Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ghi Đơ Môpatxăng (Isaac Babel)

Isaac Babel (1894 - 1941) được đánh giá là nhà văn Do Thái đầu tiên bước vào văn đàn Nga với tư cách là một tác giả văn xuôi Nga. “Babel đã trải qua thời thơ ấu và thời thanh niên ở Odessa, chịu đựng cảnh đau khổ trong ghetto (khu vực cư trú dành riêng cho người Do Thái). Babel học giỏi, từ nhỏ cho đến khi 16 tuổi ông đã học tiếng Do Thái, tiếng Pháp, Kinh Thánh, Kinh Talmut. Babel đến với văn chương từ rất sớm. 15 tuổi ông đã viết những truyện ngắn đầu tiên bằng tiếng Pháp. Giống Gogol, 1915 ông đến Peterburg ôm ấp mộng văn chương. 1916 đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời Babel khi nhà văn gặp được Gorky. Gorky đồng ý in truyện ngắn của Babel. Nhà văn lão thành khuyên Babel đi thực tế để có vốn sống và viết. Thế là từ một chàng công tử Do Thái Babel đã trở thành một người lính của Quân đoàn Kỵ binh số Một, tham gia vào các công tác cách mạng (làm việc trong các ủy ban quân sự cách mạng, làm phóng viên, làm ở nhà in…).

Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời năm 1926 - là tập hợp những truyện ngắn Babel viết về cuộc sống, chiến đấu của Quân đoàn Kỵ binh số Một trên mặt trận truy quét quân Ba Lan và Bạch vệ thời kỳ những năm 20 - 30 của thế kỷ XX. Ngay từ khi mới ra đời tác phẩm đã tạo ra hai luồng dư luận trái chiều: một ủng hộ Babel, ca ngợi Tập đoàn quân Kỵ binh; còn một phê phán, lên án kịch liệt tác phẩm này, thậm chí còn buộc tội tác giả của nó. Tương phản trở thành một thủ pháp được sử dụng hữu hiệu trong các tác phẩm của Babel, nhất là Tập đoàn quân Kỵ binh nhằm tạo ra muôn vàn khuôn mặt cách mạng, chiến tranh và những suy ngẫm về sự sống, cái chết…

Trong 25 năm cầm bút Babel để lại không nhiều tác phẩm: hai vở kịch (Hoàng hôn, Maria), ba tập truyện ngắn (Tập đoàn quân Kỵ binh, Truyện ngắn Odessa, Truyện ngắn); nhưng những tác phẩm của ông đều được đánh giá rất cao, đặc biệt là truyện ngắn. Nhưng 13 năm sau thời điểm Tập đoàn quân Kỵ binh ra đời (1939) Babel cùng nhiều nhà văn khác bị bắt một cách bí mật, bị ép buộc phải nhận những tội danh vô lí trong đó có tội “phản bội Tổ quốc”. Ông bị đưa ra xét xử trước tòa án quân sự vào ngày 26/ 1/ 1940 và bị hành quyết ngày 17/ 3/ 1941, khi ông 47 tuổi. Suốt 15 năm sau đó, tên ông bị xoá hẳn trong sách vở văn chương của Liên Xô. Từ năm 1954, các tác phẩm của ông mới được công nhận.

Tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt

- Babel I.E: Tuyển tập (Nguyễn Thụy Ứng dịch từ tiếng Nga, I. Erenburg và Nguyễn Thụy Ứng giới thiệu). Nxb. Văn hóa thông tin, H, 2000.*** Tìm mua: Ghi Đơ Môpatxăng TiKi Lazada Shopee

Mùa đông năm mười sáu tôi nương náu ở Petecburg với tấm căn cước giả và không một xu dính túi. Người cho tôi ở nhờ là một anh giáo dạy văn học Nga tên là Alecxây Kazansev.

Anh sống ở Peski, một khu phố lạnh lẽo, vàng xỉn, hôi hám. Anh kiếm tiền để phụ vào số tiền lương còm bằng cách dịch tiếng Tây Ban Nha; thời ấy Blasko Ibanes đang nổi như cồn.

Kazansev chưa từng đặt chân đến Tây Ban Nha, dù chỉ là đi ngang qua, nhưng tình yêu xứ ấy xâm chiếm toàn bộ con người anh. Anh biết hết mọi lâu đài, công viên, sông ngòi ở Tây Ban Nha. Ngoài tôi ra, chỗ Kazansev còn cả một lô nhưng kẻ bị bật ra khỏi cuộc sống ngay lành. Chúng tôi sống rất đói rách. Thảng hoặc, mấy tờ báo lá cải mới dành vài dòng chữ nhỏ đăng những mẩu tin vặt của chúng tôi.

Sáng sáng tôi la cà ở những khu nhà xác và đồn cảnh sát.

Người hạnh phúc hơn trong bọn vẫn là Kazansev. Anh còn có Tây Ban Nha là Tổ quốc.

Tháng mười một, tôi được giới thiệu một chân thư lại ở nhà máy Ôbukhôv, một chỗ làm không đến nỗi tồi tránh cho tôi khỏi phải vào lính.

Tôi đã từ chối không làm một gã thầy ký.

Ngay từ lúc ấy - mới hai chục tuổi đầu - tôi đã tự nhủ: thà đói khát, tù đày, lang bạt còn hơn ngồi lỳ ở phòng giấy suốt mười giờ đồng hồ mỗi ngày. Chẳng phải có gì táo tợn lắm trong lời nguyền ấy, nhưng tôi đã và sẽ không đời nào vi phạm nó. Tôi vẫn giữ được cái phong tục của ông cha: Chúng ta sinh ra trên đời là để tận hưởng thú vui làm lụng, đánh nhau, yêu đương, chúng ta sinh ra là cho những việc ấy chứ không phải vì cái gì khác.

Nghe tôi lý sự, Kazansev cứ xoắn mãi cái chỏm tóc vàng hoe ngắn ngủn trên đầu. Nỗi sợ hãi trong ánh mắt anh pha lẫn vẻ thích thú.

Đến hôm lễ Giáng sinh thì chúng tôi gặp may. Luật sư Benderski, chủ sở hữu nhà xuất bản “Ansiona” có ý định xuất bản một tác phẩm mới của Môpatxăng. Việc dịch do Raisa, vợ ông, đảm nhiệm. Cái trò chơi quý tộc chẳng đi đến đâu.

Người ta hỏi Kazansev, người dịch tiếng Tây Ban Nha xem anh có biết ai giúp việc được cho Raisa không. Kazansev ra lệnh cho tôi.

Hôm sau, khoác một cái áo vét đi mượn, tôi đến nhà Benderski. Họ sống ở góc đường Nevski và Môika, trong một ngôi nhà xây bằng đá hoa cương Phần Lan, bên ngoài có ốp những hàng cột giả màu hồng, lỗ châu mai và gia huy chạm đá. Những tay chủ nhà băng mất gốc, mới cải đạo và phất lên nhờ nghề chạy hàng đã cho xây lên ở Pêterburg trước ngày có chiến tranh hàng lô thứ lâu đài chướng mắt, ngạo nghễ đến lố bịch ấy.

Cầu thang trải một tấm thảm đỏ. Ở chiếu nghỉ cầu thang có đặt những con gấu nhung đứng chồm hai chân lên.

Trong những cái mõm há hốc của chúng các núm thủy tinh lóe sáng.

Vợ chồng nhà Benderski sống trên tầng ba. Ra mở cửa là một cô hầu gái đội mũ mào, ngực cao. Cô ta đưa tôi vào gian tiếp khách bày biện theo lối Slavơ cổ. Trên tường treo những bức tranh gam xanh lơ của Rerikhơ - những tảng đá và quái vật thời tiền sử. Khắp các góc nhà - đặt trên bệ, bày la liệt các tượng thánh kiểu cổ. Cô hầu gái có bộ ngực cao diễu khắp phòng một cách trịnh trọng. Cô ta người cân đối, mắt cận thị, vẻ kiêu kỳ. Trong cặp mắt xám mở to của cô lộ rõ vẻ phóng đáng trơ trẽn. Cô đi lại chậm chạp. Tôi thoáng nghĩ rằng khi yêu chắc hẳn cô ả vần vũ cuồng nhiệt và sành sỏi lắm. Tấm rèm gấm treo nơi cửa ra vào chợt lay động. Bước vào phòng, mang một bộ ngực đồ sộ là một phụ nữ tóc đen có cặp mắt màu hồng. Chẳng cần nhiều thời gian cũng nhận ra là bà Benderski là thuộc loại phụ nữ Do Thái làm cho người ta say mê, đến đây từ Kiev và Pôntava, từ những miền thảo nguyên, những thành phố sung túc trồng đầy dẻ và keo. Tiền của do các đức ông chồng khéo xoay xở được những người đàn bà này chuyển hóa thành lớp mỡ hồng hào nơi bụng, gáy, trên đôi vai tròn lẳn. Cái khóe cười mỉm ngái ngủ, mướt mịn của họ khiến các chàng sĩ quan đồn trú mê mẩn như bị hớp hồn.

- Môpatxăng là niềm say mê duy nhất của đời tôi, - Raisa nói với tôi.

Cố giữ cho cặp đùi đồ sộ đừng đong đưa quá, chị ta ra khỏi phòng rồi trở lại với bản dịch “Cô Garriet”. Trong bản dịch ấy của chị ta không còn để lại chút dấu vết nào câu chữ của Môpatxăng, cái giọng văn khoáng đạt, mượt mà, nghe như có tiếng thở dài say đắm. Những câu văn của bà Benderski đúng văn phạm đến mức khó chịu, tẻ ngắt và thô kệch - hệt lối viết tiếng Nga ngày trước của dân Do Thái.

Tôi đem tập bản thảo về nhà và trong gian gác áp mái của Kazansev - giữa đám người đang ngủ say - suốt đêm cặm cụi gọt đẽo bản dịch của người. Kể ra thì công việc ấy cũng không đến nỗi buồn tẻ như tôi nghĩ. Câu cú được sửa sang vừa hay lại vừa dở cùng một lúc. Bí quyết là ở sự xoay chuyển khó nhận thấy được. Cây đòn bẩy phải ở trong tay và ấm nóng lên. Và chỉ được xoay tay đòn một lần, chứ chớ đến hai.

Sáng ra, tôi đem đến bản thảo đã sửa xong. Raisa đã thật lòng khi nói chị mê Môpatxăng. Chị ngồi bất động suốt thời gian đọc lại bản dịch, tay đan chéo vào nhau: hai cánh tay mịn màng buông thõng, vầng trán trắng nhợt, viền đăng ten giữa hai bầu vú bị dồn ép xô lệch đi, hết dâng lên lại hạ xuống.

- Anh đã làm cách nào vậy?

Lúc ấy tôi đã nói về văn phong, về đội quân từ ngữ, đội quân mà trong đó sử dụng đủ loại khí giới. Không có thứ sắt thép nào có sức làm tê buốt trái tim người ta bằng một dấu chấm câu đặt đúng chỗ. Chị ta lắng nghe, đầu cúi, đôi môi thoa son hé mở. Một ánh đen sáng lên trên mái tóc chải dầu bóng và để ngôi. Đôi bắp chân mang tất ôm khít, khỏe và thon duỗi trên tấm thảm trải sàn.

Cô hầu gái đưa cặp mắt dâm đãng trơ trẽn nhìn sang phía khác, bưng mâm dọn bữa sáng lên.

Ánh nắng Peterburg lấp lánh rọi xuống tấm thảm trải sàn mấp mô bột màu. Hai mươi chín tập sách của Môpatxăng xếp chật cái giá nhỏ phía trên bàn viết. Tia nắng lung linh nhảy nhót vuốt ve những gáy sách bọc da, nấm mộ tuyệt vời của một trái tim người.

Cà phê sáng đem lên cho chúng tôi đựng trong những cái tách màu xanh lơ, và chúng tôi bắt đầu dịch “Idillia” (“Khúc đồng dao”). Ai mà chẳng nhớ truyện ngắn kể về anh chàng thợ mộc bú bầu sữa đang căng tức của cô nhũ mẫu đẫy đà. Chuyện ấy xảy ra trên một chuyến tàu chạy từ Nisơ đến Macxây, vào một buổi trưa oi ả, ở xứ hoa hồng, quê hương của hoa hồng, nơi mà những cánh đồng trồng hoa tràn xuống tận mép biển…

Tôi ra khỏi nhà Benderski với hai mươi lăm rúp tạm ứng trước. Cái hội của chúng tôi ở Peski tối ấy say ngất ngư chẳng khác gì đàn ngỗng no căng nước. Chúng tôi đã dùng thìa mà xúc món trứng cá tầm và nhắm nó với món giò lòng. Khi đã chếnh choáng, tôi quay ra bỉ nhạo Tônstôi:

- Cụ hãi rồi, cái cụ bá tước của các anh ấy, cụ nhát cáy… Tôn giáo của cụ là sợ hãi… Hãi đói, hãi già, thế nên ngài bá tước bèn may cho mình một cái áo bằng đức tin…

- Rồi sao nữa? Lắc lắc cái đầu chim, Kazansev hỏi tôi.

Chúng tôi lịm luôn bên chân giường. Tôi mơ thấy Katia, chị thợ giặt đã bốn chục tuổi, sống ở dưới nhà. Sáng sáng chúng tôi thường xuống chỗ chị ta xin nước sôi. Ngay đến mặt chị ta tôi cũng còn chưa kịp nhìn cho kỹ, ấy thế mà trong mơ có trời biết tôi và Katia đã làm những trò gì. Chúng tôi đã quần nhau hôn hít đến mệt nhoài. Sáng hôm sau, không cầm lòng được, tôi đã ghé xuống chỗ chị ta xin nước sôi.

Đón tôi là một người đàn bà dáng ủ ê, vai vắt khăn choàng, mớ tóc xám màu tro rối tung và đôi tay sưng mọng vì dầm nước.

Kể từ hôm ấy, sáng nào tôi cũng ăn ở đằng nhà Benderski. Trong căn gác áp mái của bọn tôi có thêm được một cái bếp lò mới, cá trích hộp, sô-cô-la. Hai lần Raisa còn đưa tôi ra đảo chơi. Không đừng được, tôi đã kể cho chị ta nghe về thời thơ ấu của mình. Câu chuyện kể nghe thảm đạm đến chính tôi cũng phải ngạc nhiên. Từ dưới viền mũ bằng lông điêu thử, đôi mắt sợ hãi long lanh nhìn tôi. Hàng mi hung khẽ chớp đượm vẻ thương xót.

Tôi đã làm quen với chồng Raisa - một tay Do Thái mặt bủng, đầu hói trụi và người dẹt lét, nhìn nghiêng cứ như chực dướn lên bay. Nghe đâu ông ta là chỗ thân cận với Rasputin. Những khoản lợi tức ông ta thu được nhờ chạy hàng quân nhu khiến ông ta có vẻ như một kẻ bị ma ám. Mắt ông ta lơ láo, với ông, tấm màn che thực tại đã rách nát rồi. Raisa thường ngại ngùng khi phải giới thiệu với chồng những người quen mới của mình. Vì còn non nớt nên hàng tuần sau tôi mới nhận ra điều đó.

Sau Tết, nhà Raisa có hai người em gái từ Kiev lên chơi. Đâu như tôi có mang tới tập bản thảo truyện “Lời thú nhận” và vì không gặp Raisa nên đến tối mới trở lại. Mọi người đang dùng bữa trong phòng ăn. Từ phía ấy vọng ra tiếng cười lanh lảnh như ngựa hý của đàn bà, và tiếng ồm ồm của đàn ông đang cơn hứng. Ở những nhà giàu không có nền nếp, người ta ăn uống rất ồn ào. Thứ tiếng ồn rất Do Thái, rộ lên từng đợt và về cuối trở nên du dương. Rai sa ra đón tôi trong bộ váy áo dạ hội hở lưng. Chân đi giày láng bóng, bước vụng về.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ - Rồi chị chìa cho tôi đôi tay đeo đầy những chuỗi bạch kim và những ngôi sao hồng ngọc.

Tấm thân chị đong đưa, dướn cao như con rắn ngóc lên theo tiếng nhạc. Chị ta lắc lắc cái đầu uốn quăn làm cho mớ vòng khuyên kêu lanh canh, rồi bất thần ngã vật ra chiếc ghế bành trạm trổ kiểu Nga cổ. Trên khoảng lưng trần xoa phấn của chị hằn rõ những vết tím bầm.

Phía sau tường lại vang lên tiếng phụ nữ cười. Hai cô em có ria mép từ phòng ăn đi ra, cũng vú to, người phổng phao y hệt Raisa. Ngực các cô ưỡn ra, tóc đen xõa tung. Cả hai đều lấy chồng người trong họ Benderski của mình. Căn phòng tràn ngập tiếng phụ nữ cười đùa, lối đùa cợt của những người đàn bà đã trưởng thành. Hai ông chồng ủ ấm cho các cô bằng áo bành-tô da hải sư, khăn choàng Ôđenbuốc, đi cho họ giày da cao cổ; sau lớp lông tuyết xù lên của vành khăn chỉ còn thấy đôi má đỏ lựng, chỏm mũi trắng như sứ và ánh mắt cận thị của dân Seemit. Đùa chán, họ đi đến nhà hát hôm ấy đang diễn vở “Judith” với Saliapin sắm vai chính.

- Tôi muốn làm việc, - Raisa thì thầm, dang hai cánh tay trần, chúng ta đã bỏ phí mất cả tuần nay rồi…

Nàng sang phòng ăn lấy một cái chai và hai cốc lớn. Bộ ngực không mang nịt núng nính qua lần áo, hai núm vú hằn rõ qua nền lớp lụa mềm.

- Thứ quí, - Raisa vừa nói vừa rót rượu ra, - loại nho xạ năm 83 đấy nhé, chồng tôi mà biết thì ông ấy giết tôi…

Tôi chẳng có việc gì với thứ nhục đậu khấu năm 83, và cũng không hề có ý định nốc cạn ba vại liền. Chúng lập tức lôi tuột tôi đến những hẻm phố chập chờn những đốm lửa màu da cam và vẳng nghe có tiếng nhạc.

- Tôi say rồi, chú bồ câu ạ… Hôm nay ta làm gì đây?

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Ghi Đơ Môpatxăng PDF của tác giả Isaac Babel nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Kinh Diễm Nhất Thương (Ôn Thụy An)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kinh Diễm Nhất Thương PDF của tác giả Ôn Thụy An nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kinh Cầu Nguyện Cho Một Đứa Trẻ Không Ra Đời (Imre Kertész)
Nhà văn Hung gốc Do thái Kertész Imre sinh ngày 9 tháng 11 năm 1929 tại Budapest- Hungary. Năm 1943, mới 14 tuổi, ông đã trải qua trại Auschwitz, rồi Buchenwald, những trại tập trung phát xít Đức dựng lên để lùa nhốt dân Do thái toàn cõi châu Âu, với mục đích thủ tiêu họ dần dần. Năm 1945, sau khi các trại tập trung được Hồng quân liên Xô giải phóng, Kertész Imre quay về Hungary. Ông làm nhiều nghề khác nhau: nhà báo, biên tập viên cho các báo và văn phòng Bộ công nghiệp, viết lời cho một số nhạc kịch, có lúc làm công nhân trong một thời gian ngắn. Từ 1953 trở đi, Kertész là nhà báo tự do, kiếm sống chủ yếu bằng công việc dịch thuật. Tiểu thuyết đầu tay của Kertész Imre, tác phẩm Không số phận viết trong 13 năm, sau nhiều chờ đợi và chối từ, năm 1975 mới được xuất bản tại Hungary. Tìm mua: Kinh Cầu Nguyện Cho Một Đứa Trẻ Không Ra Đời TiKi Lazada Shopee Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một thiếu niên, sau khi đã trải qua những kinh nghiệm sống hãi hùng, trong các trại tập trung của phát xít Đức trở về, cậu trở thành người lớn, một người lớn, vĩnh viễn không bao giờ có thể sống đời sống bình thường như những người khác, chính vì dấu ấn nạn nhân, từ chủ nghĩa bài Do thái, đã để lại sâu sắc trong tâm hồn cậu. Ngày 10 tháng 10 năm 2002, Kertész Imre nhận giải Nobel văn học với cuốn tiểu thuyết Không số phận. Ông trở thành nhà văn Hungary đầu tiên đoạt Nobel văn chương. Tác phẩm Không số phận đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới, và được chuyển thể thành phim năm 2005. Trong các tác phẩm khác viết sau này, Kertész Imre thường phân tích một cách độc đáo và sâu sắc, số phận của những con người, bị quy định như một bi kịch định mệnh trong các tình huống xã hội đặc thù, như trong xã hội Hungary nói riêng và trong lịch sử Đông Âu nói chung. Đó là các tác phẩm: Sự thất bại (1988), Lá cờ Anh (1991), Nhật ký khổ sai (1992) Kẻ khác (1997), Tính sổ (2003)… Tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời, viết năm 1990, thường được coi là câu trả lời tiếp nối của Không số phận. Giới phê bình và độc giả trong nước, đánh giá tác phẩm này là một trong những kiệt tác văn học Hungary- kể cả về nội dung lẫn hình thức thể hiện- trong thập kỷ đầu tiên, khi Hungary trở lại thành một xã hội dân chủ. Ngay với tên cuốn sách, tác giả đã lưu ý bạn đọc đến một loại kinh cầu nguyện, thường sử dụng trong các buổi tang lễ, phúng những người đã mất: đó là kinh Kaddis trong tôn giáo Do thái. Cuốn tiểu thuyết được viết như một lời cầu nguyện, các ý tưởng nối tiếp nhau, dàn trải theo một nhịp điệu nhịp nhàng, Kertész Imre đã sử dụng lối viết độc đáo của văn học truyền thống Do thái khi xây dựng tác phẩm này. Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết là một người đàn ông Do thái, lấy một người vợ Do thái, nhưng ngay từ điểm xuất phát vào đời, người đàn ông này đã quyết định sẽ không có con. Trong một đêm giông tố của cuộc đời, nhân vật chính kể lại tại sao mình lại nhất quyết nói: "Không!” với người vợ (cũ) khi nàng muốn có con, muốn xây dựng tổ ấm với mình. Ông từ chối cơ hội sinh ra những đứa trẻ, từ chối cơ hội, để cuộc sống của mình tiếp nối với những thế hệ con, cháu. Ông chuẩn bị một cái chết từ từ cho mình, và quay lưng lại với cuộc sống. Cuộc đời của nhân vật, là một chuỗi phủ nhận những gì đang tồn tại với mình, và quanh mình. Nguyên nhân của sự phi lý này, chính là toàn bộ quá khứ, đã gây ra những vết thương, giết chết tâm hồn con người, mà Kertész Imre đã phân tích cực kỳ sâu sắc, trong những triết lý thiên tài, về những vết thương còn "mạnh hơn cả tri thức…” Đấy là hậu quả của một quá khứ tổng hợp, của một con người được nuôi dạy trong nền giáo dục thiên chúa giáo cực kỳ nghiêm khắc, của tuổi thơ bị mất, vì sự hà khắc của người cha, của những kinh nghiệm sống sót từng trải, thu thập từ trại tập trung của phát xít Đức. Đấy là toàn bộ sự hiện hữu bi kịch của một người Do thái, trong lịch sử bi thương của dân tộc Do thái. Tiểu thuyết kết thúc bằng kết quả lạc quan bất ngờ: người vợ ly hôn, nàng kết hôn với người khác, và sinh ra những đứa con. Cuộc sống, dù cay đắng bao nhiêu, vẫn tiếp tục đơm hoa kết quả. Người đàn ông- nhân vật chính của tác phẩm, là một nhà văn và một dịch giả - tuy lựa chọn con đường sống độc thân, nhưng với các tác phẩm và dịch phẩm của mình, vô hình chung vẫn kéo dài cuộc sống của chính mình bằng nghệ thuật và văn chương, bằng những giá trị đích thực từ một nền văn hóa tạo ra thế giới con người. Đây là giá trị vĩnh cửu của văn chương và nghệ thuật trong đời sống con người, được nhắc đến như ý nghĩa của tác phẩm. Giá trị nhân bản của tác phẩm, cùng với những triết lý, tuy rất”tự thân”, rất đặc thù của Kertész Imre, nhưng có nhiều tương đồng với những yếu tố triết học đương đại của thế kỷ XX, khiến tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời đã trở thành một trong những kiệt tác văn chương xuất sắc, trong văn chương hiện đại châu Âu, và thế giới. Là một dịch giả tiếng Đức nổi tiếng, tác phẩm của Kertész Imre chắc chắn chịu nhiều ảnh hưởng từ các nhà triết học Đức, Áo mà ông dịch như: Elias Canetti, Sigmund Frend, Hugo Von Hoffmannstahl, Friedrich Nietzsche, Jozseph Roth, Arthur Schnitzler, Ludwig Wittgenstein Để lần đầu tiên tác phẩm của Kertész Imre được xuất bản tại Việt nam, người dịch đã bỏ rất nhiều công sức, cố gắng mang lại cho bạn đọc Viêt nam một ấn phẩm dịch có chất lượng, với mong muốn, sau tiểu thuyết Kinh cầu cho một đứa trẻ không ra đời, người dịch sẽ có dịp giới thiệu tiếp, những tác phẩm ưu tú khác, của nhà văn đoạt giải Nobel Hungary Kertész Imre, giúp bạn đọc tìm hiểu thêm một nền văn học châu Âu cực kỳ đặc sắc: văn học Hungary. Budapest 18-05-2008 Người dịch: Nguyễn Hồng NhungĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kinh Cầu Nguyện Cho Một Đứa Trẻ Không Ra Đời PDF của tác giả Imre Kertész nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kim Sơn Hồ Điệp (Duy Đao Bách Tích)
Đây là bộ truyện duy nhất kể từ tháng 10 năm ngoái mà mình đọc hết, có thể nói hấp dẫn từ dòng đầu đến dòng cuối. Bối cảnh Dân Quốc nhưng câu chuyện lại xảy ra tại Phố Người Hoa tại Sanfrancisco xa xôi, giữa một cô gái xuyên không vào thiếu nữ đã đính hôn bị lừa bán làm gái ở nước Mỹ và chàng trai ngoại quốc trẻ tuổi xuất sắc của một trong những gia tộc quyền lực nhất bờ Đông. Nghe thì có vẻ cẩu huyết, u ám thế nhưng trái lại câu chuyện lại tươi mới ấm áp, hài hước và tràn đầy tình người, hoàn toàn không có cái ủ dột day dứt thường thấy trong truyện Dân Quốc hay mạch truyện cường điệu của thể loại yêu trai Tây mà ngược lại nó tự nhiên, thậm chí giản dị mà vẫn lôi cuốn và chỉn chu. Quý Hoài Chân là một thanh niên gốc Hoa có cuộc sống hạnh phúc đầy đủ ở nước Đức khi bố mẹ đều là giáo sư đại học. Thế rồi vận rủi ập đến khi cô bị tên biến thái dồn vào ngõ hẻm, bị đập bất tỉnh mà không biết liệu sau đó mình có bị cưỡng hiếp không bởi sau đó, thì cô đã xuyên không về hơn 80 năm trước mất rồi. Mở mắt ra thấy mình đang trên tàu viễn dương cập nước Mỹ, cơ thể suy kiệt sau khi tự tử bất thành, bi kịch hơn là phát hiện cô gái mà mình xuyên không tên Mộng Khanh đã bị người ta lừa bán sang Mỹ để làm vợ thiếu gia họ Hồng khét tiếng ăn chơi hư hỏng ở phố người Hoa. Tiếng Anh trình độ trung cấp, nghe được nhưng nói như học vẹt lại nặng khẩu âm TQ, tiếng Quảng biết lõm bõm, cô đã phải làm thế nào để thoát khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng? Gặp gỡ anh trong hoàn cảnh tréo ngoe, tưởng như oan gia chỉ thiếu nước ghét nhau hắt nước đổ đi ấy thế mà ai biết họ lại trở thành sinh mệnh quan trọng nhất trong cuộc đời người kia, nắm tay nhau vượt qua chông gai cách biệt. Câu chuyện xảy ra trong bối cảnh phố người Hoa ở nước Mỹ xa xôi nơi có hơn 50.000 người Hoa sinh sống tạo thành một xã hội độc đáo riêng biệt thu nhỏ. Nơi đây có những người con viễn xứ, những người Hoa thế hệ đầu tiên vượt biên đi tìm một cơ hội đổi đời, những người Hoa trẻ tuổi sinh ra ở ngoại quốc, vừa thân thuộc lại vừa xa lạ với văn hóa Trung Hoa. Nơi đây có luật lệ riêng, có sự tự lập của một cộng đồng đoàn kết lại có sự cấu kết giao thoa với văn minh phương Tây bên kia Đại Lục. Tác giả vẽ nên một phố người Hoa tràn đầy sức sống, như những thước phim đầy màu sắc chạy trên những khung hình. Mỗi một công dân của phố người Hoa, từ Hồng gia ngạo nghễ thủ lĩnh của cộng đồng người Hoa tại Sanfrancisco cho đến già Huệ là thầy lang là cội rễ tinh thần mà người Hoa gửi gắm tính mạng, sức khỏe, cho đến những những người hàng xóm lám điều nhưng cũng quan tâm thân thiết. Từ bà chủ chứa Khương Tố khôn khéo lõi đời cho đến Diệp Thùy Hồng của rạp hát kiêu ngạo bí ẩn đầy tham vọng, từ Dera người Mỹ latin, bà chủ của đám gái Mỹ latin cho đến đám lâu la của Hồng thiếu gia họ Lục ở rạp hát… Bức tranh phố người Hoa được vẽ nên đầy hoài niệm viễn xứ, vừa xấu xa đầy khuất tất lại vẫn cứ hào sảng khí khái đượm tình người. Họ Hồng bảo kê cho mại dâm, tổ chức đường dây bán gái làm điếm, hối lộ tham nhũng với quan chức Mỹ nhưng cũng đồng thời là mái nhà che nắng che mưa cho những người con phố người Hoa, là con rồng uốn mình bao bọc cho cuộc sống phố người Hoa được yên bình. Với Ôn tiên sinh, đó là tội ác, với Hoài Chân, đó là gia đình. Nữ chính Hoài Chân là một thiếu nữ trẻ trung tươi sáng, dù hoàn cảnh khó khan, tình thế nguy nan cô vẫn luôn lạc quan vươn lên tìm cho mình một đường sống. Tác giả xây dựng nên một Hoài Chân thông minh lí lắc, khi cô chết cũng chỉ 20 tuổi, xuyên không vào cô gái Mộng Khanh 16 tuổi. Có thể nói họ như đồng trang lứa chứ không có cách biệt thế hệ như truyện xuyên không thường thấy. Hoài Chân hòa nhập với phố người Hoa, Hoài Chân nhận Lan Văn, A Quý như cha mẹ. Hoài Chân đi học, Hoài Chân phụ cha mẹ làm hàng, Hoài Chân làm thêm, Hoài Chân đi chơi với bạn bè. Tất cả những điều ấy đều vô cùng tươi sáng và thuần khiết, khiến những chương truyện nhẹ nhõm mà thú vị. Vẻ đẹp của Hoài Chân, chủ yếu đến từ phong thái vừa thông minh phóng khoáng lại vừa đáng yêu trẻ trung, còn có chút gì đó vượt xa thời đại không dễ nhận ra. Có lẽ sự to gan lớn mật, vừa thông minh tự tin lại không mang theo mặc cảm giai cấp của cô đã thành công chiếm lấy trái tim Ceasar.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kim Sơn Hồ Điệp PDF của tác giả Duy Đao Bách Tích nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Kim Sơn Hồ Điệp (Duy Đao Bách Tích)
Đây là bộ truyện duy nhất kể từ tháng 10 năm ngoái mà mình đọc hết, có thể nói hấp dẫn từ dòng đầu đến dòng cuối. Bối cảnh Dân Quốc nhưng câu chuyện lại xảy ra tại Phố Người Hoa tại Sanfrancisco xa xôi, giữa một cô gái xuyên không vào thiếu nữ đã đính hôn bị lừa bán làm gái ở nước Mỹ và chàng trai ngoại quốc trẻ tuổi xuất sắc của một trong những gia tộc quyền lực nhất bờ Đông. Nghe thì có vẻ cẩu huyết, u ám thế nhưng trái lại câu chuyện lại tươi mới ấm áp, hài hước và tràn đầy tình người, hoàn toàn không có cái ủ dột day dứt thường thấy trong truyện Dân Quốc hay mạch truyện cường điệu của thể loại yêu trai Tây mà ngược lại nó tự nhiên, thậm chí giản dị mà vẫn lôi cuốn và chỉn chu. Quý Hoài Chân là một thanh niên gốc Hoa có cuộc sống hạnh phúc đầy đủ ở nước Đức khi bố mẹ đều là giáo sư đại học. Thế rồi vận rủi ập đến khi cô bị tên biến thái dồn vào ngõ hẻm, bị đập bất tỉnh mà không biết liệu sau đó mình có bị cưỡng hiếp không bởi sau đó, thì cô đã xuyên không về hơn 80 năm trước mất rồi. Mở mắt ra thấy mình đang trên tàu viễn dương cập nước Mỹ, cơ thể suy kiệt sau khi tự tử bất thành, bi kịch hơn là phát hiện cô gái mà mình xuyên không tên Mộng Khanh đã bị người ta lừa bán sang Mỹ để làm vợ thiếu gia họ Hồng khét tiếng ăn chơi hư hỏng ở phố người Hoa. Tiếng Anh trình độ trung cấp, nghe được nhưng nói như học vẹt lại nặng khẩu âm TQ, tiếng Quảng biết lõm bõm, cô đã phải làm thế nào để thoát khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng? Gặp gỡ anh trong hoàn cảnh tréo ngoe, tưởng như oan gia chỉ thiếu nước ghét nhau hắt nước đổ đi ấy thế mà ai biết họ lại trở thành sinh mệnh quan trọng nhất trong cuộc đời người kia, nắm tay nhau vượt qua chông gai cách biệt. Câu chuyện xảy ra trong bối cảnh phố người Hoa ở nước Mỹ xa xôi nơi có hơn 50.000 người Hoa sinh sống tạo thành một xã hội độc đáo riêng biệt thu nhỏ. Nơi đây có những người con viễn xứ, những người Hoa thế hệ đầu tiên vượt biên đi tìm một cơ hội đổi đời, những người Hoa trẻ tuổi sinh ra ở ngoại quốc, vừa thân thuộc lại vừa xa lạ với văn hóa Trung Hoa. Nơi đây có luật lệ riêng, có sự tự lập của một cộng đồng đoàn kết lại có sự cấu kết giao thoa với văn minh phương Tây bên kia Đại Lục. Tác giả vẽ nên một phố người Hoa tràn đầy sức sống, như những thước phim đầy màu sắc chạy trên những khung hình. Mỗi một công dân của phố người Hoa, từ Hồng gia ngạo nghễ thủ lĩnh của cộng đồng người Hoa tại Sanfrancisco cho đến già Huệ là thầy lang là cội rễ tinh thần mà người Hoa gửi gắm tính mạng, sức khỏe, cho đến những những người hàng xóm lám điều nhưng cũng quan tâm thân thiết. Từ bà chủ chứa Khương Tố khôn khéo lõi đời cho đến Diệp Thùy Hồng của rạp hát kiêu ngạo bí ẩn đầy tham vọng, từ Dera người Mỹ latin, bà chủ của đám gái Mỹ latin cho đến đám lâu la của Hồng thiếu gia họ Lục ở rạp hát… Bức tranh phố người Hoa được vẽ nên đầy hoài niệm viễn xứ, vừa xấu xa đầy khuất tất lại vẫn cứ hào sảng khí khái đượm tình người. Họ Hồng bảo kê cho mại dâm, tổ chức đường dây bán gái làm điếm, hối lộ tham nhũng với quan chức Mỹ nhưng cũng đồng thời là mái nhà che nắng che mưa cho những người con phố người Hoa, là con rồng uốn mình bao bọc cho cuộc sống phố người Hoa được yên bình. Với Ôn tiên sinh, đó là tội ác, với Hoài Chân, đó là gia đình. Nữ chính Hoài Chân là một thiếu nữ trẻ trung tươi sáng, dù hoàn cảnh khó khan, tình thế nguy nan cô vẫn luôn lạc quan vươn lên tìm cho mình một đường sống. Tác giả xây dựng nên một Hoài Chân thông minh lí lắc, khi cô chết cũng chỉ 20 tuổi, xuyên không vào cô gái Mộng Khanh 16 tuổi. Có thể nói họ như đồng trang lứa chứ không có cách biệt thế hệ như truyện xuyên không thường thấy. Hoài Chân hòa nhập với phố người Hoa, Hoài Chân nhận Lan Văn, A Quý như cha mẹ. Hoài Chân đi học, Hoài Chân phụ cha mẹ làm hàng, Hoài Chân làm thêm, Hoài Chân đi chơi với bạn bè. Tất cả những điều ấy đều vô cùng tươi sáng và thuần khiết, khiến những chương truyện nhẹ nhõm mà thú vị. Vẻ đẹp của Hoài Chân, chủ yếu đến từ phong thái vừa thông minh phóng khoáng lại vừa đáng yêu trẻ trung, còn có chút gì đó vượt xa thời đại không dễ nhận ra. Có lẽ sự to gan lớn mật, vừa thông minh tự tin lại không mang theo mặc cảm giai cấp của cô đã thành công chiếm lấy trái tim Ceasar.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Kim Sơn Hồ Điệp PDF của tác giả Duy Đao Bách Tích nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.