Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cát Cháy

"Cát cháy" viết trực diện về chiến tranh, về cuộc chiến đấu của quân ta với quân địch, mà quân ta ở đây là những đứa trẻ của đội du kích thiếu niên ở Cô Sơn. Từ đây, tác giả đã viết nên một câu chuyện cảm động về sự can đảm, lòng quyết tâm, về tình bạn, tình đồng đội, tình thân vô cùng chân thực, dung dị. Chiến tranh còn nóng hổi mùi bom đạn, với những cuộc càn quét, dồn dân ráo riết của quân địch, nhưng ở đó có những đứa trẻ không sợ đánh giặc. Từ nhỏ đã ý thức được cần phải tham gia vào chiến tranh, phải bền gan bền chí chiến đấu với kẻ thù, để không bị bạn bè chê cười, và để cùng giúp sức với các chú bộ đội lớn hơn. Tuổi nhỏ mà kiên gan, như Ba, như bé Một, như Thấn... và rất nhiều những đứa trẻ khác nữa. Theo dõi hành trình hàng ngày giữa bom đạn ác liệt của những đứa trẻ này, người đọc vừa cảm phục vì sự thông minh, dũng cảm của chúng, lại vừa thót tim, lo lắng mỗi khi thấy chúng đối diện với hiểm nguy. Sự hy sinh của bé Một, cô bé giao liên tháo vát, nhanh nhạy và can đảm đã khiến cho mỗi đứa trẻ sững sờ. Chứng kiến cái chết của cô bạn nhỏ thân thiết, cô đồng chí anh hùng, mỗi đứa trẻ đều như lớn lên, trong đó người chịu tác động nhiều nhất là cậu bé Ba. Ba và Một đã cùng lớn lên và có những kỷ niệm thân thiết với nhau. Tác giả đã dành cho Ba và Một những trang văn vô cùng thơ mộng giữa bom đạn, để dệt nên những khoảnh khắc kỷ niệm đẹp đẽ của hai người bạn, hai người anh em, và đâu đó, tưởng như đã nhen nhóm những rung cảm sâu kín lạ lùng. “Từ phía bờ sông, có một mùi hương như mùi hương hoa dủ dẻ phảng phất theo làn gió bay vào. Mùi hương như tâm hồn con người, qua chiến tranh còn bền vững hơn chính bản thân sự sống của mỗi con người”. Mùi hương ấy, có lẽ Ba sẽ còn giữ mãi, để nhớ về Một. Và sự ra đi của Một khiến Ba trưởng thành hơn, và càng vững tin hơn nữa vào lý tưởng mà mình đang đi. Trong buổi lễ kết nạp thành viên mới của đội du kích thiếu niên, những đứa trẻ để tưởng nhớ về người đồng chí nhỏ nhắn Huỳnh Thị Một đã quyết định lấy tên cô bé đặt cho Đội. Câu chuyện ấy buồn bã nhưng cảm động đến chừng nào. Những đứa trẻ chiến đấu trong Cát cháy của nhà văn Thanh Quế, gợi nên biết bao nhiêu hình ảnh trẻ thơ đẹp đẽ kiên ngang trong chiến trường, như Lượm, Mừng, Quỳnh sơn ca trong Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán, hay cậu bé Gavroche trong Những người khốn khổ của văn hào Victor Hugo, hay cậu bé Ivan trong bộ phim Ivan's Childhood của đạo diễn nổi tiếng người Nga Andrei Tarkovsky... Chiến tranh và trẻ thơ vốn dĩ là hai phạm trù hoàn toàn trái ngược nhau. Trẻ thơ, với sự hồn nhiên, thơ ngây đáng lẽ nên được hưởng một đời sống yên bình, hạnh phúc, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy ra, và mỗi đứa trẻ, vẫn có thể trở thành những người anh hùng. Như những chú lính chì dũng cảm, chúng vượt qua sợ hãi, vượt qua mất mát, để sống cuộc đời phải sống. Mỗi nhà văn khi viết về trẻ con trong chiến tranh, đặc biệt khi chứng kiến khoảnh khắc ngã xuống của chúng, đều như trầm lại, ngậm ngùi, và đầy đau thương. Tác giả Thanh Quế đã có được những trang văn vô cùng cảm động, chân thành và dung dị về những đứa trẻ sống trong thời đại khói lửa buồn thảm ấy. Dù viết về một cuộc chiến trực diện, nhưng văn của Thanh Quế, vốn cũng là một nhà thơ, lại vô cùng mềm mại, uyển chuyển, và đầy những tâm tư. Ông đi sâu vào suy nghĩ trăn trở của mỗi đứa trẻ, như Ba, dù rất dũng cảm, luôn quyết tâm hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, nhưng trong lòng luôn đau đáu một nỗi buồn về người mẹ của mình. Như Thấn, vô cùng thông minh, nhưng lại luôn lo lắng sẽ thua kém bạn bè, bị bạn bè coi thường.... Và hơn hết, tác giả đã viết nên một khúc ca đẹp về tình bạn, tình đồng chí, tình thương mến giữa những đứa trẻ với nhau. Chúng tự đến bên cạnh nhau, an ủi, khích lệ, vun đắp và giúp nhau trưởng thành. Tác phẩm của Thanh Quế hôm nay đọc lại còn thấy vẫn nguyên cảm giác rùng mình vì sự phá hủy của chiến tranh, và vẫn thấy rưng rưng lòng bởi những mất mát, những khổ cực và chân tình mà những đứa trẻ dành cho nhau. Chuyện chiến tranh khép lại được chưa? Có lẽ, ở xứ sở đã chìm trong chiến tranh lâu đến thế, mất mát nhiều đến thế, chuyện chiến tranh vẫn chưa thể khép lại. Tiểu thuyết Cát cháy của Thanh Quế  được lấy chất liệu từ những hoạt động chân thật của Đội du kích thiếu niên Hòa Hải, vùng chân núi Ngũ Hành Sơn, giàu truyền thống cách mạng và văn hóa, vào những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt. Tập sách đã được giải nhì (không có giải nhất) của Hội Nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh năm 1981 và là một trong hai tác phẩm đoạt giải thưởng Nhà nước năm 2012 của nhà văn Thanh Quế… Nhà văn Thanh Quê vốn quê gốc ở Phú Yên. Tại đây ông còn mẹ già và các em gái. Nhưng ngay sau chiến tranh ông sống ở thành phố Đã Nẵng, nơi ông đã gắn bó và cầm bút gần nửa thế kỉ qua. Đà Nẵng chính là quê hương thứ hai nơi lưu giữ những hồi ức sống động bi thương và đẹp đẽ nhất của cuộc đời nhà văn. Ông từng là học sinh miền Nam ra Bắc học ở trường học sinh miền Nam số 24 Hà Đông, rồi vào học khoa sử Đại học Tổng hợp Hà Nội. Năm 1969 ông vào công tác ở chiến trường khu V. Hiện nay ông là Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, Tổng thư ký Hội Nhà văn Đà Nẵng. *** Thân tặng đội thiếu niên du kích Hòa Hải NHÀ THƠ THANH QUẾ Tên thật: Phan Thanh Quế. Sinh ngày 26/2/1945, tại xã An Chấn, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, trong một gia đình trí thức yêu nước. Cha là bác sĩ, lão thành cách mạng. Mẹ và các em đều tham gia cách mạng, có người là liệt sĩ, có người là thương binh nặng. Hồi nhỏ học ở trường làng. Từ năm 1955 đến năm 1963  tập kết ra Bắc, học tại các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc. Từ 1963 đến 1967, học khoa sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Từ năm 1967 đến năm 1969 là cán bộ Nghiên cứu, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Trung ương. Từ 1969 đến 1975 là phóng viên chiến trường, tạp chí Văn nghệ giải phóng Trung trung bộ. Từ năm 1975 đến năm 1980 là cán bộ sáng tác, Trại sáng tác văn học Quân khu V. Từ năm 1980 đến năm 1983 là biên tập viên Tạp chí Văn nghệ quân đội (Tổng cục chính trị, Bộ Quốc phòng). Từ năm 1983 đến năm 2009 là phó chủ tịch Hội văn nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng và Hội văn nghệ Đà Nẵng, Tổng biên tập tạp chí Đất Quảng và Non Nước, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (nhiệm kỳ 2000-2005). Từ năm 2009, nghỉ hưu và sáng tác tại Đà Nẵng. Là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1977 và hội viên Hội Nhà báo Việt Nam từ 1980.   TÁC PHẨM CHÍNH   Về thơ Tên em khuôn mặt em (2 tác giả), NXB Giải phóng-1975; Tình yêu nhận từ đất (3 tác giả) NXB Tác phẩm mới-1977; Trong mỗi ngày đời tôi, NXB Đà Nẵng-1986; Giãi bày, Hội Văn nghệ Quảng Nam-Đà Nẵng-1988; Khi ta giở sách ra (thơ thiếu nhi), Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên-1988; Hái tiếng chim (thơ thiếu nhi), NXB Đà Nẵng-1991; Những tháng năm vay mượn, NXB Đà Nẵng-1993; Mé biển đời tôi, NXB Hội nhà văn-2000; Người lính đi đầu (trường ca), NXB Quân đội Nhân dân-2003; Thơ Thanh Quế với tuổi thơ, NXB Kim Đồng-2004; Những tháng năm, NXB Quân đội nhân dân-2006; Một gạch và chuyển động, NXB Hội nhà văn-2006; Thơ Thanh Quế, NXB Hội nhà văn-2008; 72 bài thơ chọn, NXB Hội nhà văn-2012; Nơi phòng đợi, NXB Quân đội nhân dân-2006; Tuyển thơ; NXB Văn học-2016. Về văn xuôi Chuyện từ một truyền thuyết (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-1978; Thung lũng Đắc Hoa (truyện ngắn 2 tác giả),NXB Phụ nữ-1980; Cát cháy (tiểu thuyết) NXB Kim Đồng -1983; Mai (truyện ngắn ), NXB Phụ nữ-1988; Người khách lạ (truyện ngắn), NXB Đà Nẵng-1990; 11 truyện ngắn, NXB Đà Nẵng-1994; Về Nam (hồi ký, chân dung văn nghệ), NXB Đà Nẵng-1996; Những gương mặt thân yêu (chân dung văn học), NXB Kim Đồng-1996; Bếp lửa làng Tà Băng (truyện ngắn), NXB Quân đội nhân dân-1998; Hai người bạn (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-1998; Những kỷ niệm, những gương mặt (hồi ký, chân dung), NXB Đà Nẵng-2001; Từ những trang đời (hồi ký, chân dung văn nghệ), NXB Hội nhà văn-2001; Bà mẹ vui tính (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-2002; Sao anh lại cảm ơn tôi (truyện ngắn), NXB Quân đội nhân dân-2002; Truyện và ký chọn lọc, NXB Hội nhà văn -2003; Dì Út (truyện ngắn), NXB Kim Đồng-2003, Thj trấn em kết nghĩa (truyện và ký), NXB Kim Đồng-2005; Ở giữa thời gian (truyện và ký), NXB Đà Nẵng-2007; Tuyển truyện Thanh Quế-chuyện ở miền Cát cháy, NXB Đà Nẵng-2009; Kẻ đào ngũ (tập truyện), NXB Quân đội nhân dân-2013; Tuyển truyện ngắn Thanh Quế, NXB Hội nhà văn -2011; Gương mặt và cảm nhận (chân dung văn học), NXB Đà Nẵng-2013; Ký và chân dung chọn, NXB văn học-2015; Hai người đàn ông và một người đàn bà (truyện), NXB Quân đội nhân dân-2016. Giải thưởng chính  Cát cháy (tiểu thuyết), giải nhì (không có giải nhất) của Hội nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh năm 1981; Những tháng năm vay mượn (tập thơ), giải B của Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam năm 1994; Giải thưởng loại A hai lần (1975-1985) và (1985-1995) của UBND Quảng Nam-Đà Nẵng cho các tác phẩm trong giai đoạn. Bếp lửa làng Tà Băng (tập truyên), tặng thưởng của Bộ Quốc phòng năm 2000; Người lính đi đầu (trường ca), giải nhì (không có giải nhất) giải thưởng văn học (1997-2005) của UBND thành phố Đà Nẵng; Một gạch và chuyển động (tập thơ), giải nhì (không có giải nhất) giải thưởng văn học (2005-2010) của UBND thành phố Đà Nẵng; Tiểu thuyết Cát cháy và tập thơ Một gạch và chuyển động, giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2012. *** B a đứng sững trước sân, ngó trân trân vào ngôi nhà tranh thủng dột quen thuộc của mình. Nhà vắng tanh, cửa khép hờ, bên ngoài dựng một chiếc nia cũ. Chắc ông nội và mẹ vừa đi đâu đó.Trong một phút, những tình cảm trái ngược bỗng ùa đến: Ba vừa muốn gặp ông, gặp mẹ ngay cho đỡ nhớ, vừa muốn hai người về chậm lại để mình có thời gian sắp xếp mọi ý nghĩ đang bề bộn trong đầu. Ba cảm thấy vừa vui vừa lo. Ba đứng thẫn thờ một chút, sau đó, run run mở cửa bước vào nhà, hồi hộp nhìn khắp lượt những đồ vật như bao người đi xa về. Mọi thứ trong nhà: từ chiếc ảnh cha ố vàng trên bàn thờ, đến cái ghế, cái bàn, chiếc giường ọp ẹp, cả cánh cửa mở thông vào buồng trong không đóng lại bao giờ, vốn có ở những nhà nghèo, vẫn như cũ, mà lại không phải như cũ. Một mùi mốc thường có ở những ngôi nhà vắng chủ lan ra phả vào mũi Ba. Ba đứng lặng một chốc, cố nhớ lại một điều gì đó đã quên bẵng đi từ lâu. Nhưng mọi ý nghĩ cứ bay tuột khỏi đầu Ba. Hai ngày đêm đi đường, ngủ bờ ngủ bụi làm cho Ba mệt đừ, người bã ra, không còn cảm giác chính xác nữa. Ba lần đến chiếc chõng tre ông vẫn nằm, đặt mình lên chiếc chiếu rách đầy cát. Một cái gì đó không rõ tên cứ chạy rần rần từ đầu ngón chân lên mí mắt. Ba nhắm mắt lại. Lập tức những âm thanh mơ hồ quen thuộc bỗng rì rào xung quanh. Có thể đó là tiếng rắc rắc của mối mọt đang ăn cột kèo trong bóng tối trên đầu mình; có thể là tiếng gió nhẹ nhàng thổi cát trên cồn Quy sau nhà, bước chân mẹ đi lại sắp đặt đồ đạc gì đó trong đêm, ông khục khặc ho, những tiếng mơ hồ lan lan trong giấc ngủ không ai cắt nghĩa nổi, chỉ có ở những miền quê yêu dấu.  Một tiếng động ở đầu hè làm Ba bừng tỉnh. Không kịp nghĩ, Ba bò ngay xuống gậm giường, nằm im. Chốc nữa, ông hay mẹ bước vào, Ba sẽ chồm ra hù lên một tiếng. Ông thế nào cũng cười khà khà, nói: “Tổ cha mày, tao già nhưng thần kinh tao vẫn còn vững lắm”. Còn mẹ đứng sững lại, tay sờ nơi tim như xưa nay mẹ vẫn vậy khi sợ hãi điều gì. Nhưng một lúc lâu, Ba chẳng thấy mẹ hay ông bước vào nhà. Có lẽ, phải tối mịt hai người mới về. Ba lại leo lên giường, nằm mường tượng ra lúc gặp gỡ. Hẳn lúc đó, ông hỏi: “Tại sao cháu về ?”. Ba nói: “Cháu thích đánh Mỹ”. Ông nói “được” rồi ngồi im như tảng đá. Mẹ chắc càu nhàu. Nhưng mẹ sẽ cho Ba ăn một bữa bánh tráng cá ngừ thật ngon. Mẹ vừa ngồi cuốn bánh đưa tới tấp cho Ba, vừa âu yếm nhìn đứa con trai có khuôn mặt bầu bầu da sạm đen, mắt sáng, người chắc nịch như cha nó mà thầm lo nay mai nó sẽ ra sao. Ba ngồi với ông và mẹ một chút rồi chạy đi tìm bọn thằng Thấn, con Một.Tụi nhỏ thế nào cũng xúm xít lại bắt Ba kể chuyện chiến khu cho chúng nghe. Tất nhiên, Ba sẽ thuật lại mọi chuyện mà chị Bốn cấp dưỡng đã kể cho Ba nghe. Đó là chuyện anh Năm Cần ở văn phòng huyện ủy. Năm 67, bọn Mỹ càn căn cứ. Bắn hết đạn, các anh các chị rút sâu vào hang đá. Chúng truy kích theo. Anh đã đứng nấp ở cửa hang. Cứ mỗi tên mò vào, anh lại dùng báng súng gõ một cái cốc vào đầu nó rồi hất xác ra. Đó là chuyện chị Sáu Úc làm quản lý ở hội phụ nữ. Một hôm, đi cõng gạo về, nước sông Trà Ly lớn quá, cuốn băng chị cùng gùi gạo. Chị em tìm suốt hai ngày không thấy, đã làm lễ truy điệu chị. Giữa chừng, chị trở về, người ướt át, đứng ở đầu hè ngó vào nhà, tưởng ai đó vừa mất, khóc òa. Chị em quay lại, “ồ” lên, rồi đang khóc, họ xông đến đấm vào lưng chị bình bịch, cười khúc khích. Đó là anh Tám Nghề ở cơ quan binh vận. Một lần, địch vây cơ quan, mọi người trốn vào rừng sâu, đói vàng mắt. Đêm đến, anh bò qua đầu giặc đi nhổ sắn. Khi mang gùi sắn nặng trở lại bìa rừng, anh bị vấp đá, gây ra tiếng động. Một thằng ngụy ngồi phục, hẳn đang ngủ gật, giật mình hỏi: “Ai đó”. Anh nói: “Ông tổ nội mày đây” rồi cười hê hê phóng nhanh vào rừng, mặc cho chúng nổ súng theo. Sau đó, Ba sẽ thêm vào: trên đó có nhiều cọp lắm, mặc dù Ba chưa từng thấy. Đêm đêm, nó gầm lên, núi đá chao qua chao lại như bị bom B.52. Một lần, bước ra cửa hang, gặp con cọp to bằng con bò ụ, Ba nổ một phát súng, nó gãy một chân, bỏ chạy, xô đổ tảng đá bằng cái nhà. Một con trăn to vung mình làm cho nước sông Trà Ly trước cơ quan Ba sủi ục ục. Nhưng Ba cùng chị Bốn dùng một sợi sắn dây, cột nó, kéo về nấu cháo bồi dưỡng cho cả cơ quan mấy ngày liền. Bạn bè nghe chuyện sẽ phục Ba lắm. Thằng Thấn hẳn xuýt xoa, chặc lưỡi, vỗ đôm đốp vào đầu vì nó không được biết những chuyện như Ba. Còn con Một thì khỏi phải nói. Ba kể tới đâu, nó sẽ “a” lên tới đấy, mắt trợn ngược. Ba bỗng thấy buồn cười trước những khuôn mặt ngơ ngác của bạn bè mà Ba đã tưởng tượng ra. Rồi Ba cười thật. Ba bụm miệng cười hặc hặc một mình .   Một lúc sau, Ba lại thiếp ngủ…Nước sông Trà Ly bỗng sôi lên, đổ ầm ào qua con thác kề bếp ăn của cơ quan. Ba thấy mình ngụp lặn trong dòng nước mát, vẫy tắm thỏa thích sau hai ngày đi đường trở về nhà. Chị Bốn cấp dưỡng bảo Ba tắm mau lên để đem cơm cho chú Chín. Bưng cơm, Ba vấp phải hòn đá, mâm cơm đổ nhào xuống đất, ông nội hiện ra bảo: “Người nào quẹo quẳng, họ chẳng ưa đâu”. Chính lúc đó, mẹ “á” lên vì một phát rốc két của thằng máy bay OVI0 bắn xuống bên kia bờ Trà Ly, khi thấy chị Bốn cầm một mụn măng. Máu loang đỏ… Khi Ba tỉnh dậy thì mặt trời đã lặn, chỉ để lại trên dãy núi phía căn cứ một vầng ráng đỏ. Ba nhảy ra sân, vươn vai mấy cái rồi như ngày nào, Ba vòng phía sau nhà, phóng lên cồn Quy. Đứng ở đây, Ba có thể nhìn khắp một vùng rộng lớn trong xã. Cồn cát giống chiếc mai rùa, rộng chừng nửa cây số vuông này ngăn xã ra làm đôi. Nửa phía nam là cánh đồng đất cát pha chạy từ mí đường tỉnh lộ (đường này làm ranh giới phía tây của xã với các xã bạn) xuống phía đông, giáp với một cái làng hoang người ta gọi là Cô Sơn. Bên kia cánh đồng là con sông Bãi Dài, làm ranh giới phía nam của xã với các xã bạn, chằng chịt những lạch nhỏ, sáng lấp lánh đang đổ về phía biển. Ở nửa xã phía bắc, xen giữa những xóm làng xanh biếc bóng dừa bóng dương là những cồn cát to nhỏ. Chẳng biết từ lúc nào, hẳn người ta đặt tên theo hình dáng hay những nhà ở gần chúng, mà chúng có tên: cồn Kinh, cồn Nhà Lập, cồn Thằn Lằn, cồn Du. Trên một số cồn cát ấy, bọn Mỹ đã dựng lên những ngôi nhà tôn, những trạm gác. Cứ chiều đến chúng bắn những phát pháo sáng nghe “phụp phụp” và tiếp liền sau đó là những quả cối nổ oạch oành. Tít xa kia, sau những làng xóm, năm ngọn núi của cụm Ngũ Hành Sơn nhô lên như năm mái nhà in trên nền trời chiều mờ tím. Ngày nào, Ba đã cùng các bạn leo lên núi Non Nước (một ngọn của Ngũ Hành Sơn) thăm chùa, chơi trò trốn tìm trong các hang đá vôi hoặc rủ nhau vào hang Âm Phủ thả những quả bưởi non, để rồi, sau đó nhảy ùm xuống biển nhặt lại. Ngày nào, Ba cùng các bạn giả người mang lễ vật lên chùa, gánh vũ khí cho đơn vị anh Phan Hành Sơn (1) diệt đại đội Mỹ đóng trên chóp núi. Bây giờ, những khẩu pháo Mỹ đứng nghễu nghện trên các đỉnh núi trông như những con quái vật khổng lồ. Lâu lâu, chúng rướn cái cổ dài ngoẵng lên hét ầm ầm. Một rừng dương như bức tường xanh chạy từ Đà Nẵng vào Hội An ngăn cách xã Ba với mép biển, làm cho mặt biển cứ lúc ẩn lúc hiện như chơi trò trốn tìm. Ba đứng nhìn khắp xã một lúc rồi cởi áo, vắt vai, ngồi bệt xuống cát, hướng mặt về phía biển đón những làn gió mát rượi. Bỗng nhiên, Ba đứng bật dậy nghiêng tai lắng nghe như có ai vừa khẽ gọi tên mình. Làn gió mát vừa đi qua mang đến cho Ba mùi hương thoang thoảng như mùi đào chín sau một ngày nắng to. Có một cái gì đó, cứ ẩn ẩn hiện hiện ở đâu đó, như đã từng quen thuộc lâu rồi, như mãi mãi mới lạ mà ta phải tìm kiếm để gặp. Ba hít mùi hương vào lồng ngực, thẫn thờ một chút và nhận ra, đó là mùi hương của hoa dủ dẻ, loài hoa đậu trên những thân cây bé nhỏ, lá dày và cứng, rễ bám chặt vào mặt cát nóng bỏng của quê hương… – Ê nhóc mày về lúc nào? – Một người nào đó có giọng oang oang hỏi Ba ở phía sau. Ba quay lại thì thấy một anh người thấp thấp, to ngang, đôi tay săn như cái bắp chuối, dáng đi khuỳnh khuỳnh đang sóng bước bên một chị bé nhỏ, tóc dày và dài. Trông hai người thật không xứng đôi tý nào. Thế mà họ mê nhau. Đó là anh Bảy Kim và chị Hai Soan. Bảy Kim đã trên ba mươi tuổi mà chưa có vợ, anh không thích trẻ con gọi là chú mà gọi bằng anh. Bảy Kim là xã đội phó đánh giặc rất hăng nhưng chẳng hiểu vì sao Ba không thích. Có lẽ anh hay véo tai bẹo má Ba và các bạn. Trong những lần đi tắm biển, hễ thấy Bảy Kim là bọn trẻ vù chạy. Anh thường đứng tắm cách xa bọn trẻ, biến mất trong những lớp sóng trùng điệp rồi đột nhiên hiện lên bên một đứa trẻ nào đó, kéo chân nó, dìm cho nó uống nước rồi tung nó ra cười hê hê. Ba trả lời cộc lốc: – Mới về. – Mày biết chuyện gì xảy ra trong nhà mày chưa? – Chưa. Tui mới về hồi xế đây mà. Anh ta cười hố hố: – Cái nhà mày có phúc thiệt. Chồng chết, cha bị bắt, vợ ngại ác liệt vào Đà Nẵng làm đĩ . . . hố hố. Anh ta ngúc ngoắc đầu rồi kéo chị Soan về phía rừng dương liễu. Ba muốn chạy theo hỏi cho rõ sự việc nhưng có cái gì níu chân Ba lại, chôn chặt xuống cát. Cái giọng cười nói sống sượng của anh Bảy Kim làm Ba vừa buồn tức vừa xấu hổ. Cách đây sáu tháng, vào một ngày mưa cuối năm 1968, cha Ba, xã đội trưởng nổi tiếng của xã này đã hy sinh. Trong nhà Ba mọi việc lâu nay ngỡ êm xuôi bỗng xáo trộn lên. Hình như lúc vui sướng, mọi điều thường đến từ từ, lúc đau khổ, mọi lo toan, phiền muộn lại ập đến một lúc. Mẹ Ba ủ rũ, khóc suốt ngày. Đột nhiên, mẹ cấm Ba không được ở trong tổ du kích thiếu niên tham gia đánh giặc với các bạn nữa. Mẹ nói với Ba: “Con ạ, cái nòi chơi với lửa, có ngày cũng bị lửa thiêu. Mẹ có mình con làm giống, con cứ ở nhà, không đánh chác gì nữa”. Mẹ gặp chú Năm Hà, Bí thư xã, chị Bảy phụ trách Đội, xin đừng cho Ba làm những công việc “nguy hiểm” nữa. Mẹ bàn với ông nội gửi Ba ra Đà Nẵng cho yên. Nhưng ông bảo: – Tụi nhỏ ở đây chết hết hay sao mà mày lo quíu vậy mày? Mẹ nói dịu ngọt: – Nhà người ta có nhiều con cái nối dòng nối giống, còn cha, cha chỉ có một đứa cháu đích tôn đó, cha nghĩ coi. – Kệ nó, tao không muốn nó là đứa hèn nhát. Mẹ khóc. Ông nội cầm gậy vừa chọc bình bịch xuống đất, vừa hát: Người nào quẹo quẳng Đứa nào quẹo quẳng Họ chẳng ưa đâu Hát xong, ông nội gọi Ba: – Ba đâu, ra đây, nhìn vô mắt ông đây coi thử mày là đứa được hay đứa nhát. Ba vừa bước ra với ông, vừa nhìn mẹ đang khóc, lúng túng không biết làm sao. Một hôm, ông nội đi ăn giỗ ở Hội An, Ba cùng các bạn đi gài mìn về nhà thì thấy một chú lạ mặt đang ngồi uống nước với mẹ. Mẹ chỉ Ba nói với chú: – Con tôi đây anh Đức ạ – Rồi mẹ quay sang phía Ba – Chào chú đi con. Người kia mỉm cười: – Nghe nói cháu muốn đi bộ đội lắm phải không? – Dạ muốn. Cháu thích lắm. Nhưng sợ mẹ cháu không ưng – Thấy mẹ cười, Ba tiếp – Sợ Đội không đồng ý. – Được mẹ cháu sẽ cho cháu đi. Còn Đội chú sẽ bàn với các anh các chị. Chú cần một người như cháu. Ba mừng rơn. Điều mơ ước lâu nay của Ba là được đi bộ đội đánh Mỹ để trả thù cho cha nay đã thành sự thật. Ba nhảy vọt ra cửa, phóng lên cồn Quy, băng vào xóm để tìm bạn. Ngay lúc ấy, trước mắt Ba, bỗng hiện lên một cậu bé cũng giống như Ba, nhưng oai vệ hơn, mặc quần áo quân giải phóng, đội mũ tai bèo, nằm dưới một hầm cát, vụt đứng dậy chĩa B.41 vào một chiếc xe tăng địch, chiếc xe cháy bừng bừng. Chị phụ trách đã từng kể cho Ba nghe về anh Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ châu mai. Sau này người ta sẽ kể cho bọn trẻ rằng: Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé tên là… Bây giờ, trở về đây, việc anh Bảy Kim vừa nói như cái tát vào mặt Ba. Có phải trước đây mẹ lừa mình lên căn cứ để mẹ tự do vào Đà Nẵng sống sung sướng không? Câu hỏi ấy cứ xoáy vào lòng Ba đau nhói. Ba đứng lặng, nước mắt ứa ra. Có tiếng bước chân ai sào sạo trên cát. Ba ngẩng lên, thấy một đứa bé thấp lũn cũn, mái đầu húi cua, đang vác một khẩu súng dài quá người. Trời ơi, thằng Tượng. Nó dừng lại bên Ba hỏi: – Anh về hồi nào? Sao lại đứng buồn vậy? – Tao mới về. Không gặp ai, tao chán quá. – Về công tác à? – Tao về ở luôn với tụi bay đây.           Tượng nhìn Ba chăm chăm rồi nói nho nhỏ, vẻ ái ngại: – Em vừa ăn cắp của tụi Mỹ được cây súng. Bây giờ em đem tặng du kích đây – Nó nhìn Ba nói tiếp – Còn anh, giờ anh đi đâu? Có đi họp thì theo em, em chỉ chỗ cho. Tối nay, các anh các chị thiếu niên họp ở làng đó. Anh đến đấy mặc sức mà vui.   (1) Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân.   Mời các bạn đón đọc Cát Cháy của tác giả Thanh Quế.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phương Nào Bình Yên - Kim Hài
Chuyến xe đò thả Nghi xuống rồi lại rú máy tiếp tục đoạn đường. Bầu không khí đột nhiên yên tĩnh. Vài người dân quê lom khom gặt lúa ở thửa ruộng cạnh như không biết đến sự hiện diện của Nghi. Và nhất là không biết được lòng Nghi đang nôn nao hồi hộp đến chừng nào. Con đường đất nhỏ xuyên qua những cánh đồng vàng lúa chạy dài khuất lấp sau mấy dãy núi thấp. Nghi chờ một chuyến xe lam đưa chàng vào trong ấy. Ðiếu thuốc tỏa khói trên môi. Nghi ngẩng nhìn bầu trời cao vừa trong xanh. Mùa thu đã về. Những đám mây lởn vởn đằng cuối chân trời. Nghi hấp háy mắt khi nhớ đến nụ cười của người con gái năm nào trong thung lũng hoang tàn mà Nghi đã từng qua. Nụ cười ấy vướng vít chân Nghi, nên bây giờ chàng trở lại. Chiến tranh đã qua rồi. Nghi trở về đời sống dân sự. Chàng không nhớ đến những ngày cực nhọc gian khổ đời lính, mà lại nhớ đến bóng dáng của người con gái chấc phác, đã len lỏi trong tim Nghi bằng chính tình yêu đầu đời. Tuổi trẻ của Nghi đã mất mát vì chinh chiến. Thời gian qua đi, ai có thể tìm hay níu kéo lại được tuổi xuân. Thế nhưng, tí nữa đây, qua hình bóng người yêu, Nghi sẽ sống lại những ngày tươi trẻ của chàng. Có tiếng xe lam nổ ròn đằng kia. Nghi xách hành lý lên tay và ra dấu cho xe ngừng. Người tài xế ngước đầu khỏi tấm mica chắn ra hiệu cho Nghi lên ngồi cạnh tay lái. Những cánh đồng chạy dài và mấy dãy núi xanh lại gần. Qua đoạn đường len giữa hai dãy núi thấp, Nghi đã trông thấy một phần ngôi làng với những mái nhà ẩn hiện trong những vòm cây xanh non, và ngọn đồi trọc lấp lánh trong ánh nắng. Ði ngang qua vùng đất ngày xưa Nghi đã từng đóng quân chàng chợt có ý nghĩ muốn dừng lại nơi nầy. Nhìn đồng hồ hãy còn sớm, Nghi đập vai người tài xế: - Ông cho tôi xuống đây. - Uả, không vô làng sao? Nghi cười: - Chút nữa. Chiếc xe chậm dần. Nghi nhảy xuống trả tiền, chờ cho xe chạy khuất sau ngọn đồi. Những đôi mắt mở to ngạc nhiên nhìn anh. Nghi mỉm cười với họ. Không còn dấu vết gì ghi lại lần dừng quân của tiểu đoàn Nghi cách đây hai năm tròn. Sim dại mọc đầy. Sát đồi, những vườn sắn xanh um rậm lá. Tất cả đều thay đổi. Không còn vẻ tiêu sơ, hoang tàn dạo nào. Những người dân quê đã trở về làng họ và tái tạo đời sống mới. Nghi lửng thửng leo lên ngọn đồi trọc. Không còn là đồi trọc như Nghi nghĩ. Nhà cửa đã được cất xây lại. Vài mái ngói đỏ au mới tinh. Những đụn rơm vàng ánh, nhưng sâu thóc đầu chứng tỏ sự trù phú của làng. Nhưng Nghi vẫn không thấy lạ, bởi chàng đã nhìn thấy đằng xa con lạch nhỏ nằm quanh co len lỏi qua những hàng cây rậm rạp như quen thuộc như thân tình. Bước chân Nghi đột nhiên cuống quýt. Có đôi mắt nào đang đợi chành bên kia bờ lạch. Nghi kêu tên người yêu thầm trong cổ. - Nhan ơi, Nhan ơi, anh về tìm Nhan đây. ... Mời các bạn đón đọc Phương Nào Bình Yên của tác giả Kim Hài.
Hành Tinh Màu Da Cam - Lưu Văn Khuê
Từ sao Thiên vương, các nhà khoa học Việt Nam đã phóng tàu vũ trụ Thăng Long 5 về phía hệ sao Ca-pê-ri-en. Họ đã tới hành tinh có ánh sáng màu da cam thuộc hệ sao này. Tại đây, các nhà khoa học Việt Nam cùng với một số nhà khoa học khác đã gặp rất nhiều khó khăn, có người hy sinh nhưng cuối cùng mọi người vẫn hoàn thành nhiệm vụ và trở về Trái Đất an toàn. *** Tác giả Lưu Văn Khuê đã có gần 30 năm cầm bút sáng tác truyện cho thiếu nhi với những cuốn truyện vừa Hành tinh màu da cam (NXB Kim Đồng - 1991) - tác phẩm đoạt Giải thưởng của Trung ương Đoàn và Hội Nhà văn Việt Nam Có một mùa bóng đá (NXB Kim Đồng - 1990) mới đây được Hãng phim Giải Phóng dựng thành phim U14 đội bóng trong mơ. Đầu mùa thu năm nay Lưu Văn Khuê có liền 2 tiểu thuyết mới được NXB Hải Phòng cho ra mắt bạn đọc. Tiểu thuyết Mạc Đăng Dung viết về thân thế và sự nghiệp một danh tướng đã lập lên vương triều Mạc cùng những thăng trầm của đất nước ta trong thế kỉ XVI. Còn tiểu thuyết Một thời vệ quốc viết về những năm tháng của đất nước trong thời kì "ngàn cân treo sợi tóc". Tác giả dựa trên tư liệu lịch sử về những sự kiện diễn ra ở Hải Phòng từ sau Cách mạng tháng Tám đến ngày nổ ra “Sự kiện Hải Phòng” ngày đánh dầu cho thành phố Cảng mở đầu ở Miền Bắc bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp. *** Nhà ga vũ trụ I. A. Ga-ga-rin là một vệ tinh nhân tạo của sao Thiên vương. Đây là nhà ga của Liên Xô và cũng là nhà ga lớn nhất trong vũ trụ hiện nay. Ga dựng theo hình dáng mà Phôn Brao, người Đức, đã vẽ từ năm 1953, có cải tiến nhiều. Nhà ga như một bánh xe khổng lồ được nối với quả cầu lớn ở chính tâm bằng bốn đường ống. Từ quả cầu ở tâm, có hai đường ống khác chạy dọc theo phương Bắc - Nam như trục của Trái đất. Nhà ga quay quanh trục ấy nên con người có cảm giác sống không khác gì ở Trái đất. Đỉnh Bắc của trục là một cái đĩa rất lớn, đó là sân ga. Đỉnh Nam lại có một quả cầu khác nhỏ hơn quả cầu ở chính tâm. Hai quả cầu là nơi làm việc của các nhà khoa học còn "bánh xe" là nơi sinh hoạt và ăn ở. Những đường ống là các trục giao thông. Nhà ga vũ trụ Ga-ga-rin tỏa sáng như một vì sao, hiên ngang trong vũ trụ đã gần hai mươi năm nay. Ai ai từ những nơi khác nhau trong vũ trụ đến nhà ga, đều đứng yên lặng giây lát trước bức tượng Ga-ga-rin để tưởng nhớ tới nhà du hành vũ trụ đầu tiên của loài người. Hơn sáu mươi năm sau chuyến bay anh hùng của anh, con người đã nối nhau bay vào vũ trụ mênh mông. Những người sau này tuy bay xa hơn, hay lâu hơn anh rất nhiều, nhưng không ai có thể quên được những giờ phút ngắn ngủi của anh trong vũ trụ. Bởi vì, một điều rất đơn giản, anh chính là người chiến sĩ đầu tiên, mở cửa vũ trụ cho con người bay vào khoảng không bao la vô bờ bến. ... Mời các bạn đón đọc Hành Tinh Màu Da Cam của tác giả Lưu Văn Khuê.
Giã Từ Vũ Khí - Ernest Hemingway
Giã từ vũ khí  là một tiểu thuyết bán tự truyện của nhà văn Ernest Hemingway viết vào năm 1929. Nhiều nhà phê bình xem là một trong những tiểu thuyết chiến tranh vĩ đại nhất mọi thời đại, câu chuyện được thuật lại thông qua lời kể của trung úy Frederic Henry, một người Mỹ nhưng lái xe cứu thương trong quân đội Ý vào thời đệ nhất thế chiến. Toàn bộ nội dung cuốn tiểu thuyết là một câu chuyện của hai người nam nữ gặp nhau tại một nơi xa lạ, nhưng đây không hẳn là một câu chuyện tình và các chủ đề của tác phẩm gồm tình yêu, chiến tranh, các giá trị con người và sự tỉnh ngộ. “Vào cuối hạ nǎm ấy chúng tôi đóng quân trong một ngôi nhà ở làng trông sang sông và trông sang cánh đồng chạy dài đến chân núi. Lòng sông trong vắt, nhiều sỏi, đá cuội, long lanh ngời sáng dưới ánh nắng mặt trời và nước thì ngả màu xanh cuồn cuộn chảy...” Đoạn vǎn mở đầu cho cuốn tiểu thuyết là hình ảnh về làng quê yên bình đằng sau những đoàn quân vừa tiến qua làm tung lên những lớp bụi mờ mịt. từng tham gia chiến tranh, E.Hemingway thấu hiểu sự tàn bạo của chiến tranh phi nghĩa, ông đã giành cả cuộc đời của mình để chống lại những cuộc chiến tranh như vậy: điều đó được thể hiện rất nhiều trong các tác phẩm của ông, mà "Giã từ vũ khí" là một cuốn sách như thế. *** Ernest Hemingway (1899 - 1961) là nhà văn, nhà báo người Mỹ. Ông từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới lần thứ Nhất, sau đó ông được biết đến qua "Thế hệ đã mất", nhận được giải thưởng báo chí Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả, và giải Nobel văn học năm 1954. Hemingway để lại ấn tượng sâu sắc đối với bạn đọc qua nguyên lý tảng băng trôi, văn phong của ông được mô tả bởi sự kiệm lời nhưng có nhiều tầng ý nghĩa, phải suy nghĩ thật sâu mới có thể hiểu hết được những gì tác giả gửi gắm. Nhiều tác phẩm của ông hiện nay được coi là những tác phẩm kinh điển của nền văn học Mỹ. Từ nhỏ Hemingway đã không thích học đàn mà thích đấu võ quyền Anh, bản tính chuộng chủ nghĩa cá nhân đã thể hiện nơi con người Hemingway bằng các phản kháng nhỏ nhặt, để rồi trong cuộc đời sau này, đã hiện ra bằng các hành động trên tầm vóc lớn hơn. Năm 1950, Hemingway xuất bản cuốn sách "Qua sông và vào trong rừng" nhưng không gây dấu ấn với độc giả. Năm 1952, cuốn tiểu thuyết "Ông già và biển cả" đã mang lại ngôi vị cho ông trên văn đàn, giúp ông nhận được giải thưởng báo chí danh giá Pulitzer năm 1953. Năm 1954 ông được viện Hàn lâm Thụy Điển trao tặng giải Nobel văn học vì thể văn mạnh mẽ dùng trong nghệ thuật kể chuyện mới lạ và thể hiện gần đây nhất qua tác phẩm "Ông Già và Biển Cả". Thời gian này người ta vẫn thấy ông đầy sức sống nhưng thực tế ông không hạnh phúc. Hemingway đã phải dưỡng bệnh dài hạn tại bệnh viện Mayo, ông bị ám ảnh vì cao huyết áp và suy sụp tinh thần. Tháng 7 năm 1961, ông thức dậy sớm và tự sát bằng một khẩu súng săn tại một nơi vắng vẻ của thị trấn Ketchum, Idaho. Ông ra đi mà không để lại lời trăn trối nào ngoài hình ảnh của các nhân vật trong nhiều cuốn tiểu thuyết mà ông đã sáng tạo ra. • Các Tác Phẩm Đã Xuất Bản Tại Việt Nam Ông già và biển cả (2000) Chuông nguyện hồn ai (Chuông gọi hồn ai) (2001) Giã từ vũ khí (2001) Hạnh phúc ngắn ngủi của Mác Cômbơ (2003) Truyện ngắn - Ernest Hemingway (2004) Truyện cực ngắn của Ernest Hemingway (2004) Hội hè miên man (2004)  *** Một đêm tôi thức giấc quãng ba giờ và nghe Catherine trở mình trên giường. - Em có bị ốm không, Catherine? - Em thấy hơi đau, anh ạ. - Đau liền liền hả em? - Không, đau từng chập. - Nếu đau liền liền thì phải đi bệnh viện. Tôi buồn ngủ quá nên nằm ngủ lại. Một lát sau tôi lại thức giấc: - Anh nên gọi bác sĩ thì hơn. Em nghĩ chắc là đúng rồi. Tôi quay số gọi điện thoại cho bác sĩ. - Có đau liên tục không Cat? - Hình như độ mười lăm phút. Vị bác sĩ nói: - Vậy thì ông phải đưa bà đến bệnh viện ngay. Tôi sẽ mặc quần áo và đến đó bây giờ. ... Mời các bạn đón đọc Giã Từ Vũ Khí của tác giả Ernest Hemingway.
Buồn Ơi Chào Mi - Françoise Sagan
“Mùa hè năm ấy, tôi mười bảy tuổi và hết sức hạnh phúc.”    Elsa bước vào một mùa hè ngập nắng cùng với cha và người tình của cha tại một biệt thự bên bờ Địa Trung Hải. Kỳ nghỉ tưởng chừng như êm dịu đó lại ẩn chứa những đợt sóng ngầm khi có sự xuất hiện của Anne, một người phụ nữ thanh lịch, chỉn chu, ngược hẳn với cách sống dễ dãi, phóng túng của cha con Elsa. Kịch tích bắt đầu khi cha Elsa ngã vào lòng Anne với mong muốn cưới người phụ nữ sẽ đưa bố con ông vào khuôn khổ. Một kế hoạch hình thành trong đầu Elsa, cô gái đang say nồng trong mối tình tuổi trẻ, để rồi khi kết thúc… “Một cái gì đó dâng lên trong lòng tôi và tôi đón chào nó bằng chính tên của nó, mắt nhắm lại: Buồn ơi chào mi.”   Buồn ơi chào mi gây chấn động trên toàn thế giới ngay khi xuất hiện. Cho đến giờ, độc giả vẫn không ngừng bị cuốn hút bởi nhạc điệu u buồn trong lối viết uể oải đặc trưng của Françoise Sagan.  Cécile, nhân vật người kể chuyện trong Buồn ơi chào mi là một cô gái trẻ rất được cưng chiều. Buồn chán vì trượt thi, cô bé cùng bố về nghỉ hè tại một khu biệt thự ở miền Nam nước Pháp. Raymond, bố cô, là một người đàn ông ngoài 40, góa vợ và hào hoa. Những mối tình chớp nhoáng của ông với các cô nhân tình, mà người cuối cùng là Elsa, đang sắp sửa chấm dứt khi ông định làm đám cưới với Anne Larsen – một người bạn cũ của vợ. Vốn sống phóng khoáng, yêu tự do và thù ghét cuộc sống thanh bình, Cécile không chịu nổi lối sống mực thước, gò bó mà Anne định liệu, cô bé tìm cách chọc tức Anne. Nhờ sự giúp đỡ của Cyril – một chàng sinh viên luật say đắm mình – Cécile sắp đặt cho Anne nhìn thấy cảnh bố cô “thân mật” với Elsa. Kế hoạch thành công, Anne bực tức, lao xe điên loạn trên đường và tử nạn. Cécile cùng bố trở về Paris, bỏ lại sau lưng cát trắng, biển xanh, nỗi buồn và cả những tháng ngày nồng nàn với Cyril.  *** Nhận định “Tôi đã biết đến vinh quang khi 18 tuổi trong 188 trang giấy…”  - Françoise Sagan khi nói về Buồn ơi chào mi *** Françoise Sagan, tên thật là Françoise Quoirez, sinh năm 1935 tại Cajarc và mất năm 2004. Bà trải qua thời thơ ấu tại Paris trong một gia đình khá giả. Năm 18 tuổi, bà viết tiểu thuyết đầu tay, Buồn ơi chào mi, ngay lập tức gặt hái được thành công vang dội. Ngay trong năm đầu xuất bản tại Pháp, cuốn tiểu thuyết đã bán được 850.000 bản, được cả công chúng lẫn giới phê bình đánh giá cao. Kể từ đó, thế giới bắt đầu biết đến bút danh Sagan - được lấy theo tên một nhân vật của Proust - của bà. Sự nghiệp sáng tác của bà khá đồ sộ với khoảng hơn 50 tiểu thuyết, 30 triệu bản sách bán được riêng tại Pháp, và được chuyển ngữ ra nhiều thứ tiếng. Được coi là một trong những thành viên của Làn Sóng Mới, bà còn tham gia viết kịch và lời thoại phim. Tác phẩm đầu tay của bà được nhận giải Prix des Critiques do một hội đồng nổi tiếng trao tặng và năm 1985 bà nhậnđược giải Prix de la Fondation Prince Pierre của Monaco cho toàn bộ tác phẩm của mình. Françoise Sagan được coi như một huyền thoại mà danh tiếng đã vượt ra ngoài nước Pháp, là totem của một giai đoạn tự do và vô lo. *** Đám tang cử hành ở Paris một ngày đẹp trời. Vẫn là đám đông những người hiếu kỳ vận y phục đen. Cha tôi và tôi bắt tay các người bà con lớn tuổi của Anne. Tôi thú vị quan sát họ; lẽ ra họ sẽ đến nhà chúng tôi dùng trà mỗi năm một lần. Mọi người nhìn cha tôi với ánh mắt thương xót. Chắc Webb đã loan truyền cuộc hôn nhân bất thành của cha tôi. Tôi thấy Cyril tìm tôi sau buổi lễ, nhưng tôi lẫn tránh. Biết rằng oán hận anh là vô căn cứ, nhưng tôi không thể làm khác hơn. Mọi người đều thương tiếc tai nạn thảm khốc vô nghĩa ấy, và, vì tôi vẫn không chắc đó là một tai nạn, nên tôi thấy nhẹ lòng hơn. Trong xe trên đường lái về nhà, cha tôi cầm tay tôi và xiết chặt. Tôi nghĩ: "Bây giờ chỉ còn lại cha với mình. Chúng ta cô độc và không hạnh phúc." Lần thứ nhất tôi khóc. Nước mắt xoa dịu hồn tôi. Chúng không giống chút nào cõi hư vô kinh khủng mà tôi cảm nhận ở bệnh viện trước bức tranh Venice. Cha tôi lẳng lặng đưa khăn tay cho tôi. Gương mặt của ông tan nát thảm sầu. Trong một tháng chúng tôi sống như một ông góa và đứa con mồ côi, ăn chung tất cả bửa ăn và ngồi rịt trong nhà. Thỉnh thoảng chúng tôi nhắc tới Anne. "Có nhớ ngày mà ..." Chúng tôi cẩn thận lựa lời, và tránh nhìn vào mắt nhau, e rằng sẽ gợi lên những niềm đau, hay một thứ gì không thể sửa đổi sẽ chen vào giữa. Sự thận trọng và dè dặt của chúng tôi đưa đến một đền bù. Chẳng bao lâu chúng tôi đã có thể nhắc đến Anne như một người bạn yêu quý, người mà chúng tôi có thể chia sẻ hạnh phúc, nhưng Chúa đã sớm gọi về Trời. Tôi viết là Chúa, không phải định mệnh -- nhưng chúng tôi không tin Chúa. Trong những trường hợp này, chúng tôi lấy làm biết ơn là chúng tôi tin vào số phận. ... Mời các bạn đón đọc Buồn Ơi Chào Mi của tác giả Françoise Sagan.