Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nói Vậy Mà Không Phải Vậy - Robert J. Samuelson

John Kenneth Galbraith, nhà kinh tế học và nhà văn, đã dùng cụm từ “quan niệm phổ biến”[1] (conventional wisdom) từ cách đây hơn bốn thập kỷ, trong cuốn sách bán chạy nhất của ông năm 1958 với tựa đề Xã hội Thịnh vượng (The Affluent Society). Theo định nghĩa của Galbraith thì các quan niệm phổ biến là tập hợp các niềm tin của đại bộ phận con người về một đề tài hay chủ thể nhất định. Những niềm tin đó không nhất thiết phải là đúng đắn, mà chỉ đơn giản là chúng được hiểu rộng rãi và được tôn trọng. Từ đó, cụm từ này dần dần xâm nhập vào ngôn ngữ của cuộc sống hàng ngày, và khi ý nghĩa ban đầu của Galbraith vẫn tồn tại thì nó đã khơi gợi cảm hứng cho những biến thể hiện đại khác của khái niệm trên. “Quan niệm phổ biến” của Galbraith là đồng nhất, vững chắc và lan tỏa rộng khắp, còn các phiên bản sau này lại cho rằng chúng là những điều hợp xu thế, hợp thời trang một cách khôn ngoan. Nhưng cho dù cũ hay mới thì quan niệm phổ biến (như Galbraith đề cập đến) lại thường là điều sai. Đôi khi quan niệm phổ biến còn đối lập với sự thật. Nó thường là sự sắp đặt các dữ kiện và nhận thức một cách nghệ thuật và có chọn lọc, để cho thấy một chân lý đáng tin cậy - mặc dù đó là sự dối trá. Nhưng các quan niệm phổ biến tồn tại được, bởi vì nó kể lại một câu chuyện khá hấp dẫn, xét theo một mức độ nhất định nào đó. Quan niệm phổ biến có được sức mạnh là nhờ vào khả năng đáp ứng được nhu cầu tâm lý hoặc chính trị. Sau đó hành vi của chúng ta lại giúp củng cố niềm tin. Chúng ta sẽ nhìn thấy những gì mình muốn thấy, sẽ nghe được những điều mình muốn nghe. Chúng ta tìm kiếm những người có uy tín để được lặp lại và củng cố lại các niềm tin và thành kiến của mình. Galbraith đã viết: “trong một chừng mực nào đó thì sự gắn kết của quan niệm phổ biến là một nghi thức tôn giáo, đó là hành động để xác nhận lại, như đọc Kinh Thánh hay đi lễ nhà thờ”. Sớm muộn gì thì quan niệm phổ biến cũng sẽ phải thay đổi hoặc sụp đổ. Nhưng các yếu tố phá hủy nó lại hiếm khi là các phân tích logic hay sự thuyết phục. Đó thường là các tình huống hoặc tác động của các sự kiện thực tế. Với bản chất của mình, quan niệm phổ biến sẽ “phòng vệ” bằng các ngôn từ hoặc lập luận. Người ta không muốn tỉnh ngộ từ các ý tưởng quen thuộc, vị kỷ, và làm vừa lòng họ. Người ta có xu hướng triệt tiêu sự hoài nghi, loại bỏ những bất đồng khó chịu hoặc chối bỏ sự mâu thuẫn. Những gì có thể làm thay đổi tâm trí con người thường là các trải nghiệm rõ ràng không thể phủ nhận và đôi khi khắc nghiệt, sau đó thường thì quan niệm phổ biến bị sụp đổ. Nhưng đây không phải là lý do dễ chấp nhận. Tôi trực tiếp biết điều này. Năm 1969, tôi là phóng viên của một tờ báo. Sự hấp dẫn chủ yếu của công việc này (ngoài việc được nhìn thấy cái tên của mình in trên báo chí) là các cơ hội học hỏi các điều mới mẻ và giải thích các khám phá này trước độc giả. Đó là cái cớ để đặt câu hỏi, thường là không giới hạn, đối với các công dân bình thường. Cái cần được tìm kiếm luôn luôn là “sự thật”, mặc dù “sự thật” đúng nghĩa - thường là rất phức tạp, không rõ ràng và gây nhiều tranh cãi - là khó hoặc không thể xác định được. Khi tôi trở thành người phụ trách một chuyên mục (columnist) của báo năm 1976, mục tiêu vẫn không đổi: đó là chuyển tải các hiểu biết đầy đủ hơn về một vấn đề hay hiện tượng nào đó. Càng làm việc này thì tôi càng “đụng đầu” với các quan niệm phổ biến, bởi vì đó là nơi mà nội dung bài viết dẫn tới. Các bài bình luận của tôi ngày càng đặt câu hỏi hoài nghi hoặc bác bỏ các quan niệm phổ biến. Một số bài bình luận của tôi đã được thu thập lại và trình bày trong cuốn sách này. Tôi không viết bất cứ điều gì để kết tội quan niệm phổ biến. Một số người có xu hướng “chạy theo thời thượng” mới nổi đã quay lại cáo buộc những điều đáng được lãng quên, chỉ vì các sự kiện đó đã làm họ mất uy tín. Vào những năm giữa thập niên 80, đã có những cảnh báo về việc “quá trình suy thoái công nghiệp của Hoa Kỳ” (deindustrialization) khiến chúng ta trở thành một đất nước mà tại đó những người làm hamburger và thợ giặt ủi được trả mức lương thấp (xem “Chúng ta không phải là đất nước của các tiệm giặt ủi”); khái niệm này đã không thể tồn tại sau sự bùng nổ kinh tế trong thập niên 90. Và cũng không có chuyện Nhật Bản sẽ qua mặt chúng ta về mặt kinh tế khi đất nước này vượt qua được sự đình trệ trong thập niên 90. Nhưng những hoài nghi vẫn tiếp diễn, có vẻ như không thay đổi chút nào trước những bằng chứng và lập luận logic bất lợi. Chúng ta được nghe rằng các nhóm lợi ích giàu có và bảo thủ đang thống trị Washington, nhưng thực tế không phải như vậy (xem “Các nhà môi giới quyền lực âm thầm”). Mới gần đây, internet đã được quảng bá là một trong những thành tựu công nghệ vĩ đại nhất từ sau khi ngành in ấn ra đời, sự so sánh này làm tổn thương lịch sử (xem “Internet và Gutenberg”). Đương nhiên, không phải tất cả các quan niệm phổ biến đều sai. Nếu tất cả chúng đều là sai thì xã hội đã tan rã. Những sai lầm của từng ngày, phát xuất từ các ý tưởng sai, sẽ nhân rộng ra và làm cho sự hỗn loạn lan tràn. Nhưng chúng ta không cưỡng lại được các xu hướng mơ hồ. Tại sao vậy? Galbraith đưa ra vài manh mối. Theo cách này hay cách khác, ông chỉ đơn giản là dán lên cái nhãn mới cho thứ đã xưa cũ: tính ỳ của lòng tin. Người ta bám chặt lấy những gì họ đã biết và những gì làm họ cảm thấy thoải mái. Galbraith đã quy cho hiện tượng này là việc không thích quá nhiều cái mới. Mà không chỉ có vậy. Đó là sự nhượng bộ thực dụng trong cuộc sống hàng ngày. Nếu chúng ta liên tục xem xét lại các niềm tin và giả định, chúng ta sẽ đờ đẫn ra vì do dự. Chúng ta sẽ thường xuyên trầm tư và chần chừ không quyết. Nhưng trong văn hóa truyền thông hiện đại, quan niệm phổ biến không còn là những gì như trước đây - và khi đó nó đặt nền móng cho những sai lầm. Theo Galbraith, quan niệm phổ biến bao gồm các ý tưởng cổ điển. Nó giống như rượu vang để lâu ngày. Nó có danh tiếng thông qua việc được vô số các nhân vật có uy tín nhắc đi nhắc lại liên tục qua nhiều năm. Giống như rượu vang, quan niệm phổ biến cũng có thể bị hỏng. Với các sự kiện hoặc các kiến thức mới, quan niệm phổ biến cũng có thể chỉ còn là chuyện đã qua hoặc lý thuyết lỗi thời. Ngược lại, quan niệm phổ biến ngày nay lại thường xuất hiện từ vô định. Các lý thuyết - hầu hết là bàn về các chủ đề mà gần như tất cả mọi người chưa nghĩ đến hay người ta chỉ có chút ít quan điểm rõ ràng - bất ngờ mang tính thời sự và được chấp nhận. Các lý thuyết này không chín muồi theo cách phù hợp, mà được “đóng gói” nhanh chóng, quảng cáo rầm rộ và “bán” một cách quyết liệt. Quan niệm phổ biến đã ít tự nhiên hơn và chứa đựng nhiều toan tính hơn so với trước kia. Nó ngày càng trở thành hoạt động buôn bán có tính trí tuệ hoặc chính trị. Tôi cho rằng điều này giúp giải thích tại sao đa phần quan niệm phổ biến đã trở nên hời hợt, nhầm lẫn và ngu xuẩn. Các ý tưởng là tay sai cho tham vọng của con người, các nhóm lợi ích hoặc các chương trình của giới chính trị hay trí thức. Nó không phát xuất từ những nỗ lực vô tư để khám phá sự thật. Nó là sự vận dụng của kinh doanh và phải gánh chịu mọi sự thái quá của kinh doanh. Người ta nhấn mạnh đến những gì làm nên hoàn cảnh của họ, và bỏ qua hoặc tối thiểu hóa những gì “không dính dáng”. Các tuyên bố là quá lời. Sự kiện được chọn lọc. Việc thẩm định bị phớt lờ hoặc không rõ ràng. Chính trị ảnh hưởng nhiều đến việc này. Nói đến chính trị, tôi không có ý nói riêng về hay tập trung phần lớn vào Đảng Dân chủ hay Cộng hòa, đến khuynh hướng tự do cấp tiến hay bảo thủ. Hình thái chính trị đang thắng thế ngày nay là cái mà tôi gọi là “chính trị giải quyết vấn đề”. Mọi khiếm khuyết trong xã hội, bằng cách nào đó, cần được chuyển đổi thành một “vấn đề” cụ thể, và sau đó có thể được “giải quyết”, thường là do chính quyền, còn nếu không là được giải quyết bởi “thị trường” hoặc một ai khác, một thứ gì khác. Nói chung người Mỹ lạc quan và thực dụng, rất sùng bái sự tiên tiến. Chúng ta gắn bó với ý tưởng cho rằng các vấn đề đều có thể được giải quyết - và từ đó sự không hoàn hảo được giảm đi. Tocqueville cho rằng, người Mỹ tin vào “sự hoàn thiện không giới hạn của con người”. Chúng ta phản đối ý niệm cho rằng một số thiếu sót chỉ đơn giản là những mảng bình thường của cuộc sống. Sau nữa, đây cũng không phải là một lực đẩy mới. Nhưng trong thời đại của chúng ta thì quan niệm phổ biến đã được nhắc đến nhiều hơn. Nó liên tục được nuôi dưỡng bởi các nhóm chủ trương biện hộ, các nhà chính trị doanh nhân (entrepreneurial politicians) - là các ứng viên hoặc viên chức văn phòng không thể dựa vào một bộ máy đảng phái mạnh tại trung ương để tiến lên phía trước, mà ngày càng phải tự thân vận động - và các trí thức lớn, của cả hai cánh Tả và Hữu. Tất cả họ đều rao giảng cho công chúng về tất cả mọi thứ, từ chính sách của chính phủ đến việc phổ biến văn hóa. Chúng ta được dẫn dắt để tin rằng hầu hết các vấn đề xã hội và kinh tế đều có thể được giải quyết và mong muốn của người dân là có thể được xoa dịu hay đáp ứng. Với những vấn đề được tìm ra để giải quyết, những nhóm chủ trương biện hộ, các chính trị gia, và các vị thương nhân kinh doanh ý tưởng khác nhau đã tự khẳng định mình. Họ thiết lập sự nhận biết, nâng cao tầm nhìn của họ, và kết nối các cử tri hoặc khán giả. Sự chủ trương biện hộ hòa lẫn với tự quảng cáo. Sản phẩm mà quá trình này tạo ra là sự thổi phồng bất tận. Một vấn đề không thể đơn giản là quá khiêm tốn, bất tiện, khó tránh khỏi, hoặc khó giải quyết. Vấn đề phải là chuyện lớn, nghiêm trọng, nguy hiểm, và bức xúc - và có thể giải quyết được. Vì vậy, các vấn đề được cường điệu hóa lên về mặt quy mô và mức độ nghiêm trọng, theo đó sức mạnh của các giải pháp đề xuất cũng được thổi phồng lên theo. Việc tìm kiếm các khoản đóng góp cá nhân để tài trợ cho chiến dịch chính trị không thể đơn giản chỉ mang tính tự hạ thấp mình và không “sạch”; nó phải khuấy động được những nền móng cho dân chủ - và có thể thu hồi được từ “chiến dịch cải cách tài chính” (xem “Cái Giá của Chính trị”). Chăm sóc sức khỏe được quản lý (managed care) không thể chỉ đơn giản là một phương pháp mới và chưa hoàn hảo để cung cấp các dịch vụ y tế; nó phải là một cuộc tổng công kích không thương xót dành cho sự tích hợp của y học hiện đại và khôi phục được từ “cải cách y tế” (xem “Chuyện hoang đường về “con quái vật” Chăm sóc sức khỏe được quản lý”). Trong những năm 1990, việc các thành viên Đảng Cộng hòa chiếm đa số ghế trong Quốc hội không thể chỉ đơn giản là sự thay đổi trong quyền lực chính trị để có thể sửa đổi đường lối và bầu không khí chính trị của đất nước. Nó phải là một “cuộc cách mạng” toàn diện làm thay đổi chính trị và cuộc sống như chúng ta đã biết (xem “Họ gọi đây là một cuộc cách mạng?”). Đến một mức độ nhất định, sự biện hộ đòi hỏi việc tranh luận phải trở thành các bài học đạo đức: người tốt (hoặc các ý tưởng tốt) đối lập với cái xấu. Người anh hùng và kẻ xấu xa cùng tạo nên “sức nặng” (throw-weight) của trí tuệ và chính trị để cho chương trình nghị sự được nâng cao, đầy hoài nghi, và có các đối thủ công kích nhau. Ở Hoa Kỳ, loại vận động này tìm thấy một đối tượng khán giả sẵn lòng. Vượt trên sự lạc quan - một niềm tin rằng những gì bị hỏng có thể được sửa chữa - là di sản mang tính nhiệm vụ của chúng ta. Người Mỹ luôn luôn tưởng tượng mình là một ngoại lệ đặc biệt và đúng đắn, nhất quyết cải tiến nhân loại với việc tấn công vào thành trì của sự ngu dốt, quyền lực thối nát hay điều ác. Những đặc tính này của dân tộc là rất tuyệt vời. Chúng thường làm chúng ta chìm vào sự ngây thơ ngấm ngầm rằng: nếu chỉ vì cái gì đó chưa được thực hiện trước đây thì không có nghĩa là điều đó không thể được thực hiện. Những niềm tin vào sự tiến bộ có thể tạo ra tiến bộ và thường xuyên là như vậy. Tuy nhiên, một số đức tính tốt của dân tộc, khi để vượt quá mức hợp lý, cũng trở thành thói xấu (xem “Các vết đen trong đạo đức của chúng ta”). Chính trị “Giải quyết vấn đề” là một trong những loại hỗn hợp khó chịu của sự thành công và thất bại. Khi thất bại, nó dẫn đến một thứ quan niệm phổ biến với đầy rẫy các điều giản đơn và ngớ ngẩn, trong khi vẫn gợi cảm hứng cho các “giải pháp” mà đôi khi có hại nhiều hơn là có lợi. Vấn đề của dịch vụ chăm sóc sức khỏe không phải là “được quản lý”, mà là mâu thuẫn trong nhu cầu của công chúng: chúng ta muốn bảo hiểm y tế toàn diện (universal health insurance), tuyệt đối tự chủ cho các bệnh nhân và bác sĩ trong quá trình điều trị và kiểm soát được chi phí y tế. Không có chế độ nào có thể đồng thời đáp ứng các nhu cầu không nhất quán này. (Nếu tất cả mọi người đã bảo hiểm cho tất cả mọi thứ, và bác sĩ hay bệnh nhân đều có thể yêu cầu bất cứ gì họ muốn - thì chi phí sẽ không thể kiểm soát được.) Vấn đề với “chiến dịch cải cách tài chính” là: nếu sử dụng kết luận logic của nó thì tự do ngôn luận chính trị sẽ bị bịt miệng. Điều phiền toái là truyền thông hiện đại (qua truyền hình, quảng cáo, gửi thư hàng loạt) đều cần tiền. Nếu truyền thông không phải là vấn đề ngôn luận, thì là cái gì? Và nếu mọi người không thể chi tiền để biện hộ cho các quan điểm chính trị và hỗ trợ các ứng cử viên chính trị mà họ tán thành, thì họ “tự do” như thế nào? Nghệ thuật biện hộ có hiệu quả để khỏa lấp các hoài nghi sẽ làm hỏng các thông điệp đạo đức. Vấn đề sẽ không còn đơn giản như vậy nữa, giải pháp không còn rõ ràng như vậy nữa. Xung đột giữa các mục tiêu mong muốn được tối thiểu hóa, và giới hạn thực tế của các giải pháp đề xuất cũng vậy. Chúng ta, những người trong báo giới, hỗ trợ cho sự lẩn tránh - và đôi khi còn xúi giục nó. Là người Mỹ, chúng ta chia sẻ tính nhạy cảm trong việc giải quyết vấn đề. Ngoài ra, chúng ta cũng có lợi ích riêng. Chúng ta cần thu hút và giữ được độc giả. Cả bản năng và lợi ích của chúng ta đều được đặt trong việc nghiên cứu các mâu thuẫn và xung đột. Chúng ta thường hào hứng tham gia vào các cuộc vận động đạo đức hay chính trị. Đó là câu chuyện hay và thu hút các khách hàng của chúng ta. Mặc dù đó là sự thật từ lâu nay, nhưng thực tế cạnh tranh mới đã thổi phồng các hiệu ứng. Chỉ cách đây một vài thập kỷ, trong những năm của thập niên 1960 - phương tiện truyền thông tin tức quốc gia mới chỉ gồm một nhóm nhỏ và ổn định với các tổ chức: 3 mạng lưới truyền hình (ABC, CBS, và NBC); 3 tạp chí (Time, Newsweek, và Thông cáo Tin tức & Thế giới của Hoa Kỳ), một số báo chí quốc gia có tầm cỡ (Thời báo New York, The Wall Street Journal, Bưu điện Washington) trong đó chỉ có một tờ có phạm vi phát hành toàn quốc (tờ Journal) và một vài dịch vụ thông tin chính yếu (Hiệp hội báo chí (Associated Press), Liên đoàn báo chí quốc tế (United Press International). Điều này cho phép các chuyên gia tin tức - các nhà biên tập, các nhà báo - có quyền quyết định những gì là “tin tức” và những gì không phải là “tin tức”. Phán xét của họ rõ ràng là có thể sai lầm và không được “miễn nhiễm” với xu thế chính trị đang thống trị hay xu hướng của giới trí thức. Nhưng các phán xét phần lớn cũng chỉ là phán xét của riêng giới đưa tin mà thôi. Với lượng độc giả ổn định, áp lực thương mại buộc sử dụng tin tức để thu hút người đọc và người xem thời đó là chưa nhiều. Tình hình hiện nay là hoàn toàn khác. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông thật ấn tượng: đã có các kênh truyền hình cáp (MTV, ESPN, CNN, C-span); có một mạng lưới truyền hình chủ chốt khác (Fox); thêm hai tờ báo quốc gia (tờ Hoa Kỳ Ngày Nay và Thời báo New York); Internet và vô số các trang web với các tin tức, thông tin tài chính, y tế, khiêu dâm và nhiều nhiều nữa. Không ai còn có thể giữ vững lượng khán giả của mình. Khi các mạng lưới truyền thông còn kiểm soát được các kênh truyền hình, người xem phải theo dõi các chương trình tin tức ban đêm (thường là được ấn định cùng thời điểm) - hoặc không có gì khác để xem. Bây giờ họ có thể bấm nút để xem chương trình nấu ăn, thể thao, hoạt hình, phim truyện, câu chuyện du lịch, mua sắm cho gia đình. Hoặc họ có thể lướt net. Lượng khán giả của mạng tin tức ban đêm sụt giảm nhanh. Độc giả của báo chí cũng giảm, tuy chậm hơn nhưng nói chung là đã giảm. Kết quả là những người kinh doanh tin tức đã mất quyền lực trong việc xác định những gì là tin tức và những gì không phải là tin tức. Ngày càng nhiều, người đọc và người xem mới là những người xác định đâu là tin tức, với việc thu nhặt và chọn lọc những gì họ muốn, hoặc quyết định rằng họ không cần tin tức nữa. Điều này làm tăng thêm yêu cầu đối với người biên tập và các phóng viên báo phải làm sao để cho các tin tức phổ biến hơn và hấp dẫn hơn. Hiện đã có sự nhập nhèm giữa tin tức và giải trí, khi các giá trị của truyền hình đã lan tràn trong tất cả các phương tiện truyền thông. Để lôi kéo khán giả, bài bình luận phải trở nên “cao giọng” hơn. Chương trình “Bắn chéo” (CrossFire)[2] của kênh CNN là người đi đầu: chính trị tương đương như thi đấu vật chuyên nghiệp. Sự độc lập trong công tác biên tập đã bị thu hẹp lại. Biên tập viên vẫn được quyết định những gì sẽ được in hoặc được xem, nhưng nếu những gì họ làm là không thành công trên không gian thị trường, họ sẽ bị thay thế. Các nhà phê bình trong lĩnh vực truyền thông đại chúng thường xuyên than phiền rằng sự thống trị của một vài doanh nghiệp lớn đã hạ thấp các giá trị của thông tin xuống mức chỉ còn là lợi nhuận. Tình trạng này, trong nhiều khía cạnh, lại là ngược lại. Cạnh tranh mạnh hơn đã tấn công vào sự tự chủ trong biên tập. Càng có nhiều gã khổng lồ trong ngành truyền thông thì các giá trị của tin tức lại càng trở nên khó khăn hơn. Khi một vài công ty lớn thống trị thị trường (ba mạng lưới truyền hình là ví dụ rõ ràng), họ có thể chấp nhận sự độc lập cao hơn từ các phòng ban tin tức, chính xác là vì tổng lợi nhuận là con số chắc chắn và có thể dự đoán được. Ngược lại, số lượng các “đại gia truyền thông” ngày nay là rất nhiều và họ cũng ít được an toàn hơn trước. Sự cạnh tranh khốc liệt để giành lấy khách hàng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thành công trong thương mại và xói mòn các giá trị thuần túy của việc biên tập. Đến một mức độ nhất định thì tin tức đã được dân chủ hóa. Nó ngày càng được tung ra theo mệnh lệnh của thị trường. Điều này tạo thuận lợi cho một phong cách biên tập, theo đó nhấn mạnh vào các câu chuyện đạo đức của các đấng anh hùng và những kẻ vô lại, rồi rút ra những xung đột một cách sâu sắc - về bất cứ điều gì để tạo ra một “tin đồn”. Những gì mà tôi muốn đề xuất là: cách thức mà chúng ta, ở đây được hiểu như một xã hội, tổ chức và trình bày thông tin - một cách có hệ thống và hầu như dự đoán được từ trước - ngày càng dẫn đến sự sai lạc. Truyền thông không chắc chắn và những người thực hành chính trị “giải quyết vấn đề” (các chính trị gia, các nhóm biện hộ, “những cái đầu hiểu biết”) đã “kết hôn” với sự dễ dãi. Họ cùng nhau khai thác để đạt được mục tiêu hẹp: có được sự nổi tiếng hoặc khét tiếng, thúc đẩy một chương trình nghị sự của giới chính trị hay trí thức, nắm bắt được khán giả và thị phần. Kết quả là chúng ta bị oanh tạc bởi các luồng vấn đề miên man không dứt (một số vấn đề xã hội, một số căng thẳng trong vấn đề con người - ma túy, bệnh tật, lạm dụng trong hôn nhân gia đình, stress) và các giải pháp đi kèm. Nhiều vấn đề trong số đó là có thật, một số các giải pháp có thể thực sự có ích. Nhưng có sự cường điệu thổi phồng trong cả hai nội dung: vấn đề và giải pháp, bởi vì đó là những thứ thu hút sự chú ý. Tôi gọi quá trình này là “cái sai”. Đó là sự xuyên tạc thực tế nói chung, tuy nhiên không phải là kết quả của sự dối trá cố tình. Đúng hơn thì đó là sản phẩm bình thường của chính trị và truyền thông dân chủ của chúng ta. Điều đó xảy ra, khi chúng ta tìm hiểu và tranh luận các vấn đề có ảnh hưởng đến cả tập thể. Nếu không làm như thế, chúng ta sẽ không phải là chính chúng ta nữa. Nhìn chung, tiến trình này là lành mạnh. Nhưng quá trình này sẽ trở thành không lành mạnh khi nó đơn giản hoá quan điểm của chúng ta về sự thật và lãng mạn hóa sức mạnh của chúng ta khi thay đổi sự thật đó. Đối với tôi, sự đơn giản hóa và cường điệu hóa nhằm phục vụ lợi ích bản thân là một cánh đồng phì nhiêu cho các báo cáo và bình luận. Chúng cầu mong để được trở nên tinh vi và xác thực. Tôi đã cố gắng để cung cấp được một bối cảnh: để cho mọi người có bức tranh vô tư và đầy đủ về thế giới của chúng. Kết luận của tôi là: quan niệm phổ biến (thường) là sai, vì nó là phương tiện cho một số chương trình chính trị hay tham vọng cá nhân. Trong thực tế, tôi không tin rằng có bất kỳ một nhóm chính trị, kinh tế, xã hội, hoặc một nhóm ý thức hệ nào lại có “độc quyền” về cái sai. Bạn có thể nhìn thấy một cơ chế tương tự cũng hoạt động như vậy trên khắp các quang phổ chính trị và trên tập hợp các mối quan tâm và yêu cầu của xã hội. Những người bảo thủ có xu hướng ca ngợi “thị trường”, ngay cả khi thị trường rõ ràng phạm sai lầm (xem “Sự sáp nhập kỳ lạ”). Những người tự do cấp tiến có xu hướng nói quá lời trước những ảnh hưởng dần dần về sau của sự bất bình đẳng trong thu nhập (xem “Không phải là các hộ gia đình điển hình”). Các chuyên gia môi trường bàn về việc hủy diệt hành tinh trong bối cảnh của “ngày tận thế” (xem “Bạn đừng lo lắng”). Một lần nữa, những vấn đề thường là có thực, nhưng chúng cần phải được trình bày trong những điều kiện khắc nghiệt nhất để khơi dậy sự quan tâm hay củng cố cho giải pháp đề xuất. Mặc dù các kỹ thuật đã phổ biến rộng rãi, vẫn có xu hướng nghiêng về các loại “sai lầm” nổi trội nhất: đó là những cái sai “cấp tiến” (liberal untruths). Lý do chính yếu là tầng lớp “viết nguệch ngoạc và nói huyên thuyên” - các nhà báo, biên tập viên, các nhà nghiên cứu học thuật, các nhà bình luận - có xu hướng tự do cấp tiến nhiều hơn là bảo thủ. Rất nhiều các cuộc điều tra đã xác nhận điều này trên báo chí. Năm 1992, gần 90% các nhà báo của Washington ủng hộ Bill Clinton, theo kết quả một trong những cuộc thăm dò ý kiến. Nhưng trên phạm vi quốc gia, lượng phiếu phổ thông dành cho Clinton chỉ là 43%. Một cuộc khảo sát trong giới học thuật (dành cho các giáo sư tại các trường cao đẳng và đại học hệ 2 năm và 4 năm) được xuất bản trong cuốn Giáo dục cấp cao Ký sự (Chronicle of Higher Education) cho thấy: 5,2% cho rằng mình “cực tả”; 39,6% “tự do cấp tiến”; 37,2% “trung lập” (không tả mà cũng không hữu); 17,6% “bảo thủ”; và 0,4% “cực hữu”. Kết quả không phải là một liên minh có ý thức giữa báo chí và nhóm ủng hộ tự do cấp tiến và nhóm chính trị gia Dân chủ. Hầu hết các nhà báo và nhà biên tập (ít nhất là của báo chí, tạp chí tin tức, và kênh truyền hình chính thống, mặc dù rõ ràng không thuộc các tạp chí hoặc chương trình truyền hình chuyên bày tỏ quan điểm) đều tán thành ý kiến cho rằng họ nên khách quan và trung lập. Họ hào hứng đăng tải các scandal liên quan đến những người tự do cấp tiến cũng như bảo thủ. Họ biết rằng hầu hết các chính trị gia và những người theo một phe phái nào đó đều cố gắng “thêu dệt” nên các câu chuyện. Một số nhà báo tự xem mình như là nền tảng thụ động để người khác tuyên truyền. Tất cả chúng ta đều biết rằng mọi người có xu hướng để cho các “nguồn” khác sử dụng. Phần lớn những gì báo chí thực hiện lại không đả động gì nhiều đến các nhà chính trị hay các phe phái. Chúng ta chỉ đơn giản là kể lại một “câu chuyện hay”, hoặc đóng vai trò truyền thống là “giám sát” chính phủ, các cơ quan và các tập đoàn. Xu hướng này còn tinh tế hơn. Những câu chuyện do các chính trị gia tự do cấp tiến và các “chuyên gia” các loại (nhà kinh tế, nhà khoa học, bác sĩ, nhà khoa học xã hội, nhà giáo) kể lại đã tìm thấy những người nghe đồng cảm nhiều hơn là những câu chuyện kể của những người bảo thủ. Các anh hùng và tên vô lại của phe tự do cấp tiến, các giá trị và niềm tin của họ tương ứng sát sao hơn với các triết lý và thành kiến của nhà báo và nhà biên tập. Những gì đến từ các nguồn tự do cấp tiến có vẻ như đáng tin cậy hơn và xác đáng hơn. Nó phù hợp với các ý niệm về xung đột xã hội và theo đuổi một xã hội tốt. (Họ cho rằng) Đây không phải là thành kiến. Đó là thực tế. Thông thường họ không thể tưởng tượng các sự vật theo cách nào khác. Ngược lại, những người bảo thủ - hoặc người không thuộc nhóm tự do cấp tiến -thường được xem là người biện hộ cho các doanh nghiệp và người giàu có. Hoặc họ bị bêu riếu là những người nhẫn tâm và kỳ quặc. Các giá trị của riêng tôi là khá chính đáng (tôi tin là vậy), mặc dù những người khác có dán lên cái nhãn là quá bảo thủ hoặc - ít khi hơn - là quá tự do cấp tiến. Tôi tin rằng Chính quyền trung ương nhìn chung là đem lại các lợi ích cho quốc gia, nhưng tôi cũng nghĩ rằng việc mở rộng chính phủ sẽ đem lại nhiều vấn đề khó khăn mang tính thực tiễn và tạo điều kiện cho sự lạm quyền. Người ta có thể trở nên quá phụ thuộc vào phúc lợi của chính phủ. Thuế có thể tăng quá cao và ảnh hưởng đến sức khỏe kinh tế hoặc tự do cá nhân. Mặc dù khó có thể xác định được các giới hạn nhưng chúng thực sự tồn tại. Tương tự như vậy, tôi đặt nhiều niềm tin vào các “thị trường” - sự tự do để xác định những gì mà chúng ta cần sản xuất, giá cả của chúng, cách thức chúng ta tiết kiệm và đầu tư, và nơi chúng ta làm việc - nhưng tôi không tin rằng các thị trường là cái hiểu-biết-hết-mọi-thứ hoặc hoàn hảo. Các thị trường cũng có sai lầm và cần sự giám sát và điều tiết của chính phủ. Thường thì có ranh giới mỏng manh giữa mức độ quá ít và quá nhiều của công việc này. Sau cùng, tôi tin vào những gì đôi khi bị chế nhạo là “những giá trị truyền thống gia đình”: tình yêu cha mẹ và kỷ luật của cha mẹ, nếu có thể. Với sự may mắn, các bậc cha mẹ có thể giúp con cái của họ lớn khôn và thành những người lớn có trách nhiệm và tự lập. Cha mẹ đem lại tình yêu, các bài học nhỏ về cuộc sống hàng ngày, và những kiến thức cần có. Từ thử thách này mà một cá nhân có thể có năng lực và sự tự tin. Mặc dù việc nuôi dạy con cái là một việc phức tạp - và không có sự đảm bảo cho thành công - các tổ chức của chính phủ và xã hội không thể dễ dàng thay thế cho các bậc cha mẹ đầy tình thương yêu và đủ khả năng (xem “Thứ mà tiền không thể mua được”). Tôi đã có vợ và ba đứa con, hiện chúng ở độ tuổi từ mười đến mười lăm. Đó là những phần quan trọng nhất của đời tôi. Các nhà báo, những người phụ trách chuyên mục là “con lai” (tôi tin là như vậy). Quan điểm của tôi cho rằng họ không phải là nhà báo thuần túy, cũng không phải là người biện hộ thuần túy. Họ là sự kết hợp của cả hai. Họ pha trộn quan điểm và tình cảm trong bài báo của mình. Mối nguy hiểm lớn nhất - hậu quả của việc quá ấn tượng với tầm quan trọng của riêng mình - là trở thành kẻ “nhai lại chính mình” (self-parody): một người có quan điểm và phong cách có thể được dự đoán trước, và có thể bị bắt chước theo một cách dễ dàng. Sự nguy hiểm của riêng tôi là, từ việc liên tục thách thức quan niệm phổ biến, tôi trở thành người hoài nghi chính mình (reflexively skeptical) trước bất kỳ quan điểm nào của đám đông hoặc thường xuyên phê phán bất cứ điều gì là mới hoặc khác biệt. Tôi nhận thức được sự nguy hiểm, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể vượt lên trên nó. Đa phần trong nghề báo chí, những gì chúng tôi viết ra thường là vào thời hạn chót. Các đánh giá phải được thực hiện một cách nhanh chóng. Chúng thường sai. Tôi nghi ngờ việc liệu có hay không những người phụ trách chuyên mục lớn mà lại không lúng túng vì một số bài viết của mình trong quá khứ. Nếu có những người này thì tôi không nằm trong số đó. Lẽ ra tôi có thể đưa vào cuốn sách này những sai lầm ngớ ngẩn của riêng tôi. Một trong những bài viết yêu thích nhất của tôi đã đặt ra khái niệm về “công nghệ trì hoãn” - đối lập với công nghệ tiên tiến, chúng là các công nghệ mới tạo ra những phương pháp cồng kềnh và đắt tiền để thực hiện các công việc đã được làm một cách đơn giản và không mấy tốn kém trước đây. Một ví dụ là sách điện tử, đối với tôi thì đây đã từng là một ý tưởng tồi, trong khi dùng sách giấy là quá thuận lợi. Sau khi suy xét, tôi đã quyết định không đưa vào đây bài viết này. Robert J. Samuelson Ngày 26, tháng 9 năm 2000 Washington, D.C.I Mời các bạn đón đọc Nói Vậy Mà Không Phải Vậy của tác giả Robert J. Samuelson.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trí Thông Minh Thực Dụng - 5 Phút Mỗi Ngày Để Thay Đổi Cuộc Sống
Trí thông minh thực dụng là cuốn sách tư duy giúp khai mở cho chúng ta về trí tuệ cảm xúc (EI) của con người, tìm hiểu thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài, từ đó giải quyết các vấn đề liên quan đến khả năng thích ứng, kiểm soát căng thẳng, và chúng ta cũng nhận thức được vai trò của EI trong cuộc sống của mỗi người. Trí tuệ cảm xúc (EI) vẫn được gọi là “lương tri cấp cao” và đã được chứng minh là chỉ số dự đoán thành công tốt hơn nhiều so với IQ. Và không giống chức năng nhận thức, những năng lực cảm xúc của bạn có tính linh hoạt, có thể điều chỉnh và rất có khả năng mở rộng. Với rất nhiều câu chuyện đầy cảm hứng về những công ty đã gõ cánh cửa mở ra sức mạnh của EI, cùng với thông tin về những người đang phải đối mặt với những tình thế khó xử trong thế giới thực, và những kế hoạch hành động dễ thực hiện, cuốn Trí thông minh thực dụng mở ra trước mắt bạn những bài học cuộc sống then chốt, nhưng vẫn thường bị bỏ qua, bao gồm cách: · Giải quyết xung đột theo cách mang mọi người tới gần nhau hơn và biết vì sao sự tách rời là mối lo thực sự.  · Trở nên hòa hợp với đủ các cung bậc cảm xúc và biến chúng từ kẻ thù thành đồng minh của bạn.  · Chuyển từ suy nghĩ về thành công trên phương diện tiền bạc sang khám phá điều bạn thực sự muốn đạt được, và sau đó, tích cực làm việc để đạt được những mục tiêu đó.  · Xây dựng các mối quan hệ cá nhân và nghề nghiệp lành mạnh, nền tảng của hạnh phúc và sự viên mãn. · Sử dụng trí tuệ cảm xúc để chèo lái một cách hiệu quả trước sự thay đổi và đối phó với sự căng thẳng. · Nuôi dưỡng tinh thần lạc quan và những thói quen tinh thần khác của những người hạnh phúc – trong khi tránh cách nhìn hữu hạn “Pollyanna ”. Với rất nhiều câu chuyện thực tế để người đọc có thể rút ra những bài học bổ ích cho việc tăng cường trí tuệ cảm xúc bản thân cũng như ứng dụng trong cuốc sống, Trí thông minh thực dụng là cuốn sách tư duy nên đọc dành cho bất cứ ai muốn thay đổi bản thân để đạt được những mục tiêu thiết thực cho cuộc đời mình. Tác giả cuốn sách HARVEY DEUTSCHENDORF là thầy dạy trí tuệ cảm xúc đã làm việc trong lĩnh vực này hơn 10 năm và là nhà Quản lý được Chứng nhận của BarOn EQi, bài kiểm tra chỉ số EI có giá trị khoa học đầu tiên được Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ chứng nhận. Ông sống tại Alberta, Ca-na-đa. *** BÍ QUYẾT CỦA HẠNH PHÚC Chúng ta hẳn đã có lần đặt câu hỏi, tại sao có những người thành công khá dễ dàng còn một số khác lại phải vật lộn cả đời mà vẫn không có được thành công như vậy, dù đã loại bỏ các yếu tố ngẫu nhiên, may mắn hay nền tảng khác. Trí thông minh thực dụng sẽ giúp các bạn trả lời một phần nào đó câu hỏi trên. Cuốn sách sẽ khai mở cho chúng ta về trí tuệ cảm xúc (EI) của con người, tìm hiểu thế giới nội tâm và thế giới bên ngoài, từ đó giải quyết các vấn đề liên quan đến khả năng thích ứng, kiểm soát căng thẳng, và chúng ta cũng nhận thức được vai trò của EI trong cuộc sống của mỗi người. Từ thế kỷ XX, các nhà tâm lý học đã bắt tay vào việc nghiên cứu nghiêm túc các dạng trí tuệ khác nhau, và cho rằng ngoài IQ còn có những lĩnh vực khác cần xem xét, đó chính là khởi nguồn cho trí tuệ cảm xúc ngày nay. Đúng như trong cuốn sách này khẳng định, mục đích của EI là giải quyết các vấn đề “làm thế nào” của cuộc sống chứ không giải quyết câu hỏi “vì sao”. Và điều này đang dần trở nên thiết thực hơn, quan trọng hơn với tất cả chúng ta, bởi mỗi chúng ta đều đang tìm cách làm thế nào để có một cuộc sống hạnh phúc hơn, một công việc thành công hơn và một cuộc đời đáng sống hơn. Cuốn sách đưa chúng ta tìm về cội nguồn của vấn đề, đó là phải có mục đích rõ ràng để thuyết phục bản thân làm điều này hay điều khác. Bởi từ xa xưa, các triết gia đã cho rằng, hạnh phúc chính là việc theo đuổi một mục tiêu nào đó. Ngày nay, việc lựa chọn mục đích tùy thuộc vào mỗi cá nhân, mỗi người tự tìm cho mình một mục tiêu nhất định để đạt tới. Ở Việt Nam thời gian gần đây rộ lên việc giáo dục kỹ năng mềm cho các độ tuổi, cả trong và ngoài nhà trường. Trước đây, việc giáo dục còn nặng về kiến thức, các cá nhân không được trang bị về những kỹ năng như giải quyết tình huống hay giải tỏa căng thẳng... Giờ đây, khi được học và hiểu về những kỹ năng này, con người linh hoạt hơn trong các tình huống cuộc sống, cũng dễ dàng đương đầu được với những áp lực từ cả xã hội và công việc vốn đang ngày càng đè nặng lên mỗi cá nhân. Để tìm ra được mục đích của mình cũng như trả lời cho câu hỏi làm thế nào để có được cuộc sống thú vị hơn, công việc thành công hơn, trang bị kiến thức về trí tuệ cảm xúc và thấu hiểu về tâm lý con người trong xã hội hiện đại là hoàn toàn cần thiết. Đặc biệt cuốn sách có rất nhiều câu chuyện thực tế để người đọc có thể rút ra những bài học bổ ích cho việc tăng cường trí tuệ cảm xúc bản thân cũng như ứng dụng trong cuộc sống. Đây là một cẩm nang chi tiết, giúp bạn đạt được những mục tiêu thiết thực cho cuộc đời mình. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc! Hà Nội, tháng 3 năm 2011 NGUYỄN HỒNG CHƯƠNG Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đào tạo Nghề Đông Dương *** Công cụ mạnh nhất là công cụ con người sẽ sử dụng. Những kỹ thuật trong cuốn sách này thật đơn giản, dễ hiểu và dễ sử dụng, không đòi hỏi nhiều thời gian. Tôi hiểu và tôn trọng thực tế rằng, trong cuộc đời, bạn có nhiều mối quan tâm khác nhau mà thời gian thì hữu hạn. Dù có thể bạn rất quan tâm tới trí tuệ xúc cảm thì điều đó vẫn phải phù hợp với thế giới của bạn, chứ không phải ngược lại. Cuốn sách này cung cấp cho bạn những kỹ thuật đơn giản, hiệu quả và chỉ cần năm phút mỗi ngày. Thành công không phải là một bước đột phá. Nó là sự tích lũy những thay đổi nhỏ có được nhờ sự kiên trì, kỷ luật tự giác và học cách tận dụng tối đa trí tuệ xúc cảm. Với câu hỏi: Nâng cao trí tuệ xúc cảm có khó không, câu trả lời là có và không. Không, vì nó không khó về mặt kỹ thuật. Nó không đòi hỏi kiến thức đặc biệt, chỉ số IQ cao hay cần nhiều bí quyết kỹ thuật. Nhưng nó không dễ thực hiện. Nó đòi hỏi ý thức kỷ luật tự giác để duy trì hành động trong một khoảng thời gian dài, ngay cả khi không có kết quả rõ ràng ngay lập tức. Có thể trong phần lớn cuộc đời, tiềm thức chúng ta đã hoạt động theo những cơ chế mặc định tự hủy hoại bản thân. Thời xa xưa, cùng với bản năng sinh tồn, nhiều cơ chế hành vi ra đời do sự cần thiết, nhằm giúp loài người thoát khỏi những tình huống khó khăn. Nhiều người trong chúng ta dựa vào nỗi giận dữ và các xúc cảm mạnh khác để đối phó và thoát khỏi những gia đình bất ổn, những tình huống không may khác trong thời kỳ được nuôi dưỡng. Tuy nhiên, khi thoát ra khỏi hoàn cảnh đó, sự tức giận không còn giúp chúng ta nhiều nữa mà thậm chí còn chống lại chúng ta. Lúc đó, điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng suy nghĩ và hành vi trước đây từng cần thiết nay đã trở nên lỗi thời, có hại và chúng ta phải nỗ lực phát triển cách suy nghĩ mới về bản thân, về những người xung quanh và về môi trường của chúng ta. Những gì va vấp phải trong những năm tháng trưởng thành sẽ có ảnh hưởng đối với chúng ta cho đến tận cuối đời – tại nơi làm việc, trong gia đình và trong tất cả những quan hệ tương tác của chúng ta với thế giới. Mặc dù một vài điều chúng ta học được là tốt và sẽ rất có ích thì cũng có một số điều có thể phá hoại tương lai của chúng ta. Tin tốt là chúng ta có thể thay đổi những gì đã học trong quá khứ và học được những cách mới và tốt hơn để tương tác với thế giới xung quanh. Không giống chỉ số thông minh (IQ) – gần như được ấn định cả đời khi chúng ta bước vào tuổi trưởng thành, chúng ta có thể thay đổi được trí tuệ xúc cảm (EI). Bước đầu tiên là xác định đâu là sở trường của bạn và điều gì có ích cho bản thân. Trong cuốn sách Go Put Your Strengths to Work (Tạm dịch: Kích hoạt sức mạnh của bạn), tác giả Marcus Buckingham nói rằng, chúng ta nên tập trung vào việc tạo ra một môi trường làm việc sử dụng các thế mạnh nhiều hơn là quan tâm tới những điểm yếu. Lý thuyết của ông cho rằng, sẽ có lợi hơn khi chúng ta tập trung và cải thiện những lĩnh vực mà chúng ta vốn đã giỏi và có tài năng. Quan điểm này giống với tâm lý học tích cực, khẳng định rằng khi giúp đỡ người khác, chúng ta sẽ đạt được kết quả tốt hơn nhiều nếu tập trung vào những thế mạnh thay vì những điểm yếu của họ. Đây là một sự thay đổi có ý nghĩa so với quá khứ, khi đó tâm lý học tập trung chủ yếu vào các điểm yếu và làm thế nào để cải thiện chúng. Nói chung, tôi nghĩ rằng tập trung vào điểm mạnh là cách làm đúng đắn. Bất kỳ khi nào đưa ra ý kiến đánh giá EI cho ai đó hoặc khi hướng dẫn, đầu tiên tôi xác định và nói về các thế mạnh của người đó trước khi nhìn nhận những thách thức. Tuy nhiên, trong khi tập trung vào các điểm mạnh, vẫn có một số lĩnh vực chúng ta không được phép bỏ qua, ngay cả nếu đó không phải là sở trường của chúng ta. Các lĩnh vực quan trọng này sẽ hủy hoại chúng ta và phủ nhận những thế mạnh của bản thân nếu chúng không được quản lý tốt. Câu hỏi, vì sao một số người thì thành công, trong khi những người khác phải vật lộn cả đời và đạt được rất ít thành công, vẫn luôn hấp dẫn loài người. Trong phần lớn thế kỷ XX, chúng ta vẫn để tin rằng, đó là vì trí thông minh nhận thức, hay IQ, quyết định mức độ thành đạt của chúng ta. Tuy nhiên, thực tế phổ biến và năng lực quan sát giản đơn của chúng ta cho chúng ta biết rằng điều này không đúng, rằng hẳn phải có nhiều yếu tố dẫn tới thành công hơn việc chúng ta đạt kết quả thế nào trong các bài kiểm tra ở trường. Trong cuốn Successful Intelligence (Tạm dịch: Trí tuệ thành đạt), Robert Sternberg xem xét trường hợp của hai sinh viên tốt nghiệp trường Yale và cách họ thể hiện trong thế giới thực. Penn là một thành viên sáng tạo và xuất sắc của lớp, có thể đưa ra những ý tưởng của riêng mình. Về lý thuyết, anh chắc chắn là sinh viên tốt nghiệp thủ khoa trường Yale. Chỉ có duy nhất một vấn đề, Penn khá kiêu ngạo và gần như hoàn toàn thiếu những kỹ năng thực tế. Mặc dù Penn được tất cả các công ty hàng đầu phỏng vấn, sự kiêu ngạo khiến không công ty nào tiếp nhận anh cả. Lời đề nghị duy nhất đến từ một công ty hạng hai và anh cũng chỉ có thể trụ ở đó được ba năm. Còn người kia, Mart, bạn cùng phòng của Penn, không giỏi về học lực nhưng lại có trí tuệ xã hội tuyệt vời. Mart nhận được bảy lời đề nghị sau tám cuộc phỏng vấn. Dù không xuất sắc nhưng anh luôn là người đáng tin cậy và các kỹ năng xã hội giúp sự nghiệp của anh ngày càng phát triển. Hãy nghĩ lại thời kỳ học phổ thông của bạn. Bạn có nhớ những bạn học sáng giá có điểm số tuyệt vời và mọi người đều trông đợi họ sẽ làm được những điều vĩ đại cho thế giới? Họ có làm tốt như mọi người trông đợi? Thế còn những học sinh bị mọi người cười nhạo vì bỏ học đi bán xe cũ? Trong các buổi họp lớp, bạn có thấy những học sinh xuất sắc trước kia thì lái taxi, còn những học sinh bỏ học lại trở thành triệu phú? Tất cả chúng ta đều biết những câu chuyện tương tự như vậy, biết những người từng rất giỏi khi nhìn vào điểm số họ đạt được ở trường, nhưng lại phải vật lộn để thích nghi với xã hội. Ted Kaczynski[1] – được mệnh danh là “Unabomber” (kẻ chuyên đánh bom máy bay và trường đại học) và tên Ted - Ted Bundy khét tiếng[2] - chỉ là hai trong nhiều ví dụ nổi tiếng. Mặt khác, chúng ta biết ai đó có thể sẽ không đạt được kết quả cao trong bài kiểm tra IQ nhưng vẫn sống rất tốt. Do đó, quan niệm rằng phải có những yếu tố khác – ngoài IQ – tham gia vào việc xác định thành công của một người, không phải là điều gì ngạc nhiên đối với phần lớn chúng ta. Trong đời mình, chúng ta vẫn luôn thấy điều này. Ví dụ, trong cuốn sách Working with Emotional Intelligence (Trí tuệ xúc cảm – Ứng dụng trong công việc)[3], Daniel Goleman đã khảo sát trường hợp của một công ty tư vấn để tìm ra những hậu quả do thiếu khả năng kiểm soát sự tùy hứng. Các nghiên cứu về trường hợp thất bại trong công việc - được tiến hành nhờ hồ sơ của công ty tư vấn, đã đánh giá từng nhân viên trong đợt kiểm tra trên 4.265 người, từ lãnh đạo công ty cho tới những người lao động chân tay. Trong những phát hiện của Goleman có trường hợp một nhà quản lý doanh nghiệp. Người này khá hung hăng với tất cả những người ông ta tiếp xúc. Cuối cùng, ông ta bị sa thải vì một nữ nhân viên tố cáo tội quấy rối tình dục. Một trường hợp khác, một nhà quản lý hướng ngoại khác thường, nổi tiếng vì phong cách thoải mái và thích tụ tập đã vượt quá ranh giới bảo mật và rốt cuộc bị sa thải vì để lộ thông tin mật của công ty. Tương tự, cả CEO và CFO được tuyển chọn kỹ lưỡng của ông ta đều bị sa thải do quản lý kém nguồn ngân sách của công ty. Cả hai đều thiếu đạo đức và ít quan tâm tới tác động do hành động của mình gây ra. Tất cả những người này đều thiếu khả năng kiểm soát cơn bốc đồng của mình. Họ có rất ít, hoặc thậm chí không có, khả năng trì hoãn sự thỏa mãn tức thời. Nếu biết tự kiềm chế, con người có thể suy nghĩ kỹ lưỡng về hậu quả có thể xảy ra với những gì họ chuẩn bị làm và chịu trách nhiệm về lời nói, việc làm của mình. Hãng tư vấn đó đã nghiên cứu về sự tự kiềm chế trong công việc và khuyên rằng, “khi lựa chọn nhân lực cho công việc thuộc lĩnh vực công nghiệp – ở tất cả các cấp độ – sẽ là khôn ngoan khi từ chối những ứng viên có mức tự kiềm chế thấp hoặc rất thấp”, vì “khả năng họ gây ra rắc rối là vô cùng lớn”. (Tuy vậy, công ty này cũng lưu ý rằng con người có thể được giúp đỡ để xử lý tốt hơn tính bốc đồng của họ - kiểm soát cơn bốc đồng kém không nhất thiết là bản án tử hình cho sự nghiệp của người đó). Nhiều công việc, cuộc hôn nhân, mối quan hệ và tình bạn khác lại bị phá hủy bởi ai đó, trong một khoảnh khắc tức giận, nói ra những lời do sự thúc bách của tình thế mà sau đó họ phải dành cả đời để nuối tiếc. Do đó, điều quan trọng là phải xác định những lĩnh vực có khả năng gây hại cho chúng ta và ít nhất phải trung hòa chúng để chúng không trở thành những vật cản đường tới thành công. Không may là bộ não của chúng ta không được lập trình như máy tính; chúng ta không thể đơn giản đăng nhập và thay đổi cài đặt trong vòng vài giây. Tuy nhiên, chúng ta có thể phát triển những trạng thái mặc định mới bằng cách liên tục rèn luyện các cách giải quyết vấn đề tốt hơn. Qua thời gian, những kỹ thuật này sẽ trở nên dễ dàng hơn và cảm giác là một phần thực con người ta vậy. Khi đó, những suy nghĩ và hành vi trước đây sẽ bắt đầu có vẻ không tự nhiên và không còn quen thuộc nữa. Lúc này chúng ta sẽ biết rằng, một thay đổi thật sự và lâu dài đang hình thành trong cuộc sống của chúng ta và thay đổi chúng ta theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Cuối cùng, những mẫu thức mới này sẽ trở thành trạng thái mặc định mới của chúng ta, tự nhiên và tự động đến với chúng ta. Mời các bạn đón đọc Trí Thông Minh Thực Dụng - 5 Phút Mỗi Ngày Để Thay Đổi Cuộc Sống của tác giả Harvey Deutschendorf.
Thật Đơn Giản - Tạo Dựng Quan Hệ
Tạo dựng quan hệ không đơn thuần là việc trao đổi danh thiếp, mà là việc xây dựng các mối quan hệ nhằm hỗ trợ cho bản thân chúng ta, qua đó hỗ trợ người khác trong mọi mặt cuộc sống. Mạng lưới quan hệ của bạn càng rộng và mạnh thì nó càng ẩn chứa nhiều tiềm năng và cơ hội. Mỗi chúng ta cần sống rộng mở để có được cuộc sống dễ chịu hơn cho chính mình và những người xung quanh. Vì những nguyên nhân vĩ đại và mục tiêu cao cả, các mạng lưới quan hệ dù to hay nhỏ, đều tiềm ẩn năng lực thay đổi thế giới. Những người tạo dựng quan hệ cừ khôi hiếm khi sinh ra đã có khả năng này. Không phải từ khi trong bụng mẹ họ đã có thể ê a hay giữ liên lạc với mọi người và phát triển mạng lưới quan hệ. Cho dù họ có nhạy cảm với việc tạo dựng mạng lưới quan hệ, nhưng vẫn cần học cách để thật sự giỏi trong việc này và bạn cũng vậy. Bạn có thể tìm thấy các lời khuyên bổ ích từ những người tạo dựng quan hệ cừ khôi trong cuốn sách này. Họ đã thiết lập các kỹ năng tạo dựng quan hệ nhờ vào luyện tập, đôi khi họ cũng mắc nhiều sai sót và vấp phải sự từ chối, song cuối cùng họ vẫn đạt được những mục tiêu của mình đồng thời hỗ trợ người khác giành được mục tiêu của họ. Nếu thực hành kiên trì theo những công cụ và kỹ năng nêu trong cuốn sách, bạn sẽ nhanh chóng thực hiện chúng một cách tự nhiên, tự động, và thoải mái. Nhờ vào sự kiên nhẫn và luyện tập chăm chỉ, khi cơ hội đến bạn sẽ trở thành một người tạo dựng quan hệ cừ khôi. Khi quyết định tạo dựng quan hệ Khi quyết định tạo dựng quan hệ Hãy cân nhắc mỗi từ bạn viết Mỗi cuộc trò chuyện bạn có Mỗi buổi gặp mặt bạn tham dự Để diễn đạt những niềm tin nền tảng và mơ ước tốt lành Hãy khẳng định với mọi người về tầm nhìn thế giới mà bạn mong muốn Tạo dựng quan hệ từ tư tưởng Tạo dựng quan hệ từ hành động Tạo dựng quan hệ nhờ tình yêu thương Tạo dựng quan hệ từ tâm Bạn là tâm điểm của một mạng lưới quan hệ Bạn là tâm điểm của thế giới này Bạn luôn tự do và là nguồn năng lượng mạnh mẽ của cuộc sống, của Chúa trời Hãy khẳng định Hãy lan tỏa Và thể hiện nó Hãy nghĩ về nó ngày cũng như đêm Và bạn sẽ chứng kiến phép màu xuất hiện: sự vĩ đại của chính cuộc đời bạn Một thế giới của những sức mạnh lớn, phương tiện truyền thông và sự độc quyền Nhưng là của 6.5 tỷ công dân thế giới Tạo dựng quan hệ là sự tự do mới mẻ Nền tự do dân chủ mới Một dạng thức mới của hạnh phúc Robert Muller, Trợ tá của Tổng thư ký Liên hợp quốc STEVEN D’SOUZA *** Phần 1 Tạo dựng quan hệ theo tình huống 1. Tạo dựng quan hệ là gì? Mọi người thường nói bạn nên tạo dựng quan hệ nhưng chưa ai định nghĩa được chính xác điều đó là gì? Phải chăng việc tạo dựng quan hệ chỉ đơn thuần là tham gia các sự kiện, hội nghị hoặc tiệc tùng, ăn tối rồi thu thập danh thiếp và cố gắng thực hiện việc bán hàng hay nó là cái gì đó sâu sắc hơn thế và thật sự bổ ích? Bạn cần những kỹ năng gì khi tạo dựng quan hệ và phải chăng có một hay nhiều kiểu để tạo dựng quan hệ. Một trong những câu trả lời hay nhất cho các câu hỏi trên chính là giới thiệu bản thân với những người bạn gặp trong một sự kiện “phát triển quan hệ”. Hãy nhớ lại lần gần đây nhất bạn tham gia một sự kiện mà ở đó bạn biết rất ít về những người cùng tham dự và bạn có thể nhận ra một vài kiểu tính cách trình bày dưới đây. Mẫu người thích tiếp thị “Tôi! Tôi! Tôi!” – câu nói ẩn chứa điều mà những nhà tâm lý học gọi là mẫu người thích tiếp thị. Mẫu người này nhìn nhận mọi người và bản thân như là hàng hóa. Và họ coi việc mua và bán chính là cơ hội bán hàng của mình. “Bạn làm gì?” – mẫu người thích tiếp thị hỏi, đồng thời quan sát gu ăn mặc của bạn, sau đó quyết định xem liệu bạn có thể là khách hàng tiềm năng và đáng để dành thời gian nói chuyện hay không. Có lẽ ngoại trừ tính cách thích tiếp thị, thì mẫu người này cũng không đến nỗi tệ lắm. Họ không mấy khi nói về bản thân mà thường kể về kế hoạch làm ăn hoặc về sản phẩm của mình và cố gắng để bạn thấy được lợi ích của chúng và hy vọng có thể bán được hàng. Với cuộc hội thoại cứng nhắc, những phép ẩn dụ khó hiểu và những câu chuyện không ăn nhập, bạn bắt đầu tự hỏi liệu mẫu người thích tiếp thị đã đọc hết cuốn sách How to win friends and manipulate people (Đắc nhân tâm và nghệ thuật lôi kéo) hay có lẽ họ chỉ tham gia một khóa học ngắn ngày về “Những kỹ năng thuyết phục”. Một lần mẫu người thích tiếp thị đã thử 101 cách khác nhau trong cuốn sách dạy bán hàng của mình để lôi kéo bạn. Mặc dù bạn biết tất cả lợi ích của việc mua “những thiết bị điện tử” mà mẫu người này bán với giá bán buôn, nhưng bạn vẫn không mua và họ bỏ đi. Mẫu người thích tiếp thị lại tiếp tục trò chuyện với một khách hàng tiềm năng khác nhưng không quên đưa cho bạn tấm danh thiếp và nhờ giới thiệu với mọi người. Hãy bỏ qua mẫu người thích tiếp thị. Mẫu người hay kể lể Sở trường của mẫu người hay kể lể là nói chuyện nhảm nhí. Chỉ sau 10 phút bạn có thể biết hầu hết mọi thứ về mẫu người này từ “những vật tượng trưng cho địa vị“ mà họ có được cho đến khoản tiền được thưởng sau một phi vụ làm ăn thành công như một quí tộc trẻ đầy quả cảm. Bạn không hỏi nhiều nhưng lại nhận được rất nhiều câu trả lời cho cả những câu hỏi không hề đưa ra. Đây là một trong những cách giúp bạn biết rằng mình đang ở công ty của mẫu người hay kể lể. Mẫu người hay kể lể càng tiếp tục câu chuyện của mình với một giọng đều... đều... bao nhiêu, thì bạn càng muốn bỏ đi bấy nhiêu, nhưng dường như họ không hay biết. Đối với một số quan điểm mà họ đưa ra, bạn cũng có điều liên quan để nói ‒ những điều mà ít ra cũng đáng nói hơn nhiều so với điều vụn vặt của họ. Nhưng bạn có cố nói chen vào dù chỉ một từ cũng không được, dường như trong cuộc hội thoại này chỉ mình họ độc thoại. Cuối cùng, cũng có một người trong phòng nhận ra mẫu người này, rồi đi tới trò chuyện với người đó. Bạn nắm lấy cơ hội và rời đi nhanh chóng trong khi mẫu người hay kể lể tìm được nạn nhân kế tiếp. Mẫu người nổi tiếng Chúng ta có thể coi mẫu người nổi tiếng ở đây là một nữ danh ca. Mọi người nhận ra cô ấy ngay khi bước chân vào phòng, và trước khi bạn có cơ hội giới thiệu bản thân với nữ danh ca này thì cô ấy đã có được chỗ ngồi tuyệt vời nhất trong khi mọi người đang vây quanh trò chuyện với cô. Mọi con mắt trong phòng đều hướng về phía cô ấy. Nữ danh ca chỉ dùng rượu sâm banh hảo hạng được mang tới bởi một người cô không hề quen biết, nhưng đó lại là người đặc biệt biết ơn cô vì đã tới tham dự bữa tiệc của họ. Cô khá kiểu cách trong khi nhấm nháp những chiếc kẹo sô-cô-la được mang tới bởi người bồi bàn đáng yêu. Cô cười rất nhiều nhưng dường như có vẻ xa cách và như thể cô đang ở trong “thế giới riêng” của mình vậy. Chỉ một số người được gần cô và dường như cô thích thú với điều này. Cô rời khỏi bữa tiệc trước khi bạn “tính” đến việc nói chuyện với cô ấy. Cô đi tới bữa tiệc tiếp theo để “gặp gỡ” những người thú vị hơn – những người có thể hiểu rõ giá trị của cô ấy. Mẫu người hay xin lỗi Mẫu người hay xin lỗi dường như không biết vì lí do gì mà tối nay họ lại tham dự trong buổi gặp mặt này. Bởi lẽ điều đầu tiên mẫu người này nói với bạn là họ “thật sự xin lỗi” vì không mang theo quà, cũng như ăn mặc không phù hợp hoặc quá đơn điệu... Mẫu người này xin lỗi mọi thứ, kể cả khi họ quên tên của bạn. Vào cuối buổi tối đó, bạn ước gì mẫu người này là một kí tự trên bàn phím để rồi nếu họ còn xin lỗi một lần nữa, bạn sẽ nói: “Tôi thề, tôi sẽ nhấn phím xóa!” Mẫu người hay xin lỗi rời khỏi bữa tiệc sớm trước hai giờ đồng hồ – sau khi đã xin lỗi mọi người rằng mình có việc phải về nhà. Nhưng ít ra mẫu người này cũng đến tham dự bữa tiệc, mặc dù có vẻ như không hề muốn vậy... Mẫu người thích ở nhà Bạn không bao giờ có cơ hội gặp những người như vậy ở một sự kiện nào đó. Mặc dù nhìn bề ngoài thì mẫu người thích ở nhà có vẻ khá năng động và lôi cuốn khi gặp gỡ qua Internet. Có lẽ chúng ta sẽ gặp lại mẫu người này ở phần cuối của cuốn sách khi xem xét kỹ thuật mạng, nhưng có một điều chắc chắn rằng họ không phải là người bạn có thể mời đi uống một cái gì đó. Vâng! Có lẽ đây là một người bạn ảo! Mẫu người thích chầu rìa Chúng ta khó lòng gặp mặt mẫu người thích ở nhà, song với mẫu người thích chầu rìa thì cũng không khác là bao, dù cho họ cũng có mặt trong căn phòng này. Mẫu người thích chầu rìa ăn mặc khá lộng lẫy, thậm chí là quá chỉnh chu. Điều đó cũng khó chịu giống như những cuộc trò chuyện với mẫu người này, đó là những đoạn độc thoại bị ngắt quãng bởi các khoảng lặng tẻ nhạt đợi chờ sự hồi đáp. Nét đặc trưng nổi bật của mẫu người thích chầu rìa đó là giỏi lắng nghe, tuy nhiên lại quá mức đến nỗi việc này có thể tiếp diễn mãi mãi ngay cả khi không có ai nói cả. Đây chính là vấn đề rắc rối mấu chốt trong việc nói chuyện với mẫu người thích chầu rìa – thực tế là không hề có cuộc hội thoại nào. Những cuộc hội thoại mỗi lúc càng trở nên vụn vặt hơn. Dường như bạn vừa là người bắt đầu, vừa phải kết thúc mỗi cuộc hội thoại, cũng như cung cấp phần lớn khúc giữa của những cuộc hội thoại ấy. Sau khi nói chuyện với mẫu người thích chầu rìa một lúc, thì không hề có bất kỳ cuộc hội thoại nào nữa và thay vào đó là sự tưởng tượng. Bạn bắt đầu tự hỏi: “Phải chăng người này không thích mình” hay “Có lẽ người này ít nói”. Cũng vì mẫu người thích chầu rìa không có khả năng bắt đầu cuộc hội thoại nên hầu như mọi lúc họ đều ngồi một mình nhưng dường như không ai nhận ra điều đó. Mẫu người chỉ gặp một lần Bạn gặp mẫu người này từ đầu buổi tối và cảm thấy hai người khá hợp nhau. Mẫu người này thường để lại ấn tượng tốt cho mọi người ngay khi mới gặp. Bạn và mẫu người này cùng kể cho nhau nghe việc các bạn đến đây như thế nào, đồ uống ở đây đắt đỏ ra sao và cả việc hai người cùng xem một bộ phim đến hai lần. Nhưng nửa tiếng sau thì câu chuyện của cả hai người cạn dần và cả hai đều phải nỗ lực để câu chuyện tiếp tục. Bạn nhìn xung quanh và thấy một số người mà bạn nghĩ rằng gặp gỡ họ hẳn là thú vị, nhưng đúng lúc đó thì người này lại mời bạn uống cái gì đó tại quầy bar. Trước khi kịp nhận ra buổi tuối hôm đó đã trôi đi, thì bạn đã dành nó vào một cuộc trò chuyện tẻ nhạt, vô vị. Tuy nhiên, khoảng thời gian ban đầu không đến nỗi tệ. Vào cuối buổi tối, mẫu người này ghi lại địa chỉ e-mail của mình lên một mặt của chiếc khăn và hứa sẽ giữ liên lạc với bạn trong một vài tuần tới. Trong vòng hai tuần thì chiếc khăn đó còn khó tìm hơn cả một người mất tích, dĩ nhiên là mẫu người chỉ gặp một lần đã lặn mất tăm và bạn không bao giờ còn nghe về người này nữa. Mẫu người đóng vai trò kết nối Trong mỗi buổi tối hay sự kiện đều có một điểm nhấn và đối với bạn mẫu người đóng vai trò kết nối chính là điểm nhấn trong sự kiện đó. Họ tiếp cận bạn ngay từ đầu, giới thiệu bản thân với bạn, cũng như đề cập đến việc hai người may mắn thoát khỏi cuộc trò chuyện với mẫu người thích kể lể. Mẫu người này khá nồng hậu và dường như thật sự quan tâm tới bạn. Họ hỏi ý kiến của bạn về chuyến đi du lịch châu Á vào kỳ nghỉ hè này và cùng bàn luận về các môn thể thao. Mẫu người đóng vai trò kết nối khá là hòa đồng. Một điểm mà mẫu người này thật sự gây ấn tượng với bạn là cách dẫn dắt mọi người nhập chuyện nhưng hầu như không mất công sức. Họ dường như biết tất cả mọi người, có thể giới thiệu tên từng người và nói với bạn một vài điều về họ. Chính điều này là khởi đầu của cuộc trò chuyện. Sau đó, bạn đã hiểu ra rằng bản thân họ đã từng gặp những người này. Vào cuối buổi, mọi người đều đưa thông tin liên lạc chi tiết cho mẫu người đóng vai trò kết nối và tất cả đều nhận được lời mời đến dự tiệc vào dịp Giáng sinh. Người này sẽ giữ liên lạc với tất cả những người mà mình gặp và quí mến. Thực tế, người này thật sự quí bạn. Sau buổi tối hôm đó, bạn nhận được một bức ảnh điện tử tuyệt đẹp kèm theo tấm hình của Singapore với thông điệp: “Mong rằng những kí ức đẹp đẽ của bạn được giữ mãi”. Bạn rất vui và hy vọng hai người sẽ tiếp tục giữ liên lạc với nhau. Vậy tạo dựng quan hệ chính xác là gì? Tất cả các ví dụ trên chỉ là những bức tranh phác họa về phương pháp hay cách thức thể hiện sự tồn tại của chúng ta thông qua việc tạo dựng quan hệ. Chúng có thể khiến bạn mỉm cười bởi bạn nhận ra rằng những tính cách này không chỉ có ở người khác mà còn hiện hữu ngay trong chính mình. Vậy nghĩa thật sự của từ “tạo dựng quan hệ” là gì? Dưới đây là một số khái niệm về “tạo dựng quan hệ”: • Tạo dựng quan hệ giỏi tức là biết tận dụng tất cả những mối quan hệ bạn có nhằm đạt được ích lợi cho cả đôi bên. • Tạo dựng quan hệ giống như một cuộc hành trình. Cộng tác với người khác để cùng hướng tới đích chung và tận hưởng sự thú vị của chuyến đi đó. • Tạo dựng quan hệ là việc sử dụng thông minh mối quan hệ với người khác. • Tạo dựng quan hệ chính là nói về việc xây dựng thanh danh nghề nghiệp của bạn tốt lên, đồng thời thiết lập một mạng lưới quan hệ bạn có thể trông cậy mỗi khi cần sự hỗ trợ. Tóm lại, “tạo dựng quan hệ” là: • Tạo dựng quan hệ liên quan đến những mối liên hệ cụ thể, đó là mối liên hệ giữa con người với nhau. Để miêu tả tập hợp những con người có quan hệ với nhau, chúng ta sẽ dùng từ “cộng đồng”. • Tạo dựng quan hệ không chỉ là việc tạo ra công cụ hỗ trợ đắc lực, mà còn tạo nên nguồn tài nguyên giúp bạn đạt được những mục tiêu như mong muốn. • Tạo dựng quan hệ có thể làm phong phú chất lượng sống của bạn cũng như của người khác. • Tạo dựng quan hệ là một động từ gợi cho ta thấy tính năng động, tự nhiên của nó. Mạng lưới quan hệ có thể phát triển song cũng có thể thu hẹp nếu bạn không biết cách gìn giữ và xây dựng nó. Định nghĩa Tạo dựng quan hệ là nghệ thuật xây dựng những mối quan hệ tương hỗ giúp đỡ các cá nhân và cộng đồng như một tổng thể nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Xây dựng một cộng đồng Một trong những nhân tố tạo nên sự khác biệt của cuốn sách này đó chính là việc tạo dựng quan hệ không mang “tính cá nhân”. Nó không phải hoạt động kiểu “Tôi!Tôi !Tôi” của mẫu người thích tiếp thị. Người tạo dựng quan hệ cừ khôi nhận thức được rằng họ là một phần của cả hệ thống vận hành dựa trên sự tương hỗ và mỗi cá nhân trong hệ thống đó là một phần của cộng đồng – những con người có liên quan mật thiết với nhau. Ngay từ khi sinh ra chúng ta đã biết cách tạo dựng quan hệ – trong đó có cả bạn. Tạo dựng quan hệ là điều mà tất cả chúng ta đều học từ lúc bé để có được những nhu cầu cơ bản. Chúng ta có thể không sử dụng từ “tạo dựng quan hệ” nhưng mỗi người trong xã hội đều có liên hệ với một mạng lưới quan hệ cụ thể nào đó. Câu hỏi duy nhất cần đặt ra ở đây không phải là: “Chúng ta có tạo dựng quan hệ hay không?” mà là: “Chúng ta tạo dựng quan hệ có hiệu quả không?” Người tạo dựng quan hệ cừ khôi nhận ra rằng họ càng có nhiều mối quan hệ tương hỗ bao nhiêu, thì họ càng được hưởng lợi từ những lựa chọn tiềm năng và các cơ hội ấy bấy nhiêu. Lời khuyên Tạo dựng quan hệ liên hệ mật thiết với sự đa dạng và tính sáng tạo. Phạm vi lựa chọn càng nhiều bao nhiêu thì khả năng để giành được mục tiêu của bản thân cũng như hỗ trợ người khác càng lớn bấy nhiêu. Các cộng đồng trong đó những cá nhân tạo dựng quan hệ thiết lập nên thường không có địa điểm cố định. Có lẽ những cộng đồng này chỉ thể hiện qua các lợi ích đa dạng của chúng hoặc chúng là ảo. Chúng có thể có các cộng đồng khác gia nhập vào cũng như tách ra từ chúng, song chúng được liên kết bởi một nhân tố – người tạo dựng quan hệ cừ khôi đóng vai trò cầu nối hay mối liên kết thiết yếu đến từng cộng đồng. Phần bỏ trống dưới đây là dành cho bạn viết định nghĩa của chính mình về việc tạo dựng quan hệ Tạo dựng quan hệ là.... Mời các bạn đón đọc Thật Đơn Giản - Tạo Dựng Quan Hệ của tác giả Steven D'Souza.
Kiểm Soát Thời Gian - Chu Toàn Mọi Việc
Ngày nay, trong nhịp sống gấp gáp của thời đại công nghiệp, thời gian dường như đã trở thành một thứ vô giá. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách quản lý thời gian của mình một cách hiệu quả nhất, thậm chí có rất nhiều người đã vướng phải thứ mà các chuyên gia tâm lý vẫn gọi là “Cạm bẫy thời gian”. Nó khiến con người cảm giác như thời gian của họ bị tắc lại trong dòng chảy vô tận của công việc và trách nhiệm, và cuộc sống trở nên khó khăn và mất kiểm soát hơn cho dù họ đã cố gắng hết sức. Trải qua hơn một thập kỷ nghiên cứu tường tận với sự tham gia của nhiều doanh nhân trên khắp thế giới, Alec Mckenzie và Patricia Nickerson đã cùng nhau cho ra đời siêu phẩm “The Time Trap” – "Nghệ thuật quản lý thời gian" cuốn cẩm nang kỳ diệu tiết lộ những cách thức tối ưu giúp bạn kiểm soát thời gian một cách hiệu quả nhất. Với các chiến thuật thông minh, những kinh nghiệm được rút ra từ các bài phỏng vấn chuyên sâu cùng nhiều công cụ quản lý thời gian hiệu quả được sắp xếp hợp lý và logic, cuốn sách sẽ giúp bạn: § Tránh những cách “tiết kiệm thời gian” không hiệu quả. § Xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót. § Tính toán thời gian hợp lý cho từng nhiệm vụ. § Xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian. § Giúp bản thân trở nên năng động và chuyên nghiệp hơn Trải qua bốn lần tái bản, hơn nửa triệu ấn phẩm được độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận nồng nhiệt, có thể nói, "Nghệ thuật quản lý thời gian" chính là bộ công cụ quản lý thời gian hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện tại. *** Mặc dù nhận thức được rằng thời gian là một phần quan trọng mang tính chi phối cũng như ảnh hưởng rất lớn đến công việc và cuộc sống, nhưng phần lớn chúng ta không thể quản lý hiệu quả thời gian của mình. Hàng đống công việc chất chồng cần giải quyết, những thời điểm “vắt chân lên cổ” chạy cho kịp thời hạn dự án hay nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng vẫn có những khoảng thời gian “chết”, bạn ngồi ở bàn làm việc với hàng đống giấy tờ tài liệu nhưng lại chẳng biết phải bắt đầu từ đâu, và thời gian cứ thế trôi đi vô ích. Điều đó đồng nghĩa với việc bạn đã rơi vào “những chiếc bẫy thời gian” – điều mà hai tác giả Alec Mackenzie và Pat Nickerson định nghĩa rõ ràng và chi tiết trong cuốn sách hàng đầu giúp bạn quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian của mình – Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc. Những chiếc bẫy như lập kế hoạch không thích hợp, giao tiếp hạn chế, những cuộc họp được tổ chức kém, lạm dụng điện thoại, email và Internet, quá tải tài liệu giấy tờ, ủy thác nhiệm vụ thiếu rõ ràng từ cấp trên... khiến con người cảm giác như thời gian của mình bị tắc lại trong dòng chảy vô tận của công việc và trách nhiệm, làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và mất kiểm soát cho dù đã cố gắng hết sức. Sau bốn lần tái bản với gần một triệu ấn phẩm được độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận nồng nhiệt, có thể nói Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc chính là bộ công cụ quản lý thời gian hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện tại. Với các chiến thuật thông minh, những kinh nghiệm được rút ra từ các bài phỏng vấn chi tiết cùng nhiều công cụ quản lý thời gian hiệu quả, cuốn sách sẽ giúp bạn xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian; sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót; trở nên năng động và chuyên nghiệp hơn trong công việc. Alpha Books trân trọng giới thiệu cuốn sách này với mong muốn mang đến cho độc giả thêm một bộ cẩm nang giúp quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian – một tài sản vô giá trong công việc và cuộc sống mà nếu biết khai thác cũng như sử dụng đúng đắn, bạn có thể đạt được những thành công to lớn.  Chúc các bạn thành công! Hà Nội tháng 6, năm 2012 CÔNG TY SÁCH ALPHA *** TẠI SAO THỜI GIAN VẪN LUÔN NGĂN CẢN PHẦN TỐT NHẤT CỦA CHÚNG TA? Chúng ta vẫn thường tự nhủ: “Mình sẽ không có đủ thời gian đâu!” Có lẽ Noah và gia đình ông cũng từng nói thế khi hối hả chọn các cặp súc vật để mang lên con thuyền lớn . Chúng ta đều có 24 giờ, hay 1.440 phút mỗi ngày. Vậy lợi thế của Noah là gì? Ông có một thời hạn chính xác phải hoàn thành, những mục tiêu rõ ràng, và những hướng dẫn cụ thể từ Đấng Tối cao về thời điểm và quá trình chính xác phải tiến hành. Nếu bạn không thấy được những lợi thế tương tự, quá trình bạn tạo ra trong khoảng thời gian được giao có thể sẽ khác hoàn toàn so với văn hóa, hoàn cảnh, và đặc biệt là lựa chọn của bạn. Điều hiển nhiên là càng có ít lựa chọn hơn thì cuộc sống của bạn sẽ đơn giản hơn. Nếu từng sống sót qua một thảm họa thiên nhiên, hay đơn giản là một đợt cắt điện kéo dài, bạn sẽ biết cảm giác bị quăng trở lại với “thời kỳ đồ đá” như thế nào. Bạn sẽ phải tích cực làm việc từ sáng sớm tinh mơ cho đến tối mịt vì sự sinh tồn; và bạn thậm chí sẽ làm nhiều hơn nếu có thể, nhờ ánh trăng, lửa, nến hay nhờ nguồn điện, cho tới khi bạn chìm vào giấc ngủ. Sau này, bạn sẽ luôn nhớ đến những nỗ lực với niềm tự hào, nhưng chắc chắn sẽ không bao giờ muốn những điều đó tái diễn thêm một lần nào nữa. SỰ XAO LÃNG, NHỮNG KỲ VỌNG, SỰ KHẨN CẤP Tại sao chúng ta có thể làm chủ thời gian của mình trong thời kỳ khủng hoảng, nhưng lại không thể làm chủ được thời gian trong những ngày bình thường? Chính bởi sự kết hợp của bộ ba “siêu bẫy” bao quát toàn diện, từ đó hình thành nên những chiếc bẫy thời gian. Đó là: Những xao lãng tầm thường Những kỳ vọng quá mức Những vấn đề quan trọng khẩn cấp Sự xao lãng làm rò rỉ quỹ thời gian của chúng ta như thế nào? Hãy suy nghĩ về hoàn cảnh sống hoặc công việc hiện tại của bạn, đặc biệt khi nó gây ra những ảnh hưởng nhất định tới thời gian của bạn. Nếu bạn giống như hầu hết những người khác, thì ắt hẳn nhà cửa, ô tô, và văn phòng của bạn phải tràn ngập các thiết bị hiện đại và nguồn dữ liệu. Bạn có thể cập nhật tình hình thế giới mỗi tích tắc, phản ứng kịp thời với bất cứ thách thức hay cơ hội nào xuất hiện. Nhưng liệu bạn có nên làm điều đó hay không? Sự kết nối quan trọng như thế nào? Vậy làm thế nào tổ tiên chúng ta, vốn không có những công cụ tốc độ cao và kết nối mạng 24/24, lại vẫn có thể nghiên cứu, phát minh, và đạt được nhiều thành tựu đến vậy – từ những bức hình khắc trong các hang đá cho tới các nhà thờ, từ việc xây dựng cả một đế chế cho tới nguồn điện lưới, từ đường ray xe lửa cho tới phóng xạ, từ việc dùng chảo đãi vàng cho tới việc dùng khoan khoan lấy lõi – tất cả đều hoàn toàn thô sơ, đều thuộc thời kỳ ‘trước thời laptop’? Họ được ban phát nhiều sự thông minh tài trí hơn chúng ta? Hay họ khỏe mạnh hơn, khéo léo hơn? Hay họ không mắc phải chiếc bẫy lớn đầu tiên – Những Xao lãng tầm thường? Đa nhiệm giúp tiết kiệm hay lãng phí thời gian? Hãy xem xét cuộc sống hiện tại của bạn. Ở bất cứ nơi đâu, con người cũng đều cố gắng thuyết phục số đông rằng đa nhiệm là một nhiệm vụ cần thiết. Hãy nhìn những người đang lái xe tới công sở ở làn đường kế bên. Nếu họ cũng đang thực hiện đa nhiệm để tiết kiệm thời gian, họ sẽ phải sử dụng thiết bị định vị GPS và các chương trình giao thông trên đài để tìm ra một hướng đi thông thoáng. Họ cũng có thể sẽ phải cố gắng tiết kiệm thêm thời gian bằng cách đọc tin nhắn hay trả lời điện thoại trong khi đang nhâm nhi ly cà phê và lao xuống dốc với vận tốc 112 km/h. Liệu khoảng thời gian họ tiết kiệm được bằng việc thực hiện đa nhiệm có xứng đáng không? Hay nó sẽ tan thành khói bụi khi một người lái xe khác, cũng đang bận rộn đa nhiệm tương tự, đột nhiên hỏi chuyện?  Ngày càng có nhiều nhà nghiên cứu tranh luận về quan niệm rằng đa nhiệm sẽ tiết kiệm thời gian. Thực chất, trí não con người không thể xử lý hai dòng suy nghĩ đối ngược nhau tại cùng một thời điểm mà không làm giảm chất lượng của cả hai. Thay vào đó, chúng ta hoàn toàn có thể làm tốt hơn nếu giải quyết từng nhiệm vụ một và theo trình tự. Chúng ta có thể nâng cao hiệu quả bằng cách sử dụng công cụ nhắc nhở, ghi nhớ kèm hình ảnh để theo kịp lịch trình. Và trên thực tế, chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình từ nhiệm vụ này sang nhiệm vụ khác. Nhưng đến lúc đó, bạn chắc chắn đã rất mất tập trung rồi. TIẾNG NÓI THỰC SỰ Đây là những gì Ken Mayo − điều phối viên mạng kiêm nhiếp ảnh gia của Hiệp hội Y tế Công giáo Mỹ − nói về đa nhiệm: Cho đến giờ, tôi tin chắc rằng đa nhiệm là phản tác dụng. Mục tiêu là cố gắng để đạt được kết quả tốt, nhưng tôi lại thấy chất lượng công việc bị ảnh hưởng rõ rệt. Bây giờ, tại một thời điểm tôi chỉ cố gắng làm một việc. Nếu không thể hoàn tất, tôi cố gắng chia nhiệm vụ hay dự án đó thành nhiều giai đoạn. Sau đó, khi trở lại với nhiệm vụ hay dự án đó, tôi sẽ thấy việc nhớ được phải bắt đầu lại từ đâu dễ dàng hơn. Duy trì sự tập trung Có thể bạn nhận ra rằng mình mắc nhiều lỗi nhất vào những thời điểm cuối cùng của một công việc, khi trí óc bạn đã xao lãng trước khi những ngón tay của bạn kịp hoàn thành đánh máy, hoặc khi tay búa của bạn nện vào chiếc đinh cuối cùng. Nếu có thể duy trì sự tập trung từ đầu đến cuối, giải quyết công việc nhanh gọn, rồi sau đó chuyển sang nhiệm vụ tiếp theo, thì có lẽ chúng ta đã đạt được những thành công nhất định nào đó. Nếu liệt kê những nhiệm vụ tiếp theo ra giấy, lưu sẵn trên màn hình, giữ chúng trong tầm mắt, chúng ta có thể đẩy nhanh tiến độ. Nhưng cùng lúc, chúng ta cũng nên dành cho mỗi công việc sự tập trung toàn vẹn, chứ không phải là sự tập trung bị-phân-tán, để tiết kiệm thời gian tối ưu nhất. LÀM THẾ NÀO ĐỂ SỬ DỤNG KHOẢNG THỜI GIAN BẠN TIẾT KIỆM ĐƯỢC? Tại các buổi hội thảo về Quản lý thời gian, chúng tôi thường hỏi những người tham gia – với vẻ mệt mỏi kiệt quệ hiện rõ trên khuôn mặt – rằng nếu được tặng thêm một giờ mỗi ngày, họ sẽ sử dụng món quà kỳ diệu này như thế nào. Đa số họ đều đồng thanh “Ngủ!” Câu trả lời này có làm bạn ngạc nhiên không? Hay khiến bạn thất vọng? Hay bạn cũng có câu trả lời tương tự? Theo nhiều nghiên cứu về việc ngủ của các nhà khoa học, một người Mỹ trưởng thành ngày nay chỉ dành khoảng 6 tiếng 40 phút cho giấc ngủ mỗi đêm – không đúng với con số 8 tiếng mà các thế hệ trước đây được khuyến cáo. (Ngay cả các quảng cáo đệm cũng thường khuyên chúng ta nên tối đa hóa giấc ngủ 6 tiếng liên tục bằng việc mua những bộ chăn ga gối đệm tốt hơn!) Nhưng chúng ta đã sử dụng khoảng thời gian lúc sắp đi ngủ như thế nào? Rất nhiều người trưởng thành thú nhận rằng họ thường lăn ra ngủ ngay sau bữa tối, hoặc đờ đẫn “thư giãn” trước màn hình ti vi trong khi con cái họ dán mắt vào các trang web xã hội, các tin nhắn mạng, các trò chơi trực tuyến, trang web tải nhạc và làm bài tập về nhà. À vâng, bài tập về nhà! Cũng chẳng có gì ngạc nhiên khi phải khó khăn lắm chúng mới thức dậy nổi vào sáng hôm sau. Nhân đây tôi cũng muốn hỏi, những lao động trưởng thành làm gì trong 24 giờ kỳ diệu của mình? Hãy cùng xem xét một vài cách hiệu quả để thoát khỏi những chiếc bẫy thời gian của chúng tôi. THOÁT KHỎI SỰ XAO LÃNG: TẬP TRUNG THỜI GIAN VÀO MỘT MỤC TIÊU Giả sử bạn được tặng một giờ quý báu vào thời điểm tùy chọn – không phải khi mệt mỏi (giống như những người tham gia hội thảo đã đồng thanh trả lời là dành thời gian để ngủ), mà là đang tràn đầy năng lượng – khoảng thời gian tuyệt vời nhất trong ngày của bạn – thì câu trả lời của bạn có thể sẽ khác. Vậy hãy hỏi con người tràn đầy sức sống trong bạn rằng: Bạn sẽ sử dụng giờ thứ 25 như thế nào? • Tiếp tục làm việc? • Chơi thể thao, hay tập thể dục? • Tụ tập bạn bè? • Chơi bóng cùng lũ trẻ? • Dọn dẹp phòng ốc? • Nghỉ ngơi thư giãn? • Đọc và học? • Bình tâm cầu nguyện? • Vẽ tranh? • Tham quan bảo tàng? • Chơi guitar? • Làm vườn? • Nấu ăn? • Sơn lại phòng? • Đi spa trị liệu? • Tham gia tình nguyện? Thêm những lựa chọn của bạn vào chỗ trống dưới đây: • ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- • ----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------- Dù bạn lựa chọn điều gì, thì có một điều chắc chắn là: bạn cố gắng dành riêng giờ thứ 25 cho dự định đó, mà không cho phép bất cứ sự xao lãng ngẫu nhiên nào tác động. Bạn sẽ chỉ tập trung vào công việc đó. Bạn sẽ hiểu rõ động cơ của việc quản lý những giờ phút hiếm hoi đó. Vậy nếu bạn được tặng thêm một giờ tại công sở? Hãy hình dung cấp trên cũng tặng cho bạn một lựa chọn tương tự – có thêm một giờ mỗi ngày – không phải để giải quyết công việc cho họ, mà để giải quyết việc của riêng bạn? Vậy có nhiệm vụ nào quan trọng với bạn và sự nghiệp của bạn, không thể hoàn thành do bạn còn phải dành thời gian cho khách hàng, đồng nghiệp, hay cấp trên không? Bạn thường tự nhủ: “Đây là việc của riêng mình. Mình sẽ chỉ giải quyết nó khi đã hoàn thành những việc khác.” Nhưng những giờ phút riêng tư ấy sẽ chẳng bao giờ tới trong giờ làm việc, vậy nên bạn vẫn cứ vắt kiệt sức mình cho những buổi làm thêm giờ không lương để giải quyết cho xong việc. Có lẽ khi nghiền ngẫm cuốn sách này, bạn có thể thêm công việc đó vào danh sách những mục tiêu xứng đáng với những quyết tâm quản lý tốt nhất thời gian của mình. Kỳ vọng: Chúng ta nên làm gì tại nơi làm việc?  “Được lựa chọn làm việc gì tại công sở ư? Ai được tự do làm thế?” Bạn hay hỏi như vậy. Chính bạn! Đúng vậy, chính bạn. Bạn không những có quyền mà còn có nghĩa vụ lựa chọn những việc phải làm tại công sở. Dù bạn muốn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ấy đến thế nào, dù chính sách của công ty bạn có đặt khách hàng làm trung tâm đến bao nhiêu – thì tất cả mọi người, sớm hay muộn, đều phải đặt ra một vài tiêu chuẩn rõ ràng để những việc họ làm tại công sở trong 8 đến 10 tiếng hàng ngày trở nên hiệu quả. Hãy cân nhắc những tiêu chí dưới đây khi bạn đảm trách một nhiệm vụ mới. Có thể bạn sẽ nhận ra rằng bạn đã và đang sử dụng một vài hay tất cả những biện pháp này. Có thể những tiêu chí dưới đây đã mang lại cho bạn một chút thành công mà bạn đang tận hưởng. Mời các bạn đón đọc Kiểm Soát Thời Gian - Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Leander Kahney & Quốc Đạt (dịch).
SISU - Vượt Qua Tất Cả: Nghệ Thuật Sống Của Người Phần Lan
Sisu là một từ khó diễn giải trong tiếng Phần Lan và không có từ tiếng Anh tương đương. Thuật ngữ này là sự pha trộn của lòng can đảm, sự dẻo dai, tinh thần bền bỉ và tính kiên trì – những phẩm chất giúp định hình nghệ thuật sống "vượt qua tất cả" của con người và đất nước Phần Lan. Tinh thần sisu không chỉ tồn tại trong trái tim mỗi người dân của xứ sở này, mà còn được thể hiện trong cuộc sống thường nhật nơi đây. Là một quốc gia nhỏ bé ở vùng Bắc Âu, nổi tiếng với thời tiết và môi trường thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng Phần Lan chưa bao giờ rời khỏi nhóm những quốc gia có chỉ số hạnh phúc cao nhất thế giới. Đối với người dân Phần Lan, "dành thời gian hòa mình với thiên nhiên" là một trong những yếu tố hàng đầu làm nên hạnh phúc, bên cạnh sự độc lập, bình yên, trật tự, hữu dụng và sự công bằng. Và tất cả những yếu tố này đều có thể được gói gọn trong một bí quyết mang tên sisu – tinh thần vượt qua tất cả. Thật khó định nghĩa chính xác sisu là gì. Không có một từ tiếng Anh nào có ý nghĩa tương đương với sisu, và ngay cả trong tiếng Phần Lan thì sisu cũng đại diện cho một tổ hợp nhiều đặc điểm khác nhau, bao gồm quyết tâm sắt đá, nghị lực, lòng can đảm, sự dũng cảm, ý chí bền bỉ, sự ngoan cường và kiên trì. Tinh thần sisu sẽ thức tỉnh khi những khó khăn và nghịch cảnh khiến bạn muốn bỏ cuộc, khi mà chỉ có dũng khí mới có thể giúp bạn tiếp tục tiến lên. Nhưng sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu bạn nói rằng mình có tinh thần sisu nhưng không thể hiện được tinh thần đó. Sisu là lối tư duy hướng đến hành động, chứ không phải chỉ là tỏ ra can đảm. Trong một xã hội mà con người phải đối mặt với vô vàn thử thách để sinh tồn và phát triển thì sisu là thiết yếu. Sisu không phải là nguồn sức mạnh giúp ta chạy một mạch lên đỉnh núi, mà sisu là nguồn lực xuất hiện khi nguồn năng lượng mà ta nhận thức được đang dần cạn kiệt, khi nghịch cảnh kéo đến và ta dường như không còn lối thoát. Chính vào lúc đó, sisu sẽ trỗi dậy để giúp ta không ngừng đặt từng bước chân lên con đường phía trước. Khác với những chiến công hoặc hành động xuất phát từ sự liều lĩnh hay chủ nghĩa anh hùng cực đoan, những chiến tích của tinh thần sisu luôn diễn ra trong thầm lặng. Tinh thần sisu thể hiện ở mọi mặt của cuộc sống Phần Lan, từ việc chuẩn bị thật kỹ lưỡng để đương đầu với những khó khăn thử thách, mạnh mẽ thừa nhận những điểm yếu của bản thân, dành thời gian để im lặng suy nghĩ, nói những lời trung thực và thẳng thắn chứ không hoa mỹ, tôn thờ sự bình đẳng và công bằng, cho đến những chuyến đi bộ đường dài trong rừng, tận hưởng mùa hè trong những ngôi nhà gỗ nhỏ bé ở vùng hẻo lánh thốn thiếu tiện nghi và đi tắm hồ vào giữa mùa đông lạnh giá Tất cả những điều đó đã tạo nên một phong cách sống bình dị mà kiên cường, hòa mình với thiên nhiên nhưng cũng vô cùng hiện đại. Mang tập sách Vượt qua tất cả - Nghệ thuật sống của người Phần Lan đến với bạn đọc Việt Nam, chúng tôi mong rằng tất cả chúng ta sẽ đón nhận Sisu và vững vàng đối mặt với những thử thách trong cuộc sống. Để rồi từ đó bạn sẽ tìm được những bài học và lời khuyên để bắt đầu tận hưởng cuộc sống này, để tìm thấy hạnh phúc và niềm vui trong ngay cả những thời khắc khó khăn nhất. Bởi lẽ sisu là một đặc điểm mang tính phổ quát. Có thể người Phần Lan đã gọi tên nó, định nghĩa nó, nhưng tinh thần sisu – tinh thần vượt qua tất cả – không hề giới hạn ở đất nước hay con người Phần Lan, mà bất kỳ ai trên thế giới này cũng có thể nắm bắt và vận dụng sisu. Sisu luôn hiện diện trong bạn, và có lẽ bạn cũng từng vận dụng sisu rồi đấy. *** SISU LÀ GÌ?   - giới thiệu về sisu   Có thể nói sisu là một từ mà người dân Phần Lan rất yêu thích. Trở nên phổ biến từ những năm 1920 nhưng có nguồn gốc từ quá khứ xa xôi, thuật ngữ khó diễn giải này là sự pha trộn của lòng can đảm, sự dẻo dai, tinh thần bền bỉ và tính kiên trì – một đặc điểm đã định hình không chỉ số phận của một dân tộc mà còn cả cuộc sống thường nhật của mỗi người dân Phần Lan.   Chỉ số hạnh phúc của Phần Lan luôn xếp thứ hạng cao trong các cuộc khảo sát quốc tế. Là một quốc gia nhỏ bé với khoảng 5,5 triệu dân, nép mình ở rìa phía đông bắc châu Âu, thế nhưng Phần Lan đã khẳng định vị trí của mình trên bản đồ thế giới – một cách thầm lặng và khiêm nhường. Bạn sẽ khó tìm được một người Phần Lan nào ra vẻ ba hoa, vì ở đất nước này, chỉ nhấn kèn xe thôi cũng bị xem là một việc cực kỳ thô lỗ. Nếu hỏi một người Phần Lan về bí quyết thành công của chúng tôi, thông thường bạn sẽ nhận được một cái nhún vai và một câu trả lời không mấy rõ ràng rằng chẳng có một bí quyết nào cả. Thế nhưng những người tin rằng bí quyết nằm ở sisu lại nghĩ khác. Chúng tôi luôn thầm tự hào về tinh thần sisu của mình.   Thế thì đối với người Phần Lan, hạnh phúc nghĩa là gì? Theo một cuộc khảo sát mới đây, sự độc lập, bình yên, trật tự, hữu dụng và công bằng đều có vị trí cao trong danh sách những yếu tố góp phần làm nên hạnh phúc, và “dành thời gian hòa mình cùng thiên nhiên” là yếu tố dẫn đầu danh sách này. Quan niệm sống của người Phần Lan vẫn còn nhuốm màu lịch sử của những năm tháng thiếu thốn và buộc phải chinh phục môi trường khắc nghiệt. Điều đó giải thích vì sao trong thời buổi tiện lợi này, nhiều người Phần Lan vẫn thích trải qua kỳ nghỉ hè trong những ngôi nhà gỗ nhỏ thiếu thốn một số tiện nghi cơ bản, cũng như tại sao chúng tôi có tình cảm vừa yêu vừa ghét đối với khí hậu.   Tinh thần sisu đã được chứng thực trong suốt bề dày lịch sử, khi Phần Lan đã xây dựng và tái thiết tương lai của dân tộc mình nhiều lần. Tôi tin rằng sisu mang lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích nếu ta nhìn nhận sisu như một chuẩn mực sống. Mời các bạn đón đọc SISU - Vượt Qua Tất Cả: Nghệ Thuật Sống Của Người Phần Lan của tác giả Joanna Nylund.