Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Và Tuổi Trẻ

Tình yêu và tuổi trẻ (nguyên tác tiếng Pháp: Fermina Márquez) là câu chuyện xảy ra dưới một mái trường trung học trong một bầu không khí đầy thơ và mộng. Một nữ sinh Nam Mỹ, quý phái và thánh thiện, bị quyến rũ và phải lòng trước hai cậu thiếu niên. Một cậu đã sành sỏi, già dặn trong sự chinh phục và một cậu có tâm hồn đầy phức tạp và đầy thao thức, bị xâu xé giữa những khát vọng sâu thẳm và âm u nhất. Câu chuyện của tuổi học trò, của thời niên thiếu. Có lẽ không phải tình cờ mà Valery Larbaud đã chọn những tâm hồn niên thiếu làm nhân vật chính cho tác phẩm. Bởi ai còn lạ gì, đó là lứa tuổi nhiều phép lạ nhất của đời người. Với Tình yêu và tuổi trẻ, Larbaud không mô tả, không phân tích, không kể; trái lại, ông gợi lên một thế giới, ông làm sống lại cái thế giới đó không phải dưới mắt mà ngay trong tâm hồn người đọc, cũng như chính ông, ông không tìm kiếm những chất liệu làm nên cái thế giới đó từ bên ngoài mà ở chính nơi ông. Tình yêu và tuổi trẻ chính là câu chuyện của mỗi người trong chúng ta, là cuộc “phiêu lưu” kỳ diệu của tâm hồn niên thiếu mãi mãi còn là tâm hồn bạn của mỗi người trong chúng ta. Cuốn truyện được viết bằng ngôi thứ nhất. Và khi xếp quyển sách lại, dường như người đọc không còn nhớ rõ hay phân biệt lúc nào ngôi thứ nhất đó là “tôi” và lúc nào nó là “chúng tôi”; và có lẽ sau khi kết thúc câu chuyện kể, chính tác giả cũng không còn phân biệt được điều đó. Hơn thế nữa, cái “tôi” của tác giả cũng chính là cái “tôi” của người đọc. Và cái “chúng tôi” đã trở thành cái “chúng ta”. Bởi từ lúc nào (từ lúc nào? Có phải từ dòng chữ thứ nhất khi “ánh phản chiếu từ khung cửa kính của phòng khách chợt lướt qua trên sân cát” báo hiệu sự xuất hiện rực rỡ của người con gái có tên là Fermina?) người ta đã không còn đóng vai khán giả nữa, người đọc đã thực sự bước vào sân khấu muôn đời của lứa tuổi thần tiên. Bạn đã có mặt trong ngôi trường trung học đó, đang ngồi trong lớp học, hoặc đứng cười khúc khích bên hàng rào sim, hoặc đang sánh bước bên nàng Fermina kiều diễm: bạn là Santos, bạn là Léniot, bạn là Camille Moûlier, bạn là tất cả mọi người, bạn là từng người một. Bạn chuyện trò, nói năng, mơ ước, khát vọng... Lớp học kia là lớp học của bạn. Những tâm hồn bạn kia lànhững tâm hồn bạn của chính bạn. Và lời kể kia không còn là lời kể của người kể chuyện mà của chính người nghe chuyện. Kỳ lạ thay, người đọc không ngừng viết và viết lại câu chuyện. Hãy cảm ơn Valery Larbaud đã cho ta cái cơ hội đó, cảm ơn ông đã đưa chúng ta trở về lớp học ngày nào, ngồi vào chỗ ngồi của chính mình. “Không có gì thay đổi, thêm một ít bụi trên các bàn học, chỉ có thế.” Chỉ có thế. Mỗi người đều nhận ra điều đó, một sự thật vô cùng đơn giản nhưng cũng vô cùng khốc liệt. Bởi lớp bụi mỏng kia đã đủ vùi lấp một đoạn đời, một thế giới. Đó là cái gì còn lại khi thời gian đã vỗ cánh bay xa và cùng bay xa theo nó cả một lứa tuổi vàng. Ta vẫn ngồi đó, trong lớp học cũ, nơi bàn học cũ. Tiếng bước đâu đây, tiếng cười đâu đó... Không, chỉ có mình ta thảng thốt kêu lên: Đâu mất cả rồi, những tâm hồn bạn trìu mến ngày nào, họ đã đi về đâu, ai còn, ai mất giữa dòng đời đầy bất trắc, tang thương? “nhiều người đã chết, cậu ơi, nhiều người đã chết!” Nhiều người đã chết, như Léniot, người học sinh xuất sắc với tâm hồn tối tăm, đày ải, như bao người khác “đã chết cho tổ quốc”... Và những ai còn sống, họ trôi dạt về đâu? Còn Fermina Márquez, nàng tiên đã từng ngự giữa “triều đình tình ái” ngày nào, nàng hiện sống ra sao dưới vòm trời Colombie xa lắc? Hãy tưởng tượng rằng nàng hạnh phúc. Vâng, hãy tưởng tượng... Quyển sách xếp lại, dường như ta vẫn ngồi đó trong lớp học cũ, nơi bàn học cũ. Mãi mãi ngồi đó. Ngậm ngùi... ------------------------- Trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, Valery Larbaud là một khuôn mặt sáng ngời trên văn đàn Pháp, bên cạnh những André Gide, Jean Cocteau, Léon Paul Fargue... với những công trình sáng tác (thơ, kịch, tiểu thuyết), phê bình cũng như dịch thuật, tất cả tạo cho ông một địa vị vững chắc và nhất là đã gây một ảnh hưởng lớn lao trên nền văn chương Pháp hiện đại. Hãy nói về chuyện dịch thuật. Trong địa hạt này, Valery Larbaud là người đã giới thiệu cho độc giả Pháp những tác phẩm và tác giả ngoại quốc giá trị của Ý, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ, v.v... Ông đã từng được xem là một lý thuyết gia về dịch thuật không chỉ nhờ ở kiến thức về ngữ học cho phép ông đọc được hầu hết các thứ tiếng quan trọng trên thế giới mà còn ở những phân tích sâu xa của ông về công việc mà ông gọi là “trường đức hạnh đẹp và cố định”. Trước cả Malraux, có lẽ ông là người đầu tiên giới thiệu William Faulkner cho độc giả Pháp qua bài tựa của quyển Tandis que J’agonise. Ông cũng là người đã từng cộng tác với James Joyce trong việc duyệt lại bản dịch tác phẩm lừng danh thế kỷ của tác giả trên là Ulysses. Hơn ai hết, trong thế hệ đương thời, có lẽ Valery Larbaud là nhà văn “châu Âu” của Pháp với nguồn cảm hứng luôn vượt khỏi biên giới quốc gia. Ông đúng là một công dân châu Âu, một mẫu người không biên giới. Với con người đã từng đi rất nhiều đó, dường như chỉ có một nền Cộng hòa mà ông luôn trung thành, đó là Cộng hòa của chữ nghĩa: “Xứ sở gần gũi với tôi nhất, đó chính là nghề nghiệp của tôi”… ------------------------- Huỳnh Phan Anh sinh năm 1940, tên thật là Huỳnh Thành Tâm, học triết ở Đà Lạt giai đoạn 1961-1964, dạy triết học ở Sài Gòn, ông tự nhận mình là nhà giáo “đi lạc vào văn học”. Trước năm 1975, ở Sài Gòn, Huỳnh Phan Anh cộng tác với bán nguyệt san Văn, tuần báo văn nghệ Văn học, Vấn đề, Khởi hành... Ông viết phê bình, nghiên cứu, dịch thuật, làm báo, viết văn, mảng nào cũng để lại những dấu ấn. Các tác phẩm phê bình của ông được nhiều người biết đến: Văn chương và kinh nghiệm hư vô, Đi tìm tác phẩm văn chương...; các dịch phẩm: Bãi hoang (J.R. Huguenin), Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật), Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann), Tình yêu và tuổi trẻ (Valery Larbaud), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe), Hò hẹn trên đồi (Anne Philipe), Thế giới của Sophie (J. Gaarder), Lạc lối về (H. Boll), Tình yêu bên vực thẳm (E.M. Remarque), Cỏ (Claude Simon)... Từ năm 2002, ông định cư tại San Jose, Hoa Kỳ. *** Lời dịch giả Trong một bài viết nhan đề “Valery Larbaud hay vinh dự văn chương”[1], thi sĩ Saint-John Perse đã viết về nhà văn này: “Ông là người của ngôn ngữ, lúc nào cũng sùng kính bản chữ viết và tất cả những gì nó dành cho nhân vị con người, cho chính cuộc phiêu lưu của con người”. Trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, Valery Larbaud là một khuôn mặt sáng ngời trên văn đàn Pháp, bên cạnh những André Gide, Jean Cocteau, Léon Paul Fargue… với những công trình sáng tác (thơ, kịch, tiểu thuyết), phê bình cũng như dịch thuật, tất cả tạo cho ông một địa vị vững chắc và nhất là đã gây một ảnh hưởng lớn lao trên nền văn chương Pháp hiện đại. Hãy nói về chuyện dịch thuật. Trong địa hạt này, Valery Larbaud là người đã giới thiệu cho độc giả Pháp những tác phẩm và tác giả ngoại quốc giá trị của Ý, Tây Ban Nha, Anh, Mỹ, v.v… Ông đã từng được xem là một lý thuyết gia về dịch thuật không chỉ nhờ ở kiến thức về ngữ học cho phép ông đọc được hầu hết các thứ tiếng quan trọng trên thế giới mà còn ở những phân tích sâu xa của ông về công việc mà ông gọi là “trường đức hạnh đẹp và cố định”. Trước cả Malraux, có lẽ ông là người đầu tiên giới thiệu William Faulkner cho độc giả Pháp qua bài tựa của quyển Tandis que J’agonise. Ông cũng là người đã từng cộng tác với James Joyce trong việc duyệt lại bản dịch tác phẩm lừng danh thế kỷ của tác giả trên là Ulysses.Hơn ai hết, trong thế hệ đương thời, có lẽ Valery Larbaud là nhà văn “châu Âu” của Pháp với nguồn cảm hứng luôn vượt khỏi biên giới quốc gia. Ông đúng là một công dân châu Âu, một mẫu người không biên giới. Với con người đã từng đi rất nhiều đó, dường như chỉ có một nền Cộng hòa mà ông luôn trung thành, đó là Cộng hòa của chữ nghĩa: “Xứ sở gần gũi với tôi nhất, đó chính là nghề nghiệp của tôi”. Liệu có cần nhắc nhở ra đây là Valery Larbaud rất giàu (ông thừa hưởng ngay khi còn trẻ, rất trẻ, một tài sản khổng lồ do cha ông để lại bởi việc khai thác suối nước nóng). Trọn đời ông thể hiện qua hai mối đam mê: đi và đọc, và phải chăng hai mối đam mê chung quy chỉ phát xuất từ một mối lo âu duy nhất: sự cảm thông. Ông viết: “Càng lúc tiếng bánh xe đang chạy càng hòa quyện vào tư tưởng tôi”. Câu nói thâu tóm khá đầy đủ tâm hồn nhà văn, hình ảnh của một du khách say mê và đau khổ, bởi không có chuyến tàu nào có thể mang hắn đi xa, đến tận nơi hắn muốn tới, bởi “tất cả chỉ là một đêm tối bao la”. Và khi tất cả mọi con tàu đều đã bất lực, người du khách kia chỉ còn biết kêu gọi tới chữ nghĩa kỳ diệu để thực hiện một chuyến đi khác không kém phần kỳ thú, chuyến đi vào chính vũ trụ của tâm hồn mình, người du khách không đi nữa, hắn im lìm ở một chỗ, hắn nhìn vào nội giới hắn, bắt đầu một cuộc phiêu lưu khác, cuộc phiêu lưu khởi sự từ một ước muốn. “Ước muốn trở về, nó đã có mặt. Người ta thức giấc sớm hơn, người ta bắt đầu sắp xếp lại bàn viết. Đó không là công việc một ngày. Một lần người ta thay những ngòi viết đã rỉ sét. Một lần khác nữa người ta đi mua các món như những tờ giấy chậm, một cây bút chì mới (hiệu tốt của Mỹ), một cục gôm… Sau cùng, đến ngày người ta ngồi vào bàn làm việc. Lúc bấy giờ một niềm im lặng bát ngát, một niềm im lặng dịu dàng và thuần khiết dàn trải quanh ta. Ta đã tìm ra ‘lẽ sống’ của ta. Thế giới không thể xen vào công việc của ta, thế giới không có cái quyền đó; những gì nó làm, nó nghĩ, nó nói, tất cả không quan trọng lắm. Ta chìm đắm trong công việc của ta, bình yên với chính ta, với những người quanh ta, với thành phố trong đó ta đang sống…”. Quả thật, viết đối với Larbaud là một cuộc dấn thân toàn diện, là cuộc phiêu lưu trong trạng thái im lìm, là lẽ sống, là định mệnh chứ không chỉ là một “thiên đường giả tạo”. Larbaud hay là vinh dự văn chương: đối với ông, ngôn ngữ chính là quyền năng tối thượng, niềm tin của ông đặt trọn trong lời nói và chữ viết. Ông không thắc mắc về ý nghĩa cuộc đời, bởi tất cả ý nghĩa đời ông bao gồm trong việc viết và đọc. Với ông, chỉ có tác phẩm toàn diện, trong “thực chất và trong cốt tủy” của nó mới là điều đáng kể: không còn phân ly giữa văn chương và đời sống, giữa hình thức và nội dung: tác phẩm trở thành yếu tố kết hợp lý tưởng nhất nhờ ở quyền năng mầu nhiệm của ngôn ngữ. Có thể nói Larbaud là một trong số những nhà văn đã khơi mở cả một thế kỷ văn học của Pháp, ông đã thổi vào văn học Pháp một luồng sinh khí mới với tinh thần phóng khoáng và mới mẻ thể hiện qua một ngôn ngữ văn chương hàm súc và đầy rung động ngược lại hẳn với thứ lý luận của văn chương tượng trưng đã lỗi thời. Trong ý nghĩa đó, ta có thể nói rằng Fermina Márquez (Tình yêu và tuổi trẻ), một trong những tác phẩm điển hình nhất nếu không nói là kiệt tác của Valery Larbaud, là một phản ứng chống chọi truyền thống tiểu thuyết trước đó, trước năm 1911, năm ra đời của nó, hay đúng hơn là di sản văn chương của thế kỷ XIX, với những ý hướng và những xúc động mới mẻ. Nói theo nhà phê bình R.M. Albérès trong Histoire du Roman Moderne, Fermina Márquez thuộc dòng văn chương nhằm “quyến rũ hoặc làm thảng thốt người đọc, thay vì mô tả, giải thích, thông tri, và chỉ dẫn…”. Đó là câu chuyện xảy ra dưới một mái trường trung học trong một bầu không khí đầy thơ và mộng. Một nữ sinh Nam Mỹ, quý phái và thánh thiện, bị quyến rũ và phải lòng trước hai cậu thiếu niên. Một cậu đã sành sỏi, già dặn trong sự chinh phục và một cậu có tâm hồn đầy phức tạp và đầy thao thức, bị xâu xé giữa những khát vọng sâu thẳm và âm u nhất. Câu chuyện của tuổi học trò, của thời niên thiếu. Có lẽ không phải tình cờ mà Valery Larbaud đã chọn những tâm hồn niên thiếu làm nhân vật chính cho tác phẩm. Bởi ai còn lạ gì, đó là lứa tuổi nhiều phép lạ nhất của đời người. Với Fermina Márquez, Larbaud không mô tả, không phân tích, không kể; trái lại, ông gợi lên một thế giới, ông làm sống lại cái thế giới đó không phải dưới mắt mà ngay trong tâm hồn người đọc, cũng như chính ông, ông không tìm kiếm những chất liệu làm nên cái thế giới đó từ bên ngoài mà ở chính nơi ông. Vâng, Fermina Márquez chính là câu chuyện của mỗi người trong chúng ta, là cuộc “phiêu lưu” kỳ diệu của tâm hồn niên thiếu mãi mãi còn là tâm hồn bạn của mỗi người trong chúng ta. Cuốn truyện được viết bằng ngôi thứ nhất. Và khi xếp quyển sách lại, dường như người đọc không còn nhớ rõ hay phân biệt lúc nào ngôi thứ nhất đó là “tôi” và lúc nào nó là “chúng tôi”; và có lẽ sau khi kết thúc câu chuyện kể, chính tác giả cũng không còn phân biệt được điều đó. Hơn thế nữa, cái “tôi” của tác giả cũng chính là cái “tôi” của người đọc. Và cái “chúng tôi” đã trở thành cái “chúng ta”. Bởi từ lúc nào (từ lúc nào? Có phải từ dòng chữ thứ nhất khi “ánh phản chiếu từ khung cửa kính của phòng khách chợt lướt qua trên sân cát” báo hiệu sự xuất hiện rực rỡ của người con gái có tên là Fermina?) người ta đã không còn đóng vai khán giả nữa, người đọc đã thực sự bước vào sân khấu muôn đời của lứa tuổi thần tiên. Bạn đã có mặt trong ngôi trường trung học đó, đang ngồi trong lớp học, hoặc đứng cười khúc khích bên hàng rào sim, hoặc đang sánh bước bên nàng Fermina kiều diễm: bạn là Santos, bạn là Léniot, bạn là Camille Moûtier, bạn là tất cả mọi người, bạn là từng người một. Bạn chuyện trò, nói năng, mơ ước, khát vọng… Lớp học kia là lớp học của bạn. Những tâm hồn bạn kia là những tâm hồn bạn của chính bạn. Và lời kể kia không còn là lời kể của người kể chuyện mà của chính người nghe chuyện. Kỳ lạ thay, người đọc không ngừng viết và viết lại câu chuyện. Hãy cảm ơn Valery Larbaud đã cho ta cái cơ hội đó, cảm ơn ông đã đưa chúng ta trở về lớp học ngày nào, ngồi vào chỗ ngồi của chính mình. “Không có gì thay đổi, thêm một ít bụi trên các bàn học, chỉ có thế.” Chỉ có thế. Mỗi người đều nhận ra điều đó, một sự thật vô cùng đơn giản nhưng cũng vô cùng khốc liệt. Bởi lớp bụi mỏng kia đã đủ vùi lấp một đoạn đời, một thế giới. Đó là cái gì còn lại khi thời gian đã vỗ cánh bay xa và cùng bay xa theo nó cả một lứa tuổi vàng. Ta vẫn ngồi đó, trong lớp học cũ, nơi bàn học cũ. Tiếng bước đâu đây, tiếng cười đâu đó… Không, chỉ có mình ta thảng thốt kêu lên: Đâu mất cả rồi, những tâm hồn bạn trìu mến ngày nào, họ đã đi về đâu, ai còn, ai mất giữa dòng đời đầy bất trắc, tang thương? “nhiều người đã chết, cậu ơi, nhiều người đã chết!” Nhiều người đã chết, như Léniot, người học sinh xuất sắc với tâm hồn tối tăm, đày ải, như bao người khác “đã chết cho tổ quốc”… Và những ai còn sống, họ trôi dạt về đâu? Còn Fermina Márquez, nàng tiên đã từng ngự giữa “triều đình tình ái” ngày nào, nàng hiện sống ra sao dưới vòm trời Colombie xa lắc? Hãy tưởng tượng rằng nàng hạnh phúc. Vâng, hãy tưởng tượng… Quyển sách xếp lại, dường như ta vẫn ngồi đó trong lớp học cũ, nơi bàn học cũ. Mãi mãi ngồi đó. Ngậm ngùi… Huỳnh Phan Anh Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Và Tuổi Trẻ của tác giả & Huỳnh Phan Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chúa tể những chiếc nhẫn: Đoàn Hộ Nhẫn - J.R.R. Tolkien
AudioBook Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn   John Ronald Reuel Tolkien (1892 - 1973), một nhà ngôn ngữ, tiểu thuyết gia và giáo sư người Anh, được công chúng biết đến nhiều nhất qua các tác phẩm Anh chàng Hobbit (The Hobbit) và Chúa tể những chiếc nhẫn (The Lord of the Rings). Ông giảng dạy về ngôn ngữ Anglo-Saxon tại Đại học Oxford (giữ cương vị Giáo sư Rawlinson  Bosworth đầu ngành Anglo-Saxon của Oxford) từ năm 1925 đến 1945, và sau đó ông giữ ghế Giáo sư Merton đầu ngành ngôn ngữ và văn học Anh cũng tại Oxford từ 1945 đến 1959. Bộ tiểu thuyết của tác giả John Ronald Reuel Tolkien (J.R.R. Tolkien) gồm ba phần, 6 quyển. - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Đoàn Hộ Nhẫn tải eBook - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Hai Tòa Tháp tải eBook - Chúa Tể Những Chiếc Nhẫn - Nhà Vua Trở Về tải eBook Bản dịch tiếng Việt phần một vừa hoàn thành và ra mắt độc giả trong nước với tên Đoàn hộ nhẫn. "Đoàn hộ nhẫn" kể về cuộc hành trình gian lao của anh chàng Hobbit Frodo Bao Gai và những người bạn từ mọi chủng tộc của mình, nhằm giải cứu Trung Địa khỏi rơi vào tay Chúa tể Sauron và chiếc Nhẫn Chúa. Phần một này được chia thành 2 quyển, quyển đầu tiên nói về chuyến đi khỏi Quận của Frodo Bao Gai để chạy trốn những tay sai của Chúa tể Bóng tối Sauron, những Ma Nhẫn. Tiếp nối âm hưởng của Anh chàng Hobbit, câu chuyện bắt đầu với bữa tiệc sinh nhật của Bilbo Bao Gai. Trong bữa tiệc, Bilbo đã đột ngột biến mất trước mắt dân làng để bắt đầu cái mà ông gọi là "kỳ nghỉ vô tận", để lại cho Frodo toàn bộ tài sản, trong đó có chiếc Nhẫn Chúa, vật mà Chúa tể Sauron đang tìm kiếm, vật có thể giúp hắn một lần nữa cai trị vùng Trung Địa. Được vị Phù Thủy già Gandalf cảnh báo, Frodo cùng những người bạn Hobbit của mình là Sam, Merry và Pippin đã bí mật rời khỏi nơi sinh sống, trốn tránh sự truy tìm của lũ Kị Sĩ Đen - những Ma Nhẫn, để đến Thung Đáy Khe. Trên suốt đường đi, họ đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng cùng với sự xuất hiện của Sải Chân Dài và Glorfindel, cuối cùng nhóm Hobbit đã tới được Thung Đáy Khe. Quyển thứ hai tiếp nối câu chuyện ở Thung Đáy Khe, nơi mọi người lên kế hoạch để huỷ diệt chiếc nhẫn ở Vùng Đất Đen Mordor. Đánh Giá: “Cộng đồng Anh ngữ được phân làm hai: những người đã đọc Anh chàng Hobbit cùng Chúa tể những chiếc nhẫn, và những người sẽ đọc.” - Sunday Times “Tín đồ Thiên Chúa giáo chưa đọc hết Kinh thánh còn có thể tạm tha thứ, chứ một fan tiểu thuyết kỳ ảo mà chưa đọc cuốn phúc âm của thể loại kỳ ảo này thì không thể chấp nhận được.” - Amazon.com “Tolkien may mắn được ban tặng tài đặt tên chính xác và con mắt quan sát diệu kỳ; kết thúc cuốn I, bạn đọc đã nắm rõ lịch sử Hobbit, người Tiên, Người Lùn cùng sông núi quê hương họ chẳng kém gì nắm rõ xứ sở tuổi thơ mình. Và nếu nhìn nhận một câu chuyện kỳ ảo là nghiêm túc, ai cũng phải thấy rằng dù bề ngoài trình bày những nhân vật và sự kiện khác xa thế giới ta đang sống, đấy vẫn là tấm gương soi hiện thực duy nhất mà ta biết: hiện thực của chúng ta.” - W. H. Auden Mời các bạn đón đọc Chúa tể những chiếc nhẫn - Đoàn Hộ Nhẫn của tác giả J.R.R. Tolkien.
Giết Con Chim Nhại - Harper Lee.
AudioBook Giết Con Chim Nhại Giết con chim nhại (nguyên tác tiếng Anh: To Kill a Mockingbird) là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Harper Lee; đây là cuốn tiểu thuyết rất được yêu chuộng, thuộc loại bán chạy nhất thế giới với hơn 10 triệu bản. Cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào năm 1960 và đã giành được giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1961. Nội dung tiểu thuyết dựa vào cuộc đời của nhiều bạn bè và họ hàng tác giả, nhưng tên nhân vật đã được thay đổi. Tác giả cho biết hình mẫu nhân vật Jean Louise "Scout" Finch, người dẫn truyện, được xây dựng dựa vào chính bản thân mình. Giết con chim nhại là một câu chuyện bao gồm nhiều mô-típ, như sự ích kỷ, sự thù hận, lòng dũng cảm, sự kiêu hãnh, định kiến, và các giai đoạn trong cuộc đời, đặt trong bối cảnh cuộc sống miền Nam Hoa Kỳ. Cuốn tiểu thuyết đã được đạo diễn Robert Mulligan dựng thành phim với kịch bản do Horton Foote viết vào năm 1962. Cho tới nay, cuốn tiểu thuyết này là tác phẩm được xuất bản duy nhất của bà Harper Lee. Cuốn tiểu thuyết kể về câu chuyện của hai đứa trẻ ở lứa tuổi mới lớn, Jean Louise "Scout" Finch và Jeremy Atticus "Jem" Finch, sinh trưởng ở thị trấn nhỏ Maycomb, Alabama, nằm sâu trong miền nam nước Mỹ trong thập niên 1930. Chuyện xảy ra trong vòng 3 năm, được kể lại bởi người em. Trong truyện, cha của hai đứa trẻ, luật sư Atticus Finch được chỉ định để bào chữa một người da đen tên là Tom Robinson, bị buộc tội cưỡng hiếp một cô gái da trắng tên là Mayella Ewell. Sau khi tặng quà Giáng sinh cho hai chị em Jem và Scout là mấy khẩu súng hơi, ông Atticus dặn lũ trẻ là mặc dù chúng có thể "bắn bao nhiêu chim giẻ cùi xanh tùy thích", chúng phải nhớ "giết hại chim nhại là tội ác". Sau này cô Maudie Atkinson, hàng xóm của lũ trẻ, giải thích đó là vì chim nhại không bao giờ làm điều gì có hại, nó mang lại niềm vui bằng tiếng hót của chúng: "nó chẳng làm điều gì khác ngoài việc mang đến tiếng hót từ tận con tim cho chúng ta". Con chim nhại (mockingbird) được dùng lặp đi lặp lại như một hình tượng của nạn nhân và sự trong trắng trong suốt tác phẩm. Nó là biểu tượng của sự trong trắng và cái đẹp chống lại chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và lòng hận thù. Mời các bạn đón đọc Giết con chim nhại của tác giả Harper Lee.  
Kiến - Bernard Werber
Tên Sách: Kiến (Full PRC, EPUB) Tác Giả: Bernard Werber   Thể Loại: Giả Tưởng, Tiểu Thuyết, Văn học phương Tây   Dịch Giả: Lê Thu Hằng   Đánh Máy: Mọt Sách   Nguồn: vnthuquan.net   Ebook: http://www.dtv-ebook.com   Kiến - Bernard Werber (full prc, epub)   Giới Thiệu: Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghệ đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ trong ngôi nhà mà ông bác nhà côn trùng học già di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp chúng. Theo chân anh, chúng ta sẽ khám phá thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, khổng lồ và quyến rũ của những “người dưới đất” này trong một câu chuyện ly kỳ độc nhất vô nhị, nơi ở từng trang sự hồi hộp và ghê rợn đều được xây dựng dựa trên những cứ liệu khoa học chính xác nhất. Đọc "Kiến" rồi sau bị ám ảnh, nhìn thấy kiến không dám dí tay xuống nữa, không bởi vì bỗng dưng trở nên nhân từ không muốn sát sinh mà vì... sợ, hay nể thì đúng hơn cái giống loài bé tí... như mình đã biết vô cùng đơn giản, vô cùng trật tự và đạt hiệu quả cao trong mọi việc.   Bernard Werber sinh năm 1961 tại Toulouse, Pháp. Ngay từ khi mười bốn tuổi, anh đã viết truyện cho một tập san nhỏ về khoa học viễn tưởng. Sau khi học luật tại Toulouse và báo chí tại Pháp, Bernard Werber dành hơn mười năm làm nhà báo khoa học và đã từng cộng tác với rất nhiều tờ có tên tuổi như Nouvel Observateur, Le Point, Ça m'intéresse. Sau đó, anh tập trung vào viết văn. Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên xuất bản năm 1992,Kiến, nhà văn này đã nổi tiếng với một phong cách viết độc đáo, pha trộn giữa loại truyện phiêu lưu, khoa học viễn tưởng và triết lý.Kiến đã giành giải thưởng của độc giả tờ Khoa học và Tương lai (Sciences et Avenir). Cuốn thứ hai trong bộ ba tiểu thuyết về kiến,Le jour des fourmis (Ngày của kiến), ra đời ngay sau đó, đã được nhận giải thưởng lớn của độc giả tờ Elle. Các tác phẩm của Bernard Werber đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng. Với 15 triệu bản bán được trên toàn thế giới, cùng với Marc Levy, Bernard Werber là một trong những nhà văn Pháp đương đại nổi tiếng nhất. Ngoài tiểu thuyết, Bernard Werber còn được biết đến với truyện ngắn, truyện tranh, kịch và phim. Chú ý chỗ bạn đặt chân. Sau khi đọc xong cuốn tiểu thuyết quyến rũ này, bạn dám không nhìn thực tế theo cùng cách hiện giờ nữa. *** Một nền văn minh đầy kinh ngạc của loài kiến, một thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn và đáng sợ - đó là thế giới khắc nghiệt và kỳ diệu của những chú kiến bé nhỏ. Kiến không thuộc hàng tiểu thuyết khoa học kinh điển nhưng được xem là dấu son đỏ cho tiểu thuyết khoa học đương đại. Con người hoàn toàn có thể mường tượng ra tương lai không giống như hiện tại chút nào, một tương-lai-của-kiến. ----------------- Trong vài giây bạn đọc những dòng này, trên Trái đất có bốn mươi người được sinh ra nhưng có tới bảy trăm triệu con kiến ra đời. Từ hơn trăm triệu năm trước chúng ta, chúng đã ở đó, được chia thành nhiều đội, nhiều tổ, nhiều đế chế trên toàn bề mặt trái đất. Chúng đã tạo ra một nền văn minh song song, xây dựng những vương quốc thực sự, phát minh ra vũ khí tối tân, thiết kế cả nghệ thuật chiến tranh, làm chủ một nền công nghiệp đáng kinh ngạc. Chúng có những Attila, Christophe Colomb, Jules César, Machiavel hay Léonard de Vinci của chính mình. Khi bước vào kho chứa đồ ngôi nhà mà ông bác là nhà côn trùng học giả di tặng, Jonathan Wells còn lâu mới nghĩ rằng anh sẽ gặp... kiến, cùng cái thế giới giàu có ngoài sức tưởng tượng, ly kỳ, rùng rợn của chúng... Hãy chú ý nơi bạn đặt chân. Đọc xong cuốn tiểu thuyết này rồi, bạn sẽ không còn nhìn thực tế theo cách hiện giờ nữa. Kiến đã được dịch ra hơn 30 thứ tiếng, giành giải thưởng của độc giả tờ Sciences et Avenir, và là tác phẩm nổi tiếng nhất của Bernard Werber, nhà văn Pháp được đọc nhiều nhất trên thế giới. - “Trong Kiến, Bernard Werber đã làm được cho loài kiến những gì Richard Adams đã làm cho loài thỏ trong đồi thỏ…” – Bantam Doubleday Dell Publishing - “Đây là tiểu thuyết đầu tiên mà nhân vật chính là… kiến.” – Albin Michel - “Bernard Werber đã sáng tạo nên một thế giới loài vật gần gũi và chi tiết đến mức mỗi người đọc đều cảm thấy như mình là một phần của nó” – Kevin Grandfield. *** A nh sẽ thấy, không hoàn toàn như anh mong đợi đâu. Công chứng viên giải thích rằng tòa nhà được xếp hạng di tích lịch sử và nhiều nhà hiền triết thời Phục hưng đã từng sống ở đây, nhưng ông không nhớ là những ai. Họ xuống cầu thang, bước vào một hành lang tối om nơi công chứng viên dò dẫm hồi lâu, uổng công bật một cái nút trước khi thở dài: - Ái chà! Nó không chạy nữa. Họ tiến trong bóng tối, lộp cộp lần theo các bức tường. Khi cuối cùng công chứng viên tìm thấy cái cửa, mở nó và nhấn, lần này thì thành công, trúng cái công tắc, ông thấy khách hàng của mình mặt mày biến sắc. - Không ổn à, ông Wells? - Một chứng sợ thôi. Không sao đâu. - Sợ bóng tối? - Vâng. Nhưng đã khá hơn rồi. Họ xem xét mọi ngóc ngách. Đó là tầng hầm rộng hai trăm mét vuông. Dù nó chỉ mở ra phía ngoài bằng vài ô cửa tầng hầm hiếm hoi, bé xíu và sát trần, Jonathan vẫn hài lòng về căn hộ. Các bức tường được dán giấy xám đơn điệu, và bụi phủ khắp nơi… Nhưng anh sẽ không tỏ ra khó tính hơn. Căn hộ của anh hiện nay chỉ rộng bằng một phần năm căn hộ này. Hơn nữa, anh không còn khả năng để trả tiền thuê; nhà máy khóa nơi anh làm mới đây đã quyết định bỏ qua công đoạn của anh. Món thừa kế của bác Edmond đúng là của trời cho không tin được. Hai ngày sau, anh dọn đến số 3, phố Sybarites với vợ mình là Lucie, cậu con trai Nicolas và con chó bông lùn cụt đuôi Ouarzazate của họ. - Mấy bức tường xám này không làm em ngại đâu, Lucie vừa nói vừa lấy tay nâng mái tóc đỏ dày của cô. Chúng mình có thể trang trí như chúng mình muốn. Mọi thứ ở đây đều phải làm lại hết. Như kiểu mình biến nhà tù thành khách sạn đấy. - Phòng của con ở đâu ạ? Nicolas hỏi. - Phía cuối, bên phải. - Ẳng ẳng, con chó sủa, và nó bắt đầu nhay nhay bắp chân Lucie mà không biết là cô đang bưng chồng bát đĩa đám cưới trong tay. Kết cục, nó nhanh chóng bị nhốt vào nhà vệ sinh; khóa hẳn hoi, vì nó biết nhảy tới tận tay nắm cửa và biết xoay để mở cửa. - Anh có biết rõ ông bác hào phóng của anh không? Lucie tiếp tục. - Bác Edmond? Thực ra, tất cả những gì anh nhớ, chỉ là bác nhấc anh lên giả làm máy bay, lúc anh còn rất nhỏ. Một lần anh sợ đến nỗi anh đã tè dầm lên bác ấy. Họ cười. - Đã nhát gan thế cơ à? Lucie trêu. Jonathan làm ra vẻ không nghe thấy gì. - Bác ấy không trách anh về chuyện đó. Bác chỉ nói với mẹ anh: “Được rồi, chúng ta biết là sẽ không cho nó thành phi công…” Sau đó, mẹ nói rằng bác theo sát suốt cuộc đời anh, nhưng anh không gặp lại bác từ ấy. - Bác làm nghề gì? - Đó là một nhà bác học. Một nhà sinh học, hình như thế. Jonathan trở nên trầm tư. Cuối cùng, thậm chí anh cũng không biết ân nhân của mình. Cách đó 6 km: BEL-O-KAN, Cao một mét. 50 tầng dưới lòng đất. 50 tầng trên mặt đất. Thành phố lớn nhất của vùng. Dân số ước tính: 18 triệu. Sản lượng hàng năm: - 50 lít mật rệp. - 10 lít mật sâu yên chi. - 4 kilô nấm mũ. - Đá được dũi: 1 tấn. - Số km hành lang đi lại được: 120. - Diện tích trên mặt đất: 2m2. Một tia sáng vụt qua. Một cái chân vừa nhúc nhích. Cử động đầu tiên từ đợt bắt đầu ngủ đông, cách đây ba tháng. Một cái chân khác từ từ tiến, kết thúc là hai cái chân dần dần tách ra. Một cái chân khác duỗi ra. Rồi đến bộ ngực. Rồi một cái thân. Rồi mười hai cái thân. Chúng rùng mình để giúp dòng máu trong suốt lưu thông trong các động mạch của mình. Máu chuyển từ trạng thái sền sệt sang nhão rồi lỏng. Dần dần van tim bắt đầu hoạt động trở lại. Nó đẩy máu tới tận cuối các chi. Các cơ sinh học nóng dần lên. Các khớp siêu phức tạp xoay từ từ. Khắp nơi, xương bánh chè với các mảng bảo vệ cố tìm thấy cực điểm xoắn của chúng. Chúng tỉnh dậy. Cơ thể lấy lại hơi. Các động tác của chúng rời rạc. Như vũ điệu quay chậm. Chúng lắc nhè nhẹ, vẩy vẩy. Chân trước chúng chập lại trước miệng như kiểu đang cầu nguyện, nhưng không phải, chúng làm ướt các chân của mình để đánh bóng râu. Mười hai con vừa thức dậy xoa cho nhau. Sau đó chúng tìm cách đánh thức những con bên cạnh. Nhưng chúng mới chỉ có đủ sức để nhúc nhích mỗi cơ thể mình, chúng không còn năng lượng để cho đi. Chúng bỏ cuộc. Rồi chúng khó nhọc tiến đến giữa những cơ thể cứng như tượng của các chị em mình. Chúng hướng về bên Ngoài rộng lớn. Toàn bộ cơ thể máu lạnh của chúng cần phải hứng lấy năng lượng mặt trời. Chúng tiếp tục tiến lên, mệt nhoài. Mỗi bước đi là cả một sự đau đớn. Chúng muốn nằm lại đến chừng nào và muốn được yên tĩnh như hàng triệu bạn đồng loại của chúng! Nhưng không. Chúng là những người đầu tiên thức tỉnh. Bây giờ chúng phải đánh thức toàn thành phố. Chúng qua thành phố. Ánh sáng mặt trời làm chúng chói mắt, nhưng tiếp xúc với năng lượng trong lành sảng khoái đến nhường nào. Mặt trời rọi chiếu trên cơ thể gầy của chúng ta, Lay tỉnh những cơ bắp đau nhức Và hợp nhất các suy nghĩ tản mát.   Mời các bạn đón đọc Kiến của tác giả Bernard Werber.
Những Kỳ Vọng Lớn Lao - Charles Dickens
Cuốn tiểu thuyết Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations được viết vào những năm 1860-1861. Cho đến thời điểm hiện tại, Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations đã được các đạo diễn dựng lại trên sân khấu và màn ảnh 250 lần. Trong tác phẩm Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations vào một đêm Giáng sinh, Pip vô tình gặp một tù nhân trốn tàu trong sân của nhà thờ làng. Người tù nhân này tóm lấy Pip dọa dẫm và yêu cầu Pip ăn trộm thức ăn và một cái kìm cho ông ấy. Vừa sợ hãi, vừa cảm thấy thương cảm, Pip đã ăn trộm thức ăn ở nhà chị gái mang cho người đàn ông lạ mặt. Đây là lần đầu tiên trong đời cậu biết thế nào là cảm giác của một người ăn trộm thực sự. Sự ân cần, hồn nhiên và tốt bụng của Pip đã sưởi ấm trái tim băng giá và lạnh lùng của người tù nhân. Nó gợi nhắc ông về người con nhỏ mà ông nghĩ là đã chết… Rồi người đàn ông ra đi… Cuộc sống thường ngày cuốn Pip đi và cuộc gặp ngắn ngủi này cũng nhanh chóng tan biến trong tâm trí cậu. Trong làng Pip ở có quý bà Havisham giàu có nhưng rất khó tính và tàn nhẫn. Bà có cô con gái nuôi xinh đẹp tên là Estella. Một lần, Pip bất ngờ được bà thuê tới làm việc… Ngay từ giây phút đầu tiên gặp Estella, Pip đã bị vẻ đẹp của cô hút hồn... Và khi lớn lên, những rung động đầu đời ấy đã trở thành một tình yêu thật sự. Nhưng đó là một tình yêu vô vọng bởi Havisham là một người căm thù đàn ông, bà đã bị chú rể bỏ rơi ngay trong đám cưới, chính vì vậy ngay từ khi quyết định nhận nuôi Estella, Havisham đã lên kế hoạch nuôi dạy cô thành một thiếu nữ có trái tim tàn nhẫn để phá vỡ trái tim những người đàn ông yêu cô.   Ngay khi nhận ra Pip đã đem lòng yêu cô con gái nuôi của mình, bà Havisham không thuê anh ấy nữa… Pip trở về làm việc tại lò rèn. Cậu sống trong nghèo khổ và luôn nơm nớp lo sợ Estella sẽ nhìn qua cửa xưởng rèn và thấy sự rách rưới của mình…Cậu mong ước được có một cuộc sống giàu có để có thể đến với cô.   Rồi cho đến một ngày, bất ngờ có một vị luật sư từ London tới gặp Pip và thông báo rằng anh ấy có một khoản thừa kế kếch xù từ một người ân nhân giấu tên. Tuy nhiên, có điều kiện đặt ra là để nhận được khoản tiền này anh phải tới Lodon ngay lập tức và việc đầu tiên là mua sắm quần áo để trở thành một người đàn ông quý phái, sau đó phải đến trường học… Pip chấp nhận điều kiện.   Cậu cứ đinh ninh rằng người bí mật cung cấp tiền cho cậu ăn học không phải là ai khác mà chính là Havisham. Cậu nghĩ rằng bà ấy đầu tư tiền cho cậu trở thành một người có địa vị cao hơn trong xã hội để sau này cậu sẽ cưới con gái nuôi của bà ấy Estella… Pip đã sống nhiều năm tại London và tình yêu của cậu dành cho Estella ngày càng lớn hơn dù cậu chưa một lần dám thổ lộ. Trong khi đó, người con gái nuôi của Havisham thì càng ngày càng lạnh lùng hơn…   Thế rồi cho đến một đêm, Pip bất ngờ phát hiện ra rằng, người đầu tư cho mình không phải là bà Havisham như anh từng suy đoán và như bà đã từng ngụ ý bóng gió… mà người ân nhân đó chính là một tù nhân có tên Magwitch… Đây là bước ngoặt thay đổi cả cuộc đời anh, những ước mơ, dự định… Anh cảm thấy xấu hổ vì trong suốt thời gian qua đã sống và học tập trên số tiền của người tù này và càng xấu hổ hơn khi tù nhân đó muốn sống nốt phần đời còn lại ở bên cậu. Mọi thứ càng trở nên phức tạp khi tù nhân đó đang bị cảnh sát truy đuổi... Với suy nghĩ, phải trả món nợ cho người đàn ông này, Pip cùng với một số người bạn thân âm thầm vạch một kế hoạch để Pip và tù nhân vượt biên. Trước khi đi, Pip đến thăm nhà Havisham. Estella đã lấy chồng. Bà Havisham thì đang sống trong đau khổ và ân hận. Bà xin Pip tha thứ rồi nhảy vào đống lửa gần đó tự tử. Pip đã liều mình để cứu bà. Tuy nhiên, do bỏng quá nặng Havisham chết sau đó ít lâu... trong sự cô đơn.   Pip và Magwitch chưa kịp hoàn thành chuyến vượt biên thì kẻ thù cũ Magwitch bất ngờ xuất hiện và muốn giết ông. Hạ gục được kẻ thù nhưng Magwitch cũng bị thương nặng và sau đó ít lâu thì chết trong nhà giam. Qua những ngày chăm sóc cho Mag, Pip đã biết thêm về cuộc đời của người tù và nhận ra ông là một người tốt, dòng dõi quý tộc... Và đặc biêt hơn nữa Pip đã tìm ra người con mà Mag nghĩ đã chết, đó chính là Estella...   Sau khi Mag qua đời, Pip trở nên suy sụp, cậu thành một kẻ lang thang vô gia cư, không tài sản. Trong khoảng thời gian này, người anh rể hết lòng chăm sóc Pip... Anh gượng dậy dần dần và bắt đầu lấy lại thăng bằng. Với sự giúp đỡ và hỗ trợ của người bạn thân, anh bắt đầu có những bước phát triển trong nghề nghiệp.. . Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations kết thúc bằng cuộc trở về thăm ngôi nhà bà Havisham lần cuối cùng của Pip. Tại đây, anh đã gặp Estella, cô đã li dị chồng và sống cùng con nhỏ. Cô mong Pip tha thứ và coi cô như một người bạn...   Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations với một kết thúc mở... *** Charles John Huffam Dickens sinh năm 1812 tại Portsmouth, Anh quốc. Ngay từ khi còn nhỏ ông đã phải làm việc vất vả để giúp gia đình. Cuộc sống khổ cực trong nhà máy và những khu phố nghèo đã giúp ông hình thành tư tưởng cho nhiều tác phẩm nổi tiếng về sau. Được xem là tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng nhất thời nữ hoàng Victoria, sự nghiệp văn chương của Dickens đầy ắp các tác phẩm, các bài báo và rất nhiều buổi diễn thuyết thành công, trong đó tiêu biểu là Oliver Twist (tiểu thuyết, 1837-1839); Nicholas Nickleby (tiểu thuyết, 1838-1839); Bài ca lễ Giáng sinh (truyện vừa, 1843); David Copperfield (tiểu thuyết, 1849-1850); Kỳ vọng vĩ đại (tiểu thuyết, 1860-1861)... Nhiều cuốn sách của ông đã được chuyển thể thành phim, kịch, nhạc kịch, hoạt hình... và đến nay các phiên bản mới vẫn tiếp tục ra đời. Dickens mất năm 1870 tại hạt Kent, Anh quốc. Một số tác phẩm của tác giả Charles Dickens được dịch, xuất bản tại Việt Nam: Hồn ma đêm giáng sinh (Bài Ca Mừng Giáng Sinh) Chuyện Vặt Ông Pickwick Oliver Twist David Copperfield Hai Tòa Tháp Những Kỳ Vọng Lớn Lao ... Mời các bạn đón đọc Những Kỳ vọng lớn lao - Great Expectations của tác giả Charles Dickens.