Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bánh Mì Cô Đơn

Cuốn tiểu thuyết Bánh Mì Cô Đơn của tác giả Judith Ryan Hendricks viết về những thân phận phụ nữ hết sức đời thương. Là Wyn Morrison, biết rất nhiều nhưng không rõ mình muốn gì? Là Christine Mayle, yêu sàn diễn đến cháy bỏng, nhưng không dễ gì tìm được người đàn ông của đời mình. Là người mẹ hoàn hảo của Wyn, sau nhiều năm trời im lặng đã mở ra những tâm sự chân thành cùng con gái. Là những phụ nữ vừa bình dị vừa độc đáo ở hiệu bánh Quen Srteet. Tất cả ít nhiều đã giúp Wyn nhìn lại chính mình sau khi mải sống cuộc đời nhung lụa của một cô vợ được cưới về chỉ cốt để làm sang cho chồng. Và rồi Wyn nhận ra rằng thứ công việc cầm cự mưu sinh ở tiệm bánh mì đã an ủi lòng cô một cách kỳ diệu và bất ngờ giúp cô một lần nữa hiểu được rằng chẳng có gì giống như trước nữa... Bánh mì nở ra, những nỗi đau dịu lại, trái tim được hàn gắn, và cánh cửa tương lai hé mở. *** Có thứ nữ tính ngọt ngào như mật ong sánh lăn trên lát bánh mì phết bơ, có thứ nữ tính nồng nàn như cà phê ấm sực một góc mùa đông, lại có thứ nữ tính vụng về đáng mến trong những tâm sự khù khờ, và cũng có thứ nữ tính ram rám mà cảm động đến thắt lòng. “Bánh mì cô đơn” là bản dịch đã theo tôi trong hai năm, qua năm thành phố, ba đất nước, hai châu lục, với rất nhiều khắc khoải của cuộc sống và nỗi cô đơn của chính tôi. Với bản thân, tôi coi đây là cuốn sách cho tuổi tam thập nhi lập, và cho phần cứng rắn quyết liệt gàn dở bên trong đội lốt ẻo lả nhõng nhẽo mau nước mắt bên ngoài của mình. Là người dịch, phần nào có nghĩa là phải bắt được thần thái của nhân vật và khiến nhân vật hiện lên sống động và sắc nét bằng từ ngữ. (Trừ trường hợp các nhân vật vốn nhạt nhòa ngay từ trong nguyên tác). Dù chủ ý nhận dịch tác phẩm ở những thể loại khác nhau, tôi vẫn coi mình là một kẻ học việc, tìm cách mở rộng “vùng dễ chịu” của mình để đến với những tác phẩm, những nhân vật lạ lùng hơn, gai góc hơn, khác với bản thân tôi hơn. “Bánh mì cô đơn” là một ca từa tựa như vậy, với dàn nhân vật nữ mỗi người một vẻ, từ mơ màng đa đoan, cá tính quyết liệt, trầm tư giản dị, đến nanh nọc cục súc, và nhẫn nại một cách đầy ích kỷ. Có thứ nữ tính ngọt ngào như mật ong sánh lăn trên lát bánh mì phết bơ, có thứ nữ tính nồng nàn như cà phê ấm sực một góc mùa đông, lại có thứ nữ tính vụng về đáng mến trong những tâm sự khù khờ, và cũng có thứ nữ tính ram rám mà cảm động đến thắt lòng. Nguyên tác là của tác giả, nhưng tôi tìm thấy những mặt khác nhau của mình trong từng nhân vật, và bản dịch có một phần của tôi trong đó… *** TIẾNG THIẾT BỊ BÁO CHÁY bíp bíp đánh thức tôi dậy. Gượm đã. Thiết bị báo cháy bình thường rít lên chứ có bíp bíp thế này đâu. Tôi ngồi dậy, thấy căn phòng đang chao đảo, mọi thứ méo đi như hình ảnh trong gương nhà cười. Tiếng đồng hồ báo thức chăng? Tôi quay đầu quá nhanh. Đau buốt như một kiểu tra tấn cổ xưa của người da đỏ bộ tộc Apache vậy. Những dải da mới lột còn ướt, được bó chặt lại, kệ cho khô. Tôi thả chân xuống qua mép giường, chớp hai mí mắt sưng húp. Khoang miệng khô nghẹt như tấm lưới chắn bụi vải trong máy sấy quần áo. Tôi vẫn đang mặc chân váy lót và áo sơ-mi lụa màu ngà từ tối hôm qua. Đồng hồ đeo tay trượt đi, lằn một rãnh sâu lên cánh tay tôi: 6:45 phút sáng. Một chai Puligny-Montrachet rỗng không trên bàn. Hình như chỉ có rượu rẻ tiền mới làm người uống nhức đầu thôi chứ. Tôi đã làm cái quái gì với chiếc ly nhỉ? Tôi đứng dậy, chân bước loạng choạng. Đi xuống nhà. Từ từ nào. Bám vào tay vịn cầu thang. Vào bếp. Máy làm bánh mì. Sao cái máy bé tí mà kêu to thế? Tiếng bíp bíp phát ra cùng nhịp điệu với mạch đập của tôi. Tôi ấn nút. Cái máy ngừng kêu và nắp bật mở, tỏa ra một đám mây mùi bánh. Tôi quay vội đi và nôn vào bồn rửa. Tôi vặn nước súc miệng, đứng thở và bám vào thành đá lạnh ngắt của mặt bàn bếp. Rồi tôi nhớ ra. David. Tôi nhấc ổ bánh còn ấm ra, đặt trên mặt tấm thớt nặng bằng gỗ phong, một ổ bánh nâu hoàn hảo. • • • Công ty giới thiệu việc làm là một văn phòng bận rộn trong một tòa nhà bằng kính và thép gần sân bay Los Angeles. Các cửa sổ nhìn ra quang cảnh ngoạn mục trên đường cao tốc liên bang 405, mười giờ rưỡi sáng mà xe cộ vẫn nối nhau san sát. Các ứng viên đông kín khu vực chờ - đa phần là phụ nữ trông trẻ hơn tôi chừng chục tuổi, hình như cô nào cũng tên là Heather, Fawn hoặc Tiffany. Nơi này có chút khí thế hừng hực như những căn phòng bàn chiến sự trong các bộ phim về Thế chiến II. Thiếu mỗi ông Winston Churchill là đủ bộ. Chẳng có ai thủng thẳng chuyện gẫu bên đài phun nước. Ai ai cũng lăm lăm điện thoại, bấm bấm bàn phím, hoặc đi phăm phăm ở hành lang, ánh mắt găm thẳng, tránh mọi sự phân tán mất tập trung. Giống hệt như tôi. Ngoại lệ duy nhất là một phụ nữ trẻ ngồi ở bàn phía trước. Khi đã chuốt xong cái móng tay ương bướng bị xước, cô ấy nhìn lên và mỉm cười. - Tôi giúp được gì không? Tôi cố gắng vui vẻ tách mình khỏi guồng quay này. - Tôi có hẹn với chị Lauren lúc mười một giờ. Tôi biết mình đến sớm, nhưng... - Không sao. - Cô ấy đưa tôi một bảng cứng kẹp mấy mẫu giấy tờ. - Chị điền vào cái này, rồi chúng tôi sẽ tiếp tục với phần phỏng vấn và kiểm tra chị. Cô ấy đưa tôi cái bút chì; chỉ dãy ghế bằng sắt và da bọc kê dọc một mảng tường. Còn kiểm tra gì nữa? Nhiêu khê quá. Tôi ngồi xuống ghế; đầu vẫn còn lùng bùng bất kể đã uống hai viên aspirin và một tách đúp cà phê espresso. Giải quyết từng thứ một nào. Tên: “Justine Wynter Franklin”. Có lẽ không nên dùng tên sau khi đã kết hôn. Tôi cố gắng xóa chữ “Franklin” đi, nhưng cục tẩy vừa cũ vừa bở, càng tẩy càng lem nhem. Tôi gạch đi, viết chữ “Morrison” đè lên. Bây giờ trông có vẻ như tôi không chắc chắn. Địa chỉ. Số điện thoại. Tôi điền được dễ dàng. Ngày sinh. Số an sinh xã hội. Loại công việc mong muốn. Có lẽ viết “Không biết” thì không hay lắm. Tôi điền “Việc văn phòng”. Chung chung quá ư? Kỹ năng. Tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống trên giấy. Nó như đang doãng ra, thách tôi có dám điền vào hay không. Thực ra tôi vẫn có thể ngâm Ballade des pendus, khúc ba-lát cho những kẻ treo cổ của François Villon. Hoặc bàn về ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp đối với tiểu thuyết Anh. Để xem nào... Tôi nấu được thứ cơm hoàn hảo, không có chút nước đọng nào ở đáy nồi, từng hạt cơm tơi bông nở đều. Tôi biết cách làm hồ tiêu và hạt bách xù để lâu ngày trong tủ bếp dậy mùi trở lại như mới, hoặc đánh mượt sốt crème anglaise bị vón. Nếu cần làm mềm thịt bằng nút bấc chai rượu, hoặc tách sáp nến khỏi khăn trải bàn, cứ việc tìm đến tôi. Từ khoảng cách năm mươi bước chân, tôi có thể phân biệt được khăn quàng chính hãng Hermès với hàng Hàn Quốc nhái. Tôi có cú ve trái cắt mặt sân quần vợt rất mạnh mẽ. Cách đây lâu lẩu lầu lâu rồi, tôi biết đánh máy chữ, nhưng với một tốc độ chẳng có gì đáng khoe cả. Ai đó từng nói rằng giọng tôi trả lời điện thoại nghe rất êm tai. “Trả lời điện thoại chăng?” - Cô Justine Franklin? Giật mình, tôi nhìn lên. - Chào cô, tôi là Lauren Randall. Người phụ nữ đứng trước mặt tôi mỉm cười phô ra hàm răng hoàn hảo. Trông chị ấy có vẻ tự nhiên thoải mái như đang ở nhà mình. Tầm bốn mươi tuổi, đẹp một cách thanh lịch hơn là xinh đẹp, vẫn trên người bộ váy lụa đũi màu be. Mái tóc vàng của chị ấy vẫn gọn phía sau, chặt đến mức trông như cặp lông mày nhướn lên một vẻ ngạc nhiên. Khi tôi đứng lên để bắt bàn tay Lauren đã chìa ra, tấm bảng cứng kẹp giấy tờ trượt rơi xuống sàn. Mặt nóng bừng, tôi vội nhặt nó lên, phớt lờ mọi ánh nhìn, đi theo Lauren dọc hành lang trong khi chị ấy bắt đầu gợi chuyện một cách hết sức bài bản. - Tôi rất mừng được gặp người mặc áo vest. Chắc cô không hình dung nổi đủ loại trang phục tôi từng thấy đâu. Các bạn nữ trẻ trung đến đây mà cứ như đi biển chứ chẳng có vẻ gì là đi tìm việc làm. Thế là tôi đã nằm ngoài diện “các bạn nữ trẻ trung”... Lauren nhận bảng kẹp giấy tờ từ phía tôi, đưa tôi vào phòng làm việc của chị, một phòng nhỏ xíu với hai chiếc ghế và một bàn nhỏ chất đầy tài liệu. - Xem chúng ta có gì nào. Cô đang tìm loại công việc gì? - Việc văn phòng nói chung chị ạ. Sắp xếp giấy tờ, trả lời điện thoại... Có khoảng năm chục bộ phim thuộc thể loại mẹ tôi thích, trong đó cô Doris Day, một kiểu bạn nữ trẻ trẻ xinh xinh, rời nhà đi chinh phục chốn phồn hoa đô hội và kiếm được một chân thư ký - nói như vậy là đủ thấy tôi chẳng trẻ trung gì nữa rồi. ngày đầu tiên làm việc ở một công ty quảng cáo danh tiếng, cô ấy - nhã nhặn trong váy liền màu hồng với cổ cánh sen trắng - đánh đổ cà phê lên khắp người anh chàng bảnh trai ở phòng thư tín. Nàng xấu hổ không để đâu cho hết, còn chàng quá say đắm vẻ thẹn thùng ấy, và đã phải lòng nàng ngay tắp lự. Sau rất nhiều thắt mở ngớ ngẩn, đôi trẻ làm đám cưới, nàng thôi việc để làm một quý cô nhàn nhã, đại thể giống như vị trí mà tôi đang từ bồ đây. Tôi những muốn hỏi Lauren xem ở đây có áp dụng kiểu kịch bản như vậy không. Cô lễ tân với sự nghiệp trở thành một người phụ nữ được chồng nuôi và chỉ việc hưởng thụ. - Cô từng làm lễ tân phải không? - À... - Cô có thể xử lý được bao nhiêu đường dây điện thoại? Cô đã dùng hệ thống Rolm bao giờ chưa? Hoặc là Honeywell? - Lauren không để ý gì đến sự im lặng của tôi. - Xin lỗi nhé, chắc tôi đã gọi phỏng vấn khi cô chưa kịp điền hết vào đơn. Tôi sẽ ghi chú vào đây, khi chúng ta xong thì cô có thể làm bài kiểm tra kỹ năng đánh máy. - Không cần làm bài kiểm tra ấy đâu chị ạ, tôi không đánh máy gì từ năm năm nay rồi. - Không sao. - Chị ấy khẽ phất tay. - Giống như đi xe đạp ấy mà. Phản xạ sẽ quay trở lại khi cô bắt tay vào làm. - Lauren nhìn khoảng trống ở mục “Kinh nghiệm”. - Hiện giờ cô có đang làm việc không? Tôi từng đọc nhiều bài báo viết chắc như đinh đóng cột rằng nội trợ và công tác tình nguyện cũng có giá trị tương xứng với bất cứ công việc được trả thù lao nào. Dám cá là Lauren không hề đọc những bài báo ấy. - Justine này... - Wynter ạ, tôi thường dùng tên đệm. - Xin lỗi nhé. Wynter này, cô cho tôi biết kinh nghiệm làm việc của cô được không? Thở sâu, tôi nói: - Ba năm dạy tại trường trung học. Một năm kinh doanh bất động sản... Lauren nhìn tôi với vẻ trông đợi, chờ đến đoạn tôi nói vào công việc chính. - Và tôi đã làm việc cho các ủy ban. Bệnh viện Cedars-Sinai, dàn nhạc giao hưởng... - Tôi lục tung trí nhớ ngắn hạn của mình, cố tìm cho ra điều gì đó ấn tượng hơn. - Thế sao cô lại muốn làm việc văn phòng tạp vụ? Chỉ cần cô gia hạn chứng chỉ sư phạm hoặc kinh doanh bất động sản trở lại thì sẽ thu nhập được khá hơn đấy. - Tôi không quay lại bất động sản được vì tôi làm dở tệ, chưa từng bán được thứ gì. - Vậy dạy học thì sao? Gia hạn chứng chỉ sư phạm không khó... - Tôi ghét dạy học lắm. - Tôi nắm chặt tay ghế bằng những ngón tay dinh dính mồ hôi. Lauren ngả người ra sau, khoanh tay lại, nhìn tôi chừng như đang suy xét điều gì. Tôi có thể đọc được suy nghĩ trong mắt chị ấy: lại một nàng bảo ngọc ở khu Hancock Park hết được nuôi ăn đây mà. Trong bụng chị ấy chắc đang cười như điên mất. Lauren bắt chéo đôi chân thon, để một bên quai giầy cao gót trật khỏi gót chân. Rồi chị ấy nói, một cách lặng lẽ: - Tôi không muốn làm cô sợ đâu, Wynter ạ, nhưng tôi ghét công việc này. Đôi khi ta phải làm những việc mà ta ghét cay ghét đắng. Tôi đã đứng dậy, chẳng hiểu sao tôi đứng như vậy từ bao giờ rồi. - Cảm ơn lời khuyên của chị. Tôi ra khỏi văn phòng bé xíu ấy, đi qua bàn lễ tân, rời khỏi công ty. Nếu đi nhanh, trông tôi sẽ như đang vội đến một cuộc hẹn phỏng vấn. Tôi ngồi ở bãi đỗ xe, trong chiếc Mazda RX-7 vốn là quà tặng sinh nhật tôi cách đây ba năm. Khốn thật. Mi thì biết cái gì chứ? Tại sao tôi phải bận tâm tìm việc làm? Tối nay thôi, David và tôi sẽ ngồi lại với nhau và giải quyết sự việc đâu vào đó. Anh mệt và căng thẳng cực điểm. Chắc anh sẽ về nhà với hoa hồng trên tay hay gì đó tương tự, nói rằng anh xin lỗi... Chúng tôi sẽ đi xa vài ngày. Tới Mexico. Uống rượu margaritas, yêu nhau và ngủ. Mọi chuyện sẽ ổn cả. Tôi xoay chìa khóa khởi động xe. Tôi không cần việc làm. Đặc biệt là thứ việc văn phòng phục dịch thời vụ vớ vẩn và vặt vãnh. Xe của tôi có mùi rất dễ chịu. Không rõ thợ rửa xe đã làm gì với lớp da bọc trên ghế mà xe vẫn còn mùi như mới thế này. Một món quà rất David. Anh định sắm cho tôi một chiếc Mercedes, nhưng tôi luôn thấy dòng xe ấy có vẻ ù lì kém thời trang. Tôi muốn thứ gì đó khiến tôi vui và hào hứng, thứ gì đó có cần số. Một chiếc Porsche chẳng hạn. Biết tôi ham tốc độ, anh đã dứt khoát không thể là Porsche được. Chúng tôi không nói đến chuyện đó nữa. Rồi, sáng hôm sinh nhật, tôi vừa xuống nhà đã thấy một hộp nhỏ đặt cạnh cốc nước cam. Tôi cứ ngỡ đó là món trang sức nào đó. Cơ mà nằm giữa những nếp xa-tanh trắng là một chiếc chìa khóa đen. Chiếc RX-7 của tôi đang đậu bên ngoài, ngay sát mặt đường, dù trời trông như muốn mưa. Chúng tôi chạy xe vài dặm qua những ngọn đồi, cho đến khi mây trên đầu vỡ ra và rải mưa xuống. • • • Đã quá trưa mà tôi vẫn chưa ăn gì. Tôi tấp xe vào quán burger In-n-Out đầu tiên bắt gặp, gọi món qua cửa sổ xe ô-tô, hầu như không thấy rõ đó là thứ gì. Trở lại đường cao tốc, hướng bắc theo đường 405, hướng tây theo đường 10, rồi đường PCH thẳng ra bờ biển. Lần đầu tiên tôi để ý hôm nay là một ngày đẹp trời biết chừng nào. Bên trái tôi là Thái Bình Dương xanh thẳm, lấm tấm những đỉnh sóng bọt tung trắng xóa, hắt màu trời biếc điểm xuyết những cụm mây trắng. Khung cảnh mà có bị lật ngược thì ta cũng chẳng thể phát hiện ra được, như những bức tranh trong truyện thiếu nhi vậy. Bên phải tôi, những sườn dốc nâu bao lấy bãi biển Malibu chốc chốc lại rực lên những mảng màu - những giàn hoa giấy đỏ thắm, từng vạt sen cạn màu vàng tươi và da cam, hoa xuyến chi tím ngát xen lẫn với ngọc giá trắng và cây bụi khô. Một khung hình muôn thuở như kéo dài ra mãi, trừ khi ta biết đôi chỗ trên đường có những đống đá chực lở ra và trượt xuống. Vừa lái xe vừa nhét khoai tây rán vào miệng, tôi kín đáo quan sát những người đang chạy xe khác. Sao trông ai cũng như biết rõ mình đang đi đâu và sẽ làm gì khi đến nơi thế nhỉ? Ký ức về những ngày hè thong dong hạnh phúc thôi thúc tôi rẽ vào đường ra bãi biển Zuma. Vừa tấp xe vào bãi đỗ gần như trống, tôi thấy một chiếc Mercedes đen và hơi thở lập tức như nghẹt lại. David ư? Dòng xe khác, biển số khác. Mà liệu anh có thể làm gì ở đây cơ chứ? Chiếc xe từ từ chạy qua tôi, một phụ nữ tóc đỏ cầm lái. Tôi nhìn đăm đăm những con sóng bạc đầu cuộn vỗ vào bờ trong khi ban nhạc The Supremes tự hỏi “Tình yêu của chúng ta đã ra đi về đâu?”, còn tôi tự hỏi: ra đi khi nào. Được rồi. Đúng là gần đây không có nhiều những khoảnh khắc ngọt lịm như quảng cáo trên ti-vi, những tiếng cười và thậm chí những mục tiêu chung. Nhưng phải chăng như thế có nghĩa là tất cả đã hết? Miếng bánh burger phô mai đầu tiên rơi xuống dạ dày tôi như hòn đá rơi xuống một bể bơi cạn nước. Tôi dúi phần còn lại vào túi cùng với khoai rán đã nguội ngắt. Tôi ra khỏi xe, tháo bỏ giầy và tất da chân. Đi qua mặt đường nhựa ấm lên dưới nắng, tới bờ cát ẩm ướt mát lạnh, choàng áo khoác quanh mình. Những trạm cứu hộ không người, ảm đạm co ro vào nhau là dấu hiệu rõ rệt nhất cho hay mùa thu đã đến miền nam bang California. Đôi khi đó là dấu hiệu duy nhất. Dọc theo bờ biển, một chú chó Lab lông vàng nhảy nhót cùng bọt sóng trong khi người chủ thuần thục quăng những cây gậy đi. Lác đác có vài người lướt sóng mặc bộ đồ bó đen, thoăn thoắt đứng lên nhún xuống trên ván, chờ con sl óng lớn. Một người đàn ông và một phụ nữ tóc đã muối tiêu nắm tay nhau nhịp nhàng tập các động tác khởi động. Còn lại, chỉ có tôi. Một lưỡi sóng lạnh buốt liếm qua chân, tôi cứ đứng im, nước ngập đến mắt cá. Nếu không đi tiếp, tôi sẽ mất thăng bằng mất. Gió biển mằn mặn đánh rối tóc tôi, phả vào làm hai mắt chảy nước. Tôi đi về phía bắc, bước qua những dải rong biển, những vỏ sò vỡ, nửa con cua bị ruồi bâu kín. Tôi từng đọc thấy người ta nói rằng khi bắt đầu nhận thức được cái chết không thể trì hoãn nổi của bản thân, phản ứng đầu tiên của ta thường là, Mình không thể chết được. Mình còn vé đi nghe opera tuần sau cơ mà. Tại sao lại như vậy? Khi phải đối mặt với những gì ta không muốn chấp nhận, tại sao ta lại cố gắng bảo vệ bản thân bằng những thứ nhỏ nhặt vặt vãnh ấy? Khi mẹ đến trường đón tôi ra khỏi lớp và nói bố tôi đã mất, suy nghĩ đầu tiên của tôi trước khi rơi vào trạng thái bị xúc động mạnh là, Vậy mùa hè này nhà mình không đi Tahoe được nữa sao? Giờ khi các ngón chân đã ngấm lạnh đến nhăn lại, tê cứng, cố gắng bám vào bờ cát, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là mẹ tôi sẽ thất vọng biết chừng nào. Bà luôn yêu quý David. Trong câu chuyện theo phiên bản của mẹ tôi, anh là Hoàng tử Hào hoa. Chính anh đã giải cứu tôi khỏi - không phải khỏi rồng đâu nhé, mà là điều còn tệ hơn thế - khỏi mảnh đời nhàm chán của một cô giáo trung học chẳng mấy khi hẹn hò, các kỳ nghỉ thường đi chơi cùng những chị em độc thân khác. Anh đã lắp tôi vào một tòa nhà ở khu Hancock Park, cho tôi chiếc xe thể thao đỏ, quần áo đẹp, những món trang sức đắt tiền. Tất cả những gì tôi phải làm là ăn mặc vừa mắt, tổ chức những bữa tiệc tinh tươm, kết bạn đúng người, sẵn sàng đáp ứng khi anh muốn tôi, và không làm gì để anh bị bẽ mặt. Chẳng có gì phải thắc mắc nhiều. Được rồi, đúng là tôi ghét dạy học. Khó có thể thổi bùng lên ngọn lửa say mê văn chương với những đứa trẻ có kỹ năng đọc hiểu dậm chân tại chỗ ở trình độ lớp năm. Đa phần trong số chúng chỉ giết thời gian ở lớp của tôi trong khi chờ sóng lên để đi lướt ván, hoặc chờ đến giờ học môn khác, hoặc đến 3:10 phút, chuông báo tan học và thế là chúng có thể vù ra tiệm Bob’s Big Boy. Cũng đúng là đời sống xã hội của tôi phần lớn xoay quanh mấy cô bạn gái - CM, Sandy và Liz. Nếm rượu vang, ăn tại nhà hàng độc đáo, xem phim Pháp, dự triển lãm nghệ thuật, tất cả những trò vui tiêu khiển rất đặc trưng của phụ nữ độc thân. Như vậy không có nghĩa là tôi không hẹn hò. Chắc chắn rằng không phải cái gì mẹ tôi cũng biết. Theo kinh nghiệm rộng một cách đúng mực của tôi, những phẩm chất của đàn ông - như ấm áp, chân thành, rộng lượng - thường tỉ lệ nghịch với độ hấp dẫn của vẻ bề ngoài. Điều này dẫn tôi đến kết luận rằng các chàng càng đẹp trai thì càng chẳng ra gì, vì tất cả những người nữ mà họ biết, bắt đầu từ mẹ đẻ, đã làm hư họ mất rồi. Bất chấp thực tế này, hoặc có thể tại vì thế, tôi bị cuốn hút bởi những người đàn ông cao ráo, tóc vàng và bảnh trai, - như thiêu thân lao mình vào lửa. Điều này, như CM, cô bạn thân nhất của tôi, nhanh chóng chỉ ra, có thể là do bố tôi, người tôi hết sức ngưỡng mộ và đã qua đời khi tôi mười bảy, là người cao ráo nhất, tóc vàng đẹp nhất, và điển trai nhất trong số tất cả nam giới. Nhưng bố cũng là cuối cùng trong những đàn ông tử tế. Đã gần mười lăm năm kể từ ngày bố mất, nhưng tôi vẫn có thể đi vào căn phòng làm việc nhỏ trong nhà mẹ mà hình dung ra bố đang ngồi trên ghế da, tờ báo đặt trong lòng, một ly Manhattan mát lạnh trên bàn bên cạnh. Bố thích thứ rượu không ngọt với một chút cốt chanh ấy. Mẹ đã cáu khi bố dạy tôi cách pha chế. Bố dạy tôi mọi thứ. Biết yêu sách vở. Biết cưỡi ngựa kiểu Anh trong khi các bạn tôi cưỡi kiểu miền tây. Bố mua cho tôi một chiếc ô-tô với cần số trong khi các bạn tôi lái xe số tự động. Bố dạy tôi biết ngắm nhìn vòm trời Tahoe vào những đêm tháng Tám trời trong, dõi theo sao băng để nguyện cầu điều gì đó. Buộc nút thủy thủ thế nào, đánh bóng ve trái ra sao. Quẹt diêm bằng một tay. Thở trong khi bơi. Bố dạy tôi cách không sợ hãi khi mở to mắt dưới nước. Và cả trên mặt nước. Đa phần đàn ông mà tôi biết đều không thể sánh được với bố. Ừm, có vài người có thể tôi không chắc lắm. Như Mark, anh họ của ai đó từ Del Mar, gặp tại một tiệc cưới. Andy, anh phi công có vợ ở Dallas. Một nhiếp ảnh gia với cái tên độc đáo Rocky Rivers. Dù sao tôi luôn cho rằng anh ấy quan tâm đến CM nhiều hơn. Chẳng ai trong số họ làm thế giới của tôi rung chuyển được cả. Cho tới đêm tiệc sinh nhật lần thứ hai mươi ba của Paula bạn tôi. Tôi vẫn nhớ mình vừa đến đã bị cô ấy túm ngay lấy. - Có người này cậu phải gặp. Tôi móc áo khoác lên giá treo mũ cạnh phòng kho ở hành lang. - Tại sao chứ? - Anh ấy cao. Cao hơn cậu. - Thế thì là Frankenstein rồi. Tôi bắt đầu đi dọc hành lang đến nhà vệ sinh, nhưng Paula đã kéo tôi lại. - Không phải Frankenstein mà. Nào, rồi cậu sẽ cảm ơn tớ cho coi. Cô ấy lôi tôi đến trước một quầy bar dựng từ bàn chơi bài trong phòng khách, nơi một anh chàng không thể cao hơn, tóc vàng hoe và đẹp trai đang mở một chai bia. - Wyn ơi, đây là anh Dave. Anh Dave, đây là Wyn. Thế nhé. Paula biến luôn vào bếp. Tôi chỉ muốn chui ngay xuống dưới thảm, nhưng Dave mỉm cười và bắt tay tôi, xin lỗi vì tay anh đang lạnh. Đôi mắt anh xanh mênh mang, màu của đại dương tháng Bảy. Rồi anh nói: - Mà anh là David chứ không phải Dave. Em là Lynn phải không? - Wyn ạ, như trong Wynter*. Đồng âm với từ “winter”, trong tiếng Anh nghĩa là “mùa đông”. Mời các bạn đón đọc Bánh Mì Cô Đơn của tác giả Judith Ryan Hendricks.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Công Tước Và Em - Julia Quinn
Thông minh, quyến rũ và cũng lại vô cùng ngây thơ, Daphne Bridgerton không bao giờ tưởng tượng rằng cô sẽ bị cuốn vào vòng xoáy tình yêu với chàng công tước độc thân sáng giá bậc nhất nước Anh, đồng thời cũng là một tay chơi khét tiếng khiến cả mẹ lẫn các anh cô phải cấm đoán. Không chỉ có thế, khi bị anh trai cô lôi vào cuộc đấu súng một mất một còn, anh chàng đó sẵn sàng chấp nhận cái chết chứ nhất định không trao cho Daphne Bridgerton bất cứ điều  gì ngoài câu nói, Tôi không thể lấy em… Công tước và em - cuốn tiểu thuyết lãng mạn danh tiếng của Julia Qinn, cuốn sách mang màu của ký ức, màu của những rượt đuổi cô độc về cảm xúc, lại cũng tràn ngập màu đỏ của đam mê, màu vàng rực rỡ của hạnh phúc. Khi mọi sắc màu đó hòa quyện, thế giới của hai nhân vật chính tan vào nhau trong sự toàn vẹn… *** Đôi nét về tác giả: Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra hơn mười thứ tiếng, chín lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA. Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác ngay từ khi rời trường trung học, và ngay từ các tác phẩm đầu tay đã nhận được những phản hồi tích cực từ cả độc giả lẫn các nhà xuất bản. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ. Những tác phẩm của cùng tác giả Julia Quinn được Nhã Nam xuất bản: The Secret Diaries of Miss Miranda Cheever (Nhật ký bí mật của tiểu thư Miranda) What Happens in London (Chuyện xảy ra ở London) Tử Tước và Em Như Chốn Thiên Đường Công tước và Em Săn Lùng Quý Cô Thừa Kế ... *** Lời khen tặng dành cho Công tước và em “Cuốn hút.” - Nora Roberts “Tôi chỉ có thể chân thành cảm ơn Julia Quinn vì đã phục hồi niềm tin của tôi đối với văn học lãng mạn.” - Walaika Haskins, Romance Reader   “Julia Quinn là Jane Austen đương đại.” - Jill Barnett “Quinn sẽ mang đến cho các bạn những giấc mơ thú vị.” - Romantic Times *** Ngày sinh của Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset, Bá tước Clyvedon, được tổ chức rất long trọng. Nhà thờ đổ chuông trong hàng giờ liền, champagne được xả lênh láng hào phóng trong khuôn viên tòa lâu đài khổng lồ, nơi cậu bé mới sinh gọi là nhà, và cha ngài Bá tước nhỏ tuổi yêu cầu toàn thể dân làng Clyvedon nghỉ việc để tham dự yến tiệc và kì nghỉ. "Đây," bác bán bánh mì nói với người thợ rèn, "không phải là đứa trẻ bình thường." Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset không phải được sinh ra để cả đời sống với tước vị là Bá tước Clyvedon. Đó chỉ là một tước vị có được do ưu đãi. Simon Arthur Henry Fitzranulph Basset – cậu bé con có nhiều tên hơn hẳn bất kỳ đứa trẻ nào khác – là người thừa kế một trong những tước vị Công tước lâu đời và giàu có nhất nước Anh. Và cha cậu bé, ngài Công tước Hastings thứ chín, đã chờ đợi khoảnh khắc này trong nhiều năm liền. Khi ngài đứng trong đại sảnh bên ngoài phòng sinh của vợ, nâng niu đứa con đỏ hỏn đang khóc ầm ĩ trong tay, trái tim ngài Công tước gần như nổ tung vì tự hào. Nhiều năm sau khi bước qua tuổi 40, ngài đã chứng kiến biết bao người bạn của mình – những vị Công tước và Bá tước khác, tất cả – đều sinh ra hết người thừa kế này đến người thừa kế nọ. Một vài người có con gái trước khi đứa con trai quý giá của họ được sinh ra, nhưng cuối cùng, tất cả họ đều tin chắc dòng dõi của họ sẽ tiếp tục, dòng máu của họ sẽ được truyền lại cho thế hệ tiếp theo. Nhưng không phải ngài Công tước Hastings. Mặc dù vợ ngài đã mang thai năm lần trong suốt 15 năm hôn nhân của họ, chỉ hai lần bà hạ sinh, và cả hai lần con ngài đều chết yểu ngay khi mới chào đời. Sau lần mang thai thứ năm, kết thúc bằng việc sẩy thai vào tháng thứ năm của thai kỳ, các bác sĩ đều cảnh báo họ không nên thử thêm một lần có con nào khác. Mạng sống của nữ Công tước đã ở trong tình trạng nguy hiểm. Bà quá yếu, quá mỏng manh, và có thể, họ nhẹ nhàng nói, quá lớn tuổi rồi. Ngài Công tước chỉ đơn giản cố gắng chấp nhận thực tế, rằng tước vị sẽ không còn liên quan đến dòng họ Basset nữa. Nhưng nữ Công tước, Chúa phù hộ cho bà, biết rõ vai trò của mình, sau sáu tháng hồi phục, đã mở cánh cửa thông giữa phòng ngủ của họ, và ngài Công tước lại tiếp tục yêu cầu có một đứa con trai. Năm tháng sau, nữ Công tước thông báo cho ngài biết, bà đã có mang. Tâm trạng của ngài Công tước lập tức phấn chấn hẳn lên, bằng một niềm tin không gì lay chuyển được – chắc chắn là không gì lay chuyển được – rằng lần mang thai này sẽ thành công. Nữ Công tước đang nằm trên giường trong giây phút bà nhận ra mình đã trễ tháng. Các bác sĩ đến khám cho bà mỗi ngày, và trong suốt thời kỳ mang thai ấy, ngài Công tước đã mời vị bác sĩ được nể trọng nhất ở London, trả cho ông ta một khoản hậu hĩnh để ông tạm thời rời khỏi phòng mạch của mình, đến sống ở lâu đài Clyvedon. Ngài Công tước không còn cơ hội nào khác ngoài lần này. Ngài phải có một đứa con trai, và tước vị sẽ vẫn ở trong tay của dòng họ Basset. Kinh nghiệm về những cơn đau của nữ Công tước đến sớm hơn một tháng, những tấm đệm được lót dưới hông bà. Trọng lực sẽ giúp đứa bé bên trong, bác sĩ Stubbs giải thích. Ngài Công tước nghĩ đó là một lập luận có cơ sở, và, vị bác sĩ rời đi vào buổi chiều, sau khi đặt những tấm đệm khác cho vợ ngài, giúp bà nằm theo một góc nghiêng hai mươi độ. Bà đã nằm trong tư thế ấy suốt một tháng. Rồi cuối cùng, khoảnh khắc ấy cũng đến. Tất cả mọi người đều cầu nguyện cho ngài Công tước, người luôn muốn có một người thừa kế, và cả cho nữ Công tước, lúc bấy giờ rất mảnh khảnh và yếu ớt, vào lúc vòng bụng của bà ngày càng tròn và to hơn. Tất cả đều cố gắng không hy vọng quá nhiều – bởi nữ Công tước đã hai lần hạ sinh và cả hai lần đều phải chôn đứa bé. Ngay cả nếu như bà an toàn sinh hạ một đứa trẻ, thì đứa trẻ ấy, chà, rất có thể là một bé gái. Khi tiếng hét của nữ Công tước ngày một lớn và lặp lại thường xuyên hơn, ngài Công tước xô cửa bước vào phòng bà, mặc kệ lời phản đối của bác sĩ, bà đỡ và cả đám hầu gái. Ngài nhất quyết phải ở đây, dù nơi đây đang hỗn độn cả lên bởi máu và máu, để chứng kiến giây phút được biết giới tính của đứa bé. Đầu đứa bé xuất hiện trước, rồi đến bờ vai. Mọi người đều cúi người quan sát nữ Công tước căng ra và cố gắng, và rồi... Và rồi ngài Công tước biết đó là Chúa, và ngài mỉm cười với toàn thể dòng tộc Basset. Ngài cho bà đỡ một phút để lau sạch đứa bé, rồi để bà đặt đứa bé trai nhỏ bé vào vòng tay ngài, rồi ngài bước vào đại sảnh để khoe cậu với cả thế giới. "Ta có một đứa con trai!" Ngài gầm lên. "Một đứa con trai nhỏ xíu hoàn hảo!" Tất cả người hầu đều vỗ tay và thở phào nhẹ nhõm, ngài Công tước cúi xuống nhìn vị Bá tước tí hon trong tay mình và nói. "Con thật hoàn hảo. Con mang họ Basset. Con là của ta." Công tước muốn ẵm cậu ngài ra ngoài để chứng minh với mọi người rằng cuối cùng ngài đã cho ra đời một thằng bé khỏe mạnh, nhưng vẫn còn quá sớm khi thằng bé hãy còn là một đứa trẻ mới sinh nhỏ bé vào tháng tư, nên ngài giao đứa trẻ lại cho bà đỡ, để bà đem thằng bé đến chỗ mẹ nó. Ngài Công tước bừng lên niềm vui về phần thưởng quý giá và tổ chức tiệc mừng, hét lên về vận may của mình cho bất kỳ ai chịu lắng nghe. Trong lúc đó, nữ Công tước, mất quá nhiều máu sau khi sinh và dần dần chìm vào hôn mê. Cuối cùng bà ra đi. Ngài Công tước tiếc thương vợ. Ngài thực sự tiếc thương. Ngài không yêu bà, dĩ nhiên, và bà cũng chẳng yêu ngài. Nhưng họ đã là bạn trong gần như cả cuộc đời. Ngài Công tước không mong mỏi gì hơn một đứa con trai và một người thừa kế từ cuộc hôn nhân, và trước sự quý trọng ấy, vợ ngài đã chứng tỏ là một người vợ mẫu mực. Ngài đặt những bông hoa tươi thắm bên cạnh mộ phần của bà vào mỗi tuần, bất kể đó là mùa nào trong năm, và hương phần của bà được chuyển từ phòng khách vào đại sảnh, trên một vị trí trang trọng nhất. Sau đó, ngài Công tước bận bịu với việc nuôi dạy con trai. Chẳng có việc gì ngài có thể làm được trong năm đầu tiên, dĩ nhiên là thế. Con ngài vẫn còn quá nhỏ cho những bài học về quản lý đất đai và trách nhiệm, nên ngài Công tước để Simon lại cho bảo mẫu và lên đường đi London. Tại đây, cuộc sống của ngài vẫn tiếp diễn như thường lệ, như trước khi ngài nhận biết được về tình cảm cha con, ngoại trừ việc ngài thuyết phục tất cả mọi người – thậm chí cả Đức vua – để chiêm ngưỡng con trai ngài trong một bức họa nhỏ mà ngài vẽ sau khi thằng bé chào đời. Ngài Công tước ghé thăm Clyvedon trong nhiều lần, rồi trở lại để chuẩn bị quà cho sinh nhật hai tuổi của Simon, sẵn sàng cho việc học của thằng bé. Ngài mua một chú ngựa con; một khẩu súng nhỏ cho cuộc săn bắn cáo trong tương lai cũng được ngài chọn sẵn, và ngài cũng đã thuê hẳn các gia sư cho mỗi môn học cần thiết giúp con trai ngài trở thành một người đàn ông thực thụ. "Cậu ấy còn quá bé cho tất cả những thứ này!" Bảo mẫu Hopkins la lên. "Không sao cả." Hastings đáp trả nhún nhường. "Rõ ràng là, ta không hy vọng thằng bé nắm vững hết được bất cứ cái nào trong khoảng thời gian này, nhưng không bao giờ là quá sớm để bắt đầu việc giáo dục một Công tước." Mời các bạn đón đọc Công Tước Và Em của tác giả Julia Quinn.
Bất Cứ Điều Gì Em Muốn - Jennifer Crusie
Bất cứ điều gì em muốn của tác giả Jennifer Cruise -Tiểu thuyết gia văn học lãng mạn ăn khách nhất tại Mỹ là cuốn sách được đứng vào loại sách bán chạy nhất trong năm (Best-seller). “Bất cứ điều gì em muốn” nói về diễn biến tâm lý của một con người khi yêu. Tình yêu đánh gục bất kỳ ai, kể cả một thám tử tư vốn luôn tỉnh táo và bất cần. Kẻ giết người vì tình liệu có đáng được tha thứ? Mitch Peabody nhanh chóng nhận ra rằng cuộc đời của một thám tử tư chẳng giống những gì diễn ra trong phim ảnh. Anh đã hình dung ra một thế giới của những anh chàng thám tử ăn nói cứng rắn và những người cô nàng kiêu sa, lanh mồm lanh miệng. Thay vào đó anh gặp phải hết vụ này đến vụ khác nói về những gã chồng lừa dối, những cô vợ đáng ngờ và những cô nhân tình khờ khạo… cho đến khi cô bước qua cánh cửa. Mae Sullivan thực sự bốc lửa, kèm theo đó là một gia đình bất hạnh. Có một điều gì đó không hoàn toàn trung thực ở cô, nhưng cô đem đến một vụ án mà anh không thể chối từ…và để lại trong anh một cơn khát tình chưa từng có kể từ thời trung học. Nhưng liệu có phải Mae chỉ quan tâm đến việc bắt được kẻ lừa đảo phản bội đã giết ông bác mình… hay quý cô đó muốn bắt chính con người anh? “Hết sức mới mẻ, hài hước, tình cảm và táo bạo… Crusie là một trong những tác giả như thế”.  *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới. Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio. Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứ, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992. Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley – đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You. Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Các tác phẩm của Jennifer Crusie: Faking It Welcome to Temptation Fast Women Crazy For You Bet Me Maybe This Time Anyone But You What The Lady Wants (Bất cứ điều gì em muốn) Manhunting (Săn chồng) Strange Bedperson ... *** Mae Sullivan cau mày nhìn lên toà nhà cũ kỹ đầy bụi bẩn và đổi thế đứng từ bàn chân đau nhức trên chiếc giày cao gót nhọn hoắt này sang chân bên kia, cố tránh không đè lên những vết phồng rộp. Vẻ ngoài của khu dân cư này cho thấy cơ hội cô bị cướp ngày có lẽ cũng chỉ cao hơn tí chút so với khả năng toà nhà sẽ đổ sập xuống đầu cô. Chỉ có kẻ thất thế mới làm việc ở một nơi như thế này. Tốt. Chẳng dễ gì mới tìm được một tay thám tử tư bất tài bằng một mẩu quảng cáo ngắn cũn tại một thành phố ở miền trung tây như Riverbend. Nhưng giờ đã có Mitchell Peatwick. Cô có thể hình dung ra anh ta đang ngả ngớn trên chiếc ghế bành, hói đầu và béo ục ịch, quai hàm trễ xuống và đôi mắt lóe lên sự hiểm độc, trong khi não thì bé như quả nho. Anh ta sẽ chiếu cố đến cô vì cô là phụ nữ. Còn cô sẽ chơi anh ta như chơi đàn piano. Tất cả những gì cô phải làm là thuyết phục anh ta rằng anh ta đang điều tra một vụ giết người thực sự, rồi anh ta sẽ vác tấm thân phì nộn ấy đi loanh quanh, tạo nên những lời đồn đại và nỗi ngờ vực cho đến khi ai đó đã lấy cuốn nhật ký của ông bác cô sẽ buộc phải hoặc từ bỏ nó hoặc phải thủ tiêu nó vĩnh viễn nếu như kẻ đó không muốn bị bắt vì tội giết người. Phải, đó là tất cả những gì cô phải làm. Vậy thì làm thôi. Cô hít một hơi thật sâu và nhăn mặt khi cạp của chiếc váy hồng đi mượn cắt vào da. Rồi cô kéo chiếc mạng trên mũ xuống che ngang mắt và rảo bước về phía cánh cửa kính rạn nứt của toà nhà cũ kỹ, liếc nhìn bóng mình trong đó khi bước lên cầu thang. Thậm chí là qua lớp mạng màu hồng ngớ ngẩn, trông cô vẫn cực kỳ gợi cảm. Đó là điều kỳ diệu mà váy áo có thể tạo nên. Giờ nếu cô có thể tiến hành cho xong cuộc nói chuyện khỉ gió này trước khi cạp váy của June cắt cô thành hai và đôi cao gót nhọn hoắt của bà biến cô thành kẻ tàn tật suốt đời, thì cô sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề mà bọn họ đang mắc phải. Cầu trời để Mitchell Peatwick là một gã ngu như bò và yếu lòng trước phụ nữ mặc váy bó, cô thầm cầu nguyện khi bấm chuông thang máy. Cầu trời để anh ta là bất cứ thứ gì theo ý mình. Cánh cửa sổ ọp ẹp phía sau lưng anh mở toang, chiếc quạt trần trên đầu xoay xoay phả gió, và Mitch tin chắc rằng nếu như trời còn nóng hơn nữa thì anh sẽ chết. Và đúng là trời đang nóng hơn thật, anh khá chắc điều duy nhất giúp cho anh còn sống sót là vì anh không hề cử động. Nếu như anh nhúc nhích, thân nhiệt của anh sẽ tăng lên, và anh sẽ bị tan chảy ngay trên chiếc ghế bành của mình. Dù sao thì anh cũng không muốn cử động gì ráo. Anh đang chán chường đến mức chẳng buồn cựa quậy. Anh ngả lưng trên chiếc ghế da đã rạn – tay áo xắn cao, tay vắt ra sau đầu, chân gác lên chiếc bàn kim loại méo mó – và suy nghĩ về những kế hoạch mà anh đã lập ra và về cái cách mà những kế hoạch đó diễn ra. Có sự khác biệt lớn ở đây. Kỳ vọng là sự chuẩn bị tồi tệ trước thực tế. Đó là lý do vì sao anh từ bỏ những mộng tưởng của mình. Mộng tưởng không mang lại hiệu quả đặc biệt gì, cũng chẳng sinh ra chút lợi lộc nào, nhưng mộng tưởng lại dễ dàng hạ gục thực tế. Thực tế thì thật chó má. Mộng tưởng làm cho nghề thám tử tư trở thành một thứ nghề nghiệp hoành tráng. Thực tế thì tiếc thương cho nó. Anh nhắm nghiền mắt và cố hình dung lại giấc mơ đó, cái phần mà anh sẽ trở thành Sam Spade[1] của thập niên 90. Rồi tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng vọng qua hành lang và Mitch biết rằng một vụ ly dị khác nữa sắp sửa tìm đến mình. Trước đây anh còn ảo tưởng chút ít về các mối quan hệ, anh ảo não nghĩ thầm, nhưng bây giờ thì tuyệt đối không. Ngay cả những kẻ chưa kết hôn cũng thuê anh điều tra xem liệu những người mà họ không kết hôn cùng có thành thật hay không. Và dĩ nhiên là những người đó không thành thật. Đó là một sự thật không thể thay đổi mà Mitch đã học được trong một năm qua, là điều duy nhất mà giờ đây anh nhận ra là mình có thể tin tưởng được. Tất cả mọi người đều nói dối. Hẳn là Sam Spade đã hiểu được phần này, nhưng anh ta sẽ phỉ nhổ vào các vụ ly dị. Mitch có một cảm giác không mấy dễ chịu là lẽ ra anh cũng nên phỉ nhổ vào công việc này thay vì dựa vào nó để sống tạm bợ. Quá là tạm bợ. Anh vẫn còn một tuần nữa trong năm, một tuần nữa để kiếm được những đồng cuối cùng trong món tiền hai mươi nghìn đô và thắng vụ cá cược ngớ ngẩn rồi quay lại với cuộc sống bình thường của mình, nhưng để làm được điều đó cần phải có một khách hàng sẵn sàng trả cho anh hai ngàn sáu trăm chín mươi bốn đô trước ngày thứ Sáu. Chuyện đó sẽ không xảy ra. Moi tiền từ phía khách hàng là điều kém ưa thích thứ hai mà anh đã học được từ cái nghề này. Vì vậy khi nghe thấy tiếng dây cáp treo thang máy kêu xủng xoẻng ở ngoài hành lang đối diện với cửa văn phòng, anh chẳng hề sốt sắng bật dậy. Không chỉ vì nhiệt độ tăng lên sẽ giết chết anh nếu anh cử động, mà còn vì lâu lắm rồi anh đã chẳng hăng hái làm bất cứ chuyện gì, và anh cũng quên mất không biết chuyện tỏ ra nhiệt tình kiểu đó diễn ra như thế nào. Nếu mình là Sam Spade, thì đây ắt phải là Brigid O’Shaughness[2]. Chiếc quạt trần cũ kỹ kêu kẽo kẹt trên đầu Mitch, ánh mặt trời vàng vọt phủ lên người anh, và thật ngạc nhiên, anh bắt đầu cảm thấy lạc quan trở lại. Có lẽ niềm hi vọng vẫn chưa tắt hết. Có lẽ đây là một vụ Brigid dành cho anh, một người phụ nữ không hứng thú gì với hôn nhân và ràng buộc, sẵn sàng quyến rũ anh để đạt được những gì cô ta muốn. Chắc như bắp là anh sẵn lòng để bị quyến rũ. Cô ta sẽ bước vào văn phòng, lạnh lùng, thon thả, duyên dáng và bốc lửa trong một bộ vest trắng cổ rộng và một chiếc váy bó xẻ dọc đến tận hông. Cô ta sẽ có đôi chân tuyệt hảo. Và có thể cô ta sẽ đội một chiếc mũ trên mái tóc xoăn đỏ rực, một chiếc mạng tối che đi đôi mắt xanh thăm thẳm và chiếc mũi thẳng nhỏ xinh bên trên đôi môi căng mọng, ẩm ướt. Và ở giữa đôi môi và đôi chân sẽ là phần đẹp đẽ nhất. Chiếc áo vest sẽ bó chặt lấy ngực cô ta. Bộ ngực tròn. Bộ ngực căng, tròn. Bộ ngực cao, căng, tròn. Mitch cố xua hình ảnh bộ ngực kia ra khỏi đầu. Thế rồi cô ta bước vào và nói: "Tôi cần anh tìm Chim ưng xứ Manta[3]." Giọng nói của cô ta hơi khàn và nhẹ nhàng. Và từ lúc nào đó cô ta sẽ bỏ mũ xuống, và họ sẽ có một cuộc mây mưa đầy đam mê, ướt át, trơn trượt và đẫm mồ hôi… Mitch nấn ná một lúc với màn mây mưa. …và rồi anh sẽ phát hiện ra từ đầu đến cuối cô ta là kẻ có tội. "Anh sẽ không chịu tội thay cho em đâu[4], bé cưng", anh sẽ nói thế, và họ sẽ giao nộp cô ta vì tội ám sát cộng sự của anh. Thôi được rồi, anh chẳng có cộng sự nào trừ phi anh tính đến Newton, và chẳng ai từng tính đến Newton cả, thế nhưng… Chả trách mà cuốn sách đó lại là một cuốn kinh điển. Sam Spade đã tóm được cô ả mà không cần phải ràng buộc bất cứ điều gì và vẫn cảm thấy rất tuyệt về bản thân khi đá cô ta. Đầu tiên là ăn nằm với nhau cho thoả thích, rồi sau đó anh ta bỏ rơi cô ả, tự do thảnh thơi như chim trời, như một người anh hùng thay vì một tên sở khanh. Nào nào, cũng phải có tí mơ mộng chứ. Rồi cửa phòng mở ra, anh nhìn lên và cô bước vào. Tóc cô màu nâu sẫm, giống như màu mắt phía sau mạng che mặt, bộ vest màu hồng chứ không phải màu trắng, nhưng tất cả những thứ còn lại khá giống với trong tưởng tượng. Chiếc mũi, đôi môi, bộ… "Mình sẽ bị đày xuống địa ngục mất." Với nỗ lực to lớn, Mitch dứt ánh mắt khỏi bộ ngực để nhìn lên mặt cô. "Chắc vậy." Chất giọng trầm trầm của cô dội thẳng vào sống lưng anh. "Anh là Mitchell Peatwick?" "Ừ, phải." Mitch vung chân xuống sàn và đứng dậy, quẹt lòng bàn tay đẫm mồ hôi lên áo trước khi chìa tay cho cô. "Mitch Peatwick, thám tử tư. Nghe này, cô đã bao giờ đọc cuốn Chim ưng xứ Manta chưa?" "Rồi." Cô phớt lờ tay anh trong khi quan sát căn phòng bẩn thỉu, môi trề ra dè bỉu khi nhìn thấy những vết rách trên đệm ghế bọc và lớp bụi bặm. "Có thật đây là văn phòng của anh không?" Đó là cách mà cái thế giới này vận hành đấy. Sự kỳ vọng lần nào cũng làm anh vấp ngã. Giá như chỉ cần im miệng lại, cô ta sẽ rất hoàn hảo, thế nhưng không. … Mời các bạn đón đọc Bất Cứ Điều Gì Em Muốn của tác giả Jennifer Crusie.
Lụa - Alessandro Baricco
Một chuyện tình làm tan nát cõi lòng được kể dưới hình thức ngụ ngôn cổ điển. Một tấn kịch gợi tình và đầy sống động, khắc họa những dục vọng sâu kín nhất của con người. Chuyện bắt đầu với Herve Joncour – một thương gia giàu có trong ngành tơ lụa nước Pháp. Năm 1861 cả thế giới phải hứng chịu một dịch bệnh đe dọa xóa sạch việc buôn bán lụa. Đứng trước tình thế tiến thoái lưỡng nan, Herve quyết định vượt qua những châu lục xa xôi để đến Nhật Bản, nơi sẽ có thứ trứng tằm có thể nhả ra loại tơ tuyệt vời nhất trần gian. Chàng bắt đầu một cuộc hành trình dài, vượt qua những thung lũng, núi đồi xa xôi, băng qua sa mạc và những vùng băng tuyết khắc nghiệt. Một nơi được gọi là tận cùng thế giới, một bí ẩn của phương Đông với vô số huyền thoại. Đến Nhật Bản, Herve Joncour gặp một lãnh chúa tên Hara Kei. Người này đồng ý bán cho chàng một ngàn kén trứng để mang về. Nếu mọi chuyện có thể dừng lại ở đó thì đã thực đơn giản, Herve bị ái nữ của Hara Kei “bỏ bùa”. Đó là đôi mắt của một người phụ nữ phương Đông mà không hề phương Đông, một sự hấp dẫn đầy mê hoặc. “Uống nhầm một ánh mắt, cơn say theo nửa đời” quả không sai, cái nhìn ấy như một lời nguyền bám dính lấy chàng. Herve luôn đau đáu nhớ về Nhật Bản bất chấp đại dịch kia đã tìm được thuốc chữa.Chàng quyết tâm trở lại dù nơi ấy đang trong giai đoạn chính trị rối ren. Tình yêu giữa chàng và ái nữ kia đã vô tình chớm nở, như hai kẻ đồng điệu về tâm hồn. Chuyến đi mua trứng tằm đã thay đổi tất cả… Và chỉ khi mất đi những điều yêu thương nhất Herve mới nhận ra đâu là điều thực sự trân quý ở đời. Một nghịch lý không khó bắt gặp, khi ta mải mê đuổi theo một “dải lụa” mà vô tình quên đi mất đang có một “dải lụa” khác đẹp đẽ, mềm mại, hơn rất nhiều ngay cạnh bên. Với Lụa, tên tuổi Alessandro Baricco, nhà văn người Italy sinh tại Turin năm 1958 đã trở nên lừng lẫy trên văn đàn quốc tế. Xuất bản tại quê nhà năm 1996 và tại Pháp năm 1997, Lụa nhanh chóng trở thành một trong những tác phẩm bán chạy nhất châu Âu. Sau thành công vang dội trên khắp thế giới cuốn sách đã được chuyển thể thành phim vào năm 2007. *** 1. Dù người cha đã hình dung anh sẽ có một tương lai rực rỡ trong quân đội, Hervé Joncour cuối cùng lại kiếm sống bằng một nghề khác thường, cái nghề không phải xa lạ, như một sự trớ trêu kỳ cục, với các nét sắc sảo dễ thương của tướng mạo anh, để lộ ra một sự đổi giống nữ mơ hồ. Để sống, Hervé Joncour mua và bán tằm. Ta đang ở vào năm 1861. Flaubert viết tiểu thuyết Salammbo, đèn điện còn là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên kia bờ Đại Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không thấy hồi kết thúc. Hervé Joncour được ba mươi hai tuổi. Anh mua, và anh bán. Những con tằm. 2. Trong thực tế, Hervé Joncour mua và bán tằm khi tằm còn là trứng bé tí xíu, màu xám hay vàng, bất động và tưởng như chết. Chỉ cần một lòng bàn tay đủ nắm hàng ngàn trứng như thế. "Đó là điều ta gọi là nắm một tài sản trong tay". Vào những ngày đầu tháng năm, trứng nở ra con sâu tằm ăn lá dâu để lớn lên thành tằm, ăn suốt ba mươi ngày, ăn rào rào, ăn bỗ bã; tằm chín thì thu mình kéo kén, hai tuần sau thì thân tằm bị tách ra khỏi kén vĩnh viễn để lại đằng sau một di sản tương đương, nếu tính bằng sợi, một ngàn thuộc tơ sống, nếu tính bằng tiền, một số lượng to tát quan Pháp: với điều kiện là mọi sự được tiến hành theo đúng phép tắc, bài bản, và phải ở một vùng miền nam nước Pháp, như trường hợp của Hervé Joncour. Lavilledieu là tên cái thị trấn nơi Hervé Joncour sinh sống. Helène, tên người vợ anh. Họ không có con. 3. Những trận dịch bệnh càng ngày càng tàn phá ngành chăn tằm ở châu Âu. Để tránh những sự tác hại, Hervé Joncour phải đi mua trứng tằm bên kia bờ Địa Trung Hải, tận Syrie và Ai Cập. Đó là khía cạnh phiêu lưu đặc thù của nghề anh. Hằng năm vào những ngày đầu tháng giêng, anh lên đường. Anh băng qua một ngàn sáu trăm dặm trên biển và tám trăm cây số trên bờ. Anh ra tay chọn trứng, trả giá, thu mua. Rồi anh quay lưng, băng qua tám trăm cây số đường bộ và một ngàn sáu trăm dặm đường biển, về đến cái thị trấn nhỏ Lavilledieu thường vào ngày chủ nhật đầu tiên của tháng tư, thường kịp giờ dự lễ ca trong nhà thờ. Anh còn làm việc suốt hai tuần nữa cho trứng vào bao bì và đem bán. Thời gian còn lại trong năm, anh nghỉ ngơi. 4. - Và châu Phi nó ra sao? - người ta hỏi anh. - Mệt mỏi. Anh có một ngôi nhà lớn nằm ngoài thị trấn một chút và một xuồng nhỏ ở trung tâm, ngay trước mặt ngôi nhà bỏ hoang của ông Jean Berbek. Jean Berbek, một ngày đẹp trời nào đó bỗng nổi hứng quyết định từ nay về sau không mở miệng nói gì nữa. Ông giữ lời hứa. Vợ và hai đứa con gái bỏ ông ra đi. Ông chết. Nhà ông chẳng ai muốn mua và như thế bây giờ thành nhà hoang. Mua và bán tằm, nội việc này thôi cũng mang lại cho Hervé Joncour hàng năm một số lợi tức đủ bảo đảm cho anh và vợ một cuộc sống tiện nghi thoải mái mà ở tỉnh lẻ người ta dễ cho là sang trọng, xa hoa. Anh hưởng thụ của cải mình một cách kín đáo, và anh thấy mình hoàn toàn lạnh nhạt trước cái viễn tưởng không xa thực tế lắm là anh có thể trở nên thực sự giàu có. Ngoài ra, anh là một trong những người thích làm khán giả trước chính cuộc đời của mình, mọi tham vọng sống cuộc đời mình được xem là không thích đáng, là lạc lầm. Ta sẽ nhận ra là những người như thế lặng ngắm số mệnh mình cùng một cách như phần lớn những người khác lặng ngắm một ngày mưa. 5. Nếu được hỏi, có lẽ trả lời rằng cuộc đời anh sẽ tiếp tục như thế mãi mãi. Tuy nhiên, vào những năm đầu thập niên sáu mươi, trận dịch bệnh tằm gai, sau khi đã làm cho số trứng tằm nuôi ở châu Âu trở thành vô dụng, lan tràn sang bên kia biển, tận châu Phi và ngay sang cả Ấn Độ, theo lời một số người. Năm 1861, Hervé Joncour trở lại quê nhà sau chuyến đi xa thường lệ, mua về một số trứng mà hai tháng sau mới biết bị nhiễm bệnh gần hết. Đối với Lavilledieu cũng như các thành phố khác đã dựa trên nền sản xuất tơ lụa mà làm giàu, năm đó tưởng như báo hiệu sự bắt đầu cho sự suy sụp, tàn cuộc. Khoa học tỏ ra bất lực trong việc tìm hiểu những nguyên nhân gây dịch bệnh. Và khắp mặt đất, tận những vùng xa xôi hẻo lánh, tưởng như bị giam hãm, đày đọa bởi cái phù phép, tai ương không lời giải thích đó. - Không phải khắp mặt đất đâu - Baldabiou nói nhẹ nhàng - không khắp đâu, và rót một chút nước lạnh vào ly rượu anizét của mình. ... Mời các bạn đón đọc Lụa của tác giả Alessandro Baricco.
Từ Bỏ Thế Giới Vàng - Jack London
Nếu hỏi: “Văn chương ảnh hưởng thế nào đến một con người?”, c'u trả lời xác đáng phải là: “Vô cùng lớn lao!”. Đó là khi người đọc và nh'n vật biểu trưng cho cái tôi của nhà văn đồng cảm tuyệt đối. Điều đó thay đổi hoàn toàn cuộc đời, cái nhìn của người đọc. Tôi tìm thấy nó trong tác phẩm Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London. Mọi việc vẫn bắt đầu từ tủ sách thần thánh của ba. Đó là ngày tôi bỏ qua các cuốn tiểu thuyết của Jack London để đọc Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata. Ba tôi không cấm nhưng sớm cảnh báo: – Con có thể đủ sức đọc hết nhưng chưa đủ kiến thức để hiểu nội dung của nó! Ở cái tuổi đang lớn với đầu óc chứa đầy ương bướng nổi loạn, tôi kiên trì đọc Người Đẹp Ngủ Mê rồi không sao thấu nổi. Ba mới chìa cho tôi cuốn Từ Bỏ Thế Giới Vàng: – Đ'y là cuộc đời thực mà con nên đọc qua! Chất ương bướng ở tuổi mười ba đã ngấm đòn sau khi đầu hàng trước tính dục, bản ngã trong thế giới Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata, tôi ngoan ngoãn bước vào nơi hoàn toàn thay đổi cái nhìn, ý thức về cuộc đời. Nó ảnh hưởng đến sau, sau này và mãi mãi. Đến lúc viết những dòng này, thành một con người hoàn toàn đứng trên đôi ch'n của mình, từ bỏ được “thế giới vàng” phù phiếm của mình, tôi viết với sự biết ơn s'u sắc tác giả Jack London đã sáng tạo ra Ánh Sáng Ban Ngày, nh'n vật trung t'm của tiểu thuyết. Và hơn hết, tôi nhận ra từ phúc phần ở tủ sách thần thánh của ba mình. Từ Bỏ Thế Giới Vàng với nh'n vật trung t'm Ánh Sáng Ban Ngày. Anh ta có tên hẳn hoi là Elam Harnish, nhưng đã từ l'u không còn ai buồn nhớ chơi đến cái tên đó. Họ gọi anh là Ánh Sáng Ban Ngày, do thói quen sôi động và đem sự sôi động đến mọi người chung quanh, đặc biệt ưa giật chăn những kẻ ngủ lười với bài hát “Trời đã sáng bét ra rồi kìa, mấy ông bạn đi tìm linh cảm ở sông Stewart? Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa!”. Tiểu thuyết vẽ ra thế giới những kẻ đào vàng ở miền cực. Nơi lý lẽ thuộc về kẻ mạnh và nòng súng nếu anh may mắn bóp cò nhanh hơn đối phương. Ở đó đức tin về Chúa chỉ mang tính tượng trưng, nơi quá xa xăm mà ánh sáng công lý vươn tới được, chỉ những gã đàn ông liều lĩnh, khẳng khái ưa đem mạng mình đánh cược với Mẹ Thiên Nhiên mới sống nổi. Và Ánh Sáng Ban Ngày là kẻ liều lĩnh, khẳng khái, can đảm nhất trong số đó. Anh ta lăn lộn qua mọi khó khăn, đánh liều khai phá những nơi mà mọi tay can đảm đều chần chừ. Hầu như khi đến tận cùng giới hạn, anh luôn tìm mọi cách vượt qua bằng sự khéo léo, sức mạnh cơ bắp, khối óc minh mẫn và sự liều lĩnh đã thành nết. Sau khi trúng được vố to nhất trong những năm đằng đẵng “đãi tuyết tìm vàng”, Ánh Sáng Ban Ngày quyết định từ bỏ vùng cực, quay về thế giới văn minh để làm ăn. “Một anh ngố rừng”, một “con hưu sừng tấm đầu đàn thô lậu”….và hàng loạt những từ ngữ ví von khác mà người đọc có thể nghĩ ra để ví von, Ánh Sáng Ban Ngày trúng ngay quả lừa đau đớn mất sạch cả gia tài. Anh, kẻ đến Mẹ Thiên Nhiên cũng phải chào thua để nhường đường nhất định không cam chịu bị những tay thành thị ẻo lả trong các bộ độ vét lừa lọc, đã dùng đúng cách d'n đào vàng lấy lại tất cả những gì thuộc về mình. Vố đau này khiến Ánh Sáng Ban Ngày hoàn toàn trở nên thay đổi t'm tính. Anh nhận ra những kẻ thành thị làm ăn toàn là các tay chơi bạc bịp, mà trong việc chơi bài, bịp bợm thì phải bị xử lý thích đáng kèm theo thái độ khinh khi rõ ràng. Điều này khác hẳn thế giới vùng cực hoang sơ của anh, các tay đào vàng chơi bài với sự thẳng thắn và lòng tin tuyệt đối vào nhau. Lắm lúc tiền cược lên đến vài chục ngàn đô-la nhưng ký nợ chỉ vẻn vẹn là mẫu giấy nhỏ, thậm chí chẳng hề viết tên con nợ. Nhưng chưa từng có ai quỵt nhau hay gian dối bao giờ. Ánh Sáng Ban Ngày là tay đánh bạc gan dạ và ngay thẳng. Một khi thế giới văn minh chơi bịp thì anh sẽ dùng chính lối đó để đối xử lại. Anh về San Francisco, mau chóng trở thành con cá mập hung hãn trong thế giới kinh doanh, bằng chiến thuật đơn giản là xé xác để mau chóng th'u tóm và leo lên đỉnh cao của Thế Giới Vàng Thực Sự. Thế giới hoang sơ vùng cực không làm anh chai sạn nhưng thế giới văn minh thị thành đã khiến bản chất của anh từ từ chuyển sang khô cứng, độc ác và hầu như vô cảm. May thay, một cô nàng nhỏ nhắn và mỏng manh tới mức Ánh Sáng Ban Ngày có thể dùng tay kéo dài và thắt nút đã 'm thầm, len lỏi một cách vô hình vào cuộc đời anh. Dede, người phụ nữ từ chối yêu anh chỉ vì anh quá giàu. Người phụ nữ chỉ muốn có một đức ông chồng bình thường, ngày này qua ngày khác sống bên cạnh mình để cùng chia sự nghèo khó trong hạnh phúc. Người phụ nữ ấy cứu rỗi hoàn toàn cuộc đời tưởng chừng như hoang phế của Ánh Sáng Ban Ngày, thổi bùng những bản tính tươi đẹp bị cuộc sống thị thành chôn vùi, trả lại cho “niềm tự hào của vùng cực” một gã đàn ông từng khiến Mẹ Thiên Nhiên phải nghiêng mình cúi chào. Một gã đàn ông mà nàng đã yêu say đắm từ ngày đầu tiên vì chất đàn ông luôn tràn ra bên ngoài. Ánh Sáng Ban Ngày từ bỏ cái Thế Giới Vàng tài chính của mình, cùng Dede về vùng đồi đã mua từ trước sống cuộc đời nông d'n yên bình với chăn nuôi, trồng trọt. Ngày trước chỉ cần hất tay, anh đã mua được cả San Francisco, còn b'y giờ muốn mua một bộ dụng cụ nhỏ thì anh phải canh nhặt từng quả trứng gà để tích góp, đôi khi đi sửa chữa giúp hàng xóm hòng có đủ tiền. Đ'y là giai đoạn hạnh phúc nhất trong đời Ánh Sáng Ban Ngày. Nhưng cuộc sống vẫn luôn muốn thử thách lòng tham con người, ít ra là lòng tham ở kẻ từ đỉnh cao giàu sang trở thành gã nông d'n tầm thường ở Ánh Sáng Ban Ngày. Lần nọ có một đoạn ống nước bị vỡ ở triền đồi, Ánh Sáng Ban Ngày vô tình phát hiện ra mạch vàng trong lúc sửa chữa. Bản tính một tay đào vàng khét tiếng trỗi dậy, anh lần mò, đào xới, cuối cùng thấy được vàng nổi lên tận ch'n cỏ. Đúng là một Thế Giới Vàng đích thực. Tuy nhiên, Ánh Sáng Ban Ngày đã đánh đổi quá nhiều để có được tình yêu bình dị đến tầm thường từ Dede. Và cô quan trọng với anh tới mức chẳng có Thế Giới Vàng nào đủ sức cám dỗ. Anh lặng lẽ sửa chữa đoạn ống nước, trở về và nói với người vợ yêu quý của mình rằng: “Em biết b'y giờ anh đang tính gì không? Anh vừa nảy ra một kế hoạch. Anh sẽ mua bạch đàn về trồng trên khắp bờ dốc đó. Những c'y bạch đàn sẽ giữ cho đất khỏi lở nữa. Anh sẽ trồng bạch đàn sát vào nhau như eo ấy, đến độ một con thỏ đói cũng khó lòng mà len qua được. Khi những c'y bạch đàn đã bám rễ rồi thì trời cũng không thể làm lở đất ở đó được nữa.”. Đúng, anh đã chôn, đã chối bỏ Thế Giới Vàng đó để giữ những điều bình dị bên cạnh mình. ….. Tôi đã sống thời tuổi trẻ sôi động như Ánh Sáng Ban Ngày, điên cuồng khám phá cuộc sống thực tại nghiệt ngã giống như anh, đạp lên những kẻ muốn đạp mình xuống bằng sức mạnh của cơ bắp lẫn trí óc của một thằng đàn ông đúng nghĩa. Tuy chưa đến được đỉnh Thế Giới Vàng như Ánh Sáng Ban Ngày nhưng nhờ có anh, tôi sớm nhận ra những thứ phù phiếm. Ở tuổi ba mươi, chưa đủ già nhưng không quá trẻ, tôi chọn cái kết cuộc đời của mình như Ánh Sáng Ban Ngày, từ bỏ mọi thế giới vàng cám dỗ để làm một anh nông d'n tầm thường. Với tôi, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London không đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết. Ở đó, tôi đọc được những bài học, cách hành xử của một người đàn ông ch'n chính với cuộc đời. Ở đó, có tình yêu bao la, có sự thức tỉnh hòng chối bỏ. Và ở đó, là cuộc đời tôi muốn sống và đang sống với niềm hạnh phúc vô bờ bến dù thiếu một nàng Dede mỏng manh và nhỏ bé đến tầm thường. Xin gởi cho những t'm hồn yêu sách ch'n chính. Nếu bạn muốn tìm một quyển sách có đủ chất phiêu lưu, biến chuyển t'm lý, hiện thực xã hội, tình yêu ch'n thành, giác ngộ và thức tỉnh, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London nhất định không làm bạn thất vọng. Và nếu bạn muốn biết đoạn đời sau của Ánh Sáng Ban Ngày sẽ hạnh phúc như thế nào, hãy lên với rừng núi của tôi, tôi luôn dành cho bạn chiếc ghế trang trọng nhất, và sẵn sàng kể cho bạn nghe Ánh Sáng Ban Ngày đã Sống-Yêu-Từ Bỏ như thế nào. *** Quán Tivoli đêm nay thật lặng lẽ. Có khoảng năm, sáu người đang tụ tập tại chiếc quầy rượu chạy dọc một bên căn phòng lớn làm bằng những thân gỗ ghép không được kín lắm. Phía bên kia căn phòng là một dãy bàn cờ bạc. Bàn tài xỉu không có ai cả. Ở bàn faro chỉ có độc một người đang chơi. Ở bàn rulet, con quay chẳng buồn hoạt động bởi vì anh chàng hồ lì đứng bên chiếc lò sưởi rực lửa đang mải tán gẫu với một thiếu nữ mắt đen, thân hình và vẻ mặt rất ưa nhìn, được mọi người tử Juneau đến Fort Yukon quen gọi la Mộng Trinh(1). Ở bàn xì phé có được ba người, nhưng họ chỉ chơi cò con vì hình như không có hứng. Trên sàn nhảy ở phía sau căn phòng lớn này chỉ có ba cặp đang nhảy một cách uể oải theo tiếng rền rĩ của chiếc dương cầm và chiếc vĩ cầm. Thật ra thị trấn Vùng Cực này không phải bị bỏ hoang, mà cư dân ở đây thì cũng chẳng phải nghèo tiền bạc. Những người đào vàng ở Lạch Da Hươu cũng như ở các vùng khác về phía tây đều đã trở về đây. Công việc đãi vàng trong mùa hạ vừa qua rất có kết quả, nên túi của họ đều nặng trĩu vừa vàng cục vừa vàng bụi. Vào thời gian này, người ta chưa biết đến sông Klondike(2), và những người thợ mỏ ở dọc theo sông Yukon(3) chưa biết cách đốt lửa cho đất mềm ra cho dễ đào. Bởi thế, về mùa đông, đám thợ mỏ nghỉ việc, quay về trú đông ở các trại lớn như thị trấn Vùng Cực này cho qua đêm dài Bắc Cực. Thì giờ rỗi rãi, túi lại rủng rinh tiền, nên họ thường đến các quán rượu tìm vui. Ấy thế mà đêm nay, quán Tivoli cứ như bị bỏ hoang. Ðứng bên lò sưởi, Mộng Trinh ngáp dài không thèm đưa tay che miệng, và nói với Charley Bates: - Nếu cứ cái điệu này mãi thì đến phải đi ngủ mất thôi. Mà có chuyện gì với cái trại này vậy nhỉ? Bộ mọi người chết hết rồi à? Bates chẳng buồn mở miệng trả lời, cứ lặng lẽ cuốn thuốc. Dan McDonald, chủ quán Tivoli kiêm chủ các sòng bạc ở đây, rầu rĩ băng ngang căn phòng trống trải, đến nhập bọn với hai người đang đứng bên lò sưởi. Mộng Trinh quay sang hỏi hắn: - Bộ có ai chết hay sao vậy? - Hình như thế. - Vậy thì có lẽ cả cái trại này chết hết rồi cũng nên. - cô gái nói với vẻ dứt khoát rồi lại ngáp dài. McDonald nhe răng cười, gật đầu, và mở miệng định nói thì cánh cửa cửa trước bỗng mở tung và một người chợt hiện ra trong ánh đèn. Ðưa tay lấy cây chổi con móc trong cửa, người mới đến phủi tuyết bám trên đôi giày da đanh kiểu thổ dân Bắc Mỹ và trên đôi vớ cao kiểu Ðức. Hẳn là anh ta trông cũng cao lớn nếu như ngay lúc đó không có anh chàng khổng lồ người Gia Nã Đại gốc Pháp từ phía quầy rượu bước lại nắm chặt lấy anh ta. - Kìa Ánh Sáng Ban Ngày! Lạy chúa, bọn này mong cậu đến mòn con mắt! - À, Louis, xin chào. Các cậu về lúc nào vậy? - Người mới đến đáp lại. - Nào, ta đi làm một ly đi, rồi cậu kể cho tớ nghe toàn bộ câu chuyện ở Lạc Khúc Xương nhé. Chà, quỷ tha ma bắt cậu đi, bắt tay cái nữa nào. Cái anh bạn đi với cậu đâu rồi? Tớ đang tìm hắn đây. Một người khổng lồ nữa từ phía quầy rượu cũng bước lại đưa tay ra bắt tay người mới đến. Anh chàng này tên Olaf Henderson, cũng là dân đào vàng chung với French Louis ở Lạch Khúc Xương. Cả hai đều là người to lớn nhất vùng, và mặc dù họ chỉ cao hơn người mới đến khoảng nửa cái đầu thôi, thế mà đứng giữa họ anh ta trong loắt choắt hẳn đi. - Ôi chào Olaf, tớ tìm cậu mãi đấy, hiểu không? - Người được gọi là Ánh Sáng Ban Ngày nói. - Ngày mai là sinh nhật của tớ, và tớ sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa luôn, hiểu không? Nào, bây giờ đi uống với tớ một ly cái đã, rồi tớ sẽ cho các cậu biết. Người mới đến dường như đem theo cả hơi ấm tràn ngập căn phòng. Mộng Trinh kêu lên: - Ðúng là Ánh Sáng Ban Ngày rồi! Nàng là người đầu tiên nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào vùng sáng của căn phòng. Sự xuất hiện của Ánh Sáng Ban Ngày làm cho cả căn phòng hình như bỗng sáng và vui tươi hơn hẳn. Những người phục vụ trong quán tíu tít hẳn lên. Người ta cất cao giọng hát hơn. Có kẻ còn bật cười nữa. Nhịp luân vũ nhanh hẳn lên, và những cặp đang khiêu vũ, như lấy phải cái nhộn nhịp chung, cũng bắt đầu quay tít như thể họ đang bốc hứng. Ðã từ lâu mọi người đều biết rằng hễ ở đâu có Ánh Sáng Ban Ngày là ở đó không thể buồn nản được. Tại quầy rượu Ánh Sáng Ban Ngày xoay người lại thì thấy Mộng Trinh đứng cạnh lò sưởi đang nhìn anh với vẻ đón chào nồng nhiệt. - Kìa, Mộng Trinh, cô bạn cũ, - anh gọi. - Kìa, cả Charley nữa. Chuyện gì thế? Sao mặt mày lại ủ ê như người chết không có đất chôn vậy? Lại đây uống cái gì đi nào. Tất cả lại đây nào, hỡi những kẻ chết chưa có đất chôn kia, muốn uống gì thì cứ việc gọi. Nào, mọi người. Ðêm nay là đêm của tớ, và tớ sẽ làm chủ nó. Ngày mai tớ đã ba mươi tuổi, thế là già mất rồi. Ðây là giây phút cuối cùng của tuổi trẻ. Tất cả đã sẵn sàng cả rồi chứ? Nào, vô nào, vô. - Khoan đứng lên đã, Davis, - anh quay qua gọi với người chào faro, lúc này đang đẩy ghế ra sau dợm đứng lên. - Tớ muốn chơi với cậu một ván để xem tớ hoặc cậu ai sẽ phải trả tiền rượu cho mọi người ở đây nào. Móc trong túi áo khoác ra một gói vàng bụi nặng trịch, anh đặt nó vào số lớn. - Tớ đặt năm mươi đô-la trị giá bằng vàng bụi đây! - anh nói. Nhà cái bàn faro chia hai lá. Số lớn ăn. Nhà cái nguệch ngoạc số tiền thắng vào một mảnh giấy trong lúc người chung tiền cân một dúm vàng bụi tương đương với năm mươi đô là rồi trút nó vào bao của Ánh Sáng Ban Ngày. Lúc này điệu luân vũ đã chấm dứt. Ba cặp nhảy lúc nãy cùng với anh chàng nhạc công kéo vĩ cầm và anh chàng nhạc công chơi dương cầm theo nhau bước ra khỏi phòng rượu đúng lúc Ánh Sáng Ban Ngày quay lại và nhìn thấy họ. - Lại đây uống nào, mấy ông bạn, - anh ta kêu lên, - lại đây uống nào, và muốn kêu gì thì kêu. Ðêm nay là đêm của tớ, không phải lúc nào cũng có được Lại. đây uống nào, máy ông bạn cố tri, tớ nói thật đấy, vì đêm nay chính là đêm của tớ. - Một đêm chó đẻ - Charley Bates nói xen vào. - Ðúng đấy, con ạ - Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cứ vui như không, - Một đêm chó đẻ, nhưng nó là đêm của ta, bởi vì ta là con sói đực già. Nghe ta tru đây này. Và anh cất tiếng tru thật to giống hệt như một con sói rừng xám cô độc đến nỗi Mộng Trinh phát run lên vội đưa hai ngón tay nút chặt lấy tai. Ngay lập tức Ánh Sáng Ban Ngày bế bổng nàng lên đưa vào sàn nhảy. Ba cặp nhảy lúc nãy cũng theo họ vào, rồi tất cả cùng quay cuồng theo điệu vũ xoay tròn ầm ĩ, của vùng Virginia. Ánh Sáng Ban Ngày là trung tâm của sự náo nhiệt ấy, là ngọn lửa hừng hực, đến đâu là châm chọc, cười đùa ầm ĩ đến đó, nên giúp họ thoát khỏi cái vùng lầy ủ ê đã dìm họ trước khi anh đến. Rất ít người biết rằng Ánh Sáng Ban Ngày tên thật là Elam Harnish, bởi lẽ ngay từ những ngày đầu tiên đi mở đất, người ta đã gọi anh bằng biệt hiệu đó vì thấy anh có thói quen vừa lôi bạn bè mình ra khỏi chăn êm nệm ấm vừa làu bàu là trời đã sáng bét ra rồi. Trong số những người tiên phong tiến vào vùng đất hoang ở vùng Bắc Cực xa xôi này thì anh được liệt vào hạng cố cựu nhất. Mặc dù cũng có những người đã đến vùng đất này sớm hơn anh như Ai May hoặc Jack Mc Question chẳng hạn, nhưng thường thì họ đến đây từ vùng Vịnh Hudson về phía đông băng ngang qua rặng Thạch Sơn. Còn anh đã dám vượt qua vùng đèo Chilcoot và Chilcat. Vào mùa xuân năm 1883, cách đây mười hai năm, dù lúc đó mới chỉ có mười tám tuổi anh đã cùng với năm người bạn của mình vượt qua đèo Chilcoot. Ðến mùa thu thì anh trở về, năm người bạn trước kia nay chỉ còn có một. Bốn người kia đã bỏ mạng trong cái bất trắc của vùng đất bát ngát lạnh lẽo chưa được ghi lên bản đồ ấy. Từ đó cho đến suốt mười hai năm sau, Elam Harnish vẫn tiếp tục mò mẫm tìm vàng trong cảnh tối tăm của vùng Bắc Cực. Thật chưa có ai mò mẫm tìm vàng một cách kiên trì và bướng bỉnh như anh. Anh đã lớn lên với vùng đất này và chẳng biết đến vùng đất nào khác nữa. Ðối với anh, nền văn minh cũng chỉ giống như một giấc mơ đã qua lâu lắm rồi, và những trại Bốn Mươi Dặm hoặc trại thị trấn Vùng Cực thực sự là những đô thị lớn. Không phải anh chỉ lớn lên với vùng đất này mà thôi, mà còn giúp xây dựng nó nữa, dù rằng hiện giờ nó cũng vẫn còn hoang sơ lắm. Anh đã tạo nên lịch sử và địa dư của vùng đất; những kẻ đến sau anh chỉ cần viết về những chuyến đi của anh và vẽ lại những con đường mòn mà chính chân anh đã vạch ra là đủ. Thường thì anh hùng ít sùng bái anh hùng, vậy mà những con người sinh sống ở vùng đất mới này vẫn xem anh là một anh hùng già dặn, mặc dù anh vẫn còn rất trẻ. Về thời gian, anh đã đến đây trước họ. Về công việc, anh đã làm nhiều hơn họ. Về sức dẻo dai bền bỉ, mọi người đều công nhận là anh có thể giết chết được cả những tay sừng sỏ nhất. Hơn nữa, họ còn coi anh như một kẻ táo gan, ngay thẳng và thuộc giống người da trắng. Ở bất cứ vùng đất nào mà cuộc đời chỉ là một trò may rủi không đáng bận tâm thì con người thường tự nhiên quay sang cờ bạc để tiêu khiển và nghỉ ngơi. Ở dọc sông Yukon, bọn đàn ông đặt cả cuộc đời họ vào canh bạc ăn vàng. Rồi những ai lấy được vàng từ lòng đất lại đem vàng ra đánh bạc với nhau. Elam Harnish cũng không phải là một ngoại lệ bởi vì anh đáng mặt đàn ông nhất trong bọn đàn ông, và trong người anh, cái bản năng thôi thúc chơi canh bạc của cuộc đời rất mạnh mẽ. Chính môi trường sống của anh đã quyết định hình thức của canh bạc ấy. Anh sinh ra trong một nông trại ở Iowa, sau theo bố di cư đến Ðông Oregon và sống suốt qua ng đời niên thiếu ở cái vùng mà người ta kéo tới tìm vàng đó. Bởi vậy, anh đã chẳng học được gì ngoài cách chịu đấm ăn xôi. Trong canh bạc này dĩ nhiên lòng can đảm và sức bền bỉ là cần thiết, nhưng các con bài lại do Thần Số Mệnh chia. Cứ từ tốn mà đánh thì cũng kiếm được chút đỉnh, nhưng chút đỉnh thì lại chẳng bỏ công. Bởi vậy người ta thường đánh lớn. Elam Harnish thích đánh tất cả để có thể thắng được tất cả và một khi đã không thắng được tất cả thì dù có thắng lớn đến đâu chăng nữa anh cũng vẫn tự coi mình là người thua cuộc. Trong suốt mười hai năm đào vàng vừa qua trên vùng Sông Yukon, Elam Harnish tự coi mình là người thất bại. Thật ra chỉ mới mùa hè trước đây thôi, ở Lạch Da Hươu anh đã đào được hai mươi ngàn đô-la, chưa kể con số tương đương như vậy vẫn còn nằm trong lòng đất. Nhưng anh như anh đã tuyên bố, đó cũng chỉ như gỡ lại tiền đặt cuộc trước mà thôi. Anh đã đặt cuộc cuộc đời mình trong mười hai năm trời, và cái số bốn mươi ngàn đô-la vừa gỡ được đó chẳng đủ để đền bù. Nó chỉ đủ để trả một chầu nhậu và nhảy nhót ở quán Tivoli, vi rút chút đỉnh cho qua mùa đông ở trại thị trấn Vùng Cực và mua lương thực dự trữ cho năm tới là sạch bách. Sau khi điệu vũ xoay tròn chấm dứt, Elam Harnish lại hò hét mời mọi người ra uống rượu. Cứ mỗi ly rượu là một đô-la. Một ounce(4) vàng đổi được mươi sáu đô-la. Trong phòng có ba chục người tất cả đều nhận lời mời uống rượu của Elam Harnish, và cứ sau một bản nhạc họ lại được mời uống. Ðêm nay là đêm của anh, nên anh không cho phép ai trả tiền cho bất kỳ món gì. Thật ra Elam Harnish không phải là một kẻ ưa rượu. Ðối với anh Whisky chẳng có ý nghĩa gì cả. Anh quá mạnh mẽ, quá tràn trề sinh lực; con người anh, trí óc anh hoàn toàn không có tâm sự nặng nề gì để buộc anh phải trở thành con sâu rượu. Anh có thể đi cả năm trời không uống một giọt cà phê rồi đấy. Chỉ có điều là anh thích sống hợp quần, mà ở khu vực sông Yukon cách duy nhất để biểu lộ tính hợp quần của mình là kéo nhau vào quán uống rượu, nên Elam Harnish cũng đành phải làm như vậy. Ngay từ khi anh còn là một thanh niên sống ở các vùng mỏ vàng miền Tây, người ta đã làm như thế, nên bây giờ anh cho đó là cách đúng đắn nhất để thể hiện tính hợp quần của mình. Thật ra ngoài cách đó anh chẳng còn biết cách nào nữa cả. Dù quần áo cũng chẳng có gì khác với những người chung quanh, trông anh vẫn nổi bật hẳn lên. Chân đi giày da hươu mềm có đính hạt theo kiểu thổ dân, quần yếm bình thường, áo khoác may bằng vỏ chăn. Anh đeo găng tay da dài hở ngón trong có lót len, và bên hông lủng lẳng một đai da quàng qua eo và vài theo kiểu dân miền sông Yukon. Ðầu đội nón lông thú, vành nón cuộn lên để hở những dây cột nón lòng thòng. Gương mặt xương xương, hơi dài, má hóp làm lưỡng quyền nhô hẳn lên trông giống gương mặt của thổ dân trong vùng. Người ta lại càng có lên tưởng ấy khi nhìn vào làn da cháy nắng và đôi mắt đen láy tinh tường của anh, mặc dù rõ ràng là cái màu da đồng ấy và đôi mắt ấy chỉ người da trắng mới có. Anh trông già hơn tuổi ba mươi. Thế nhưng nếu anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh lại rất "trẻ con". Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào nét mặt mà thôi thì khó có thể nói được tại sao trông anh lại già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi ấy toát ra từ toàn bộ con người anh. Từ những điều anh đã phải chu đựng để sinh tồn, và nó vượt quá sức chịu đựng của một con người. Anh đã sống một cuộc đời trần trụi và mã anh liệt, và người ta có thể thấy được phần nào cái cuộc đời ấy âm ỉ trong cặp mắt, vang lên trong giọng nói hoặc như thủ thỉ thốt lên từ đôi môi anh. Mà môi anh thì mỏng, lúc nào cũng mím chặt che khuất hàm răng trắng đều. Tuy nhiên đôi môi trông cũng đỡ khe khắt hơn nhờ ở hai bên mép cong lên làm cho chúng có một vẻ dịu dàng, cũng giống hệt như những nếp nhăn ở hai bên khoé mắt đã làm cho khuôn mặt anh lúc nào trông cũng có vẻ như đang cười cợt. Những nét duyên dáng ấy đã giúp anh thoát được vẻ cay độc, kết quả tất yếu của một đời sống man dã. Mũi anh gầy, cánh mũi nở thanh trông rất hợp với khuôn mặt. Trán anh hẹp nhưng cao và đều đặn. Mái tóc anh cũng giống như tóc thổ dân, bởi vì nó thẳng và đen nhánh, óng ánh cái màu tóc mà chỉ những con người khó mạnh mới có được. - Ánh Sáng Ban Ngày bộ tính đốt sáng cả đêm nay chắc? - McDonald nói rồi cười to giữa những tiếng la ó hò reo của đám người đang nhảy nhót. Olaf Henderson nói thêm: - Mà nó cũng dám làm như thế đấy, Louis nhỉ? Nói có chúa, chắc chắn là nó làm như thế đấy - French Louis đáp - Ðúng là một cậu con trai làm bằng vàng ròng. McDonald nói chen vào: - Rồi khi đến Ngày Ðãi Vàng cuối cùng, lúc Ðức chúa Trời xúc một xẻng cát bỏ vào trong nồi đãi, hẳn là sẽ thấy có cả nó lẫn ở trong ấy đấy. - Nói nghe hay lắm - Olaf Henderson vừa lẩm bẩm vừa nhìn tay chủ sòng bài một cách thán phục… - Ừ, hay thật - French Louis cũng khẳng định - cũng xứng đáng để chúng ta uống mừng một ly, phải không. ... Mời các bạn đón đọc Từ Bỏ Thế Giới Vàng của tác giả Jack London.