Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trở Lại Những Ngày Đầu

"Cứu tôi với." Tôi gắng sức chồm dậy. Một tên Hork-Bajir nặng trịch nằm đè lên người tôi. Lưỡi dao cổ tay của hắn găm cứng một bên sườn tôi. Tôi ráng nhổm lên bằng cả bốn chân nhằm hẩy cái thây ma đó ra khỏi người. Nhưng... tôi chỉ có ba chân. Cái chân sau kia của tôi đang nằm ở đẳng, thườn thượt trên cái sàn nhà phát sáng. Một di vật kỳ lạ, trông thiệt là rùng rợn - một bàn chân cọp. Tôi cố gắng trườn ra. Cách này coi bộ được hơn à nha. Sàn nhà bằng gỗ bóng loáng, trơn trợt nhuốm đầy máu của thú vật, của con người, và của những sinh vật ngoài hành tinh. Vươn dài hai chân trước, tôi xòe vuốt bấu xuống sàn gỗ. Thoạt tiên, những móng vuốt cứ chuội đi, nhưng rồi cái chân phải của tôi bập được vào gỗ và tôi đã có chỗ bám để kéo cả cơ thể mình trườn tới. Một giọng nói vang lên. "Cứu, cứu tôi với." Chậm rãi, thận trọng, nhẹ nhàng, tôi lết mình ra từ bên dưới cơ thể gươm dao lỉa chỉa của tên Hork-Bajir. Vết thương nơi cái chân đứt lìa nhức nhối khủng khiếp. Đừng có tin người ta nói thú vật không cảm nhận được nỗi đau nha bạn. Tôi đã từng biến thành rất rất nhiều loại thú khác nhau rồi, tôi biết. Hầu hết tụi nó đều cảm nhận được cơn đau, bạn ạ. Tiếng của Cassie. <Ơi. Mình đây.> Tôi đáp. Với một cú lắc mình, tôi đã thoát ra khỏi cái sức nặng đang đè dí tôi. Tôi đứng lên, lảo đảo bước trên ba chân và nhìn quanh bằng đôi mắt cọp. Tôi nhận ra đó là phòng cắt của một cửa tiệm thiết kế áo quần. Bạn biết đấy, toàn là  những trang phục mà không ai dám mặc ra đường, mấy cái kiểu quần áo bạn thường thấy trên chương trình Thời trang với Elsa Klensch mỗi khi bạn nhoay nhoáy chuyển kênh TV í mà.. Cửa hàng thời trang ư? Thiệt ra là một cơ sở trá hình kỳ cục của tụi Yeerk. Tại sao vậy cà? Trong phòng kê nhiều bàn cắt bự chảng, vừa rộng vừa dài, chất đầy vải vóc. Có một cái đứng chèo ẹo - một chân của nó đã gãy rời hoàn toàn còn đâu (khá giống với tình trạng của tôi lúc đó). Người ta xếp mấy cuộn vải lớn có in hoa văn chồng cao lên nhau ở góc chân bị gãy giúp cái bàn giữ được thăng bằng, trông giống như một cái bập bênh, chỉ dập dềnh mà không kênh lên hay bập xuống hẳn. Trên bức tường gạch trần trụi đầu kia của căn phòng, gắn hàng dãy đèn đủ kiểu, đủ màu, nhấp nha nhấp nháy. Xác chết ngổn ngang khắp nơi. Máu loang bê bết trên những vết chém ngang dọc.   Tôi thấy một con sói lê bước ra từ phía sau một giỏ hàng bị lật nghiêng. Ơn Trời! Nhỏ còn sống. Nhẹ cả người! Lần cuối tôi thấy nhỏ ấy là lúc nhỏ đang gặp rắc rối. Xa xa, bên ngoài mấy cánh cửa, sâu dưới hành lang tối tăm kia, tôi nghe vọng tiếng gầm trầm đục của gấu xám-Rachel. Không phải tiếng gầm gừ trong chiến đấu, trận chiến đã ngừng rồi mà. Đó chỉ là tiếng gầm không ngừng của một con quái thú đang điên cuồng tìm kiếm con mồi mới mà không thấy. Marco đã hoàn hình trở lại là một thằng nhóc. Bằng tuổi tôi nhưng nhìn nó con nít hơn tôi nhiều. Thằng bạn thân nhất của tôi đó. Với vết chém ngang cuống họng khỉ đột dài và sâu như thế, nó mà không hoàn hình thì chỉ có nước chảy máu tới chết mà thôi. Hoàn hình thành người. Điều đó tốt hơn rất nhiều. Vì không còn đau nữa.   "Tôi lạnh quá, lạnh quá. Giúp tôi với," giọng nói lại cất lên rền rĩ. <Đừng để hắn thấy bồ nha,> tôi nhắc Marco. Rachel ì ạch bước vô phòng, ngót bốn trăm kí lô lông lá xồm xoàm, vuốt sắc như dao găm và một cú nhếch mép mơ hồ để lộ mấy cái răng nanh trắng nhởn. Tôi lặng thinh. Tôi đâu có biết câu trả lời. Rachel bắt đầu xô đẩy dữ dội và nâng mấy cái xác Hork-Bajir lên. Nhỏ tìm ra Tobias, một mớ lông diều hâu nhàu nhĩ. Cậu ấy còn thở. Tôi nghe tiếng móng guốc gõ lộp cộp một cách thanh nhã. Ax đang chạy tới phía sau tôi. Ảnh cũng là người ngoài hành tinh như những xác chết đang nằm ngổn ngang xung quanh tụi tôi. Nhưng khác bọn chúng, ảnh là một nhân mã thanh tao. Thân hình ảnh giống một con hươu hoặc một con dê núi phủ lông màu xanh dương, với phần thân trên không khác người mấy. Chi tiết khác biệt là ở chỗ cái đầu không có miệng và có thêm hai con mắt gắn trên hai cái cuống phụ có thể xoay nhìn cả bốn phía. Cái đuôi dài, nguy hiểm của ảnh ướt sũng máu. Tụi tôi đã trải qua rất nhiều trận đánh. Trận này thiệt thê thảm. Nó chắc hẳn sẽ ám tôi dài dài trong những giấc ngủ và sẽ khiến tôi thức giấc, toát mồ hôi hột và la hoảng cho mà coi. "Có ai đó... lạnh quá... cứu với..." Cassie chạy tới chỗ Rachel. Nhỏ hoàn hình thiệt nhanh. Thiệt nhẹ người khi lại trông thấy nhỏ hoàn toàn khỏe mạnh, không trầy xước. Trong mắt tôi nhỏ thiệt đẹp. "Cậu ấy sẽ ổn mà," Cassie khẳng định với Rachel. "Mình nghĩ cậu ấy chỉ bị choáng tí xíu thôi." Như thể chứng minh lời Cassie là đúng, Tobias khẽ động đậy một cái cánh và cất tiếng, <Ê! Gì thế? Ôi, ôi. Mình còn sống nè.> Rachel làu bàu. Cậu ấy nói. <Đồ ngốc,> Rachel mắng mỏ. Nhưng giọng trách móc của nhỏ chứa đầy yêu thương. Tobias đã liều mạng để cứu sống nhỏ mà. Tôi khập khiễng đi tới chỗ một người bị thương – một kẻ Mượn xác-Người, một kẻ thù. Đó là một thanh niên, chừng hai mươi tuổi, một con người có chứa một con sên ngoài hành tinh trong đầu. "Giúp tôi với," anh ta thều thào với cái mặt cọp hiện ra lờ mờ phía trên. "Lạnh quá, giúp tôi với." Anh ta bị thương rất nặng. Đó là một vết chém do lưỡi dao Hork-Bajir gây ra. Nhát chém phản pháo, như cách mà người ta hay nói khi đồng đội của bạn vô tình làm bạn bị thương, hoặc vô tình giết bạn. Bọn Hork-Bajir giữa trận tiền ác liệt đã vô ý chém nhầm một tên đồng đội của chúng. tôi nói. <Để anh ta được yên, ít nhứt cũng là trong những giây phút cuối cùng. Hãy chui ra khỏi đầu anh ta, để ảnh  được chết như một con người tự do.> Mặt anh ta xanh tái, trắng nhợt như làm bằng sáp. Ai đó đã đập bể sọ và xé nát đôi tai của anh ta. Tôi nhận ra vết cào của vuốt cọp. Đôi mắt nâu của anh ta nhìn tôi chăm chú. "Ta không chui ra được," tên Yeerk bên trong đầu ảnh nói với tôi. "Đường tai đã bị nghẽn. Không ra được. Ta bị kẹt rồi." Ax nói. "Tôi lạnh," tên Mượn Xác-Người đó rên rỉ. "Chỉ cần... chỉ cần đưa giùm tôi một tấm mền..." Ax giục giã. "Ta sợ. Điều đó... điều đó có làm ngươi vui không, Andalite?" người thanh niên sắp chết thốt lên. Với bọn Yeerk thì tụi tôi đều là Andalite cả. Công nghệ biến hình là thành quả của người Andalite, vượt xa khả năng của loài người. Vì thế với bọn chúng, tụi tôi là Andalite, một sự hiểu lầm mà tụi tôi cố tình muốn duy trì mãi. Trong Hội Animorphs tụi tôi, chỉ có mình Ax mới đúng là người Andalite thực thụ mà thôi. tôi đáp. "Đau quá... ngươi không làm gì được cho ta sao? Lạnh quá. Giúp ta với…" Tiếng Marco. Nó đã biến thành ó biển. Tụi tôi cần chuồn. Ra bằng đường không là cách ổn nhất. Mọc cánh rồi bay và bỏ lại mọi thứ sau lưng. Chả bao lâu sau, tụi tôi sẽ lại cười cợt, lại đùa giỡn, lại cố sức làm mọi thứ nhằm giúp tụi tôi quên những gì đã thấy. Quên hẳn những gì tụi tôi đã làm. "Cứu với..." <Đi thôi,> Tôi thẫn thờ nhắc cả bọn. Tôi hoàn hình ở nơi khuất tầm nhìn của tên Mượn Xác xấu số, rồi biến thành đại bàng và bay vù ra ngoài qua một ô cửa sổ được tạo ra từ nắm đấm của Rachel.   *** Megamorphs gồm có:  Megamorphs 1: Món Quà Của Người Andalite. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #1: The Andalite’s Gift. Ebook mới tương đương tập 44 cũ (Quái vật Sao Thổ) · Megamorphs 2: Thời Đại Khủng Long. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #2: In The Time of Dinosaurs. Ebook mới gồm hai phần:– Thời đại khủng long (tập 45 cũ)– Thảm hoạ sao chổi (tập 46 cũ) · Megamorphs 3: Bí Mật Của Elfangor.Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #3: Elfangor’s Secret. · Megamorphs 4: Trở Lại Những Ngày Đầu. Nguyên tác: Animorphs – Megamorphs #4: Back to before. *** Katherine Alice Applegate là một nữ tác giả rất được ưa chuộng với: Animorphs, Remnants, Everworld, và hàng loạt cuốn sách khác, mặc dầu nhiều cuốn bị ảnh hưởng bởi phong cách viết của những tác giả khác. Hầu hết những cuốn sách phổ biến nhất của Applegate thuộc về thể loại khoa học viễn tưởng, phiêu lưu mạo hiểm. Bà đã giành được giải thưởng Sách mới hay nhất dành cho trẻ em năm 1997 của Publishers Weekly. Bộ truyện Animorphs của bà, vẫn đang nhận được sự hâm mộ nồng nhiệt của độc giả trẻ trong những năm gần đây. Applegate sinh ra ở Michigan năm 1956. Sau đó bà đã chuyển đến sống ở nhiều nơi như: Texas, Florida, California, Minnesota, Illinois, Bắc Carolina, và sau khi sống ở Pelago, Italy, một năm, bà đã chuyển đến sống ở: Nam California. Kể từ hồi còn thơ ấu, bà đã là một người yêu động vật, điều đó chính là lý do để bà viết bộ Animorphs và viết như thế nào. Như hầu hết mọi người bình thường khác, Applegate cũng có những ước mơ từ thời thơ ấu. Bà đã có mơ ước trở thành một bác sỹ thú y hoặc một nhà văn. Ở trong trường trung học, một phần mơ ước của bà đã trở thành sự thật, khi bà làm những công việc của một bác sỹ thú y. Giờ đây, khi đã trở thành một nhà văn, phần kia của mơ ước cũng đã trở thành sự thật. Một vài công việc mà bà đã làm là: nhân viên đánh máy, phục vụ bàn và trồng trọt. Điều đó cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc viết sách. Bà đã nghiên cứu rất nhiều về động vật để viết những cuốn sách của mình. Ngoài việc viết văn, bà còn là một cây violoncello nghiệp dư. Applegate còn thích làm vườn, du lịch và tất nhiên là… đọc sách. Mời các bạn đón đọc Megamorphs Tập 4: Trở Lại Những Ngày Đầu của tác giả Katherine Alice Applegate.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

SOS
Có một nghề được gọi là “làm mẹ”. Đó là trở thành mẹ của những đứa trẻ không do mình mang nặng, rứt ruột sinh ra. Đó là trở thành mẹ trong một khoảng thời gian định sẵn, với những qui định không mấy dễ chịu, và một trong số những qui định ấy là quên đi hạnh phúc của cá nhân mình. Và cái chốn được gọi là gia đình ấy hẳn phải là nơi đầy ắp tình yêu thương, chan chứa sự vỗ về và an ủi tâm hồn người ta lắm. Bởi chỉ có như thế, “mẹ” mới sẵn sàng quên mình vì hạnh phúc của các “con”. Thế thì điều đó lí tưởng quá còn gì. Thực tế, làng trẻ để các cô gái trẻ tự nguyện vào đây làm mẹ, để chăm sóc những đứa trẻ mồ côi, bất hạnh, lại không được lý tưởng đến thế. Một làng trẻ mà thiếu tiếng trẻ nô đùa, nghịch ngợm. Một làng trẻ mà trật tự khuôn phép được đặt lên hàng đầu. Một làng trẻ không khác nào môi trường quân sự, mà những đứa trẻ chính là những chú lính tí hon dễ bảo. Một làng trẻ mà những đứa trẻ bị đánh mất tuổi thơ… Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi nhân danh yêu thương, nhưng yêu thương lại không hề tồn tại? Làm sao có thể giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Và “làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì?” S. O. S! *** Có một công việc được gọi là “làm mẹ”. Có một quy định được gọi là “làm con”. Tình mẫu – tử chỉ trọn vẹn khi “mẹ” phải mang nặng và đứt ruột khi sinh ra “con”, có phải? Làm sao để yêu thương và được yêu thương tại một nơi mà tính yêu thương nhiều khi là bổn phận? _______________________________ Những câu văn trên được tớ trích ra từ tác phẩm truyện dài “SOS” của Nguyên Hương. Nguyên Hương có lẽ là một cái tên hơi xa lạ với các độc giả nhưng các tác phẩm của cô đều chứa đựng những lí tưởng cao đẹp, quý giá. Tuy “SOS” không phải là quyển sách đầu tiên của Nguyên Hương mà mình đọc, nhưng mình thực sự rất ấn tượng với nó. Ấn tượng từ cái tên, cái bìa và cả nội dung. Toàn bộ câu chuyện dài 180 trang kể về cô gái tên Thùy. Cô đang ở tuổi đời thanh xuân phơi phới, tương lai phía trước đang rộng mở đón chờ cô. Nhưng cô không chọn một công việc bình thường, rồi cưới chồng, rồi chăm lo cho đứa con chính mình đứt ruột sinh ra, mà lại chọn công việc làm “mẹ” ở trại trẻ SOS – trại trẻ dành cho các trẻ em cơ nhỡ, gia đình bỏ rơi. Một mình cô, nuôi 8 đứa “con”, đứa lớn nhất 11 tuổi và đứa nhỏ nhất mới chỉ 4 tuổi. Tại đây, những tình yêu chân thành, chất phát tỏa ra. Với văn phong tự nhiên, ngôn ngữ bình dị nhưng lại giàu cảm xúc xuyên suốt cả nội dung quyển sách, Nguyên Hương đã cho ta thấu cảm được tình mẫu – tử thiêng liêng từ giữa một người mẹ và các đứa con không cùng huyết thống. Những tình cảm chất phác, trong sang của các đứa trẻ đối với “người mẹ” xa lạ nhưng tình cảm ấy lại thân thuộc và ấm áp vô cùng. Đây thực sự là một quyển sách hay, một câu chuyện đẹp và đầy ý nghĩa nhân văn về tình cảm gia đình. Đây thực sự là một quyển sách rất đáng để đọc. _______________________________ Làm sao biết được những đôi mắt sớm suy tư đang nghĩ gì? Làm sao để giải quyết được mâu thuẫn giữa yêu thương lí tưởng và lí tưởng yêu thương? Làm mẹ có phải là một công việc không? REVIEW CỦA BẠN Le Hoang Thuy Vy   Mời các bạn đón đọc SOS của tác giả Nguyên Hương.
Nụ Cười Dưới Chân Thang
Henry Miller là người Mỹ, sinh tại New York, tại một thành phố tượng trưng cho Sinh mệnh Tây phương trong trạng thái huy hoàng nhất, với tất cả khám phá mới mẻ nhất của khoa học và cơ khí, mẫu mực của đời sống con người ở thời đại nguyên tử. Henry Miller chính là người đã phá hủy đời sống theo điệu Mỹ, đã phá Văn minh Mỹ một cách khốc liệt; đối với Henry Miller, tất cả những gì tàn bạo nhất, ngu xuẩn nhất, khờ khệch nhất, bi đát nhất, rỗng tuếch nhất, nhạt nhẽo nhất đều xuất phát từ Mỹ quốc, quê hương của ông. Tất cả những quyển sách của Henry Miller đều tố cáo Văn minh Mỹ quốc, tố cáo sự điêu tàn của Tây phương, tố cáo đời sống nông cạn của con người thời đại, tố cáo những ảo tưởng điên rồ của xã hội, đoàn thể, tôn giáo, đảng phái; luân lý, đạo đức; Henry Miller đánh dấu sự cáo chung của văn chương, thi ca và nghệ thuật: “Cách đây một năm, cách đây sáu tháng, tôi nghĩ rằng tôi là nghệ sĩ. Bây giờ tôi không nghĩ về việc ấy nữa, tôi LÀ!“ (Henry Miller, Tropic of Cancer, trang 1), “Tất cả những gì là văn chương, văn nghệ, văn học đều tách rời khỏi tôi” (op. cit, trang 1); Henry Miller “khạc nhổ vào mặt của nghệ thật, đá vào đít của Thượng đế, của Người, của Sinh mệnh, của Thời gian, của cái Đẹp, của Tình yêu!” (op. cit, trang 2); Henry Miller cho rằng Rimbaud đã thất bại một cách chua xót là vì “thời gian chưa chín muồi” (The time was not ripe) (cf. Henry Miller, the Books in my life, Icon Books; 1963, trang 96); Henry Miller khơi mở tất cả ý nghĩa trong sắc lệnh của Rimbaud: “A bas l’histoire!) (Đả đảo lịch sử!) (cf. Henry Miller, op. cit trang 86); Henry Miller ca tụng Rimbaud và gọi Rimbaud là “Kha Luân Bố của Tuổi trẻ” (cf. New Directions IX, New Directions XI) và cho rằng hành động của Rimbaud (khi lìa bỏ Tây phương để sống cuộc đời vất vả kỳ lạ ấy ở Phi châu) là một sự tự tử, vì Rimbaud thất vọng khi thấy Tây phương không còn thoát khỏi Tất mệnh đau thương kia. Bài văn đầu tiên trong đời Henry Miller là bài cảo luận ông viết về quyển Anti-Christ của Nietzsche; Henry Miller khinh miệt Heidegger, nhưng ông quí Eckhart và trích dẫn câu văn của Eckhart: “Hãy nhìn, tất cả là Bây giờ duy nhất” (cf. Henry Miller, Remember to Remember) và chính Henry Miller thốt lên: “Tất cả phải là một”. “Tất cả là một”, đi ngược lại với εν Πάντα của Héraclite trong tinh thần tương tức tương nhập của Kinh hoa nghiêm Phật giáo, “nhất tức nhất, nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất, nhất thiết tức nhất thiết”; khi đứng tại Mycenae tại Hy Lạp, trước mồ của Clytemnestra, Henry Miller đã sống lại tất cả những bi kịch Hy Lạp Thượng cổ (Eschyle, Sophocle, Euripide, vân vân); tác phẩm vĩ đại nhất của Henry Miller là quyển Colossus of Marcussi, nói lên sự trở về nguồn của Henry Miller khi ông khám phá lại đất trời Hy Lạp, sống lại buổi Triêu Dương của Sinh mệnh Tây phương; niềm vui vô hạn của sự tỉnh thức kỳ diệu lan tràn chan chứa trong quyển Colossus of Maroussi. Henry Miller là người duy nhất (trong mấy ngàn năm của Sinh mệnh Tây phương) người độc nhất đã tỉnh thức hoàn toàn, yêu Hố thẳm và đã mọc cánh bay vút từ Hố thẳm lên đến Thiên Không xanh lơ; ông ôm choàng cuộc đời vũ trụ trong vòng tay âu yếm (Henry Miller: Instinctively; just as a bird takes wing, he threw ou: his arms in an all-encompassing embrace), run say sung sướng tràn trề trong niềm vui lai láng vô biên, thốt lên mừng rỡ ở giây phút tối hậu: “Thế là đến rồi! Đến rồi!” (“At last, At last!”). Henry Miller tự xưng là “một thằng hề” truyện The Smile at the Foot of the Ladder (Cười dưới chân thang) của Henry Miller là nói về một anh hề kỳ lạ nhất chưa từng có trong lịch sự loài người; Henry Miller cho rằng truyện ấy là “truyện kỳ lạ nhất mà tôi đã viết trong đời” (undoubtedly it is the strangest story I have yet written); trong truyện ấy, Henry Miller đã đưa Sinh mệnh đến Tất mệnh và bay lên bầu trời xanh lơ của Tính mệnh trong Bình minh của Hố thẳm: “Niềm vui giống như một con sông: nó chảy miên man không ngừng. Đối với tôi, đó dường như tất cả lời nhắn gửi mà người hề đang cố gắng mang đến cho chúng ta, nhắn gửi chúng ta hãy nhập thế với dòng tuôn chảy di động không ngừng, nhắn gửi chúng ta đừng dừng lại để suy nghĩ, để so sánh, để phân tích, để ghì giữ, mà hãy tiếp tục tuôn chảy không ngừng vô cùng vô tận như dòng nhạc miên man. Đó là dâng bỏ, buông rơi, siêu thoát; người hề đã diễn tả sự siêu thoát ấy một cách tượng trưng. Còn chúng ta hãy làm sự siêu thoát ấy thành hiện thể”. (Joy is like a river: it flows ceaselessly. It seems to me that this is the message which the clown is trying to convey to us, that we should participate through ceaseless flow and movement that we should not stop to reflect, compare, analyze, possess, but flow on and through, endlessly, like music. This is the gift of surrender, and the clown makes it symbolically. It is for us to make it real). Henry Miller đã sống qua hết những mâu thuẫn, những bi kịch đau đớn khôn cùng của cuộc đời: “Chúng ta chết đang khi vùng vẫy để sinh ra đời. Chúng ta không bao giờ đã là, không bao giờ đang là. Chúng ta đang luôn luôn trong tiến trình biến dịch, luôn luôn ly cách và đứt lìa. Luôn luôn ở bên ngoài”. (We die struggling to get born. We never were, never are. We are always in process of becoming, always separate and detached. Forever outside). Những dòng chữ trên nói lên Sinh mệnh cựa quậy trên bờ đất, khi Sinh mệnh không còn tuôn chảy trong dòng sông Tính mệnh. Muốn sống lại, chúng ta chỉ cần khơi mở và khám phá: tất cả đều đã có sẵn trong ta rồi (we uncover and discover. All has been given, as the mystics say). Chúng ta chỉ cần mở mắt và lòng để trở nên một với toàn thể (we have only to open our eyes and hearts, to become one with that which is). Henry Miller là một trong số rất ít người mà Sinh mệnh đã được giải thoát; Henry Miller nhìn thế giới này qua một màu sắc mới lạ khác hẳn cách nhìn của đôi mắt thường nhân. Henry Miller nhìn thấy cuộc đời với một đôi mắt khác. Henry Miller sống tràn trề trọn vẹn trong khoảnh khắc hiện tại và sự hiện diện của Henry Miller chiếu tỏa rực ngời ánh dương buổi sớm, tuôn dậy một bài ca bất diệt của niềm vui chan chứa hương mai. Henry Miller mỉm cười dưới chân thang, một nụ cười thênh thang thiên sứ tuyệt trần (it was a broad, seraphic smile). Mời các bạn đón đọc Nụ Cười Dưới Chân Thang của tác giả Henry Miller.
Một Giọt Nắng Nhạt
Trong nhiều sáng tác Nguyễn Khải ta đã bắt gặp nhân vật xưng tôi. Một nhân vật tôi nửa là nhân vật hư cấu, nửa là chính nhà văn, tức là có một sự mơ hồ, lẫn lộn một cách chủ ý. Lối viết này thực ra không hoàn toàn mới trong lịch sử phát triển của văn học trong nước cũng như trên thế giới. Cái đặc sắc của Nguyễn Khải ở chỗ cái tình rất thực, tự bạch cũng là tự kiểm, tự đánh giá qua tự truyện. Kể cả tự giễu- một khuynh hướng đánh giá có màn sắc triết lý mà cũng rất trần đời. Một giọt nắng nhạt kể về quãng tuổi thơ đầu đời_"cái tuổi 15". Có nhiều nét giống Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, lại có cả những khía cạnh như Cỏ dại của Tô Hoài, nhưng có cái vẻ "dữ dội" hơn ở khía cạnh tâm lý. Cái khổ của vật chất cộng cái khổ tinh thần trĩu xuống tâm hồn thơ dại nhưng cũng đủ hiểu biết, thức tỉnh. *** Nguyễn Khải (3/12/1930 - 15/1/2008) Nhà văn được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. - Nguyễn Khải tên thật là Nguyễn Mạnh Khải, sinh năm 1930 tại Hà Nội. Quê nội ở thành phố Nam Định nhưng tuổi nhỏ sống ở nhiều nơi. Đang học trung học thì gặp Cách mạng tháng Tám. - Trong Kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Khải gia nhập tự vệ chiến đấu ở thị xã Hưng Yên, sau đó vào bộ đội, làm y tá rồi làm báo. Bắt đầu viết văn từ những năm 1950, được chú ý từ tiểu thuyết Xung đột (phần I năm 1959, phần II năm 1962). - Sau năm 1975, ông chuyển vào sinh sống tại tp. Hồ Chí Minh. - Năm 1988, ông rời quân đội với quân hàm đại tá để về làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Nguyễn Khải từng là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa 2, 3 và là Phó tổng thư ký khóa 3. Ông là Đại biểu Quốc hội khóa VII. - Các sáng tác của ông khá phong phú: về nông thôn trong quá trình xây dựng cuộc sống mới, về bộ đội trong những năm chiến tranh chống Mỹ, về những vấn đề xã hội–chính trị có tính thời sự và đời sống tư tưởng, tinh thần của con người hiện nay trước những biến động phức tạp của đời sống. Sáng tác của Nguyễn Khải thể hiện sự nhạy bén và cách khám phá riêng của nhà văn với các vấn đề xã hội, năng lực phân tích tâm lý sắc sảo, sức mạnh của lý trí tỉnh táo. - Năm 1982, ông nhận Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam với tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm. - Năm 2000, nhà văn được phong tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về Văn học nghệ thuật. - Ông mất năm 2008 tại thành phố Hồ Chí Minh do bệnh tim. Tác phẩm đã xuất bản Ông sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, ký sự, kịch. Trong đó, Nguyễn Khải để dấu ấn qua nhiều tác phẩm như: Xây dựng (truyện vừa, 1952) Xung đột (ghi chép nhiều tập, truyện, 1959-1962) Câu chuyện giữa một người đọc và một người chép (Nghiên cứu lý luận, 1959) Mùa lạc (tập truyện ngắn, 1960)  Một chủ đề chung quán xuyến tất cả sáng tác của tôi: Làm thế nào cho con người sống được hạnh phúc hơn. (trả lời phỏng vấn, báo Văn học, 1962) Sức mạnh của ngòi bút là được chiến đấu cho lẽ phải, cho chân lý (trao đổi, báo Văn học, 1962) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1963) Đường vào nghệ thuật (NXB Thanh niên, 1963) Gia đình lớn (Truyện vừa, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1964) Người trở về (Tập truyện vừa, NXB Văn học, 1964)  Sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật thật cao đẹp xứng đáng với nhân dân anh hùng (Báo nhân dân, 1968) Người 40 tuổi (Tự sự lúc bước sang một năm mới, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1970) Ra đảo (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1970) Đường trong mây (tiểu thuyết, NXB Văn học, 1970) Hãy đi xa hơn nữa (tập truyện vừa, NXB Văn học, 1971) Chủ tịch huyện (truyện, NXB Văn học 1972) Chiến sĩ (tiểu thuyết, NXB Quân đội nhân dân, 1973) Đối mặt (kịch, Tạp chí Tác phẩm mới, 1974) Tháng ba ở Tây Nguyên (ký sự, NXB Quân đội nhân dân, 1976) Cách mạng (kịch 4 màn, NXB Quân đội nhân dân, 1978) Cha và Con và... (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1979) Hành trình đến tự do (Kịch, NXB Văn nghệ, 1980) Khoảnh khắc đang sống. (Kịch bản điện ảnh, Báo Văn nghệ, 1980)  Bạn bè trên cao nguyên (truyện, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1981) Gặp gỡ cuối năm (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Khoảnh khắc đang sống (kịch bản phim, truyện ngắn, NXB Văn nghệ, 1982)  Văn xuôi một chặng đường 1963-1983. Báo cáo bổ sung trình bày trong Đại hội lần thứ III Hội Nhà văn Việt Nam (Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 1984) Thời gian của người (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1982) Điều tra về một cái chết (tiểu thuyết, NXB Tác phẩm mới, 1986) Cái thời lãng mạn (truyện vừa, Báo Văn nghệ, 1987) Vòng sóng đến vô cùng (truyện, NXB Trẻ, 1987)  Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn (ý kiến, Báo Văn nghệ, 1988) Một giọt nắng nhạt (sách măng non, NXB Trẻ, 1988)  Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ (Báo Văn nghệ, 1989) Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình (Tạp chí Tác phẩm văn học, 1989) Một cõi nhân gian bé tý(tiểu thuyết, NXB Văn nghệ, 1989) Một người Hà Nội (tập truyện, NXB Hà Nội, 1990) Danh nhân của làng (truyện ngắn, 1991)  Cặp vợ chồng ở chân động Từ Thức (truyện ngắn, báo Văn nghệ, 1991)  Chuyện tình của mỗi người (truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1992) Nghề văn cũng lắm công phu (Báo Văn nghệ, 1992-1993) Sư già chùa Thắm và ông đại tá về hưu (tập truyện, NXB Hội nhà văn, 1993) Một thời gió bụi (tập truyện ngắn, NXB Lao động, 1993)  Tôi nhiệt liệt ủng hộ các cây bút trẻ có tài. Thư ngỏ gửi nhà văn (báo Văn nghệ trẻ, 1995)  Nhìn lại những trang viết của mình. Tham luận tại Hội thảo Việt Nam nửa thế kỷ văn học (1995) Hà Nội trong mắt tôi (tập truyện ngắn, NXB Hà Nội, 1995) Nguyễn Khải với nghề văn (Báo Văn nghệ trẻ, 1996) Bắt đầu từ một câu nói (9-1996) Cuộc tìm kiếm mãi mãi (3-1996)  Tâm sự văn chương của nhà văn Nguyễn Khải (Báo Văn nghệ trẻ, 1997) Truyện ngắn và tạp văn (NXB Trẻ, 1997) Chị Xuân, chị Đào (Bút ký, Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Người Ngu (Báo Văn nghệ trẻ, Xuân Mậu Dần, 1998) Những tháng năm yên tĩnh (Bút ký, Báo Văn nghệ, Tết Mậu Dần, 1998)  Ước gì tôi được trẻ lại, Chuyện cà kề, Một lá phiếu và một lá phiếu (Lão Bộc) (Phụ san Văn nghệ Quân đội, 1998)  Hạnh phúc đến muộn (Kịch nói, Tạp chí Tác phẩm mới, 1998) Một bài tiểu luận làm tôi thay đổi cả quan niệm về tiểu thuyết (trả lời phỏng vấn, Báo Tuổi trẻ chủ nhật, 1998)  Chút phấn của đời. (kịch nói 2 màn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, 1999) Hãy biết cách cống hiến bạn đọc cái phần mạnh nhất của mình. Bài phát biểu tại lễ trao giải thưởng văn học 1998 của Hội nhà văn  Một cuộc bàn giao chậm lại đúng nửa thế kỷ (Báo Văn nghệ Tết Kỷ Mão, 1999)  Đến một nơi rất xa để được hiểu lại mình. (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Đọc "Tiểu thuyết thứ bảy" (Báo Văn nghệ, 1999)  Chế Lan Viên - một nghệ sĩ, một chiến sĩ (Báo Văn hóa thể thao, 1999) Tìm đất sống (bút ký, Báo Văn nghệ, 1999) Truyện nghề (NXB Hội Nhà văn, 1999)  Tết của một chiến sĩ tình báo (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000) "Tiểu thuyết là tinh hoa của hiện thực" (Báo Văn nghệ Tết Canh thìn, 2000)  Mạch nước trong vẫn lặng lẽ chảy (Báo Sài Gòn tiếp thị, 2000)  Đôi điều biết thêm về Nguyễn Văn Vĩnh (Phụ san Văn nghệ quân đội, 2000) Danh dự (truyện, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, 2000)  Người Việt nam những chục năm đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000) Tây Nguyên nửa đầu thế kỷ XX (Báo Văn nghệ, 2000)  Tôi là người may mắn (trả lời phỏng vấn, Báo Lao động, 2000)  Giận ông giời (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Má hồng (truyện ngắn, Báo Văn nghệ, 2001) Sống ở đời (tập truyện, NXB Trẻ, 2002) Thượng đế thì cười (tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, 2003), mang giọng văn hồi ký về cuộc đời viết lách của ông. Cuối đời, ông dành thời gian đúc kết những nghĩ suy, đau đáu trong tùy bút: Nghĩ muộn (Tùy bút, 2000) Đi tìm cái tôi đã mất (Tùy bút, 2006) Mời các bạn đón đọc Một Giọt Nắng Nhạt của tác giả Nguyễn Khải.
Anh Meaulnes
Một trăm năm nay, người ta vẫn không ngừng hỏi và tự hỏi, Alain-Fournier đã làm như thế nào mà Anh Meaulnes cứ giữ mãi được sự huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả. Rất có thể, sự tồn tại không vương xước xát của thời gian và ánh mắt con người ấy bắt nguồn từ một lòng quả cảm vô cùng hiếm hoi dám phiêu lưu tới những miền mong manh nhất của tâm tưởng và ký ức, để cho thực tại không ngừng chạm vào lãnh thổ của cái bí ẩn thuần khiết. Nhưng cũng cần thêm vào đó cảm hứng từ các thần tượng văn chương của Alain-Fournier, Maurice Maeterlinck và nhất là Charles Péguy. Dẫu là như thế nào, ra đời năm 1913, cùng tập thứ nhất À la recherche du temps perdu của Marcel Proust,Anh Meaulnesđánh dấu sự kết thúc của một thời đại lớn của nước Pháp và châu Âu; ngay sau đó, cuộc chiến tranh dữ dội sẽ làm tan biến biết bao con người ưu tú hạng nhất, trong đó trước hết phải kể tới chính Alain-Fournier. *** "Anh Meaulnes": tác phẩm văn chương huyền diệu chạm vào lãnh thổ của sự bí ẩn thuần khiết Một trăm năm, Anh Meaulnes vẫn là một tác phẩm văn chương huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả Alain-Fournier là một trong những con người ưu tú của văn đàn nước Pháp. Ra đời vào khoảng những thập niên đầu của thế kỷ XX, tác phẩm đầu tay của Alain-Fournier đã trở thành kinh điển. Truyện không chỉ có ảnh hưởng mạnh tới những thế hệ nhà văn tây phương hiện đại mà còn làm rung cảm những tâm hồn trẻ tuổi sắp sửa vượt qua mốc quan trọng của tuổi hai mươi. Năm 1967 và 2006, Anh Meaulnes đã được chuyển thể thành phim. Kể về câu chuyện của những chàng trai trẻ tuổi trên hành trình khám phá cuộc đời, cuốn tiểu thuyết khai thác đề tài về sự chênh lệch và đối lập giữa sự vô hạn của ước mơ cùng sự hữu hạn của đời người. Xuyên suốt cả thiên truyện, Alain-Fournier đã khắc họa nỗi khắc khoải của con người trong cuộc đụng độ chênh lệch với định mệnh. Có thể nói trong thế giới văn chương, hiếm có tác phẩm nào giống như Anh Meaulnes. Dù không phải tự truyện nhưng trong đó người ta thấy rõ một sự đồng nhất gần như trọn vẹn giữa tác giả và những nhân vật chính, với những chi tiết hầu như hoàn toàn phản ánh cuộc đời ngắn ngủi của tác giả. Một trăm năm nay, người ta vẫn không ngừng hỏi và tự hỏi, Alain-Fournier đã làm như thế nào mà Anh Meaulnes cứ giữ mãi được sự huyền diệu vô song chưa từng bao giờ bị mai một, qua liên tiếp biết bao thế hệ độc giả. Rất có thể, sự tồn tại không vươngphôi pha của thời gian và ánh mắt con người ấy bắt nguồn từ một lòng quả cảm vô cùng hiếm hoi dám phiêu lưu tới những miền mong manh nhất của tâm tưởng và ký ức, để cho thực tại không ngừng chạm vào lãnh thổ của cái bí ẩn thuần khiết. Nhưng cũng cần thêm vào đó cảm hứng từ các thần tượng văn chương của Alain-Fournier, Maurice Maeterlinck và nhất là Charles Péguy. Dẫu là như thế nào, ra đời năm 1913, cùng tập thứ nhất Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust, Anh Meaulnes đánh dấu sự kết thúc của một thời đại lớn của nước Pháp và châu Âu; ngay sau đó, cuộc chiến tranh dữ dội sẽ làm tan biến biết bao con người ưu tú hạng nhất, trong đó trước hết phải kể tới chính Alain-Fournier. *** Alain-Fournier (1886 – 1914) lớn lên tại Sologne, nơi bố mẹ ông là giáo viên tiểu học.  Ông gặp Yvonne de Quièvrecourt, mối tình đầu, vào năm 1905. Chuyện tình này không đi đến hồi kết bởi ông chỉ gặp lại Yvonne vào tám năm sau, khi cô đã kết hôn và là mẹ của hai đứa trẻ. Lấy nguyên mẫu từ mối tình ấy, Anh Meaulnes được hoàn thành vào đầu năm 1913, trước tiên được in thành nhiều kỳ trên tạp chí La Nouvelle Revue Française, sau khi in thành sách tại nhà Émile-Paul Frères. Ngay khi chiến tranh nổ ra vào năm 1914, Alain-Fournier được điều động đến mặt trận Lorraine và cuối tháng Chín năm ấy, ông đã hy sinh trong một trận đánh tại rừng Saint-Rémy, khi ông chưa tròn hai mươi tám tuổi. *** Augustin Meaulnes, người hùng lớn hơn cả cuộc đời trong tác phẩm kinh điển Pháp quyến rũ năm 1913 của Alain-Fournier, là sự pha trộn tò mò giữa vị thành niên bị dày vò và hiệp sĩ sai lầm. Soubriquet "vĩ đại" luôn gắn liền với anh ta có lẽ là để chỉ kích thước của anh ta (lớn, cao) nhưng cũng là sức mạnh trong những giấc mơ của anh ta (hoành tráng, hoặc thậm chí vĩ đại). Như lời kể của con trai giáo viên mười lăm tuổi François Seurel, tác động của cậu bé mười bảy tuổi này đến nhập học tại trường của cha mình có phép thuật biến hình trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của Nick Carraway với Jay Gatsby, chỉ chuyển đến thế giới của những cô cậu học sinh ở tỉnh. Việc so sánh với The Great Gatsby chỉ là một trong nhiều hiểu biết tuyệt vời của Adam Gopnik, người đã viết lời giới thiệu cho bản dịch Penguin Classics xuất sắc này của Robin Buss (tôi cũng đã kiểm tra cuốn sách trong bản gốc). Văn bản bây giờ có vẻ hơi cũ, với các nhân vật có nhiều ý tưởng hơn là người thực, nhưng Gopnik đặt những ý tưởng đó trong bối cảnh văn học, lịch sử và Freud rõ ràng; ấn bản này gần như đáng mua cho riêng bài luận của anh ấy. Monsieur Seurel và các học sinh của ông dường như dành nhiều thời gian ở nông thôn như khi họ ở trong lớp học, và cuộc sống của vùng nông thôn đó chính xác là nằm ở vùng Cher của Pháp, không xa Bourges. Nhưng ở giữa nó, có một gia sản đã mất gần như là một giấc mơ, không bao giờ tìm lại được. Meaulnes đến đó một cách tình cờ vào một đêm, sau khi ngủ quên trên xe ngựa, và thấy mình đang chuẩn bị cho một đám cưới. Đó là một đoạn văn của phép thuật tuyệt đối: một nhà hát Watteauesque fête đông đúc bởi những đứa trẻ ăn mặc lộng lẫy và những nhân vật từ một nhà hát kịch. Anh gặp con gái của trang viên và yêu ngay lập tức. Nhưng đám cưới được gọi tắt và khách mời giải tán. Meaulnes dành nhiều năm tiếp theo để cố gắng tìm đường trở lại, cuối cùng theo chân Yvonne yêu xa của mình đến Paris. Giấc mơ thức dậy không khác gì thế giới hiệp sĩ bí ẩn trong tác phẩm Pelléas et Mélisande năm 1892 của Maurice Maeterinck, được nhìn thấy ở đây qua con mắt của tuổi thơ như một lời than thở cho sự kết thúc của tuổi thơ.   Mời các bạn đón đọc Anh Meaulnes của tác giả Alain-Fournier.