Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cát Cháy

"Cát cháy" viết trực diện về chiến tranh, về cuộc chiến đấu của quân ta với quân địch, mà quân ta ở đây là những đứa trẻ của đội du kích thiếu niên ở Cô Sơn. Từ đây, tác giả đã viết nên một câu chuyện cảm động về sự can đảm, lòng quyết tâm, về tình bạn, tình đồng đội, tình thân vô cùng chân thực, dung dị. Chiến tranh còn nóng hổi mùi bom đạn, với những cuộc càn quét, dồn dân ráo riết của quân địch, nhưng ở đó có những đứa trẻ không sợ đánh giặc. Từ nhỏ đã ý thức được cần phải tham gia vào chiến tranh, phải bền gan bền chí chiến đấu với kẻ thù, để không bị bạn bè chê cười, và để cùng giúp sức với các chú bộ đội lớn hơn. Tuổi nhỏ mà kiên gan, như Ba, như bé Một, như Thấn... và rất nhiều những đứa trẻ khác nữa. Theo dõi hành trình hàng ngày giữa bom đạn ác liệt của những đứa trẻ này, người đọc vừa cảm phục vì sự thông minh, dũng cảm của chúng, lại vừa thót tim, lo lắng mỗi khi thấy chúng đối diện với hiểm nguy. Sự hy sinh của bé Một, cô bé giao liên tháo vát, nhanh nhạy và can đảm đã khiến cho mỗi đứa trẻ sững sờ. Chứng kiến cái chết của cô bạn nhỏ thân thiết, cô đồng chí anh hùng, mỗi đứa trẻ đều như lớn lên, trong đó người chịu tác động nhiều nhất là cậu bé Ba. Ba và Một đã cùng lớn lên và có những kỷ niệm thân thiết với nhau. Tác giả đã dành cho Ba và Một những trang văn vô cùng thơ mộng giữa bom đạn, để dệt nên những khoảnh khắc kỷ niệm đẹp đẽ của hai người bạn, hai người anh em, và đâu đó, tưởng như đã nhen nhóm những rung cảm sâu kín lạ lùng. “Từ phía bờ sông, có một mùi hương như mùi hương hoa dủ dẻ phảng phất theo làn gió bay vào. Mùi hương như tâm hồn con người, qua chiến tranh còn bền vững hơn chính bản thân sự sống của mỗi con người”. Mùi hương ấy, có lẽ Ba sẽ còn giữ mãi, để nhớ về Một. Và sự ra đi của Một khiến Ba trưởng thành hơn, và càng vững tin hơn nữa vào lý tưởng mà mình đang đi. Trong buổi lễ kết nạp thành viên mới của đội du kích thiếu niên, những đứa trẻ để tưởng nhớ về người đồng chí nhỏ nhắn Huỳnh Thị Một đã quyết định lấy tên cô bé đặt cho Đội. Câu chuyện ấy buồn bã nhưng cảm động đến chừng nào. Những đứa trẻ chiến đấu trong Cát cháy của nhà văn Thanh Quế, gợi nên biết bao nhiêu hình ảnh trẻ thơ đẹp đẽ kiên ngang trong chiến trường, như Lượm, Mừng, Quỳnh sơn ca trong Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, hay cậu bé Gavroche trong Những người khốn khổ của văn hào Victor Hugo, hay cậu bé Ivan trong bộ phim Ivan's Childhood của đạo diễn nổi tiếng người Nga Andrei Tarkovsky... Chiến tranh và trẻ thơ vốn dĩ là hai phạm trù hoàn toàn trái ngược nhau. Trẻ thơ, với sự hồn nhiên, thơ ngây đáng lẽ nên được hưởng một đời sống yên bình, hạnh phúc, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy ra, và mỗi đứa trẻ, vẫn có thể trở thành những người anh hùng. Như những chú lính chì dũng cảm, chúng vượt qua sợ hãi, vượt qua mất mát, để sống cuộc đời phải sống. Mỗi nhà văn khi viết về trẻ con trong chiến tranh, đặc biệt khi chứng kiến khoảnh khắc ngã xuống của chúng, đều như trầm lại, ngậm ngùi, và đầy đau thương. Tác giả Thanh Quế đã có được những trang văn vô cùng cảm động, chân thành và dung dị về những đứa trẻ sống trong thời đại khói lửa buồn thảm ấy. Dù viết về một cuộc chiến trực diện, nhưng văn của Thanh Quế, vốn cũng là một nhà thơ, lại vô cùng mềm mại, uyển chuyển, và đầy những tâm tư. Ông đi sâu vào suy nghĩ trăn trở của mỗi đứa trẻ, như Ba, dù rất dũng cảm, luôn quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, nhưng trong lòng luôn đau đáu một nỗi buồn về người mẹ của mình. Như Thấn, vô cùng thông minh, nhưng lại luôn lo lắng sẽ thua kém bạn bè, bị bạn bè coi thường.... Và hơn hết, tác giả đã viết nên một khúc ca đẹp về tình bạn, tình đồng chí, tình thương mến giữa những đứa trẻ với nhau. Chúng tự đến bên cạnh nhau, an ủi, khích lệ, vun đắp và giúp nhau trưởng thành. Tác phẩm của Thanh Quế hôm nay đọc lại còn thấy vẫn nguyên cảm giác rùng mình vì sự phá hủy của chiến tranh, và vẫn thấy rưng rưng lòng bởi những mất mát, những khổ cực và chân tình mà những đứa trẻ dành cho nhau. Chuyện chiến tranh khép lại được chưa? Có lẽ, ở xứ sở đã chìm trong chiến tranh lâu đến thế, mất mát nhiều đến thế, chuyện chiến tranh vẫn chưa thể khép lại. Tiểu thuyết Cát cháy của Thanh Quế  được lấy chất liệu từ những hoạt động chân thật của Đội du kích thiếu niên Hòa Hải, vùng chân núi Ngũ Hành Sơn, giàu truyền thống cách mạng và văn hóa, vào những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Tập sách đã được giải nhì (không có giải nhất) của Hội Nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh năm 1981 và là một trong hai tác phẩm đoạt giải thưởng Nhà nước năm 2012 của nhà văn Thanh Quế… Nhà văn Thanh Quê vốn quê gốc ở Phú Yên. Tại đây ông còn mẹ già và các em gái. Nhưng ngay sau chiến tranh ông sống ở thành phố Đã Nẵng, nơi ông đã gắn bó và cầm bút gần nửa thế kỉ qua. Đà Nẵng chính là quê hương thứ hai nơi lưu giữ những hồi ức sống động bi thương và đẹp đẽ nhất của cuộc đời nhà văn. Ông từng là học sinh miền Nam ra Bắc học ở trường học sinh miền Nam số 24 Hà Đông, rồi vào học khoa sử Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1969 ông vào công tác ở chiến trường khu V. Hiện nay ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Đà Nẵng. *** Thân tặng đội thiếu niên du kích Hòa Hải NHÀ THƠ THANH QUẾ Tên thật: Phan Thanh Quế. Sinh ngày 26/2/1945, tại xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình trí thức yêu nước. Cha là bác sĩ, lão thành cách mạng. Mẹ và các em đều tham gia cách mạng, có người là liệt sĩ, có người là thương binh nặng. Hồi nhỏ học ở trường làng. Từ năm 1955 đến năm 1963  tập kết ra Bắc, học tại các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc. Từ 1963 đến 1967, học khoa sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1967 đến năm 1969 là cán bộ Nghiên cứu, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương. Từ 1969 đến 1975 là phóng viên chiến trường, tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung trung bộ. Từ năm 1975 đến năm 1980 là cán bộ sáng tác, Trại sáng tác văn học Quân khu V. Từ năm 1980 đến năm 1983 là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội (Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng). Từ năm 1983 đến năm 2009 là phó chủ tịch Hội văn nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng và Hội văn nghệ Đà Nẵng, Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng và Non Nước, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (nhiệm kỳ 2000-2005). Từ năm 2009, nghỉ hưu và sáng tác tại Đà Nẵng. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1977 và hội viên Hội Nhà báo Việt Nam từ 1980.   TÁC PHẨM CHÍNH   Về thơ Tên em khuôn mặt em (2 tác giả), NXB Giải phóng-1975; Tình yêu nhận từ đất (3 tác giả) NXB Tác phẩm mới-1977; Trong mỗi ngày đời tôi, NXB Đà Nẵng-1986; Giãi bày, Hội Văn nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng-1988; Khi ta giở sách ra (thơ thiếu nhi), Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên-1988; Hái tiếng chim (thơ thiếu nhi), NXB Đà Nẵng-1991; Những tháng năm vay mượn, NXB Đà Nẵng-1993; Mé biển đời tôi, NXB Hội nhà văn-2000; Người lính đi đầu (trường ca), NXB Quân đội Nhân dân-2003; Thơ Thanh Quế với tuổi thơ, NXB Kim Đồng-2004; Những tháng năm, NXB Quân đội nhân dân-2006; Một gạch và chuyển động, NXB Hội nhà văn-2006; Thơ Thanh Quế, NXB Hội nhà văn-2008; 72 bài thơ chọn, NXB Hội nhà văn-2012; Nơi phòng đợi, NXB Quân đội nhân dân-2006; Tuyển thơ; NXB Văn học-2016. Về văn xuôi Chuyện từ một truyền thuyết (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-1978; Thung lũng Đắc Hoa (truyện ngắn 2 tác giả),NXB Phụ nữ-1980; Cát cháy (tiểu thuyết) NXB Kim Đồng -1983; Mai (truyện ngắn ), NXB Phụ nữ-1988; Người khách lạ (truyện ngắn), NXB Đà Nẵng-1990; 11 truyện ngắn, NXB Đà Nẵng-1994; Về Nam (hồi ký, chân dung văn nghệ), NXB Đà Nẵng-1996; Những gương mặt thân yêu (chân dung văn học), NXB Kim Đồng-1996; Bếp lửa làng Tà Băng (truyện ngắn), NXB Quân đội nhân dân-1998; Hai người bạn (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-1998; Những kỷ niệm, những gương mặt (hồi ký, chân dung), NXB Đà Nẵng-2001; Từ những trang đời (hồi ký, chân dung văn nghệ), NXB Hội nhà văn-2001; Bà mẹ vui tính (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-2002; Sao anh lại cảm ơn tôi (truyện ngắn), NXB Quân đội nhân dân-2002; Truyện và ký chọn lọc, NXB Hội nhà văn -2003; Dì Út (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-2003, Thj trấn em kết nghĩa (truyện và ký), NXB Kim Đồng-2005; Ở giữa thời gian (truyện và ký), NXB Đà Nẵng-2007; Tuyển truyện Thanh Quế-chuyện ở miền Cát cháy, NXB Đà Nẵng-2009; Kẻ đào ngũ (tập truyện), NXB Quân đội nhân dân-2013; Tuyển truyện ngắn Thanh Quế, NXB Hội nhà văn -2011; Gương mặt và cảm nhận (chân dung văn học), NXB Đà Nẵng-2013; Ký và chân dung chọn, NXB văn học-2015; Hai người đàn ông và một người đàn bà (truyện), NXB Quân đội nhân dân-2016. Giải thưởng chính  Cát cháy (tiểu thuyết), giải nhì (không có giải nhất) của Hội nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh năm 1981; Những tháng năm vay mượn (tập thơ), giải B của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1994; Giải thưởng loại A hai lần (1975-1985) và (1985-1995) của UBND Quảng Nam-Đà Nẵng cho các tác phẩm trong giai đoạn. Bếp lửa làng Tà Băng (tập truyên), tặng thưởng của Bộ Quốc phòng năm 2000; Người lính đi đầu (trường ca), giải nhì (không có giải nhất) giải thưởng văn học (1997-2005) của UBND thành phố Đà Nẵng; Một gạch và chuyển động (tập thơ), giải nhì (không có giải nhất) giải thưởng văn học (2005-2010) của UBND thành phố Đà Nẵng; Tiểu thuyết Cát cháy và tập thơ Một gạch và chuyển động, giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012. *** B a đứng sững trước sân, ngó trân trân vào ngôi nhà tranh thủng dột quen thuộc của mình. Nhà vắng tanh, cửa khép hờ, bên ngoài dựng một chiếc nia cũ. Chắc ông nội và mẹ vừa đi đâu đó.Trong một phút, những tình cảm trái ngược bỗng ùa đến: Ba vừa muốn gặp ông, gặp mẹ ngay cho đỡ nhớ, vừa muốn hai người về chậm lại để mình có thời gian sắp xếp mọi ý nghĩ đang bề bộn trong đầu. Ba cảm thấy vừa vui vừa lo. Ba đứng thẫn thờ một chút, sau đó, run run mở cửa bước vào nhà, hồi hộp nhìn khắp lượt những đồ vật như bao người đi xa về. Mọi thứ trong nhà: từ chiếc ảnh cha ố vàng trên bàn thờ, đến cái ghế, cái bàn, chiếc giường ọp ẹp, cả cánh cửa mở thông vào buồng trong không đóng lại bao giờ, vốn có ở những nhà nghèo, vẫn như cũ, mà lại không phải như cũ. Một mùi mốc thường có ở những ngôi nhà vắng chủ lan ra phả vào mũi Ba. Ba đứng lặng một chốc, cố nhớ lại một điều gì đó đã quên bẵng đi từ lâu. Nhưng mọi ý nghĩ cứ bay tuột khỏi đầu Ba. Hai ngày đêm đi đường, ngủ bờ ngủ bụi làm cho Ba mệt đừ, người bã ra, không còn cảm giác chính xác nữa. Ba lần đến chiếc chõng tre ông vẫn nằm, đặt mình lên chiếc chiếu rách đầy cát. Một cái gì đó không rõ tên cứ chạy rần rần từ đầu ngón chân lên mí mắt. Ba nhắm mắt lại. Lập tức những âm thanh mơ hồ quen thuộc bỗng rì rào xung quanh. Có thể đó là tiếng rắc rắc của mối mọt đang ăn cột kèo trong bóng tối trên đầu mình; có thể là tiếng gió nhẹ nhàng thổi cát trên cồn Quy sau nhà, bước chân mẹ đi lại sắp đặt đồ đạc gì đó trong đêm, ông khục khặc ho, những tiếng mơ hồ lan lan trong giấc ngủ không ai cắt nghĩa nổi, chỉ có ở những miền quê yêu dấu.  Một tiếng động ở đầu hè làm Ba bừng tỉnh. Không kịp nghĩ, Ba bò ngay xuống gậm giường, nằm im. Chốc nữa, ông hay mẹ bước vào, Ba sẽ chồm ra hù lên một tiếng. Ông thế nào cũng cười khà khà, nói: “Tổ cha mày, tao già nhưng thần kinh tao vẫn còn vững lắm”. Còn mẹ đứng sững lại, tay sờ nơi tim như xưa nay mẹ vẫn vậy khi sợ hãi điều gì. Nhưng một lúc lâu, Ba chẳng thấy mẹ hay ông bước vào nhà. Có lẽ, phải tối mịt hai người mới về. Ba lại leo lên giường, nằm mường tượng ra lúc gặp gỡ. Hẳn lúc đó, ông hỏi: “Tại sao cháu về ?”. Ba nói: “Cháu thích đánh Mỹ”. Ông nói “được” rồi ngồi im như tảng đá. Mẹ chắc càu nhàu. Nhưng mẹ sẽ cho Ba ăn một bữa bánh tráng cá ngừ thật ngon. Mẹ vừa ngồi cuốn bánh đưa tới tấp cho Ba, vừa âu yếm nhìn đứa con trai có khuôn mặt bầu bầu da sạm đen, mắt sáng, người chắc nịch như cha nó mà thầm lo nay mai nó sẽ ra sao. Ba ngồi với ông và mẹ một chút rồi chạy đi tìm bọn thằng Thấn, con Một.Tụi nhỏ thế nào cũng xúm xít lại bắt Ba kể chuyện chiến khu cho chúng nghe. Tất nhiên, Ba sẽ thuật lại mọi chuyện mà chị Bốn cấp dưỡng đã kể cho Ba nghe. Đó là chuyện anh Năm Cần ở văn phòng huyện ủy. Năm 67, bọn Mỹ càn căn cứ. Bắn hết đạn, các anh các chị rút sâu vào hang đá. Chúng truy kích theo. Anh đã đứng nấp ở cửa hang. Cứ mỗi tên mò vào, anh lại dùng báng súng gõ một cái cốc vào đầu nó rồi hất xác ra. Đó là chuyện chị Sáu Úc làm quản lý ở hội phụ nữ. Một hôm, đi cõng gạo về, nước sông Trà Ly lớn quá, cuốn băng chị cùng gùi gạo. Chị em tìm suốt hai ngày không thấy, đã làm lễ truy điệu chị. Giữa chừng, chị trở về, người ướt át, đứng ở đầu hè ngó vào nhà, tưởng ai đó vừa mất, khóc òa. Chị em quay lại, “ồ” lên, rồi đang khóc, họ xông đến đấm vào lưng chị bình bịch, cười khúc khích. Đó là anh Tám Nghề ở cơ quan binh vận. Một lần, địch vây cơ quan, mọi người trốn vào rừng sâu, đói vàng mắt. Đêm đến, anh bò qua đầu giặc đi nhổ sắn. Khi mang gùi sắn nặng trở lại bìa rừng, anh bị vấp đá, gây ra tiếng động. Một thằng ngụy ngồi phục, hẳn đang ngủ gật, giật mình hỏi: “Ai đó”. Anh nói: “Ông tổ nội mày đây” rồi cười hê hê phóng nhanh vào rừng, mặc cho chúng nổ súng theo. Sau đó, Ba sẽ thêm vào: trên đó có nhiều cọp lắm, mặc dù Ba chưa từng thấy. Đêm đêm, nó gầm lên, núi đá chao qua chao lại như bị bom B.52. Một lần, bước ra cửa hang, gặp con cọp to bằng con bò ụ, Ba nổ một phát súng, nó gãy một chân, bỏ chạy, xô đổ tảng đá bằng cái nhà. Một con trăn to vung mình làm cho nước sông Trà Ly trước cơ quan Ba sủi ục ục. Nhưng Ba cùng chị Bốn dùng một sợi sắn dây, cột nó, kéo về nấu cháo bồi dưỡng cho cả cơ quan mấy ngày liền. Bạn bè nghe chuyện sẽ phục Ba lắm. Thằng Thấn hẳn xuýt xoa, chặc lưỡi, vỗ đôm đốp vào đầu vì nó không được biết những chuyện như Ba. Còn con Một thì khỏi phải nói. Ba kể tới đâu, nó sẽ “a” lên tới đấy, mắt trợn ngược. Ba bỗng thấy buồn cười trước những khuôn mặt ngơ ngác của bạn bè mà Ba đã tưởng tượng ra. Rồi Ba cười thật. Ba bụm miệng cười hặc hặc một mình .   Một lúc sau, Ba lại thiếp ngủ…Nước sông Trà Ly bỗng sôi lên, đổ ầm ào qua con thác kề bếp ăn của cơ quan. Ba thấy mình ngụp lặn trong dòng nước mát, vẫy tắm thỏa thích sau hai ngày đi đường trở về nhà. Chị Bốn cấp dưỡng bảo Ba tắm mau lên để đem cơm cho chú Chín. Bưng cơm, Ba vấp phải hòn đá, mâm cơm đổ nhào xuống đất, ông nội hiện ra bảo: “Người nào quẹo quẳng, họ chẳng ưa đâu”. Chính lúc đó, mẹ “á” lên vì một phát rốc két của thằng máy bay OVI0 bắn xuống bên kia bờ Trà Ly, khi thấy chị Bốn cầm một mụn măng. Máu loang đỏ… Khi Ba tỉnh dậy thì mặt trời đã lặn, chỉ để lại trên dãy núi phía căn cứ một vầng ráng đỏ. Ba nhảy ra sân, vươn vai mấy cái rồi như ngày nào, Ba vòng phía sau nhà, phóng lên cồn Quy. Đứng ở đây, Ba có thể nhìn khắp một vùng rộng lớn trong xã. Cồn cát giống chiếc mai rùa, rộng chừng nửa cây số vuông này ngăn xã ra làm đôi. Nửa phía nam là cánh đồng đất cát pha chạy từ mí đường tỉnh lộ (đường này làm ranh giới phía tây của xã với các xã bạn) xuống phía đông, giáp với một cái làng hoang người ta gọi là Cô Sơn. Bên kia cánh đồng là con sông Bãi Dài, làm ranh giới phía nam của xã với các xã bạn, chằng chịt những lạch nhỏ, sáng lấp lánh đang đổ về phía biển. Ở nửa xã phía bắc, xen giữa những xóm làng xanh biếc bóng dừa bóng dương là những cồn cát to nhỏ. Chẳng biết từ lúc nào, hẳn người ta đặt tên theo hình dáng hay những nhà ở gần chúng, mà chúng có tên: cồn Kinh, cồn Nhà Lập, cồn Thằn Lằn, cồn Du. Trên một số cồn cát ấy, bọn Mỹ đã dựng lên những ngôi nhà tôn, những trạm gác. Cứ chiều đến chúng bắn những phát pháo sáng nghe “phụp phụp” và tiếp liền sau đó là những quả cối nổ oạch oành. Tít xa kia, sau những làng xóm, năm ngọn núi của cụm Ngũ Hành Sơn nhô lên như năm mái nhà in trên nền trời chiều mờ tím. Ngày nào, Ba đã cùng các bạn leo lên núi Non Nước (một ngọn của Ngũ Hành Sơn) thăm chùa, chơi trò trốn tìm trong các hang đá vôi hoặc rủ nhau vào hang Âm Phủ thả những quả bưởi non, để rồi, sau đó nhảy ùm xuống biển nhặt lại. Ngày nào, Ba cùng các bạn giả người mang lễ vật lên chùa, gánh vũ khí cho đơn vị anh Phan Hành Sơn (1) diệt đại đội Mỹ đóng trên chóp núi. Bây giờ, những khẩu pháo Mỹ đứng nghễu nghện trên các đỉnh núi trông như những con quái vật khổng lồ. Lâu lâu, chúng rướn cái cổ dài ngoẵng lên hét ầm ầm. Một rừng dương như bức tường xanh chạy từ Đà Nẵng vào Hội An ngăn cách xã Ba với mép biển, làm cho mặt biển cứ lúc ẩn lúc hiện như chơi trò trốn tìm. Ba đứng nhìn khắp xã một lúc rồi cởi áo, vắt vai, ngồi bệt xuống cát, hướng mặt về phía biển đón những làn gió mát rượi. Bỗng nhiên, Ba đứng bật dậy nghiêng tai lắng nghe như có ai vừa khẽ gọi tên mình. Làn gió mát vừa đi qua mang đến cho Ba mùi hương thoang thoảng như mùi đào chín sau một ngày nắng to. Có một cái gì đó, cứ ẩn ẩn hiện hiện ở đâu đó, như đã từng quen thuộc lâu rồi, như mãi mãi mới lạ mà ta phải tìm kiếm để gặp. Ba hít mùi hương vào lồng ngực, thẫn thờ một chút và nhận ra, đó là mùi hương của hoa dủ dẻ, loài hoa đậu trên những thân cây bé nhỏ, lá dày và cứng, rễ bám chặt vào mặt cát nóng bỏng của quê hương… – Ê nhóc mày về lúc nào? – Một người nào đó có giọng oang oang hỏi Ba ở phía sau. Ba quay lại thì thấy một anh người thấp thấp, to ngang, đôi tay săn như cái bắp chuối, dáng đi khuỳnh khuỳnh đang sóng bước bên một chị bé nhỏ, tóc dày và dài. Trông hai người thật không xứng đôi tý nào. Thế mà họ mê nhau. Đó là anh Bảy Kim và chị Hai Soan. Bảy Kim đã trên ba mươi tuổi mà chưa có vợ, anh không thích trẻ con gọi là chú mà gọi bằng anh. Bảy Kim là xã đội phó đánh giặc rất hăng nhưng chẳng hiểu vì sao Ba không thích. Có lẽ anh hay véo tai bẹo má Ba và các bạn. Trong những lần đi tắm biển, hễ thấy Bảy Kim là bọn trẻ vù chạy. Anh thường đứng tắm cách xa bọn trẻ, biến mất trong những lớp sóng trùng điệp rồi đột nhiên hiện lên bên một đứa trẻ nào đó, kéo chân nó, dìm cho nó uống nước rồi tung nó ra cười hê hê. Ba trả lời cộc lốc: – Mới về. – Mày biết chuyện gì xảy ra trong nhà mày chưa? – Chưa. Tui mới về hồi xế đây mà. Anh ta cười hố hố: – Cái nhà mày có phúc thiệt. Chồng chết, cha bị bắt, vợ ngại ác liệt vào Đà Nẵng làm đĩ . . . hố hố. Anh ta ngúc ngoắc đầu rồi kéo chị Soan về phía rừng dương liễu. Ba muốn chạy theo hỏi cho rõ sự việc nhưng có cái gì níu chân Ba lại, chôn chặt xuống cát. Cái giọng cười nói sống sượng của anh Bảy Kim làm Ba vừa buồn tức vừa xấu hổ. Cách đây sáu tháng, vào một ngày mưa cuối năm 1968, cha Ba, xã đội trưởng nổi tiếng của xã này đã hy sinh. Trong nhà Ba mọi việc lâu nay ngỡ êm xuôi bỗng xáo trộn lên. Hình như lúc vui sướng, mọi điều thường đến từ từ, lúc đau khổ, mọi lo toan, phiền muộn lại ập đến một lúc. Mẹ Ba ủ rũ, khóc suốt ngày. Đột nhiên, mẹ cấm Ba không được ở trong tổ du kích thiếu niên tham gia đánh giặc với các bạn nữa. Mẹ nói với Ba: “Con ạ, cái nòi chơi với lửa, có ngày cũng bị lửa thiêu. Mẹ có mình con làm giống, con cứ ở nhà, không đánh chác gì nữa”. Mẹ gặp chú Năm Hà, Bí thư xã, chị Bảy phụ trách Đội, xin đừng cho Ba làm những công việc “nguy hiểm” nữa. Mẹ bàn với ông nội gửi Ba ra Đà Nẵng cho yên. Nhưng ông bảo: – Tụi nhỏ ở đây chết hết hay sao mà mày lo quíu vậy mày? Mẹ nói dịu ngọt: – Nhà người ta có nhiều con cái nối dòng nối giống, còn cha, cha chỉ có một đứa cháu đích tôn đó, cha nghĩ coi. – Kệ nó, tao không muốn nó là đứa hèn nhát. Mẹ khóc. Ông nội cầm gậy vừa chọc bình bịch xuống đất, vừa hát: Người nào quẹo quẳng Đứa nào quẹo quẳng Họ chẳng ưa đâu Hát xong, ông nội gọi Ba: – Ba đâu, ra đây, nhìn vô mắt ông đây coi thử mày là đứa được hay đứa nhát. Ba vừa bước ra với ông, vừa nhìn mẹ đang khóc, lúng túng không biết làm sao. Một hôm, ông nội đi ăn giỗ ở Hội An, Ba cùng các bạn đi gài mìn về nhà thì thấy một chú lạ mặt đang ngồi uống nước với mẹ. Mẹ chỉ Ba nói với chú: – Con tôi đây anh Đức ạ – Rồi mẹ quay sang phía Ba – Chào chú đi con. Người kia mỉm cười: – Nghe nói cháu muốn đi bộ đội lắm phải không? – Dạ muốn. Cháu thích lắm. Nhưng sợ mẹ cháu không ưng – Thấy mẹ cười, Ba tiếp – Sợ Đội không đồng ý. – Được mẹ cháu sẽ cho cháu đi. Còn Đội chú sẽ bàn với các anh các chị. Chú cần một người như cháu. Ba mừng rơn. Điều mơ ước lâu nay của Ba là được đi bộ đội đánh Mỹ để trả thù cho cha nay đã thành sự thật. Ba nhảy vọt ra cửa, phóng lên cồn Quy, băng vào xóm để tìm bạn. Ngay lúc ấy, trước mắt Ba, bỗng hiện lên một cậu bé cũng giống như Ba, nhưng oai vệ hơn, mặc quần áo quân giải phóng, đội mũ tai bèo, nằm dưới một hầm cát, vụt đứng dậy chĩa B.41 vào một chiếc xe tăng địch, chiếc xe cháy bừng bừng. Chị phụ trách đã từng kể cho Ba nghe về anh Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Sau này người ta sẽ kể cho bọn trẻ rằng: Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé tên là… Bây giờ, trở về đây, việc anh Bảy Kim vừa nói như cái tát vào mặt Ba. Có phải trước đây mẹ lừa mình lên căn cứ để mẹ tự do vào Đà Nẵng sống sung sướng không? Câu hỏi ấy cứ xoáy vào lòng Ba đau nhói. Ba đứng lặng, nước mắt ứa ra. Có tiếng bước chân ai sào sạo trên cát. Ba ngẩng lên, thấy một đứa bé thấp lũn cũn, mái đầu húi cua, đang vác một khẩu súng dài quá người. Trời ơi, thằng Tượng. Nó dừng lại bên Ba hỏi: – Anh về hồi nào? Sao lại đứng buồn vậy? – Tao mới về. Không gặp ai, tao chán quá. – Về công tác à? – Tao về ở luôn với tụi bay đây.           Tượng nhìn Ba chăm chăm rồi nói nho nhỏ, vẻ ái ngại: – Em vừa ăn cắp của tụi Mỹ được cây súng. Bây giờ em đem tặng du kích đây – Nó nhìn Ba nói tiếp – Còn anh, giờ anh đi đâu? Có đi họp thì theo em, em chỉ chỗ cho. Tối nay, các anh các chị thiếu niên họp ở làng đó. Anh đến đấy mặc sức mà vui.   (1) Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân.   Mời các bạn đón đọc Cát Cháy của tác giả Thanh Quế.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mưu Ma Chước Quỷ
Móng Vuốt Quạ Đen luôn đứng đầu danh sách bán chạy của tuần báo New York Times, được vinh danh trong nhiều danh sách giải thưởng, hạng mục bình chọn quốc tế. Tác phẩm kể về một thế giới có phép thuật - nơi một nhóm những kẻ bất hảo tình cờ bị cuốn vào một phi vụ giải cứu đầy hiểm nguy, có khả năng xoay chuyển vận mệnh của thế giới. Đây là series tiểu thuyết Fantasy lừng danh được đón đọc trên khắp thế giới và làm nên tên tuổi của nhà văn Leigh Bardugo. Ketterdam là trung tâm giao thương quốc tế, nơi mọi thứ đều có thể đoạt lấy nếu được trả một cái giá tương xứng - và không ai hiểu rõ điều đó hơn thiên tài tội phạm Kaz Brekker. Kaz được đề nghị thực hiện một phi vụ hiểm hóc với mức tiền công sẽ giúp anh giàu sang hơn bất cứ giấc mơ điên rồ nào của mình. Nhưng anh không thể hoàn thành được nó một mình "Một tù nhân với cơn khát trả thù Một tay thiện xạ không thể cưỡng lại cám dỗ của trò đỏ đen Một người trốn chạy quá khứ trong nhung lụa Một gián điệp mang biệt danh Bóng Ma Một Độc Tâm Y dùng sức mạnh để sinh tồn trong khu ổ chuột Một tên trộm tài năng với những cuộc đào thoát không tưởng." Họ có thể cứu thế giới khỏi sự hủy diệt Nếu như họ không giết lẫn nhau trước Đây là thế giới của các Grisha, gián điệp, tù nhân, thiên tài tội phạm - với những cuộc đào thoát không tưởng. *** Kaz Brekker và nhóm của mình vừa thực hiện thành công một phi vụ tưởng chừng bất khả, nhưng thay vì nhận được món tiền thưởng béo bở, họ lại phải tiếp tục chiến đấu vì mạng sống của bản thân. Trong lúc suy yếu vì bị chơi khăm, thiếu thốn nguồn lực, đồng minh, và thậm chí là hi vọng, đối thủ cũ và kẻ thù mới buộc cả nhóm phải bước vào một cuộc chiến tàn khốc mới. *** Bộ sách gồm có Móng Vuốt Quạ Đen:  Móng Vuốt Quạ Đen - Sáu Kẻ Bất Hảo - Tập 1 Móng Vuốt Quạ Đen - Phi Vụ Bất Khả - Tập 2 Móng Vuốt Quạ Đen - Mưu Ma Chước Quỷ - Tập 3 Móng Vuốt Quạ Đen - Giang Hồ Hiểm Ác - Tập 4 *** RETVENKO Retvenko tựa người vào quầy bar và thò mũi vào li rượu bẩn. Món whiskey không làm ông ấm nổi. Không gì có thể làm người ta ấm được ở cái thành phố bị thánh thần bỏ rơi này. Và ông cũng không thoát được cái mùi lợm giọng của hầm tàu, đám nghêu và những tảng đá ẩm ướt, thứ dường như đã ngấm vào các lỗ chân lông của ông như thể ông bị ngâm trong một món trà có mùi tệ hại nhất trên đời. Mùi hương thảm hoạ dễ nhận thấy nhất là ở Barrel, đặc biệt tại một cái ổ chuột bần cùng như nơi này: một tửu quán tồi tàn nép mình ở tầng dưới của một trong những toà nhà xập xệ nhất vùng. Trần của nó bị võng xuống do phong hoá và xây dựng kém, các thanh xà đen kịt bồ hóng từ một cái lò sưởi đã lâu không hoạt động với ống khói nghẹt cứng vì rác. Sàn nhà được rải đầy mạt cưa để thấm bia, chất nôn, cùng đủ loại chất thải của đám khách khứa. Retvenko tự hỏi đã bao lâu rồi người ta không lau sàn. Ông ấn mũi sâu hơn vào trong li rượu, hít hà thứ mùi ngòn ngọt của món rượu tồi. Nó làm mắt ông cay cay. “Ê, cái đó là để uống, không phải để ngửi nha,” tay phục vụ quầy lên tiếng và bật cười. Retvenko đặt cái li xuống, uể oải nheo mắt nhìn người đàn ông. Anh ta có cái cổ bè và khuôn ngực vạm vỡ của một võ sĩ thực thụ. Retvenko từng chứng kiến anh ta tống cổ vài vị khách phiền hà ra đường, nhưng thật khó mà tôn trọng một kẻ khoác trên người thứ thời trang được bọn thanh niên Barrel ưa thích: áo sơ mi hồng với phần ống tay bó sát bắp tay đồ sộ, kèm theo chiếc gilet sặc sỡ bằng len sọc hai màu đỏ cam. Nom anh ta giống như một con cua lột diêm dúa. “Nói tôi nghe,” Retvenko bảo anh chàng với một thứ tiếng Kerch không sõi, lại còn lè nhè sau vài li rượu. “Sao cái thành phố này hôi hám thế nhỉ? Cứ như một nồi súp hỏng hoặc một chậu bát đĩa bẩn ấy.” Tay phục vụ bật cười. “Ketterdam là thế. Ông sẽ quen thôi.” Retvenko lắc đầu. Ông không muốn quen với cái chốn này, cũng như mùi hôi của nó. Công việc của ông tại nhà Uỷ viên hội đồng Hoede chán phèo, nhưng ít nhất căn buồng ở đó cũng khô ráo và ấm áp. Là một Grisha giúp việc theo giao kèo đáng giá, Retvenko được ăn ngon mặc ấm. Hồi đó ông nguyền rủa lão Uỷ viên hội đồng Hoede suốt ngày vì chán ngán công việc dẫn dắt các chuyến tàu chở hàng đắt giá trên biển, lại thêm phẫn uất với các điều khoản trong giao kèo bán mình ngu ngốc mà ông đã kí để thoát khỏi Ravka sau cuộc nội chiến. Nhưng giờ thì sao? Giờ thì ông không thể không nhớ tới cái xưởng Grisha ở nhà Hoede, nhớ ngọn lửa vui vẻ cháy trong lò, ổ bánh mì nâu ăn kèm bơ và những lát thịt giăm bông. Sau khi Hoede chết, Hội đồng Thương buôn của Kerch đã cho Retvenko làm việc trên những con tàu chở khách để mua lại tự do. Tiền thù lao đúng thật mạt hạng, nhưng ông còn lựa chọn nào khác kia chứ? Ông là một Tiết Khí Sư sống giữa một nơi thù địch, chẳng có kĩ năng gì ngoài thứ năng lực trời cho. “Nữa nhé?” Người phục vụ hỏi, tay chỉ vào li rượu đã cạn của Retvenko. Retvenko ngần ngừ. Ông không nên phung phí tiền bạc. Nếu khéo thu vén, ông chỉ cần phải bán mình trên một chuyến hải trình nữa, hoặc hai, và ông sẽ có đủ tiền để mua lại tự do, tậu một tấm vé quay về Ravka trên khoang tàu hạng ba. Ông chỉ cần có thế. Chưa đầy một giờ nữa là ông phải có mặt trên bến cảng. Người ta dự đoán sẽ có bão, do vậy thuỷ thủ đoàn phải trông cậy vào khả năng kiểm soát các luồng gió của Retvenko để đưa con tàu cập bến bình yên bất cứ nơi nào nó cần đến. Ông chẳng biết nơi đấy là đâu, và cũng chẳng quan tâm. Thuyền trưởng sẽ ra hiệu lệnh để ông thổi căng buồm hoặc làm gió lặng. Sau đó ông nhận tiền thù lao của mình. Nhưng gió máy có vẻ chưa nổi lên. Biết đâu ông có thể ngủ khò trong suốt đoạn đầu của chuyến đi. Retvenko vỗ tay lên quầy và gật đầu. Một người đàn ông thì phải làm gì đây? Ông xứng đáng được hưởng chút sung sướng trong cái thế giới này. “Mình đâu phải thằng chạy việc,” ông lẩm bẩm. “Sao thế?” Người phục vụ hỏi trong lúc rót cho Retvenko một li rượu khác. Retvenko phẩy tay. Anh chàng cục mịch này làm sao mà hiểu được. Cậu ta thu mình trong bóng tối. Để mong chờ cái gì chứ? Thêm một đồng xu lẻ trong túi quần? Ánh mắt liếc nhìn của một cô gái? Cậu ta chẳng biết thế nào là vinh quang chiến trận, chẳng biết thế nào là danh vọng. “Ông là dân Ravka hả?” Đang trong trạng thái lờ đờ do rượu, Retvenko đột ngột trở nên cảnh giác. “Sao cậu lại hỏi vậy?’ “Đoán vậy thôi. Ông nói giọng Ravka.” Retvenko tự trấn an mình. Có rất nhiều người Ravka đến Ketterdam để tìm việc. Không có gì nơi ông tiết lộ bản chất Grisha cả. Sự hèn nhát khiến ông cảm thấy ghê tởm chính mình, tay phục vụ, lẫn cái thành phố này. Retvenko chỉ muốn ngồi thưởng thức li rượu. Không một người nào trong quán có thể áp đảo ông, và bất chấp khối cơ bắp của tay phục vụ quầy, Retvenko biết mình có thể xử lí anh ta một cách dễ dàng. Tuy vậy, đã là một Grisha thì kể cả có ngồi yên cũng đồng nghĩa với chuốc vạ vào thân. Dạo gần đây người ta đồn râm ran khắp Ketterdam rằng nhiều Grisha đã biến mất trên phố, hoặc thậm chí ngay trong nhà mình, có lẽ là bị bọn buôn nô lệ bắt cóc đem bán đấu giá. Retvenko sẽ không để chuyện đó xảy ra với mình, nhất là khi ông đã sắp tích góp đủ tiền để quay về Ravka. Ông nốc cạn chỗ rượu, dằn một đồng tiền xuống mặt quầy, rồi đứng lên khỏi chiếc ghế đẩu. Ông không để lại tiền boa cho tay phục vụ. Muốn kiếm tiền thì phải xứng đáng với nó. Retvenko cảm thấy hơi loạng choạng trong lúc bước ra ngoài, và bầu không khí ẩm thấp chỉ càng làm tình hình tồi tệ thêm. Ông cúi đầu, hướng về phía Cảng số Bốn, để cho chuyến đi làm đầu óc tỉnh táo. Thêm hai chuyến nữa thôi, ông tự nhủ, vài tuần lễ lênh đênh trên biển, vài tháng trong cái thành này nữa thôi. Ông sẽ tìm được cách để chịu đựng chuyện này. Ông tự hỏi liệu mấy người bạn cũ có chờ mình ở Ravka hay không. Nghe nói vị vua trẻ ban lệnh ân xá như rải kẹo, hăm hở muốn tái thiết Hạ Quân — đội quân Grisha đã tan tác sau chiến tranh. “Thêm hai chuyến nữa thôi,” ông nói thành tiếng và giậm mạnh đôi ủng trên mặt đường ẩm ướt. Sao năm nay đến giờ này mà mọi thứ vẫn lạnh lẽo và ướt sũng đến thế kia chứ? Sống ở đây chẳng khác nào bị kẹp trong cái nách băng giá của một gã người tuyết khổng lồ. Đi dọc theo kênh Graf, Retvenko thoáng rùng mình khi trông thấy đảo Mạng Đen nằm kẹp giữa hai doi đất. Đó là nơi đám nhà giàu người Kerch từng mai táng người chết trong những ngôi nhà mồ bằng đá nằm cao hơn mực nước biển. Khí hậu ẩm ướt làm cho hòn đảo quanh năm bị quấn trong một tấm vải liệm sương mù biến ảo. Nghe đồn nó bị ma ám. Retvenko rảo bước nhanh hơn. Ông không phải là một kẻ mê tín. Khi sở hữu một năng lực như của ông, người ta chẳng việc gì phải sợ những thứ lẩn khuất trong bóng tối. Nhưng ai mà thích đi dạo giữa một nghĩa địa kia chứ? Thu mình trong chiếc áo choàng, ông nhanh chóng đi xuôi con phố Havenstraat, đề phòng mọi động tĩnh từ các con hẻm ngoằn ngoèo. Chẳng bao lâu nữa ông sẽ trở lại Ravka, nơi ông có thể ung dung dạo bước trên đường. Với điều kiện ông được ân xá. Retvenko khó chịu vặn vẹo người trong chiếc áo choàng. Chiến tranh đã làm các Grisha đối đầu nhau, và phe của ông đặc biệt tàn bạo. Ông đã ám sát những người đồng đội cũ, các thường dân, kể cả trẻ con. Nhưng chuyện đã qua rồi. Vua Nikolai cần binh lính, và Retvenko là một chiến binh rất giỏi. Sau khi gật đầu chào người lính gác đang ngồi trong chốt trực phía trước Cảng số Bốn, ông ngoái đầu nhìn lại phía sau để chắc chắn mình không bị theo đuôi. Len lỏi qua những dãy container, Retvenko đi ra bến cảng, tìm nơi tàu neo đậu, rồi đứng vào hàng để đăng kí với viên thuyền phó. Ông ta vẫn y như trong các chuyến đi trước, luôn phiền hà và khó ưa với cái cổ cò hương ló ra khỏi cổ áo choàng. Ông ta đang cầm một xấp tài liệu dày, có dấu triện sáp màu tím của một thành viên Hội đồng Thương buôn. Những dấu triện còn quý hơn vàng ở Ketterdam này, vì chúng bảo đảm những vị trí neo tàu tốt nhất và lối tiếp cận bến cảng thuận lợi. Tại sao những tay Uỷ viên hội đồng lại được nể trọng và biệt đãi như thế? Chung quy cũng vì tiền cả. Bởi các thương vụ của họ mang lại lợi lộc cho Ketterdam. Năng lực có ý nghĩa lớn hơn tại Ravka, nơi các nguyên tố phục tùng sự sai khiến của Grisha, và đất nước được cai trị bởi một vị vua thực thụ, chứ không phải một đám lái buôn mới phất. Thật ra thì Retvenko từng cố gắng phế truất cha của nhà vua hiện tại, nhưng bản chất vấn đề vẫn là như thế. “Thuỷ thủ đoàn chưa sẵn sàng để lên đường,” viên thuyền phó nói với Retvenko khi ông xưng tên. “Ông có thể vào ngồi trong văn phòng cảng vụ cho ấm. Chúng tôi đang đợi tín hiệu của Hội đồng Thuỷ triều.” “Tốt thôi,” Retvenko thờ ơ đáp. Ông ngước mắt nhìn một trong những ngọn tháp đá đen vươn cao trên hải cảng. Nếu Hội đồng Thuỷ triều tình cờ trông thấy Retvenko từ trên đó, ông sẽ cho họ biết chính xác mình đang nghĩ gì qua một vài cử chỉ chọn lọc. Cũng là Grisha, nhưng họ có nhúc nhích dù chỉ một ngón tay để giúp đỡ các Grisha khác trong thành không? Những người thiếu may mắn đang cần một chút lòng tốt ấy? “Không, họ không hề giúp đỡ,” Retvenko nói thành tiếng. Viên thuyền phó nheo mắt. “Lạy Ghezen, ông say rượu à, Retvenko?” “Làm gì có.” “Ông nồng nặc mùi rượu.” Retvenko hít hà. “Có chút whiskey thôi mà.” “Làm gì cho giã rượu đi. Uống cà phê, hoặc dùng jurda liều mạnh vào. Lô bông vải này phải đến được Djerholm trong vòng hai tuần lễ, và chúng tôi không trả tiền để ông ngật ngưỡng dưới hầm tàu. Rõ chưa?” “Rõ, rõ rồi.” Retvenko phẩy tay đáp trong lúc đi về phía văn phòng cảng vụ. Nhưng ngay khi đi được vài bước, ông khẽ lắc cổ tay. Một luồng gió thổi thốc vào xấp giấy tờ trên tay thuyền phó, làm chúng bay lung tung trên bến cảng. “Chết tiệt!” Ông ta buột miệng trong lúc lập cập chạy qua cầu ván, cố gắng chộp lấy chỗ tài liệu trước khi chúng rơi xuống nước. Retvenko mỉm cười ranh mãnh, nhưng một nỗi buồn vô hạn bỗng dâng lên trong lòng ông. Là một người lực lưỡng, một Tiết Khí Sư thiện nghệ, một chiến binh xuất sắc, nhưng ở đây, ông chỉ là một kẻ làm công, một lão già Ravka nói tiếng Kerch bồi và say xỉn tối ngày. Nhà, ông tự nhủ. Không lâu nữa mình sẽ được về nhà. Ông sẽ được ân xá và lại chứng tỏ bản thân. Ông sẽ chiến đấu cho tổ quốc mình. Ông sẽ nằm ngủ dưới một mái nhà không bị dột và mặc kefta len xanh với diềm lông cáo xám bạc. Ông sẽ lại là Emil Retvenko, chứ không phải một cái bóng dật dờ như thế này. “Có cà phê đấy,” một nhân viên nói với Retvenko khi ông bước vào văn phòng cảng vụ và chỉ cho ông bình cà phê nằm trong góc phòng. “Có trà không?” “Chỉ có cà phê thôi.” Cái xứ gì đâu. Retvenko rót đầy một ca thứ chất lỏng sánh đặc màu nâu đen, chủ yếu để làm ấm đôi tay. Ông không thể chịu nổi mùi vị của nó, nhất là nếu không có một suất đường thật đậm, thứ mà tay trưởng cảng từ chối cung cấp. “Gió nổi lên rồi kìa,” người thư kí nói khi nghe thấy tiếng chuông gió kêu lanh canh bên ngoài. Mời các bạn đón đọc Mưu Ma Chước Quỷ của tác giả Leigh Bardugo & Hoàng Anh (dịch).
Tìm Trong Nỗi Nhớ
Cuốn truyện này tuy hoàn toàn hư cấu nhưng “rất thật”. Những ai đã từng du học ở Liên Xô cũ hay nước Nga ngày nay có thể nhận ra một phần của mình trong đó. Sách xuất bản lần đầu tại Việt Năm năm 2003 và được giải của cuộc thi tiểu thuyết 2002-2004 của Hội Nhà văn Việt Nam. Về tác giả: Lê Ngọc Mai là cựu giảng viên khoa Văn tại Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội). Bảo vệ luận án Tiến sĩ về Văn học Nga tại Đại học Tổng hợp Lomonosov – Moskva. Là tác giả của các tiểu thuyết “Tìm trong nỗi nhớ” và “Trên đỉnh dốc”, và là dịch giả của nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn từ các thứ tiếng Nga, Ý, Pháp sang tiếng Việt, trong đó có: Chó hoang Dingo hay là câu chuyện mối tình đầu; Và nếu như đó là sự thật ... Người tình (Dumas); Ngôn từ (J.P Sartre, dịch cùng nhà văn Thuận). ... *** Đó là một ngày mùa hè nắng chói chang cách đây vừa đúng hai mươi năm. Chiếc xe commăngca dã chiến bạt sờn, sơn lở mà bố tôi mượn của cơ quan chở ba bố con tôi ra sân bay Nội Bài. Tôi lên đường đi học đại học ở Nga, bố và em trai đi tiễn. Đây là lần đầu tiên tôi rời Việt Nam. Mười tám tuổi, bốn mươi ba cân, hành lý là một chiếc vali lèn đầy quần áo và các mặt hàng tạp hóa. Son phấn Thái (xịn), kimono Nhật (rởm), áo phông nữ "cành mai", áo phông nam "cá sấu"..., mỗi loại xếp thành một xấp. Một đống quần lót "hoa hồng" xanh đỏ tím vàng với số lượng thừa thãi cho cả năm năm đại học. Hai bức tranh sơn mài màu sắc na ná như nhau, đỏ đỏ, xỉn xỉn, một bức "chăn trâu thổi sáo" và một bức "vịnh Hạ Long". Vài tấm tranh lụa, cái nào cũng tre, chim với thiếu nữ áo dài ( khi tre chim nhiều thì áo dài ít, khi tre, chim ít thì áo dài nhiều). Dăm gói bột nghệ, một lô dầu cao "Sao Vàng", mấy hộp "sâm quy bổ thận" (thành phần ghi ngoài vỏ hộp gồm nhiều loại cây thuốc nghe tên rất đáng nể, nhưng không thấy có sâm.) Số hàng hóa này không phải là dành cho tôi, tức là không phải để tôi dùng. Phần tôi, chỉ có vài bộ quần áo và hai tập từ điển Nga-Việt dày cộp. Còn lại, quần áo, son phấn, thuốc thang là để xuất khẩu sang thị trường Nga với mục đích đổi về bàn là, nồi hầm, ấm điện, tủ lạnh... Các tác phẩm nghệ thuật thì dành để khi có dịp dùng làm quà tặng thầy giáo, bạn bè (người Nga, tất nhiên, chứ người mình có ai treo những thứ này trong nhà.) Suốt cả tuần lễ trước ngày tôi lên đường, chiều nào sau giờ làm việc cô tôi cũng phải lăn lóc lượn đi lượn lại Hàng Ngang, Hàng Đào để kiếm cho đủ chủng loại, số lượng hàng hóa cần thiết. Cô nhất quyết dành cái công việc khổ sai này về phần mình vì không tín nhiệm bố con tôi." Lù đù như bố con mày, không mua nhầm hàng rởm thì cũng bị chúng nó chém cho, thôi cứ để đấy cô lo, cô có kinh nghiệm mua đồ cho thằng V. đi Hung năm ngoái rồi". Những túi to, bọc nhỏ mà cô hì hụi vác đến làm bố tôi phát hoảng: "Con L. C. đi học chứ có đi buôn đâu mà cô bắt nó tha đi nhiều thứ thế !" " Ai cũng mang đi như vậy cả, tội gì không mang", cô tôi gạt phắt. Đúng, ai cũng mang đi như vậy cả. Lúc kiểm tra ở hải quan, hơn ba chục cái vali của cả đoàn mở ra, cái nào cũng có ngần ấy thứ: "cành mai", "cá sấu", phấn "con bướm", xi líp "hoa hồng"... Mấy cậu bạn tôi, trong lúc xếp lại đồ đạc, vụng về làm tung ra ngoài xấp quần lót nữ màu sặc sỡ, mặt đỏ lựng lên ngang màu đỏ của bông hồng thêu trên quần lót (thời ấy khái niệm "đỏ mặt" còn tương đối thông dụng.) Trong vali của tôi có một thứ mà chắc chẳng ai trong đoàn cùng đi hôm ấy có. Không, không phải là một mặt hàng "độc" mang lậu qua hải quan. Đó chỉ là một tờ giấy đơn sơ với vài hàng chữ viết to, đường nét rắn rỏi, tự tay bố tôi viết và dán vào mặt trong của nắp vali cho tôi trước hôm tôi lên đường. "Tính con hay quên nên bố dán vào đây cho khỏi thất lạc, và để mỗi lần con mở vali ra thì lại thấy ngay", bố tôi bảo. Nội dung tờ giấy là những điều bố tôi căn dặn cô con gái lần đầu tiên đi học xa nhà. Ông đánh số cẩn thận, có bảy điều cả thảy. Hai mươi năm đã qua, chiếc vali cũ mòn và quê kệch của chuyến xuất ngoại đầu tiên đã bị quẳng từ lâu ra bãi rác, nhưng tờ giấy ấy thì đến giờ tôi vẫn giữ. Ố vàng, mép giấy chỗ sờn mỏng tang, chỗ cộm vệt hồ dán, nó nằm sâu trong một ngăn tủ của tôi, kẹp giữa cuốn sổ thơ thời sinh viên. Bây giờ đọc lại, thấy thương bố đến nao lòng. Nhưng ngày đầu tiên ở Matxcơva, lúc mở vali ra, đập vào mắt những lời dặn dò của bố, tôi chỉ thấy buồn cười. Từ khi mẹ tôi mất, mọi nỗi lo toan cho hai đứa con dồn cả lên vai bố tôi, ông đâm ra thành người kỹ tính. Con gái đã mười tám tuổi mà bố phải dặn chi li từ chuyện ăn, chuyện mặc. Mặc đủ ấm khi trời lạnh... (Ông già không yên tâm với cô con gái chủ trương ăn mặc vị nghệ thật, bất chấp thời tiết. "Mặc gì" luôn luôn là đề tài tranh luận nảy lửa giữa hai bố con, những sáng mùa đông trước giờ đi học, kể từ khi tôi bắt đầu trở thành một cô bé thích làm điệu, lớn lên giữa Hà Nội đói nghèo của thời bao cấp mà khái niệm "ấm" và khái niệm "đẹp" chẳng mấy khi may mắn đi đôi được cùng nhau.) Ăn uống điều độ... (chứ đừng thỉnh thoảng lại bỏ bữa ban ngày, lục cơm nguội ăn đêm, như hồi ôn thi đại học !) Chịu khó tập thể thao... (đây là điều mà cụ vẫn phàn nàn rằng con chẳng giống cha: bố thì hăng hái hết chạy lại bơi, con thì rảnh rỗi chỉ thích nằm dài ra đọc truyện.) Học tập là nhiệm vụ chính, không được để các hoạt động khác làm ảnh hưởng đến việc học... (Các hoạt động khác? Hẳn cụ muốn nói đến "hoạt động thương mại"? Nghe nói sinh viên Việt Nam ở Liên Xô và Đông Âu bây giờ buôn bán rầm rầm, bố tôi chỉ sợ con gái theo đuôi bạn bè mà xao lãng chuyện học. Nếu không có cô tôi vừa thuyết phục vừa trách móc thì bố tôi đã quyết không cho tôi mang đi những mặt hàng "chiến lược" kể trên . ("Dính vào chuyện buôn bán phức tạp lắm, nhà mình không có khiếu đi buôn !"). Tôi đang háo hức với chuyến đi, thấy bố bảo sao cũng sẵn sàng nghe vậy, nhưng cô tôi đã đưa ra một lý lẽ đơn giản: "Anh có lo được cho con L.C. không, mà không để nó tự lo cho nó? Mấy năm nữa nó học xong về nước, lấy chồng đẻ con, anh muốn nó cũng sống cực như anh bây giờ à?". Bố tôi lập tức đầu hàng, những rõ ràng trong lòng vẫn không yên.) Tuyệt đối tránh quan hệ yêu đương với người nước ngoài... A, đây mới là vấn đề mấu chốt ! "Tình không biên giới" là nỗi lo sợ ám ảnh hầu hết các ông bố bà mẹ có con đi du học thời bấy giờ. Đương nhiên, ở một cái xứ, một cái thời, mà việc cô con gái Hà Nội lấy chồng Nghệ Tĩnh đôi khi cũng đủ làm nên một bi kịch gia đình, thì chuyện dâu tây rể tây phải bị coi là đại họa. Vả lại, ai cũng biết rằng đi du học mà "lấy tây" thì chẳng còn đường về nước: đương sự bị coi như kẻ đào ngũ, bố mẹ mất con, gia đình mất danh dự. Đây mới là điều đáng sợ nhất đối với các bậc phụ huynh. Hai tiếng "lưu vong" thời ấy nghe giống như một án tù. Những trường hợp "lưu vong ái tình" trong giới lưu học sinh mới chỉ xảy ra hiếm hoi lẻ tẻ, nhưng cũng đủ để treo gương tày liếp. Cuộc đời luôn luôn có những biến động bất ngờ. Thế hệ của chúng tôi, lớp du học sinh ra đi vào những năm tám mươi, sẽ mở đầu cho một làn sóng lưu vong mới mà "ái tình" không phải là nguyên nhân và con đường duy nhất như các năm về trước. Nhưng vào thời điểm đó, đứng chen chúc trên sân bay Nội Bài, nhễ nhại mồ hôi trong cái oi ả của một ngày cuối tháng tám, không ai trong chúng tôi có thể ngờ trước được điều này. Vali đầy ắp hàng và đầu đầy ắp ước mơ, chúng tôi ra đi, để lại sau lưng mình quê hương mà sau này đối với nhiều người mãi mãi sẽ chỉ còn là một chốn để thương để nhớ. Đêm đầu tiên ở Matxcơva, trời cuối hè bắt đầu se lạnh. Mệt phờ người sau một chuyến bay dài và một lô thủ tục hành chính rắc rối, nhưng không sao ngủ được, tôi và T.H. ra đứng bên cửa sổ, nhìn xuống thành phố lấp lánh dưới ánh đèn. Choáng ngợp trước vẻ đẹp lộng lẫy của đêm Matxcơva, choáng ngợp vì nhiều cảm xúc mơ hồ, lẫn lộn, choáng ngợp với những dự cảm về một tương lai còn chưa rõ nét nhưng chính vì vậy mà lại có vẻ đẹp huyền bí đến nao lòng. Còn gì rạo rực hơn khi người ta mười tám tuổi, thả hồn bay bổng đến một vùng trời mà mọi mơ ước đều được phép, một vùng trời bí ẩn có cái tên gọi rất quyến rũ là Tương Lai. Mời các bạn đón đọc Tìm Trong Nỗi Nhớ của tác giả Lê Ngọc Mai.
Kế Hoạch Làm Bố
Một cái chết bất ngờ liên quan đến Tổng biên tập mới của “Người thời thượng” và Kỳ Tuấn đã quyết tìm ra câu trả lời theo cái cách không giống ai - “Làm bố”. Sự kiêu kỳ và quyến rũ đến từ Minh Thư đã khiến con tim anh xao xuyến, khi ý định chinh phục cô hết lần này đến lần khác thất bại, Kỳ Tuấn đã nghĩ đến âm mưu khác. Tuy nhiên, mọi chuyện đã đi theo chiều hướng khác khi anh nhận ra, tình yêu không phải trò chơi. Vì anh đã yêu thương cái gia đình nhỏ trong một phần “kế hoạch” của mình. Khi những mảng tối dần được hé lộ, câu trả lời chưa kịp có thì viễn cảnh mất đi người phụ nữ và đứa con trai nhỏ đang đến gần. Kỳ Tuấn sẽ phải trả giá ra sao cho Kế hoạch làm bố của mình? Nếu ông trời sắp đặt hai con người xa lạ, có ân oán và thù ghét nhau phải ràng buộc nhau vì một đứa trẻ? Thì đó gọi là duyên số hay cay đắng của định mệnh? Trong c uộc đời này đôi khi từ yêu thương mới nảy sinh chiếm đoạt hoặc chiếm đoạt  bởi vì yêu thương. Đâu cũng chỉ là một lí do nhưng một khi đã chấp nhận thì con người ta ắt hẳn cũng phải có những lí do cho riêng mình. Một cuộc hôn nhân đầy toan tính, có cả sự hiếu kỳ, thù hận lẫn nhau liệu có phải là một sai lầm. Kế hoạch kia của Kỳ Tuấn sẽ đưa anh đến bến bờ hạnh phúc hay là thứ dìm anh mãi mãi vào nỗi đau, vốn còn thậm tệ hơn cuộc sống nhàm chán của anh trước kia? Minh Thư sẽ làm thế nào để có thể chấp nhận con người kinh khủng kia, làm bố của con cô cũng tức sẽ là chồng của mình… "Có lẽ sống trong một không gian nào đó lâu ngày, người ta sẽ hình thành một thói quen, xa tức là sẽ nhớ"Nhưng…Cuộc hôn nhân của họ có được như thế không?Câu trả lời nằm ở cuối truyện! Mời các bạn đón đọc. Cảm nhận của đọc giả numb95:  "Kết thúc tuyệt lắm.Tình yêu đẹp ngày nào của Duy và Lâm giờ đây đã có 1 cái kết thật hạnh phúc, thật ý nghĩa. "Yêu nữa được không ?" là 1 cuốn truyện hay, có ý nghĩa nhất mình từng đọc. Mình ủng hộ truyện này đến cùng. Ủng hộ bạn nữa." cobemuadong_0502 : "những người đã đọc, đang đọc và sẽ đọc rất ngưỡng mộ bạn đấy... mình tin chắc điều đó cảm ơn bạn đã cho mình được đọc 1 truyện thú vị như thế " *** Buổi sáng bắt đầu, tại căng-tin tòa soạn tạp chí khá tên tuổi, tạp chí “Người thời thượng”. - Hôm nay sẽ ra mắt tổng biên tập mới! - Nghe đâu là người miền ngoài. - Hà Nội, Đà Nẵng hay Huế nhỉ? - Dù sao thì đó cũng là một cái giọng lạ lẫm ở cái đất Sài Gòn này. - Tôi đã nhìn lén sơ yếu lí lịch, đó là một phụ nữ. - Thế trẻ hay già? Độc thân hay đã kết hôn? Đẹp hay xấu? - Từ từ đã… có vẻ rất đẹp! Là dân du học, không phải là tuyển dụng mà được ông Minh, chủ tờ tạp chí này đích thân mời đấy. Tiếng đồn xôn xao. Vì là một tạp chí thời thượng nên những con người từ cấp cao tới cấp thấp, từ già hay trẻ, bé hay lớn đều chỉ quan tâm thứ duy nhất chính là “thời thượng”. Công việc đối với họ dường như chỉ là một trò chơi nhàn rỗi. Đó là lí do uy tín của tờ báo ngày càng đi xuống với những thông tin sai lệch, bài viết thiếu trau chuốt,… Không muốn tâm huyết cả đời bị đẩy vào vực thẳm, ông Âu Văn Minh, chủ tờ tạp chí này đã đích thân mời một tổng biên tập mới, có thể giúp ông quản lí khắt khe hơn lấy lại uy tín trước kia. Người duy nhất tâm huyết với nghề ở đây là Thái Kỳ Tuấn, chuyên viên thiết kế trang đầu của tờ tạp chí. Anh là đại diện rõ rệt nhất cho câu nói “có tài có tật” - làm việc thì rất có năng lực nhưng tính tình tự cao, tự đại và kiêu căng cũng khiến nhiều sếp khó bật Tuấn, làm anh chàng phải làm lính lác trong 7 năm công tác ở đây. Tuy nhiên, Kỳ Tuấn lại là một anh chàng giỏi thu hút mọi người, đặc biệt là phái nữ, rất trọng tình nghĩa và lạnh lùng. Tuấn vừa đặt túi xách xuống thì đã có cả đám con gái bu lại: - Anh Tuấn, uống cà phê nhé? - Thôi. Anh có việc một lát. - Anh Tuấn, bánh qui mà anh thích nè! Em làm đấy! - Ừ. Anh sẽ ăn. - Anh đã ăn sáng chưa? - Ăn rồi. Cảm ơn em. Là một anh chàng hào hoa chính hiệu nhưng Tuấn không ngã lòng với bất cứ ai trong cái tòa soạn của tờ tạp chí toàn những kiều nữ này. Với anh, Chúa đã phú cho anh những cái lợi thế như thế thì nên làm những việc lớn hơn thay vì chỉ thu hút những cô gái chỉ vì tách cà phê, đĩa bánh ngọt. Tuấn nhận được điện thoại của ông chủ, anh lên phòng riêng và gặp mặt: - Sếp gọi tôi? - Bắt đầu từ mai tôi sẽ không làm tổng biên tập nữa. Chiếc ghế này sẽ thuộc về người khác. - Tôi có nghe. Chỉ là chưa biết lí do. - Cậu nhìn xuống thử đi… Có ai thực sự chú tâm với công việc không? - Điều đó không phải lỗi của ông. - Nằm ở tôi cả đấy chứ. Tôi già rồi, tôi đã làm việc suốt hơn ba mươi năm qua rồi. Bây giờ là lúc tôi dành thời gian cho gia đình, đặc biệt là bà vợ già của tôi. Những chuyến du lịch châu Âu, châu Phi hay châu Mỹ chính là mục tiêu sắp tới của tôi… nhưng tôi không muốn từ bỏ tờ tạp chí này. - Tùy ông. Sao cũng được! Tôi chỉ là nhân viên. - Tôi tưởng cậu sẽ thắc mắc tại sao tôi không chọn cậu ngồi chiếc ghế này. - Tôi cũng không cần thiết phải biết. Tôi chưa đủ tài, chắc là vậy phải không? - Kỳ Tuấn, cậu nên biết là cậu hoàn toàn có thể. Chỉ một chút xíu nữa thôi! - Đó là gì? - Vì cái câu “Tùy ông, sao cũng được” mà cậu vừa thốt ra đấy. - Nếu tôi nói với ông tôi muốn là có được cái ghế này dù không cần phải thay đổi câu đó ông có tin không? Ông Minh chỉ mỉm cười và đứng dậy vỗ vai Tuấn rồi nói: - Chuyến bay đáp lúc 10 giờ. Còn khoảng một tiếng cho cậu chuẩn bị để đón tân Tổng biên tập về ra mắt đấy. - Tại sao lại là tôi? - Vì ngày hôm nay tôi vẫn là chủ. Còn cậu vẫn là nhân viên của tôi. Tuấn lầm bầm mấy câu rồi trở về bàn làm việc lấy chìa khóa xe và đi ra sân bay. Không quên mua một bó hoa hồng to thể hiện chất lịch thiệp lãng mạn. Chờ một lúc, một cô gái bước ra, tóc rất đẹp, có làn da trắng, ăn mặc rất phong cách và đeo kính râm. Tuấn nhìn lâu một chút rồi tiếp tục quay lại tìm, cô nàng đi ngang mặt anh và hỏi: - Đang tìm người à? Tuấn gật đầu rồi mỉm cười: - Nhưng rất tiếc người tôi tìm không phải là cô gái xinh đẹp như cô. Tôi cần tìm một cô nói giọng Bắc cơ. Cô nàng mỉm cười bỏ đi. Tuấn đứng gần một tiếng đồng hồ rồi anh phải tặc lưỡi quay trở về vì lúc đi gấp quá quên hỏi tên tuổi và làm cách nào để tìm gặp. Trời giữa trưa nắng mà lại không một giọt nước thấm giọng. Tuấn về tới tòa soạn, máy lạnh thổi vù vù làm anh cảm thấy dễ chịu, anh nghe có tiếng xôn xao từ phòng họp, Tuấn vừa định bước vào thì mọi người đã đi ra và gương mặt nhăn nhó. Tuấn hỏi: - Này, có chuyện gì thế? - Ra mắt sếp mới, tình hình căng đây. Chết mấy bà tám chuyên lo nhiều chuyện đỏng đảnh rồi. Tuấn đang gãi đầu nhăn nhó thì ông Minh bước ra và trách móc: - Cậu ra sân bay tán gái hay sao mà để sếp mới của cậu tự về tòa soạn luôn thế? Giỡn mặt với tôi hả? - Tôi đã đứng cả buổi. Có thấy ai đâu? Chào xã giao tôi cũng chỉ chào có một người mà! - Ý anh là chào tôi đấy hả? Tuấn quay lại nhìn, anh ngạc nhiên đến mức không còn nói được gì. Chính là cô nàng xinh đẹp Tuấn đã chào xã giao một câu ở sân bay. Anh chàng ú ớ: - Sao lúc nãy… cô nói giọng Nam…? Ôi trời ơi… - Cứ phải là người miền Bắc thì phải nói giọng Bắc sao? - Tôi không nghĩ cô tài đến mức có thể nhại giọng nhanh như thế. - Impossible is nothing. Nhớ câu đó khi làm việc với tôi nhé! Cô nàng nghiêm giọng rồi bỏ đi. Trước khi thang máy đóng lại, cô nàng nháy mắt với Tuấn: - Vui vì được biết anh. Hợp tác vui vẻ! Tuấn cay cú vì bị chơi một vố, ông Minh mỉm cười chép miệng: - Impossible is nothing. Tôi rất bất ngờ với câu nói này, không phải vì ý nghĩa của nó, mà là vì người nói câu đó. Và đó cũng là người tôi nghĩ đủ sức có thể giúp tôi. - Cô ta nói được nhưng chắc gì đã làm được? - Ít ra thì đã thắng cậu một keo rồi. - Tôi đã chiến hồi nào mà thua? - Ơ… đợi chiến mới thua à? Kỳ Tuấn nhếch mép cười nhìn dáng đi như người mẫu chuyên nghiệp của Minh Thư. Anh chàng thầm mỉm cười, một cơn gió thổi ngang làm mái tóc bồng bềnh của anh lay chuyển. Như một tiếng gọi tỉnh thức, Tuấn mỉm cười: - Đã đến lúc thay đổi thật rồi! Mời các bạn đón đọc Kế Hoạch Làm Bố của tác giả Nguyễn Hương.
Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi
Vẫn mang giọng văn hài hước và kỹ thuật thắt mở nút gây kịch tính nhà nghề, “Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi” của cùng tác giả cuốn “Người đàn ông mang tên Ove” chứa đựng mạch cảm xúc lạ thường về những mối quan hệ nhân quả của con người trong thế giới hiện đại. Có gì cổ xưa và quen thuộc như chuyện về một người bà ngoại? Người bà có rất nhiều câu chuyện để kể lại, và để đánh dấu chúng, dường như cần những mùi hương khác nhau. Cô bé bảy tuổi Elsa đã có bà ngoại, người chuyên kể những câu chuyện tưởng tượng cho cô, nhưng toàn là những câu chuyện liên quan đến những ký ức kỳ lạ của chính bà, một người phụ nữ lạ thường. Người ta sẽ gọi bà ngoại của Elsa là lập dị hay điên khùng, nhưng với Elsa, bà là một siêu anh hùng. Ai đã chứng kiến những hành vi kỳ quặc của bà ngoại họ rằng bà đã tán tỉnh cảnh sát, lái xe phạm luật, bắn súng sơn từ ban công trêu hàng xóm, thì Elsa đã hào hứng làm cổ động viên vì cô bé tìm thấy ở bà một người bạn để chia sẻ những điều thắc mắc của trẻ con. Tuy nhiên, ẩn dưới cái vỏ của những câu chuyện đầy màu sắc cổ tích, những hiệp sĩ, công chúa, những con rồng hay xứ sở mộng mơ mang những cái tên ám chỉ, lại là những con người thật, người đàn ông khỏe kỳ dị được gọi là Tim Sói, một con thú bí ẩn linh sói, một bà hàng xóm khó tính, một người đàn ông cục cằn khó gần, rồi ngay chính người mẹ hay căng thẳng cùng người bố trầm tính của Elsa… Họ đều là những nhân vật của cuộc đời bà ngoại, người đã phiêu lưu khắp nơi, để rồi lần lượt hé lộ câu chuyện kỳ lạ nhất về bà. Thông qua những lá thư bí ẩn chứa lời xin lỗi của bà, Elsa bắt đầu hành trình đi tìm sự thật, nghẹt thở và ma mị… *** Elsa không phóng ra băng tuyết. Elsa cũng không phải là nữ hoàng của vương quốc xa xôi nào cả. Elsa chỉ là một cô bé 7 tuổi, nhưng lại là cô-bé-7-tuổi-già-trước-tuổi. Bà ngoại không sống trong viện dưỡng lão. Bà ngoại cũng không rành mấy thứ gọi là Wikipedia. Bà ngoại chỉ là một bà cụ 77 tuổi, nhưng lại là bà-cụ-77-tuổi-trẻ-hơn-tuổi. Ban ngày, bà ngoại đưa đón Elsa dến trường, cùng cô bé tham gia vào những cuộc phiêu lưu kỳ lạ như trèo qua hàng rào để đột nhập vào sở thú, nhét những tờ báo miễn phí chật cứng trong thang máy, làm phiền những người hàng xóm bằng cách bắn sơn và treo pizza trước cửa nhà họ. Ban đêm, hai bà cháu chìm đắm trong xứ sở Mơ-màng-ngủ, nơi những câu chuyện cổ tích làu thứ nuôi sống tất cả các giống loài sinh sống ở 6 vương quốc kỳ diệu trong xứ sở ấy. Bà kể cho Elsa nghe về loài linh sói, về thiên thần biển, những con rồng, quái vật, bóng đêm, về “cô gái luôn nói không”, về người anh hùng Tim Sói,... Elsa chỉ ước bà ngoại sẽ mãi bên cô bé. Vì bà là siêu anh hùng của Elsa. Và mọi đứa trẻ lên bảy đều cần có một siêu anh hùng ở bên cạnh. Nhưng Elsa đã học được qua Wikipedia và tất cả “văn chương có chất lượng” rằng con người không có ai hoàn hảo, kể cả siêu anh hùng. Người ta có thể yêu quý ai đó suốt nhiều năm trời mà chẳng biết gì về họ hết. Thực hiện lời hứa cuối cùng của bà ngoại là sẽ chuyển những bức thư có chứa lời xin lỗi đến với tất cả những người bà quan tâm, Elsa lao vào một cuộc hành trình đầy ma mị và nghẹt thở, để rồi mãi chờ đợi bức thư xin lỗi dành cho chính mình.  Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi không phải là truyện cổ tích dành cho người lớn, nó là truyện cổ tích dành cho những người từng là trẻ con. Những câu chuyện thần tiên của bà ngoại trở nên thật hơn bao giờ hết bởi đó chính là sự kiện thật xảy ra xung quanh bà. Một cô bé 7 tuổi có lẽ phải mất nhiều năm mới hiểu được. Nhưng đừng quên Elsa không phải là một cô bé bình thường. Làm gì có đứa trẻ 7 tuổi nào có thể thuộc làu làu từng chi tiết trong Harry Potter, hay biết được cách tra Wikipedia với mỗi từ khó người lớn nói. Và quan trọng hơn, không có đứa trẻ nào chịu lắng nghe và tin vào câu chuyện thần tiên của người già như Elsa cả. Đọc cuốn sách, ta dường như hiểu được một sự thật quan trọng mà nhà văn Fredrik Backman muốn gửi gắm. Bà ngoại vốn không phải là một người kỳ quặc và lạ thường. Chính bà đã trở nên kỳ quặc và lạ thường để có thể hòa hợp với cô cháu gái. Bà nhắc nhở Elsa luôn giữ trong mình sự khác biệt và đừng để cho ai phải nhắc cô bé không được khác biệt. Vì chẳng có người tầm thường nào có thể thay đổi thế giới cả.  Mỗi linh hồn chết đi nhường lại sự sống cho một sinh linh nhỏ bé mới. Còn những câu chuyện cổ tích thì vẫn còn sống mãi nếu như vẫn có người kể lại và có người lắng nghe chúng. Bà ngoại không được dạy làm thế nào để không kể các câu chuyện, Elsa không được dạy làm thế nào để không nghe, còn chúng ta có lẽ không ai được dạy làm thế nào để không mỉm cười trước một cuốn sách đáng yêu như Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi. *** Fredrik Backman là blogger, nhà báo, nhà văn người Thụy Điển với các tác phẩm nổi tiếng đã được được dịch ra hơn 40 thứ tiếng như Người đàn ông mang tên Ove, Bà ngoại tôi gửi lời xin lỗi, Britt-Marie đã ở đây. Tác phẩm: Người Đàn Ông Mang Tên Ove Bà Ngoại Tôi Gửi Lời Xin Lỗi Britt-Marie Đã Ở Đây ... *** Ở cái tuổi lên bảy, mọi đứa trẻ đều cần có siêu anh hùng. Không thể khác được. Những ai không chấp nhận điều đó cần phải xem lại đầu óc của mình. Bà ngoại của Elsa thường nói như vậy. Elsa đã gần tám tuổi. Nó biết mình không giỏi làm một đứa bảy tuổi. Nó biết mình khác biệt. Thầy hiệu trưởng bảo là Elsa phải “thay đổi thái độ” để “chan hòa hơn với các bạn cùng tuổi”. Những người lớn khác luôn nhận xét rằng nó “quá già so với tuổi”. Elsa đoán đó chỉ là một cách nói để ám chỉ rằng nó là “một con bé phiền phức”, vì họ thường nói thế khi nó chỉnh lại cách phát âm chữ “déjà vu” hoặc những lỗi chính tả lặt vặt của họ. Giống như hầu hết những người lớn to đầu khác. Bởi vậy họ mới dùng chữ “già trước tuổi” để nói về Elsa, kèm theo một nụ cười gượng dành cho bố mẹ nó. Như thể đó là một căn bệnh, và Elsa làm gai mắt họ vì không tỏ ra ngờ nghệch như một đứa trẻ bảy tuổi. Đây là lí do tại sao nó không có người bạn nào ngoài bà ngoại. Bởi lẽ tất cả những đứa trẻ bảy tuổi ở trường đều ngớ ngẩn như những đứa trẻ lên bảy thường tỏ ra, trong khi nó thì khác. Elsa không nên để tâm đến những gì họ nói, bà của nó đã khẳng định như thế. Bởi những người giỏi nhất đều khác biệt, cứ nhìn các siêu anh hùng mà xem. Nếu những siêu năng lực của họ là bình thường thì mọi người ai cũng có siêu năng lực cả. Bà ngoại đã bảy mươi bảy, gần bảy mươi tám tuổi. Bà cũng không giỏi làm một bà già bảy mươi bảy tuổi cho lắm. Mọi người có thể thấy bà già vì khuôn mặt bà giống như tờ giấy báo bị vo tròn nhét vào trong giày cho khỏi ẩm mốc, nhưng không ai thấy bà trưởng thành đủ so với độ tuổi cả. “Trộm vía”, người ta thỉnh thoảng nói như vậy với mẹ Elsa. Sau đó, khuôn mặt họ sẽ trở nên đầy lo lắng hoặc rất giận dữ, và mẹ sẽ thở dài hỏi xem mình phải bồi thường bao nhiêu, chẳng hạn như khi bà hút thuốc làm kích hoạt hệ thống báo cháy ở bệnh viện và la lối rằng: “riết rồi bây giờ cái gì cũng phải đúng theo khuôn khổ” lúc bị các bảo vệ yêu cầu dập thuốc. Hoặc là lúc bà đắp một người tuyết trong tư thế nằm sóng xoài dưới ban công nhà bà Britt-Marie và ông Kent, mặc quần áo người lớn cho nó để làm người ta tưởng có ai đó bị rơi xuống đất. Hoặc là khi những người đàn ông đeo kính đến gõ cửa từng nhà trong khu phố để nói về Chúa, Jesus và thiên đường, còn bà thì mặc áo choàng ngủ phong phanh bắn súng sơn vào họ từ trên ban công. Không rõ bà Britt-Marie thấy phiền phức vì vụ bắn súng sơn hay vì bà ngoại của Elsa không mặc gì bên trong lớp áo choàng ngủ hờ hững, chỉ biết bà ta báo cảnh sát với cả hai lí do đó cho chắc ăn. Đó là những lúc mọi người thấy, trộm vía, bà ngoại rất trẻ so với tuổi tác. Họ cũng nói bà điên rồ. Nhưng thật ra bà là một thiên tài. Chỉ có điều bà đồng thời cũng rất gàn. Hồi trước, khi còn làm bác sĩ, bà đã nhận được các giải thưởng, được báo chí viết bài, và bà từng tới những nơi tệ hại nhất thế giới, khi mà những người khác đều đã bỏ đi. Bà đã cứu sống nhiều người và chống lại cái ác ở khắp nơi trên trái đất này. Như những gì các siêu anh hùng vẫn làm. Nhưng rồi một ngày nọ, người ta quyết định rằng bà đã quá già để đi giải cứu thế giới, dù Elsa nghi ngờ điều người ta thật sự muốn ám chỉ qua hai chữ “quá già” chính là “quá điên rồ”. Bà ngoại gọi kẻ đó là “xã hội” và nói rằng ngày nay chỉ vì mọi việc phải đúng theo khuôn khổ một cách chết tiệt mà bà không còn được phép phẫu thuật người khác. Rằng chủ yếu chuyện đó là do xã hội làm rùm beng quá mức về việc cấm hút thuốc trong phòng mổ, ai có thể làm việc trong những điều kiện như thế kia chứ? Thế nên bây giờ bà ngoại chủ yếu ở nhà để chọc điên bà Britt-Marie và mẹ. Bà Britt-Marie sống dưới bà ngoại một tầng lầu. Bà ta cũng sống dưới mẹ Elsa một tầng lầu, vì nhà mẹ ở sát vách nhà bà ngoại. Tức là Elsa cũng ở ngay bên cạnh bà ngoại, vì nó sống cùng mẹ. Ngoại trừ cứ hai tuần một lần, nó đến ở với bố và dì Lisette vào dịp cuối tuần. Và tất nhiên dượng George cũng là hàng xóm của bà ngoại, vì dượng sống với mẹ Elsa. Rối rắm thế đấy. Tuy nhiên, chúng ta hãy quay lại chủ đề chính: cứu người và làm người ta phát điên chính là những siêu năng lực của bà ngoại. Điều này có lẽ cũng biến bà thành một siêu anh hùng dị thường. Elsa biết chữ này vì con bé đã tra nó trên Wikipedia. Những người ở độ tuổi của bà ngoại gọi Wikipedia là “một bách khoa toàn thư trên mạng”, trong khi với Elsa, bách khoa toàn thư là “Wikipedia trên giấy”. Con bé đã tra cứu chữ “dị thường” ở cả hai nguồn đó, và nó được dùng để mô tả một thứ gì đó không hoạt động như lẽ ra nó phải thế. Đây cũng chính là một trong những điểm mà Elsa thích nhất ở bà ngoại. Nhưng có lẽ không phải hôm nay. Bởi lúc này đã một giờ rưỡi đêm, Elsa khá mệt mỏi và rất muốn quay về giường ngủ. Chỉ có điều nó không thể làm điều đó, vì bà ngoại đã ném phân vào cảnh sát. Chuyện này hơi phức tạp một chút.   Elsa nhìn quanh căn phòng nhỏ hình chữ nhật và há miệng ngáp to đến nỗi nhìn nó giống như đang cố nuốt chửng chính cái đầu của mình. - Cháu đã bảo bà đừng có leo rào. - Con bé vừa lẩm bẩm vừa xem giờ. Bà ngoại không đáp. Elsa tháo chiếc khăn quàng Gryffindor và đặt nó vào lòng. Con bé chào đời một ngày sau lễ Giáng sinh, bảy năm về trước (đúng hơn là gần tám năm). Cùng ngày hôm đó, các nhà khoa học người Đức đã ghi nhận vụ nổ tia gamma mạnh nhất của một ngôi sao từ có ảnh hưởng tới trái đất. Phải thừa nhận rằng con bé không biết sao từ là gì, ngoại trừ việc đó là một loại sao neutron. Và chữ đó trong tiếng Anh cũng hơi giống với “Megatron”, vốn là tên của một con robot hiểm ác trong bộ truyện Người máy biến hình. Những người không đọc nhiều văn chương có chất lượng vẫn gọi đó là một “thứ dành cho trẻ con”. Thật ra các Transformer là robot, nhưng theo lí thuyết người ta có thể coi họ là các siêu anh hùng. Elsa thích cả Người máy biến hình lẫn các ngôi sao neutron, con bé hình dung một “vụ nổ tia gamma” sẽ giống như lần bà ngoại làm đổ nước ngọt Fanta lên chiếc iPhone của cháu gái mình và cố làm khô nó bằng máy nướng bánh mì. Bà ngoại nói việc sinh ra vào một ngày như thế làm cho Elsa trở nên đặc biệt. Và “đặc biệt” là hình thức hay ho nhất của “khác biệt”. Bà ngoại đang mải chia thuốc rê thành nhiều phần trên cái bàn nhỏ trước mặt và cuộn chúng lại bằng thứ giấy vấn thuốc khô giòn. - Cháu đã nói bà đừng có trèo qua cái hàng rào đó! Bà ngoại hừ mũi và lục lọi trong cái túi xách quá khổ của mình để tìm chiếc bật lửa. Có vẻ như bà không hề coi chuyện này là nghiêm túc. Mà hình như bà chưa bao giờ coi bất cứ chuyện gì là nghiêm túc cả. Trừ phi bà muốn hút thuốc nhưng không thể tìm ra bật lửa. - Lạy Chúa, nó chỉ là một cái hàng rào cỏn con thôi mà! - Bà nói với giọng vô lo. - Có gì đâu mà phải bận tâm! - Bà đừng có nhắc đến Chúa với cháu! Bà là người đã ném phân vào cảnh sát. - Thôi đi. Cháu nói năng y hệt mẹ cháu vậy. Cháu có bật lửa không? - Cháu mới có bảy tuổi thôi! - Cháu định dùng cái đó để viện cớ đến khi nào đây? - Cho đến khi cháu không còn bảy tuổi nữa. Năm 2017, tác phẩm mới nhất của Backman mang tên Beartown lọt top 10 cuốn sách hay nhất của năm do Amazon bình chọn.