soạn luôn thế? Giỡn mặt với tôi hả? - Tôi đã đứng cả buổi. Có thấy ai đâu? Chào xã giao tôi cũng chỉ chào có một người mà! - Ý anh là chào tôi đấy hả? Tuấn quay lại nhìn, anh ngạc nhiên đến mức không còn nói được gì. Chính là cô nàng xinh đẹp Tuấn đã chào xã giao một câu ở sân bay. Anh chàng ú ớ: - Sao lúc nãy… cô nói giọng Nam…? Ôi trời ơi… - Cứ phải là người miền Bắc thì phải nói giọng Bắc sao? - Tôi không nghĩ cô tài đến mức có thể nhại giọng nhanh như thế. - Impossible is nothing. Nhớ câu đó khi làm việc với tôi nhé! Cô nàng nghiêm giọng rồi bỏ đi. Trước khi thang máy đóng lại, cô nàng nháy mắt với Tuấn: - Vui vì được biết anh. Hợp tác vui vẻ! Tuấn cay cú vì bị chơi một vố, ông Minh mỉm cười chép miệng: - Impossible is nothing. Tôi rất bất ngờ với câu nói này, không phải vì ý nghĩa của nó, mà là vì người nói câu đó. Và đó cũng là người tôi nghĩ đủ sức có thể giúp tôi. - Cô ta nói được nhưng chắc gì đã làm được? - Ít ra thì đã thắng cậu một keo rồi. - Tôi đã chiến hồi nào mà thua? - Ơ… đợi chiến mới thua à? Kỳ Tuấn nhếch mép cười nhìn dáng đi như người mẫu chuyên nghiệp của Minh Thư. Anh chàng thầm mỉm cười, một cơn gió thổi ngang làm mái tóc bồng bềnh của anh lay chuyển. Như một tiếng gọi tỉnh thức, Tuấn mỉm cười: - Đã đến lúc thay đổi thật rồi! Mời các bạn đón đọc Kế Hoạch Làm Bố của tác giả Nguyễn Hương.
Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi
Vẫn mang giọng văn hài hước và kỹ thuật thắt mở nút gây kịch tính nhà nghề, “Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi” của cùng tác giả cuốn “Người đàn ông mang tên Ove” chứa đựng mạch cảm xúc lạ thường về những mối quan hệ nhân quả của con người trong thế giới hiện đại. Có gì cổ xưa và quen thuộc như chuyện về một người bà ngoại? Người bà có rất nhiều câu chuyện để kể lại, và để đánh dấu chúng, dường như cần những mùi hương khác nhau. Cô bé bảy tuổi Elsa đã có bà ngoại, người chuyên kể những câu chuyện tưởng tượng cho cô, nhưng toàn là những câu chuyện liên quan đến những ký ức kỳ lạ của chính bà, một người phụ nữ lạ thường. Người ta sẽ gọi bà ngoại của Elsa là lập dị hay điên khùng, nhưng với Elsa, bà là một siêu anh hùng. Ai đã chứng kiến những hành vi kỳ quặc của bà ngoại họ rằng bà đã tán tỉnh cảnh sát, lái xe phạm luật, bắn súng sơn từ ban công trêu hàng xóm, thì Elsa đã hào hứng làm cổ động viên vì cô bé tìm thấy ở bà một người bạn để chia sẻ những điều thắc mắc của trẻ con. Tuy nhiên, ẩn dưới cái vỏ của những câu chuyện đầy màu sắc cổ tích, những hiệp sĩ, công chúa, những con rồng hay xứ sở mộng mơ mang những cái tên ám chỉ, lại là những con người thật, người đàn ông khỏe kỳ dị được gọi là Tim Sói, một con thú bí ẩn linh sói, một bà hàng xóm khó tính, một người đàn ông cục cằn khó gần, rồi ngay chính người mẹ hay căng thẳng cùng người bố trầm tính của Elsa… Họ đều là những nhân vật của cuộc đời bà ngoại, người đã phiêu lưu khắp nơi, để rồi lần lượt hé lộ câu chuyện kỳ lạ nhất về bà. Thông qua những lá thư bí ẩn chứa lời xin lỗi của bà, Elsa bắt đầu hành trình đi tìm sự thật, nghẹt thở và ma mị… *** Elsa không phóng ra băng tuyết. Elsa cũng không phải là nữ hoàng của vương quốc xa xôi nào cả. Elsa chỉ là một cô bé 7 tuổi, nhưng lại là cô-bé-7-tuổi-già-trước-tuổi. Bà ngoại không sống trong viện dưỡng lão. Bà ngoại cũng không rành mấy thứ gọi là Wikipedia. Bà ngoại chỉ là một bà cụ 77 tuổi, nhưng lại là bà-cụ-77-tuổi-trẻ-hơn-tuổi. Ban ngày, bà ngoại đưa đón Elsa dến trường, cùng cô bé tham gia vào những cuộc phiêu lưu kỳ lạ như trèo qua hàng rào để đột nhập vào sở thú, nhét những tờ báo miễn phí chật cứng trong thang máy, làm phiền những người hàng xóm bằng cách bắn sơn và treo pizza trước cửa nhà họ. Ban đêm, hai bà cháu chìm đắm trong xứ sở Mơ-màng-ngủ, nơi những câu chuyện cổ tích làu thứ nuôi sống tất cả các giống loài sinh sống ở 6 vương quốc kỳ diệu trong xứ sở ấy. Bà kể cho Elsa nghe về loài linh sói, về thiên thần biển, những con rồng, quái vật, bóng đêm, về “cô gái luôn nói không”, về người anh hùng Tim Sói,... Elsa chỉ ước bà ngoại sẽ mãi bên cô bé. Vì bà là siêu anh hùng của Elsa. Và mọi đứa trẻ lên bảy đều cần có một siêu anh hùng ở bên cạnh. Nhưng Elsa đã học được qua Wikipedia và tất cả “văn chương có chất lượng” rằng con người không có ai hoàn hảo, kể cả siêu anh hùng. Người ta có thể yêu quý ai đó suốt nhiều năm trời mà chẳng biết gì về họ hết. Thực hiện lời hứa cuối cùng của bà ngoại là sẽ chuyển những bức thư có chứa lời xin lỗi đến với tất cả những người bà quan tâm, Elsa lao vào một cuộc hành trình đầy ma mị và nghẹt thở, để rồi mãi chờ đợi bức thư xin lỗi dành cho chính mình.  Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi không phải là truyện cổ tích dành cho người lớn, nó là truyện cổ tích dành cho những người từng là trẻ con. Những câu chuyện thần tiên của bà ngoại trở nên thật hơn bao giờ hết bởi đó chính là sự kiện thật xảy ra xung quanh bà. Một cô bé 7 tuổi có lẽ phải mất nhiều năm mới hiểu được. Nhưng đừng quên Elsa không phải là một cô bé bình thường. Làm gì có đứa trẻ 7 tuổi nào có thể thuộc làu làu từng chi tiết trong Harry Potter, hay biết được cách tra Wikipedia với mỗi từ khó người lớn nói. Và quan trọng hơn, không có đứa trẻ nào chịu lắng nghe và tin vào câu chuyện thần tiên của người già như Elsa cả. Đọc cuốn sách, ta dường như hiểu được một sự thật quan trọng mà nhà văn Fredrik Backman muốn gửi gắm. Bà ngoại vốn không phải là một người kỳ quặc và lạ thường. Chính bà đã trở nên kỳ quặc và lạ thường để có thể hòa hợp với cô cháu gái. Bà nhắc nhở Elsa luôn giữ trong mình sự khác biệt và đừng để cho ai phải nhắc cô bé không được khác biệt. Vì chẳng có người tầm thường nào có thể thay đổi thế giới cả.  Mỗi linh hồn chết đi nhường lại sự sống cho một sinh linh nhỏ bé mới. Còn những câu chuyện cổ tích thì vẫn còn sống mãi nếu như vẫn có người kể lại và có người lắng nghe chúng. Bà ngoại không được dạy làm thế nào để không kể các câu chuyện, Elsa không được dạy làm thế nào để không nghe, còn chúng ta có lẽ không ai được dạy làm thế nào để không mỉm cười trước một cuốn sách đáng yêu như Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi. *** Fredrik Backman là blogger, nhà báo, nhà văn người Thụy Điển với các tác phẩm nổi tiếng đã được được dịch ra hơn 40 thứ tiếng như Người đàn ông mang tên Ove, Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Britt-Marie đã ở đây. Tác phẩm: Người Đàn Ông Mang Tên Ove Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi Britt-Marie Đã Ở Đây ... *** Ở cái tuổi lên bảy, mọi đứa trẻ đều cần có siêu anh hùng. Không thể khác được. Những ai không chấp nhận điều đó cần phải xem lại đầu óc của mình. Bà ngoại của Elsa thường nói như vậy. Elsa đã gần tám tuổi. Nó biết mình không giỏi làm một đứa bảy tuổi. Nó biết mình khác biệt. Thầy hiệu trưởng bảo là Elsa phải “thay đổi thái độ” để “chan hòa hơn với các bạn cùng tuổi”. Những người lớn khác luôn nhận xét rằng nó “quá già so với tuổi”. Elsa đoán đó chỉ là một cách nói để ám chỉ rằng nó là “một con bé phiền phức”, vì họ thường nói thế khi nó chỉnh lại cách phát âm chữ “déjà vu” hoặc những lỗi chính tả lặt vặt của họ. Giống như hầu hết những người lớn to đầu khác. Bởi vậy họ mới dùng chữ “già trước tuổi” để nói về Elsa, kèm theo một nụ cười gượng dành cho bố mẹ nó. Như thể đó là một căn bệnh, và Elsa làm gai mắt họ vì không tỏ ra ngờ nghệch như một đứa trẻ bảy tuổi. Đây là lí do tại sao nó không có người bạn nào ngoài bà ngoại. Bởi lẽ tất cả những đứa trẻ bảy tuổi ở trường đều ngớ ngẩn như những đứa trẻ lên bảy thường tỏ ra, trong khi nó thì khác. Elsa không nên để tâm đến những gì họ nói, bà của nó đã khẳng định như thế. Bởi những người giỏi nhất đều khác biệt, cứ nhìn các siêu anh hùng mà xem. Nếu những siêu năng lực của họ là bình thường thì mọi người ai cũng có siêu năng lực cả. Bà ngoại đã bảy mươi bảy, gần bảy mươi tám tuổi. Bà cũng không giỏi làm một bà già bảy mươi bảy tuổi cho lắm. Mọi người có thể thấy bà già vì khuôn mặt bà giống như tờ giấy báo bị vo tròn nhét vào trong giày cho khỏi ẩm mốc, nhưng không ai thấy bà trưởng thành đủ so với độ tuổi cả. “Trộm vía”, người ta thỉnh thoảng nói như vậy với mẹ Elsa. Sau đó, khuôn mặt họ sẽ trở nên đầy lo lắng hoặc rất giận dữ, và mẹ sẽ thở dài hỏi xem mình phải bồi thường bao nhiêu, chẳng hạn như khi bà hút thuốc làm kích hoạt hệ thống báo cháy ở bệnh viện và la lối rằng: “riết rồi bây giờ cái gì cũng phải đúng theo khuôn khổ” lúc bị các bảo vệ yêu cầu dập thuốc. Hoặc là lúc bà đắp một người tuyết trong tư thế nằm sóng xoài dưới ban công nhà bà Britt-Marie và ông Kent, mặc quần áo người lớn cho nó để làm người ta tưởng có ai đó bị rơi xuống đất. Hoặc là khi những người đàn ông đeo kính đến gõ cửa từng nhà trong khu phố để nói về Chúa, Jesus và thiên đường, còn bà thì mặc áo choàng ngủ phong phanh bắn súng sơn vào họ từ trên ban công. Không rõ bà Britt-Marie thấy phiền phức vì vụ bắn súng sơn hay vì bà ngoại của Elsa không mặc gì bên trong lớp áo choàng ngủ hờ hững, chỉ biết bà ta báo cảnh sát với cả hai lí do đó cho chắc ăn. Đó là những lúc mọi người thấy, trộm vía, bà ngoại rất trẻ so với tuổi tác. Họ cũng nói bà điên rồ. Nhưng thật ra bà là một thiên tài. Chỉ có điều bà đồng thời cũng rất gàn. Hồi trước, khi còn làm bác sĩ, bà đã nhận được các giải thưởng, được báo chí viết bài, và bà từng tới những nơi tệ hại nhất thế giới, khi mà những người khác đều đã bỏ đi. Bà đã cứu sống nhiều người và chống lại cái ác ở khắp nơi trên trái đất này. Như những gì các siêu anh hùng vẫn làm. Nhưng rồi một ngày nọ, người ta quyết định rằng bà đã quá già để đi giải cứu thế giới, dù Elsa nghi ngờ điều người ta thật sự muốn ám chỉ qua hai chữ “quá già” chính là “quá điên rồ”. Bà ngoại gọi kẻ đó là “xã hội” và nói rằng ngày nay chỉ vì mọi việc phải đúng theo khuôn khổ một cách chết tiệt mà bà không còn được phép phẫu thuật người khác. Rằng chủ yếu chuyện đó là do xã hội làm rùm beng quá mức về việc cấm hút thuốc trong phòng mổ, ai có thể làm việc trong những điều kiện như thế kia chứ? Thế nên bây giờ bà ngoại chủ yếu ở nhà để chọc điên bà Britt-Marie và mẹ. Bà Britt-Marie sống dưới bà ngoại một tầng lầu. Bà ta cũng sống dưới mẹ Elsa một tầng lầu, vì nhà mẹ ở sát vách nhà bà ngoại. Tức là Elsa cũng ở ngay bên cạnh bà ngoại, vì nó sống cùng mẹ. Ngoại trừ cứ hai tuần một lần, nó đến ở với bố và dì Lisette vào dịp cuối tuần. Và tất nhiên dượng George cũng là hàng xóm của bà ngoại, vì dượng sống với mẹ Elsa. Rối rắm thế đấy. Tuy nhiên, chúng ta hãy quay lại chủ đề chính: cứu người và làm người ta phát điên chính là những siêu năng lực của bà ngoại. Điều này có lẽ cũng biến bà thành một siêu anh hùng dị thường. Elsa biết chữ này vì con bé đã tra nó trên Wikipedia. Những người ở độ tuổi của bà ngoại gọi Wikipedia là “một bách khoa toàn thư trên mạng”, trong khi với Elsa, bách khoa toàn thư là “Wikipedia trên giấy”. Con bé đã tra cứu chữ “dị thường” ở cả hai nguồn đó, và nó được dùng để mô tả một thứ gì đó không hoạt động như lẽ ra nó phải thế. Đây cũng chính là một trong những điểm mà Elsa thích nhất ở bà ngoại. Nhưng có lẽ không phải hôm nay. Bởi lúc này đã một giờ rưỡi đêm, Elsa khá mệt mỏi và rất muốn quay về giường ngủ. Chỉ có điều nó không thể làm điều đó, vì bà ngoại đã ném phân vào cảnh sát. Chuyện này hơi phức tạp một chút.   Elsa nhìn quanh căn phòng nhỏ hình chữ nhật và há miệng ngáp to đến nỗi nhìn nó giống như đang cố nuốt chửng chính cái đầu của mình. - Cháu đã bảo bà đừng có leo rào. - Con bé vừa lẩm bẩm vừa xem giờ. Bà ngoại không đáp. Elsa tháo chiếc khăn quàng Gryffindor và đặt nó vào lòng. Con bé chào đời một ngày sau lễ Giáng sinh, bảy năm về trước (đúng hơn là gần tám năm). Cùng ngày hôm đó, các nhà khoa học người Đức đã ghi nhận vụ nổ tia gamma mạnh nhất của một ngôi sao từ có ảnh hưởng tới trái đất. Phải thừa nhận rằng con bé không biết sao từ là gì, ngoại trừ việc đó là một loại sao neutron. Và chữ đó trong tiếng Anh cũng hơi giống với “Megatron”, vốn là tên của một con robot hiểm ác trong bộ truyện Người máy biến hình. Những người không đọc nhiều văn chương có chất lượng vẫn gọi đó là một “thứ dành cho trẻ con”. Thật ra các Transformer là robot, nhưng theo lí thuyết người ta có thể coi họ là các siêu anh hùng. Elsa thích cả Người máy biến hình lẫn các ngôi sao neutron, con bé hình dung một “vụ nổ tia gamma” sẽ giống như lần bà ngoại làm đổ nước ngọt Fanta lên chiếc iPhone của cháu gái mình và cố làm khô nó bằng máy nướng bánh mì. Bà ngoại nói việc sinh ra vào một ngày như thế làm cho Elsa trở nên đặc biệt. Và “đặc biệt” là hình thức hay ho nhất của “khác biệt”. Bà ngoại đang mải chia thuốc rê thành nhiều phần trên cái bàn nhỏ trước mặt và cuộn chúng lại bằng thứ giấy vấn thuốc khô giòn. - Cháu đã nói bà đừng có trèo qua cái hàng rào đó! Bà ngoại hừ mũi và lục lọi trong cái túi xách quá khổ của mình để tìm chiếc bật lửa. Có vẻ như bà không hề coi chuyện này là nghiêm túc. Mà hình như bà chưa bao giờ coi bất cứ chuyện gì là nghiêm túc cả. Trừ phi bà muốn hút thuốc nhưng không thể tìm ra bật lửa. - Lạy Chúa, nó chỉ là một cái hàng rào cỏn con thôi mà! - Bà nói với giọng vô lo. - Có gì đâu mà phải bận tâm! - Bà đừng có nhắc đến Chúa với cháu! Bà là người đã ném phân vào cảnh sát. - Thôi đi. Cháu nói năng y hệt mẹ cháu vậy. Cháu có bật lửa không? - Cháu mới có bảy tuổi thôi! - Cháu định dùng cái đó để viện cớ đến khi nào đây? - Cho đến khi cháu không còn bảy tuổi nữa. Năm 2017, tác phẩm mới nhất của Backman mang tên Beartown lọt top 10 cuốn sách hay nhất của năm do Amazon bình chọn.
Miền Đất Hứa Của Tôi - Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel
Miền đất hứa của tôi là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, băn khoăn trước ngập tràn biến cố lịch sử trên quê hương mình. Đây là một hành trình vượt không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện đại sự của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân và các bài phỏng vấn sâu, Shavit đã cố gắng tiếp cận câu chuyện sâu xa hơn và những câu hỏi sâu sắc hơn về Israel, về sự định hình tương lai của người Do Thái. Đây là một trong những cuốn sách quan trọng và có tác động mạnh mà Ari Shavit viết nhằm phục hồi cảm giác về thực tính của Israel và say sưa với nó, để khôi phục lại sự hùng vĩ của một thực tế đơn giản trong cái nhìn đầy đủ về các sự kiện phức tạp. Miền đất hứa của tôi gây ngạc nhiên về nhiều mặt, nhất là việc nó tương đối ít chú trọng tới việc cung cấp cho người đọc các thông tin về chính trị. Shavit, nhà bình luận trong ban biên tập của Haaretz, có một tư duy độc lập, không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ học thuyết nào. Ông viết không để ca ngợi hay đổ lỗi, dù trong quá trình ấy ông đã làm cả hai điều này, thay vào đó, với sự uyên bác và tài hùng biện; ông viết để quan sát và phản ánh. Đây là cuốn sách ít thiên vị nhất về Israel. Một cuốn sách Phục quốc Do Thái nhưng không bị kích động bởi chủ nghĩa phục quốc. Nó nói về toàn thể trải nghiệm Israel. Shavit đắm mình trong toàn bộ lịch sử của đất nước mình. Dù một số  sự kiện trong đó làm ông tổn thương, song không gì là xa lạ đối với ông. Ông đã viết một chương xuất sắc về chính trị gia tham nhũng nhưng đầy sức hút, Aryeh Deri, và sự trỗi dậy trên chính trường của tôn giáo dòng Sephardi tại Israel, qua đó minh họa rõ nét tầm hiểu biết của mình. Tuy nhiên thật may đây không phải là một cuốn hồi ký; nó là một cuộc điều tra được viết với văn phong gần gũi. Shavit khám phá xã hội của ông với sự tỉ mỉ của một người đàn ông cảm thấy bản thân mình gắn với số phận của nó, và ông không ngần ngại nói về sự tan rã của nước cộng hòa Israel trong những năm gần đây. Theo quan sát của ông “Trong vòng chưa đầy 30 năm, Israel đã trải qua bảy cuộc nổi loạn trong nước khác nhau: cuộc nổi dậy của người định cư, các cuộc nổi dậy hòa bình, cuộc nổi dậy vì tự do tư pháp, cuộc nổi dậy phương Đông, cuộc nổi dậy của dòng Chính thống cực đoan, cuộc nổi dậy của chủ nghĩa khoái lạc cá nhân và cuộc nổi dậy của người Israel gốc Palestine.” Ông lo lắng, có lẽ có phần hơi quá, rằng đất nước ông đang tan rã: “Quốc gia khởi nghiệp này phải tự khởi động lại”. Chắc chắn là không có tình tiết giảm nhẹ nào cho sự bất bình đẳng kinh tế và xã hội mà ông mô tả, hoặc những xáo trộn hoàn toàn các chính sách định cư trong vùng lãnh thổ mà Israel có một mối quan tâm khẩn cấp và lâu dài trong việc di tản. Nhưng những lời khuyên và khích lệ của Shavit rằng “luận điểm cũ về nghĩa vụ và sự cam kết đã được thay thế bằng một luận điểm mới về sự phản kháng và chủ nghĩa khoái lạc”, và “thách thức trước mắt là thách thức giành lại quyền lực quốc gia”, là u ám và khắc nghiệt hơn so với giọng văn đầy nhiệt huyết và phóng khoáng trong cuốn sách. Và khái niệm “quyền lực quốc gia” thì đi kèm với những mối liên hệ không mấy hấp dẫn. Vùng đất hỗn loạn và ồn ào trong Miền đất hứa của tôi sẽ không thể được chữa lành chỉ với những cố gắng đơn thuần để đưa nó trở lại bình thường như trước đây. *** NHỮNG DẤU CHẤM HỎI Những gì tôi còn nhớ được là nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn. Nơi tôi lớn lên - Israel giữa thập niên 1960 - đầy nghị lực, nhiệt huyết, và hy vọng. Nhưng tôi luôn cảm thấy đằng sau những ngôi nhà đẹp đẽ với bãi cỏ phía trước nhà của tầng lớp thượng lưu thành phố quê hương tôi là một đại dương tăm tối. Tôi lo sợ có ngày đại dương tăm tối đó sẽ trào dâng và nhấn chìm tất cả chúng tôi. Một trận sóng thần như trong thần thoại sẽ đập vào bờ và cuốn Israel của tôi đi. Nó sẽ thành một Atlantis(1) nữa, chìm sâu dưới đáy biển. Một sáng tháng 6 năm 1967, khi tôi chín tuổi, tôi đến bên cha dang cạo râu trong nhà tắm. Tôi hỏi ông, liệu người Ả-rập có thắng không. Liệu người Ả-rập có chinh phục Israel của chúng ta hay không? Liệu họ có ném tất cả chúng ta xuống biển không? Vài ngày sau, Chiến tranh Sáu ngày(2) bắt đầu. Tháng 10 năm 1973, tiếng còi báo động của thảm họa bắt đẩu rền rĩ. Tôi đang bị cúm, phải nằm trên giường sau buổi trưa ngày lễ Yom Kippur(3) yên tĩnh, khi những chiếc phản lực F-4 đang xé nát bầu trời. Chúng bay ở độ cao 500 feet(4) trên mái nhà chúng tôi hướng đến kênh đào Suez, chống lại lực lượng xâm lược Ả-rập bất ngờ đánh chiếm Israel. Nhiều chiếc, trong đó đã không bao giờ trở lại. Lúc đó tôi 16 tuổi, sững sờ khi nghe tin quân đội Israel thua trận tại sa mạc Sinai và Cao nguyên Golan. Trong 10 ngày kinh hoàng này, dường như nỗi sợ hãi ban sơ của tôi đã được chứng minh. Israel đang nguy nan. Những bức tường của Ngôi đền Thứ ba(5) của người Do Thái đang rung lắc. Tháng 1 năm 1991, Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất bùng nổ. Tel Aviv bị tên lửa SCUD của Iraq bắn phá. Có người còn lo lắng về khả năng Israel bị tấn công bằng vũ khí hóa học. Trong nhiều tuần, người dân Israel mang theo mặt nạ phòng độc khi đi lại. Thi thoảng, khi có cảnh báo là đầu đạn tên lửa đã được bắn ra, chúng tôi liền đeo mặt nạ chui vào những căn phòng bịt kín. Mặc dù sau đó hóa ra không phải, nhưng có điều gì đó khủng khiếp về thứ nghi lễ kỳ quái này vẫn đọng lại. Tôi lắng nghe âm thanh còi báo động, và hoang mang nhìn vào đôi mắt kinh hãi của người thân nhốt trong những chiếc mặt nạ chống độc do Đức sản xuất. Tháng 3 năm 2002, một làn sóng khủng bố làm Israel lo lắng. Hàng trăm người chết khi những đối tượng đánh bom cảm tử Palestine tấn công các xe buýt, câu lạc bộ đêm, và trung tâm mua sắm. Một đêm, khi tôi đang viết bài nghiên cứu về Jerusalem thì nghe một tiếng nổ lớn. Tôi nhận ra chắc là ở quán bar trong khu nhà tôi. Tôi chộp lấy tập giấy viết và lao ra phố. Ba chàng trai – ngồi trong quán trước những vại bia vơi một nửa - đã chết. Một phụ nữ nhỏ nhắn chết gục trong góc. Những người bị thương thì đang gào thét và khóc lóc. Khi nhìn vào địa ngục xung quanh trong ánh đèn sáng rực của quán bar đã nổ tung, tôi - một nhà báo - tự hỏi: Cái gì sẽ đến? Chúng tôi có thể chịu đựng được sự điên rồ này bao lâu nữa? Liệu có lúc nào sinh lực sống đầy tự hào của người Israel chúng tôi sẽ phải đầu hàng các thế lực gây chết chóc đang cố gắng hủy diệt mình? Chiến thắng quyết định trong cuộc chiến năm 1967 đã xua tan những nỗi sợ trước chiến tranh. Sự phục hồi vào các thập niên 1970 và 1980 đã chữa lành vết thương sâu của năm 1973. Tiến trình hòa bình thập niên 1990 đã hàn gắn thương tích năm 1991. Sự thịnh vượng cuối thập niên 2000 đã che đậy nỗi kinh hoàng của năm 2002. Chính xác là do ít hiểu biết, nên người Israel chúng tôi cứ khăng khăng tin vào bản thân, tin vào quốc gia-dân tộc và tương lai của mình. Nhưng qua nhiều năm, nỗi sợ hãi câm lặng của tôi vẫn không bao giờ qua di. Dù bàn bạc hay biểu đạt nỗi sợ hãi này là điều kiêng ky, nhưng nó vẫn luôn đeo bám tôi mọi nơi. Các thành phố của chúng tôi dường như được xây trên cát trượt. Nhà ở của chúng tôi dường như không bao giờ vững chắc hoàn toàn. Ngay cả khi dân tộc tôi trở nên mạnh mẽ và giàu có hơn, tôi vẫn cảm thây nó dễ bị tổn thương. Tôi nhận ra chúng tôi thường xuyên bị nguy hiểm đe dọa. Vâng, cuộc sống của chúng tôi tiếp tục sôi động, giàu có, và hạnh phúc về nhiều mặt. Israel tạo nên một cảm giác an toàn xuất phát từ thành công về vật chất, kinh tế, và quân sự. Sinh lực sống hằng ngày của chúng tôi thật thần kỳ. Nhưng vẫn luôn tồn tại nỗi sợ, rằng một ngày nào đó cuộc sống thường nhật sẽ tê liệt như ở Pompeii(6). Quê hương yêu dấu của tôi sẽ vụn nát khi đội quân Ả-rập khổng lồ hoặc lực lượng Hồi giáo hùng mạnh vượt qua hàng phòng thủ và xóa sổ sự tồn tại của nó. Những gì tôi còn nhớ được là sự chiếm đóng. Chỉ một tuần sau khi tôi hỏi cha, liệu các nước Ả-rập có chinh phục Israel không, thì Israel đã chinh phục những vùng đất người Ả-rập cư trú ở Bờ Tây và Gaza. Một tháng sau, cha mẹ, em trai và tôi bắt đầu một chuyến đi gia đình đến các thành phố bị chiếm đóng là Ramallah, Bethlehem, và Hebron. Đi qua nơi nào chúng tôi cũng thấy dấu tích của những chiếc xe jeep, xe tải và xe quân sự Jordan bị cháy. Những lá cờ trắng đầu hàng treo trên hầu hết các ngôi nhà. Một số con phố bị chặn lại bằng những xác xe hơi Mercedes đen vốn sang trọng nhưng đã biến dạng do xe tăng Israel nghiến lên. Nỗi sợ hãi hiện ra trong đôi mắt những dứa trẻ Palestine bằng và ít tuổi hơn tôi. Cha mẹ chúng xem ra đã bị đánh bại và bẽ mặt. Trong vài tuần, người Ả-rập hùng mạnh đã biến thành nạn nhân, còn người Israel bị nguy cấp lại trở thành kẻ chinh phục. Quốc gia Do Thái giờ đây hân hoan chiến thắng, tự hào và say sưa với cảm giác cuồng nhiệt về sức mạnh. Khi tôi ở tuổi vị thành niên, mọi thứ còn tốt đẹp. Chúng tôi hiểu chung chung rằng việc chiếm đóng quân sự là nhân đạo. Israel hiện đại đã mang đến sự tiến bộ và phồn vinh cho các vùng đất Palestine. Giờ đây, những người láng giềng lạc hậu của chúng tôi đã có điện, nước máy, và sự chăm sóc y tế mà họ chưa bao giờ có trước đây. Họ cần phái nhận thức được rằng cuộc sống của họ chưa bao giờ tốt đến vậy. Chắc chắn họ biết ơn vì những gì chúng tôi dành cho họ. Và khi hòa bình được thiết lập, chúng tôi sẽ trả lại phần lớn các lãnh thổ đã chiếm đóng. Nhưng lúc này, mọi thứ trên Đất Israel đều ổn cả. Trên khắp đất nước, người Ả-rập và Do Thái chung sống, bình yên, và sung túc. Chỉ khi đi lính tôi mới hiểu được có điều gì đó không ổn. Sáu tháng sau khi gia nhập lữ đoàn dù ưu tú của Lực lượng Phòng vệ Israel (IDF),(7) tôi được điều động đến chính những thành phố bị chiếm đóng mà mình đã đi qua lúc còn bé 10 năm trước. Giờ thì tôi bị phân công làm những nhiệm vụ bẩn thỉu: kiểm tra, quản thúc tại gia, giải tán biểu tình bằng bạo lực. Điều làm tôi tổn thương nhất là đột nhập vào những ngôi nhà, lôi các chàng trai ra khỏi giường ấm nệm êm đi thẩm vấn lúc nửa đêm. Thứ quái quỷ gì đang xảy ra thế này, tôi tự hỏi. Tại sao tôi lại bảo vệ tổ quốc mình bằng cách hành hạ những thường dân đã bị tước đoạt quyền và tự do? Tại sao Israel của tôi lại chiếm đóng và đàn áp dân tộc khác? Vì vậy, tôi trở thành người phản chiến. Trước tiên, với tư cách một người hoạt động xã hội trẻ tuổi và sau là nhà báo, tôi đã hăng hái đấu tranh chống lại sự chiếm đóng. Trong thập niên 1980, tôi phản đối việc thiết lập các khu định cư trên lãnh thổ Palestine. Thập niên 1990, tôi ủng hộ sự thành lập nhà nước Palestine do Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO)(8) lãnh đạo. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, tôi tán thành việc Israel đơn phương rút khỏi Dải Gaza. Nhưng hầu hết các chiến dịch chống lại sự chiếm đóng mà tôi tham gia cuối cùng đều thất bại. Gần nửa thế kỷ sau chuyến đi đầu tiên của gia đình tôi ở Bờ Tây bị chiếm đóng, Bờ Tây vẫn bị chiếm đóng. Như khối u ác tính, chiếm đóng trở thành một phần không tách rời trong sự tồn tại của nhà nước Do Thái. Nó cũng đổng thời trở thành một phần không tách rời trong cuộc đời tôi với tư cách một người Israel. Mặc dù tôi phản dối sự chiếm đóng, nhưng tôi cũng chịu trách nhiệm về sự chiếm đóng này. Tôi không thể phủ nhận sự thật hoặc chạy trốn sự thật là dân tộc mình đã trở thành một dân tộc đi chiếm đóng. Mãi đến vài năm trước, tôi đột nhiên nhận ra rằng nỗi sợ hãi mang tính sinh tồn liên quan đến tương lai dân tộc mình không tách rời tổn thương về đạo đức liên quan đến chính sách chiếm đóng của đất nước mình. Một mặt, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây đi chiếm đóng dân tộc khác. Mặt khác, Israel là dân tộc duy nhất ở phương Tây bị đe dọa sự tồn tại. Cả sự chiếm đóng lẫn sự đe dọa đều khiến tình trạng của Israel trở nên đặc biệt. Đe dọa và chiếm đóng trở thành hai trụ cột trong tình trạng của chúng tôi. Phần lớn các nhà quan sát và phân tích phủ nhận tính hai mặt này. Những người cánh tả đề cập sự chiếm đóng và không chú ý đến sự đe dọa, trong khi những người cánh hữu chú tâm vào sự đe dọa và bỏ qua sự chiếm đóng. Nhưng sự thật là nếu không kết hợp cả hai yếu tố trong một thế giới quan, thì không thể hiểu hết Israel hay cuộc xung đột Israel-Palestine. Bất kể cách tư duy nào không gắn với hai điểm cốt lõi này, chắc chắn đều không đầy đủ và vô dụng. Chỉ có cách tiếp cận thứ ba mới thực tế, xem xét cả việc đe dọa và chiếm đóng, biết phải trái và nhìn nhận đúng lịch sử Israel. Tôi sinh năm 1957 tại thành phố đại học Rehovot. Cha tôi là nhà khoa học, mẹ là nghệ sĩ, và trong số những người sáng lập ra tổ chức Zion(9) có các cụ của tôi. Giống như phần lớn thanh niên Israel, tôi đi nghĩa vụ quân sự ở tuổi 18, tham gia lực lượng nhảy dù, và khi hoàn thành nghĩa vụ, tôi học triết tại Đại học Hebrew ở Jerusalem, nơi tôi tham gia phong trào hòa bình và sau đó là phong trào nhân quyến. Từ năm 1995, tôi viết cho tờ báo tự do hàng đầu của Israel, Haaretz. Mặc dù tôi luôn ủng hộ hòa bình và ủng hộ giải pháp hai quốc gia,(10) nhưng tôi dần nhận thấy những khiếm khuyết và thành kiến của phong trào hòa bình. Hiểu biết của tôi về sự chiếm đóng và đe dọa khiến tiếng nói của tôi có phần khác với mọi người trên truyền thông. Là người phụ trách chuyên mục, tôi thách thức các giáo điều của cả cánh hữu lẫn cánh tả. Tôi biết rằng không có câu trả lời đơn giản cho Trung Đông, và cũng không có giải pháp tình thế cho mâu thuẫn Israel-Palestine. Tôi nhận ra tình huống của Israel là vô cùng phức tạp, có lẽ thậm chí còn bi thương nữa. Trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, Israel đã hành động hiệu quả. Khủng bố lắng xuống, công nghệ cao bùng nổ, cuộc sống hằng ngày sôi động. Về mặt kinh tế, Israel đã trở thành mãnh hổ. Để tồn tại, đất nước này đã trở nên mạnh mẽ, đầy sinh lực, sáng tạo và thích hưởng thụ. Nhưng đằng sau ánh sáng rực rỡ của câu chuyện thành công phi thường, lo lắng đang dâng trào. Mọi người bắt đầu lên tiếng hỏi những câu mà suốt đời tôi đã luôn tự hỏi. Giờ không chỉ là chính trị phe tả hay phe hữu nữa. Cũng không chỉ là thế tục đối lập với tôn giáo. Có điều gì đó sâu xa hơn đã xảy ra. Nhiều người Israel không an lòng với Israel mới nổi. Họ tự hỏi liệu mình còn thuộc về quốc gia Do Thái nữa hay không. Họ đã mất niềm tin vào khả năng chịu đựng của Israel. Một số đã lấy hộ chiếu nước ngoài; một số gửi con đi du học. Tầng lớp thượng lưu nhìn thấy một lựa chọn khác bên cạnh lựa chọn Israel. Dù phần lớn người Israel vẫn yêu quê hương và mừng vui với phúc lành của dân tộc, nhưng nhiều người đã mất niềm tin vững chắc vào tương lai đất nước. Khi thập niên thứ hai của thế kỷ 21 bắt đầu, có năm vấn đề khác nhau gây hoài nghi về khát vọng sống tham lam của Israel: quan niệm rằng xung đột Israel-Palestine có thể không giải quyết được trong tương lai gần; lo ngại rằng quyền bá chủ chiến lược khu vực của Israel bị thách thức; e sợ rằng tính hợp pháp của nhà nước Do Thái bị xói mòn; quan ngại rằng xã hội Israel vốn đã biến đổi sâu sắc giờ lại bị phân chia và phân cực, nền tảng dân chủ-tự do của đất nước đang sụp đổ; và nhận thức rằng chính phủ yếu kém của Israel không thể giải quyết triệt để những thách thức nghiêm trọng như chiếm đóng và rạn nứt xã hội. Mỗi vấn đề ở đây đều ẩn chứa một mối đe dọa đáng kể, nhưng ảnh hưởng chung của chúng còn gây ra nỗi sợ hãi khủng khiếp hơn. Nếu hòa bình không khả thi, liệu chúng tôi có chống lại được một xung đột kéo dài một thế hệ khi ưu thế về chiến lược bị đe đọa, tính hợp pháp đang mất dần, bản sắc dần chủ đang rạn nứt, và những mâu thuẫn nội bộ đang chia rẽ chúng tôi? Trong khi vẫn đổi mới, quyến rũ và mạnh mẽ, Israel đã trở thành một quốc gia bị nghi ngờ. Cảm giác lo lắng cứ lơ lửng trên mảnh đất này, như cái bóng lớn của một ngọn núi lửa sắp phun trào. Đây chính là lý do tôi dấn thân vào chuyến đi này. Sáu mươi lăm năm sau khi thành lập, Israel quay lại những câu hỏi chủ chốt. Một trăm lẻ sáu năm sau khi ra đời, chủ nghĩa Zion giờ dang đối mặt với những mâu thuẫn cơ bản của mình. Thách thức giờ đây vượt xa vấn đề chiếm đóng, và củng sâu sắc hơn hẳn vấn đề hòa bình. Điều mà tất cả chúng tôi phải đối mặt là câu hỏi về ba khía cạnh của Israel: Tại sao? Là gì? Sẽ thế nào? Câu hỏi này về Israel không thể trả lời bằng các bài bút chiến. Vì rất phức tạp, nên nó cũng không tự trở thành vấn đề để tranh cãi và phản đề được. Cách giải quyết duy nhất là kể câu chuyện về Israel. Đây chính là điều tôi cố gắng làm trong cuốn sách này. Theo cách riêng và qua lăng kính chủ quan, tôi đã cố gắng nhìn nhận sự tồn tại của chúng tôi trong một tổng thể, theo cách tôi hiểu. Cuốn sách này là cuộc phiêu lưu cá nhân của một người Israel, bối rối trước biến cố lịch sử ngập tràn trên quê hương mình. Đây là một chuyến đi trong không gian và thời gian của một người sinh ra tại Israel, nhằm khám phá câu chuyện rộng lớn của dân tộc mình. Thông qua lịch sử gia đình, lịch sử cá nhân, và các bài phỏng vấn sâu, tôi sẽ cố gắng nói đến câu chuyện rộng hơn và câu hỏi sâu hơn về Israel. Điều gì đã xảy ra trên quê hương tôi trong hơn một thế kỷ, đưa chúng tôi đến nơi mình đang sống? Chúng tôi đã đạt được điều gì ở đây và vấp phải sai lầm nào ở đây, và chúng tôi đang hướng tới đâu? Cảm giác lo âu sâu sắc của tôi có cơ sở không? Nhà nước Do Thái có thật sự lâm nguy không? Có phải người Do Thái chúng tôi đang mắc kẹt trong một bi kịch tuyệt vọng, hay chúng tôi vẫn có thể hồi sinh, tự cứu mình, và lấy lại được đất đai mà chúng tôi vô cùng yêu quý? (1) Atlantis là hòn đảo hư cấu được nói đến trong tác phẩm của triết gia Hy Lạp cổ đại Plato viết khoảng năm 360 trước công nguyên (TCN). Mặc dù sống trong một xã hội văn minh, nhưng con người ở đây trở nên tham lam, nhỏ nhen, suy đồi về đạo đức, nên các vị thần đã nổi giận, dùng lửa và động đất nhấn chìm Atlantis xuống biến sâu. Lưu ý: Toàn bộ chú thích trong sách là của người dịch, trừ các chú thích ghi rõ (BT) là của người biên tập. (2) Chiến tranh diễn ra từ 5-10/6/1967 giữa Israel và các quốc gia Ả-rập lân cận là Ai Cập, Jordan, và Syria. Israel chiến thắng áp đảo (nhờ yếu tố bất ngờ, kế hoạch chiến đấu sáng tạo) giành quyến kiểm soát Dải Gaza, bán đảo Sinai của Ai Cập, Bờ Lây và Đông Jerusalem của Jordan và Cao nguyên Golan của Syria. (3) Còn gọi là Ngày chuộc tội/Ngày lễ sám hối. Là ngày lễ thiêng liêng nhất trong năm của Do Thái giáo. Đế chuộc tội và ăn năn, người Do Thái dành 25 giờ ăn chay, chuyên tâm cầu nguyện và thường xuyên tham gia các nghi lễ ở giáo đường Do Thái. (4) 500 feet tương đương 152,4 m. (5) Trong lịch sử người Do Thái, Ngôi đền Thứ nhất do vua Solomon xây dựng vào khoảng thế kỷ 10 TCN, sau đó bị phá hỏng vào khoảng năm 587 TCN. Ngôi đền thứ hai được xây dựng vào năm 516 TCN và lai bị phá hỏng vào khoảng năm 70 sau CN. Ngôi đền Thứ ba chưa dược xây dựng. Nó vẫn nằm trong mong ước của người Do Thái. (BT) (6) Pompeii, thành phố La Mã cổ đại bị phá hủy và chôn vùi hoàn toan khi núi lửa Vesuvius phun trào năm 79, tình cờ được khám phá năm 1748 (sau 1.700 năm) nham thạch đã xóa sạch mọi sự sống, hơn 2.000 người chết, hơi nóng khủng khiếp khiến cơ thế họ ngừng hoạt động gần như ngay lập tức. (7) Viết tắt của “Israel Defense Forces”. (8) Palestine Liberation Organization, thành lập năm 1964 Hội nghị Thượng đỉnh Ả-rập năm 1974 công nhận PLO là “đại diện hợp pháp và duy nhất của nhân dân Palestine.” Năm 1993, PLO đã công nhận nhà nước Israel và Israel đã công nhận PLO là đại diện hợp pháp của nhân dân Palestine. (9) Zion là một phong trào chính trị ủng hộ sự phát triển nhà nước Israel; đây cũng là tên ngọn đồi phía đông thành phố Jerusalem, từng là trung tâm văn hóa-chính trị cúa người Do Thái dưới thời Vua David. Sau khi Vương quốc Judea thất thủ năm 70, Zion trở thành biểu tượng cho hy vọng phục quốc của người Do Thái. (10) Giải pháp cho cuộc xung đột Israel-Palestine, thành lập hai nhà nước của hai dân tộc: nhà nước Palestine độc lập tồn tại cùng nhả nước Israel ở bờ Tây sông Jordan.   Mời các bạn đón đọc Miền Đất Hứa Của Tôi- Khải Hoàn Và Bi Kịch Của Israel của tác giả Ari Shavit.
Phố Academy
Một bé con. Một tình nhân. Và một người mẹ.  Đời nàng mở ra mặc khải “ký ức tình yêu giúp làm vơi nhẹ.” Cuộc đời một con người được tái dựng trong chưa đầy 200 trang sách. Điều đó xem chừng là bất khả cho tới khi ta đọc một tác phẩm như Phố Academy: Màn thứ nhất - cô bé Tess mồ côi mẹ; màn thứ hai - nàng Tess yêu khờ dại; và màn cuối - bà Tess bất hạnh. Cuốn tiểu thuyết không mới mẻ trên bình diện khắc họa một đời người, nhưng chính sự “không mới mẻ” này lại khiến nó tạo nên những cảm xúc rất thực. Rồi chúng ta sẽ nhớ thắt lòng hình ảnh cô bé Tess thảng thốt, ngác ngơ trước chiếc quan tài mẹ: “Mẹ đã đi mất. Mẹ của Tess đi xa rồi. (...) Bé cảm thấy mặt đất dưới chân sụp xuống – thảm cỏ, cánh đồng và gò đất đang trượt ra xa, đến khi bé bị bỏ mặc bơ vơ nơi đỉnh gò trơ trụi. (...) Bé hầu như không thở nổi. Tess ngoảnh về phía vầng mặt trời đã xuống thấp, nhắm mặt và chờ đợi. Xin hãy rủ lòng thương. Bé chờ khuôn mặt mẹ hiện lên, chờ một cánh tay chìa ra. Toàn bộ cơ thể Tess nhướn lên, khao khát được mặt trời chạm vào, được gió nâng lên, bầu trời mở ra và cõi Thiên Đường kéo bé vào.” Niềm nhớ mẹ của Tess làm chúng ta cũng giật mình muốn gọi: “Mẹ, mẹ ơi!”  Chính mất mát vào tuổi ấu thơ ấy đã khiến nhân vật Tess cuống quýt kiếm tìm yên ấm, mãi mãi về sau. Tess thèm được có ai đó cho riêng nàng. Đâu phải chú Mike bởi lời chú hứa cưới nàng chỉ là trò bông đùa hồn hậu; cũng đâu phải chị Claire vì chị rời đi Mỹ - miền đất hứa rồi. Tâm trí Tess chịu ám ảnh về một mối quan hệ lấp đầy sự trống rỗng hoang hoải nơi nàng, và nàng gặp David. Anh càng dửng dưng thì Tess càng khao khát, anh càng xa cách thì cô gái càng muốn lại gần: để dựa đầu lên vai anh, hôn anh, để cùng anh “hòa nhập”. Cuộc hoan ái với chàng trai chỉ diễn ra một đêm song đã kéo dài miên viễn trong đời Tess - kéo dài nỗi thảng thốt lại bị bỏ rơi, kéo dài bất hạnh: “David bỏ đi thật rồi. Hết thảy thanh danh, hết thảy hạnh phúc, đã theo anh đi mất và nàng bị bỏ lại giữa tình cảnh ngặt nghèo.” Một lần nữa, những cảm xúc mãnh liệt của nhân vật cuốn chúng ta theo, khiến ta ngả nghiêng rất thực: “Tess bò vào giường. Trong bóng tối làn môi nàng tự nhiên chu lại như đang hôn, thêm một nụ hôn nữa, cặp môi máy động như hớp lấy không khí. Những thứ, trước đây tơ tưởng là thiếu đoan trang, giờ không còn vậy nữa: tay chân anh, làn da anh, bàn tay anh đặt trên bụng nàng. Hãy trở lại với em.”  Đời Tess không chan chứa gì ngoài mất mát, ngay cả đứa con trai những tưởng sẽ làm tròn đầy đời bà sau cuối cũng lìa xa mẹ - ngay trong cõi sống và sau đó, bằng cái chết. Lấy bối cảnh phố Academy, nước Mỹ và Mary Costello viết về số phận một phụ nữ gốc Ireland. Với người nhập cư, xứ sở cờ hoa trao gửi giấc mơ nao? Mộng lành - “cuộc đời nơi đây là đáng sống, là lý tưởng” hay mộng dữ - lũ chim ác đâm ngang tòa tháp?  Lời chị Evelyn than xiết: “Cô biết sao không? Trước giờ những gì nước Mỹ mang tới cho gia đình này chỉ toàn là bất hạnh” cơ hồ đẩy người đọc vào ngả chông chênh trước tín điều về giấc mơ Mỹ lấp lánh. Lựa chọn khắc họa cái bất hạnh song may thay Mary đã “làm điều này khúc chiết, chân thật không ủy mị”. Tuổi ấu thơ mơ mộng Thiên Đường, ngày xế bóng sực ngẫm ra “đã không có vườn Địa Đàng, sẽ không có vườn Địa Đàng” nhưng Tess không gây cho ta thứ cảm giác bi lụy lê thê. Dẫu gợi ngậm ngùi, dẫu khơi nuối tiếc, nhân vật vẫn chứng tỏ một đời sống can trường “những ngày như mọi ngày bà sẽ đặt bàn chân này lên trước bàn chân kia để bước đi”, một “mặc khải” rằng “ký ức tình yêu giúp làm vơi nhẹ”: Tess đã yêu mẹ, yêu một người đàn ông và yêu con trai tới tận cùng tế bào mình. Có thể nói rằng, trong không gian phố Academy nhỏ bé, Mary Costello đã khắc họa một số phận dễ chìm khuất giữa đám đông “nhu thuận và mờ nhạt” tuy không viện đến những thủ pháp văn chương đột phá nhưng vẫn đủ sức lay động tâm can tới tột cùng. *** Bắt đầu bằng một cái chết và kết thúc cũng bởi một cái chết, cuốn sách mỏng mảnh tinh tế này gói gọn cuộc đời của một con người với những bi kịch cố hữu của nó, không tô vẽ hay có chút gì màu mè giả tạo, “Phố Academy” khiến người đọc lay động với sự chân thực giản dị dù có lẽ cuốn sách sẽ khiến những ai mong chờ một câu chuyện giật gân hay đón đợi một cuộc đời với nhiều biến cố rợn ngợp phải thất vọng. Bảy tuổi, cô bé Tess mất đi người mẹ của mình và từ đó người cha của cô rơi vào sự cộc cằn, xa cách, đặc biệt là khi cô bé bị mất giọng nói khi chứng kiến một đứa trẻ vô gia cư qua đời, cô bé trở nên sợ hãi cha mình và ngày càng tạo khoảng cách với cha dù đôi lúc cô bé vẫn cảm nhận được tình yêu mà ông dành cho bé. Mất mẹ, không được cha quan tâm nên dần dần Tess rơi vào trạng thái cô độc dù còn rất nhỏ, những nỗi nhớ, khao khát về mẹ chỉ có thể được em giữ kín trong lòng: “Vậy là ký ức và vết tích về mẹ quyết còn vương khắp nhà – trong phòng, sảnh, cầu thang. Vết lõm chân mẹ in trên thảm, Trên cái ly nước có dấu tay mẹ. Em thầm hỏi liệu trong những đêm ấm áp, lúc toàn bộ ngôi nhà say ngủ, người mẹ dịu dàng của em, hay các hồi ức về bà có trở lại, mang an ủi cùng hứa hẹn đến cho mọi thứ, bù đắp những nhẫn nại đợi chờ. Cả ngoài kia nữa, khoảng sân, chuồng vịt, có nhớ mẹ chăng?” Nỗi đau mất mẹ dần dà cũng nguôi ngoai thế nhưng vết tích về nó vẫn hằn sau trong cuộc đời của Tess dù rằng em vẫn được yêu thương bởi những người anh chị em trong gia đình. Rời Ireland để di cư sang Mỹ và trở thành y tá trong một bệnh viện nhỏ, Tess bén rễ ở phố Academy và ngày càng lún sâu vào cuộc đời cô độc, buồn bã và không chắc chắn. Ta sẽ theo chân Tess từ khi là một cô gái với những nỗi nhớ khắc khoải về quê hương khi phải tự lập trên một mảnh đất xa lạ, những rung động khát khao của cô với chàng trai mình yêu thương, những nỗi đau đớn khi tình yêu không được đáp lại, niềm hạnh phúc khi được làm mẹ dù có những lúc cô bối rối vì nghĩ rằng một mình cô không thể nuôi được đứa con trai nên người, sự trưởng thành, sự tha thứ, những nỗi buồn và những giọt nước mắt. Mary Costelo khiến người đọc đồng cảm và sống cùng với cuộc đời của Tess, dõi theo từng bước chân của cô với sự rung động đôi lúc khiến trái tim đau nhói, ta cảm thấy một lúc nào đó trong cuộc đời, ta cũng sẽ hoang mang và cảm thấy cuộc sống thật vô định, khó khăn biết bao, đôi lúc ta không thể nào biết rõ ta đang sống hay đang tồn tại, những ngày trôi qua nặng nề như thể ta phải chịu đựng nó, thế nhưng rốt cuộc thì ta vẫn phải tiếp tục bước tiếp và nhìn quanh bên cạnh ta chẳng có ai, ta chỉ có thể một mình quyết định được điều gì sẽ xảy đến với chính bản thân mình. Cuốn sách nói về cuộc đời một con người bình thường nhưng sao mà buồn thăm thẳm, thật ra cái ý nghĩa đích thực của việc sống trên đời này là gì? Một câu chuyện rất chân thực, không hề có những bất ngờ hay biến cố, nỗi buồn trong cuốn sách không lớn lao hay xa lạ, nó khiến ta nhận ra có những giây phút hoài nghi về cuộc đời của chính mình. Đến một lúc nào đó, cũng như Tess, ta sẽ cảm thấy mệt mỏi với việc đấu tranh với cuộc đời, và những ước ao, dự định, hoài bão ta từng ôm ấp thời trẻ đều không thể trở thành hiện thực. Cuộc đời trước mặt không có gì đáng để ta mong đợi những cũng chẳng thể làm ta sợ hãi, ta sẽ chấp nhận nó như đúng bản chất thật sự của nó với những niềm vui và nỗi buồn, nụ cười và nước mắt, hạnh phúc và đau khổ. Mary Costelo xoáy sâu vào sự bình thường trong cuộc đời của mỗi con người, không có phát minh vĩ đại hay bước nhảy vọt lớn lao, chỉ có nỗi buồn và sự cô đơn ngự trị. Tình yêu gia đình và sự gắn bó với mảnh đất quê hương cũng là một điểm sáng trong “Phố Academy”, dù không luôn bên cạnh nhưng gia đình và vùng quê Ireland luôn có một vai trò đặc biệt trong cuộc đời của Tess, trong những lúc cô đơn nhất cô nhận ra vẫn có một thành viên trong gia đình ở đâu đó trên cùng đất nước này, và điều đó khiến cô và cả người đọc được ai ủi. Nỗi nhớ khắc khoải về quê hương khiến cô luôn ghi nhớ từng bậc thanh, từng bụi cỏ, nơi đó còn lưu giữ bao kỷ niệm ấu thơ để khiến cô không quên đi gốc rễ của mình và kết nối cô với những thành viên khác trong gia đình. Mary Costelo quả thật rất tinh tế trong việc miêu tả những nối kết ấy một cách đẹp đẽ, vững chắc và khó quên. Và đó có phải là khả năng đặc biệt của văn chương, không chỉ kết nối các nhân vật của mình với nhau và còn có thể kết nối bạn đọc với những nhân vật xa lạ ở những vùng đất xa lạ và nền văn hóa xa lạ. Dù có thể, trong cuộc đời những phút giây hạnh phúc thật ít ỏi so với nỗi buồn nhưng đó là những điều mà ta luôn nhớ về, những ký ức sẽ sưởi ấm tim ta vào đêm giá lạnh như khi Tess đứng dưới đường nhìn lên căn hộ cũ của mình đang sáng đèn ở phố Academy và nhớ lại những kỷ niệm về đứa con trai, và đối với cô, cuộc đời chỉ cần như thế là đủ, và cô cảm thấy hạnh phúc. *** Review Meowth: Lại là một cuốn sách không hợp với mình. Có vẻ năm nay mình không có duyên đọc sách lắm, trong 5 cuốn đã đọc thì chỉ thích có 2 cuốn thôi. Phố Academy là câu chuyện về Tess từ khi còn là một bé gái đến khi trở thành cô gái, mẹ rồi bà. Cuộc đời của một người phụ nữ gói gọn trong 200 trang sách. Cuốn sách được viết dưới ngôi thứ ba, những bi kịch của Tess được thuật lại mà không có thêm bất kì cảm xúc nào của người kể, giống như lời thuyết trình của một bộ phim tài liệu vậy. Bởi thế dù qua những con chữ mình thấy được mọi thứ của Tess từ niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn lạc lõng đến nỗi đau song nó vẫn không gợi lên chút gì trong mình. Giọng văn của cuốn sách rất nhẹ nhàng, lúc nào cũng đều đều làm mình cảm thấy nó giống như một câu chuyện không có tình tiết. Nếu vẫn câu chuyện về cuộc đời Tess nhưng được viết bởi một cách khác chắc chắn mình sẽ thích hơn. Cuốn này khiến mình liên tưởng đến "một chỗ trong đời", mình thấy hai cuốn gần như có cùng cách kể truyện. Chắc mình không hợp với nó lắm. Cuốn sách đề cập đến tất cả những vấn đề xoay quanh mỗi gia đình như mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa các anh chị em trong nhà với nhau; chạm đến nhiều vấn đề của cuộc sống với đại diện là một người phụ nữ. Bắt đầu bởi một đám tang, kết thúc cũng bởi một đám tang và xuyên suốt cuốn sách là những cái chết khác bên cạnh Tess. Một người phụ nữ mờ nhạt mà ta có thể bắt gặp ở bất cứ đâu ngoài kia, việc đưa cuộc đời đó lên giấy với mình là thành công lớn nhất của tác giả. Nhưng mình có lẽ sẽ không đọc thêm cuốn nào khác của bà. Đánh giá: 5.5/10 Mời các bạn đón đọc Phố Academy của tác giả Mary Costello.