Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Cậu Con Trai Phố Pál

Trong cuộc đời, ai cũng có cho mình một mảnh đất thiêng liêng. Và những cậu con trai phố Pál cũng thế, các cậu có một mảnh đất dịu hiền mang tên Khu đất trống. Nơi ấy trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất khô cằn, gồ ghề nằm trong thủ đô, bị thu hẹp bởi hai ngôi nhà cao lớn, nhưng với các cậu đó là “một vùng vô tận, là niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc”. Ở nơi đó có trò bắn bi, chơi bóng, đánh trận giả; có pháo đài, hào lũy; có chủ tịch, đại tướng, thượng úy và độc nhất một “chú lính trơn”. Trong cái thế giới mà trẻ thơ nấn ná trên ngưỡng cửa trở thành người lớn ấy, các cậu con trai phố Pál đã chiến đấu với tất cả trí thông minh, lòng dũng cảm, vị tha và ngay thẳng để bảo vệ Khu đất trống khỏi bị xâm chiếm; biến trò chơi con trẻ thành bài học để trưởng thành. Với nội dung trong sáng, dung dị nhưng giàu ý nghĩa và tính hiện thực, Những cậu con trai phố Pál, tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn Hungary Molnár Ferenc, đã được đón nhận nồng nhiệt tại quê nhà. Tác phẩm được chuyển thể nhiều lần lên sân khấu kịch, màn ảnh nhỏ và màn ảnh rộng; được đưa vào chương trình học phổ thông và trở thành tựa sách thiếu nhi kinh điển ở nhiều nước như Nhật Bản, Italy, Israel... Tại Việt Nam, Những cậu con trai phố Pál được xuất bản lần đầu năm 1984, qua bản dịch trong sáng và trìu mến của dịch giả Vũ Ngọc Cân – người mang nặng tình cảm với đất nước Hungary. Sau gần bốn thập kỷ, nay một lần nữa Đông A đưa tác phẩm này trở lại với những độc giả đang và đã từng là trẻ thơ, bằng bản dịch đã gắn liền với các thế hệ và nhiều minh họa đẹp, gần gũi với thiếu nhi. Thông tin tác giả:  Molnár Ferenc là một nhà báo, nhà văn, nhà viết kịch Hungary gốc Do Thái – Đức. Từ khi còn trẻ, ông đã viết cho nhiều tờ báo danh tiếng rồi tiếp tục dấn thân làm phóng viên chiến trường trong Thế chiến I. Bằng giọng văn nhẹ nhàng, sâu sắc kèm chút châm biếm, ông nhanh chóng chinh phục được độc giả, không những vậy, ông còn thể hiện sự đa tài ở nhiều lĩnh vực như kịch nghệ, văn chương. Vào cuối những năm 1930, chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của phát xít Đức, ông sang Pháp, Thụy Sỹ rồi định cư tại Mỹ. Trong hơn nửa thế kỷ sáng tác, mặc dù không chỉ một lần đối mặt với trầm cảm, ông vẫn miệt mài lao động nghệ thuật, gửi gắm sự thấu cảm sâu sắc nơi ngòi bút. Các tác phẩm của ông được yêu thích tại nhiều nước trên thế giới, trong đó nổi bật nhất là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (A Pál utcai fiúk, 1907), vở kịch Chàng Liliom (Liliom, 1909) và truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (Széntolvajok, 1918). Năm 1952, ông từ giã cõi đời vì căn bệnh ung thư. Thông tin dịch giả:  PGS.TS Vũ Ngọc Cân sinh tại Hà Nam, bút danh Vũ Thanh Xuân. Năm 1973, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Eötvös Loránd (Hungary) ngành Ngữ văn Hung – Pháp, rồi trở thành giảng viên tiếng Hung, ngôn ngữ học, Việt ngữ học và lịch sử văn minh thế giới tại Đại học Ngoại ngữ (nay là Đại học Hà Nội). Từ đó, ông gắn bó với nghề giáo ở cả Việt Nam lẫn Hungary. Song song đó, ông còn là một dịch giả thành công trong việc chuyển ngữ nhiều tác phẩm tiếng Hung sang tiếng Việt và ngược lại. Các dịch phẩm tiêu biểu của ông như: Những cậu con trai phố Pál (1984, 2010), Cái chết của ông bác sỹ (1987), Dạ, thưa thầy (2010), Ba nhà thơ vĩ đại của Hungary (2010), 65 bài thơ tuyển đại thi hào Hungary Arany János (2017)… *** Sự trở lại của 'Những cậu con trai phố Pál' Không chỉ là cuốn sách dành cho trẻ em trai, tác phẩm còn là ký ức của những người đàn ông thực thụ. Là một trong những tiểu thuyết nổi tiếng ở Hungary, cũng như toàn thế giới, Những cậu con trai phố Pál của Molnar Ferenc được xuất bản lần đầu năm 1907. Tác phẩm này đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, trở thành sách giáo khoa của Hungary, đồng thời được chuyển thể thành phim và kịch nhiều lần ở nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, cuốn sách được ra mắt lần đầu tiên năm 1984, do PGS.TS Vũ Ngọc Cân (Vũ Thanh Xuân) chuyển ngữ. Năm nay, nó được Đông A cùng NXB Dân Trí tái bản với bìa cứng, tranh minh họa màu sinh động, mang tính mỹ thuật cao. Nội dung hấp dẫn và phi thời đại Cuốn truyện kể về cuộc chiến kịch tích giữa hai nhóm nam sinh thủ đô Budapest, Hungary: Phe phố Pál và phe Áo đỏ tranh giành chỗ chơi bóng ở một nơi gọi là "Khu đất trống giữa lòng thủ đô". Khu đất trống trong con mắt người lớn chỉ là miếng đất hoang ngổn ngang phế liệu. Nhưng trong mắt các cậu bé, đó là “một vùng vô tận, niềm tự do mà buổi sáng là đồng cỏ châu Mỹ, buổi chiều là bình nguyên Hung trong mưa, là biển mùa đông, là cực Bắc” với đầy đủ thế giới các trò chơi bi bóng, trận giả; đại úy và lính trơn; pháo đài, bom cát và hào lũy như Chiến tranh thế giới thứ nhất. Và như chiến tranh thực sự, nhiều tổn thương và mất mát xảy ra để bảo vệ cho điều mình yêu thương và tin tưởng. Trò chơi con trẻ đã thành bài học để trưởng thành. Nhóm trẻ phố Pál được ẩn dụ với màu sắc quốc gia của Hungary (lá cờ riêng màu đỏ, trắng, xanh lá cây) do Boka làm thủ lĩnh, đã tổ chức một “trận chiến” quy mô trên khu đất trước những kẻ xâm lăng Áo đỏ (vì chúng thần tượng Garibaldi - anh hùng dân tộc Italy) đứng đầu là Áts Feri. Cuốn sách được viết vào năm 1907, cách đây hơn một thế kỷ, nhưng vẫn luôn có giá trị phi thời gian, mặc dù Nemecseck về nhà bằng chiếc xe ngựa chạy quanh Budapest thay vì xe bus, hay những lọ mực kiểu cũ luôn bị đổ trong túi Boka. Hai nhóm nam sinh khi tuyên bố tiến hành "chiến tranh" đã sử dụng tất cả thuật ngữ của chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa dân tộc đầu thế kỷ 20. Cuốn sách cũng được xuất bản ngay trước khi Đảng Quốc xã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Đức. Tuy nhiên, đây là một cuốn sách có giá trị phi thời đại. Dàn nhân vật nam đặc sắc Những cậu con trai phố Pál sở hữu một dàn nhân vật tuyệt vời, những cá tính đa dạng và phức tạp một cách đáng ngạc nhiên đối với cuốn sách cho trẻ em. Được coi là băng đảng “phản diện”, Áts Feri và chiến hữu của cậu ta không bị “xấu xa hóa”, họ đủ đàng hoàng. Cũng như các chàng trai phố Pal của chúng ta còn lâu mới được coi là hoàn hảo. Boka - chủ tịch khu đất trống - dũng cảm, sáng suốt, trung thực, đúng đắn, biết cách đưa ra quyết định, đúng mẫu “con đực đầu đàn”. Các cậu trai khác nhìn thấy ở Boka một hình mẫu đàn ông để noi theo. Nemecsek bé nhỏ, cậu lính trơn duy nhất của khu đất, lại là một định nghĩa khác của người đàn ông đích thực, tuy vụng về yếu ớt, thường bị bạn bè coi thường nhưng lại là người can đảm, hy sinh bản thân vì đồng đội, vì những giá trị thiêng liêng mà cậu coi trọng. Phía bên kia chiến tuyến, thủ lĩnh phe Áo đỏ Áts Feri cũng có nét tương đồng với Boka, mạnh mẽ, táo bạo, lại rất hào hoa đẹp trai. Hoàn toàn không phải là “phản diện” kinh điển, Feri tôn trọng kẻ thù, đánh giá cao sự dũng cảm của Nemecsek. Và sau đó là Gereb - một cậu bé phố Pál đầy tham vọng, đố kỵ với Boka, trở thành kẻ phản bội khi về phe Áo đỏ. Nhưng rồi cậu đã nhận ra sai lầm, cư xử tuyệt vời trong trận chiến, giành lại được tình bạn với Boka. Các nhân vật đều có đầy đủ tính khí trẻ con, nhưng đều sở hữu một loạt giá trị: Cao thượng, dũng cảm, ngay thẳng, tự trọng. Tất nhiên, có những nhân vật tiêu cực, nhưng họ cũng vẫn có phẩm giá và danh dự. Cũng có thể đó chính là điều tác giả muốn nói rằng, ở trẻ em, chúng ta có thể tìm thấy những phẩm chất mà chính chúng ta đã đánh mất khi lớn lên. Nỗi buồn làm nên sự trưởng thành trong cuộc sống Nếu là người lớn, việc đọc cuốn sách này có thể gợi những liên tưởng sâu xa hơn. Với bối cảnh vào đầu những năm 1900, khi châu Âu bị giằng xé và chia cắt bởi nhiều cường quốc, chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa việc bảo vệ sân chơi của trẻ em với việc bảo vệ tổ quốc của một dân tộc. Những ẩn dụ ấy thể hiện qua sự tổ chức quân đội quy củ của lũ trẻ, chủ nghĩa anh hùng và việc lên án hành động “phản quốc” của Gereb. Thông qua đó, người đọc mọi lứa tuổi sẽ có thể cảm nhận được một câu chuyện xúc động về tình chiến hữu và lòng trung thành, nỗi khát khao và trách nhiệm chiến đấu vì một mảnh đất nhỏ bé nhưng tự do - những giá trị rất cần đến tận ngày nay. Câu chuyện phố Pál cũng có thể được đọc như một sự tiếc thương cho chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu đầu thế kỷ 20 trước thềm Thế chiến thứ nhất, khi các chàng trai nhỏ đưa ra nhiều tuyên ngôn mang tính dân tộc, quyết liệt bảo vệ “quê hương” trước kẻ thù. Cuối cùng, “quê hương” của các chàng trai đã biến thành khu nhà cao tầng trong quá trình đô thị hóa, bất kể những hy sinh đã được thực hiện để cứu mảnh đất nhỏ bé. Một kết thúc nhiều đắng cay và đầy trăn trở nghẹn ngào. Cũng có một số ý kiến của các bậc cha mẹ cho rằng không thấy bóng dáng phụ huynh trong khi hai lũ trẻ đánh nhau kịch liệt, trong khi đáng lẽ chúng cần phải có sự trợ giúp của người lớn để tránh khi mọi việc vượt quá tầm kiểm soát. Boka đã rất tuyệt vọng, không chỉ vì những điều đã xảy ra với Nemecsek, mà còn vì ngay sau chiến thắng cậu phát hiện ra những điều mà những người trưởng thành đã làm ở khu đất trống thiêng liêng của lũ trẻ các cậu. Cậu hiểu rằng trận chiến của họ cuối cùng đã thành vô ích. Niềm an ủi duy nhất của Boka là biết rằng ít nhất Nemecsek sẽ không bao giờ phải biết tới điều đó. Ngoài đời, tác giả Molnár Ferenc từng là người ủng hộ Đế chế Áo - Hung với tư cách phóng viên chiến trường trong Thế chiến thứ nhất. Tuy nhiên, ông đã phải rời xa Budapest thân yêu, di cư đến Mỹ để thoát khỏi sự đàn áp người Do Thái Hungary trong Thế chiến thứ hai, rồi qua đời trong bệnh tật và trầm cảm. Tuy nhiên, ở Budapest, bức tượng tái hiện cảnh lũ trẻ phố Pál chơi đùa vẫn còn đó để tôn vinh một tác phẩm yêu thích của nhiều thế hệ, một niềm tự hào của nền văn học Hungary. *** Lời giới thiệu Molnár Ferenc sinh ngày 12 tháng 1 năm 1878 tại Budapest, trong một gia đình tư sản gốc Do Thái - Đức nhưng đã nhiều đời sống ở Hungary. Bố là bác sỹ Neumann Mór (1848 - 1907) làm việc tại một nhà máy lớn ở thủ đô. Thuở thiếu thời ông đã bộc lộ năng khiếu đặc biệt về văn học và báo chí. Cuối thời trung học ông đã tham gia viết báo và đổi họ cũ Neumann thành họ hoàn toàn như người Hung là Molnár. Năm 1896, sau khi tốt nghiệp trung học, do áp lực của gia đình ông theo học khoa luật của một trường đại học ở Genève, Thụy Sỹ. Được một năm thì ông bỏ về Tổ quốc học tiếp ở thủ đô Budapest. Tuy nhiên giữa chừng ông đi làm phóng viên cho tờ Nhật ký Budapest và nhiều tờ báo danh tiếng khác ở thủ đô. Nhà báo trẻ Molnár Ferenc nhanh chóng nổi tiếng với phong cách nhẹ nhàng, tài quan sát sắc sảo và giọng điệu khôi hài, châm biếm. Trong Thế chiến I (1914 - 1918) ông làm phóng viên mặt trận, tham gia viết bài từ chiến trường Galicia ở Tây Ban Nha. Những năm sau đó ông trở về nước và tiếp tục sáng tác. Năm 1922, ông lấy vợ lần thứ hai, nhưng cũng giống như cuộc hôn nhân lần thứ nhất vào năm 1906, họ mau chóng ly hôn. Những sáng tác của ông thời gian này tập trung vào thể loại kịch nhiều hơn. Năm 1937, ông đã cùng người vợ thứ ba chạy trốn khỏi sự hằn thù Do Thái của chủ nghĩa phát xít Đức, đầu tiên sang Pháp, rồi Thụy Sỹ, sau đó hai năm thì tìm cách sang New York (Mỹ) định cư và cũng qua đời tại đây vào năm 1952. Những tác phẩm văn xuôi đầu tiên mà Molnár Ferenc công bố là tập truyện ngắn Magdolna và những chuyện khác (1898) và Đêm của những cái hôn (1899), sau đó ông bắt đầu viết cả tiểu thuyết và kịch. Cuốn tiểu thuyết đầu tiên ông cho in vào năm 1901 là Thành phố đói phơi bày những mâu thuẫn của thế giới tư sản bằng một giọng điệu trào phúng sâu cay. Năm sau, vở hài kịch Ngài đốc tờ nội dung đề cập đến mối quan hệ làm ăn phi pháp lố bịch giữa một luật sư với một băng đảng trộm cắp được đưa lên sân khấu biểu diễn, được hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đó ông liên tục - kể cả thời gian sinh sống ở Mỹ - cho ra mắt các tác phẩm xuất sắc của mình. Trong hơn nửa thế kỷ hoạt động văn học, ông đã cho in 13 tập truyện ngắn, 10 tiểu thuyết, 23 vở kịch và hàng trăm bài báo. Với nhiều tác phẩm được dịch ra các thứ tiếng nước ngoài, nhiều vở kịch hiện nay vẫn được công diễn ở nhiều quốc gia, ông đã trở thành một trong số các nhà văn Hungary nổi tiếng nhất cả trong nước lẫn trên thế giới. Ở các lĩnh vực văn xuôi khác nhau ông đều để lại những tác phẩm kiệt xuất như vở kịch Chàng Liliom(1909), truyện ngắn Những kẻ ăn cắp than (1918) và đặc biệt là tiểu thuyết Những cậu con trai phố Pál (1907) - một tác phẩm nằm trong chương trình học phổ thông của Hungary, một số nước Đông Âu và cả ở Nhật Bản. Ban đầu Molnár viết tác phẩm này theo yêu cầu của tờ tạp chí Báo Học trò, do thầy giáo ông là Rupp Kornél (1865-1900) sáng lập từ năm 1894. Năm 1905, ông bắt đầu cho đăng từng kỳ ở tạp chí này. Hằng ngày ông ngồi ở một góc quán cà phê gần nhà viết các chương tiếp theo và đăng đều đặn cho đến hết vào năm 1906. Năm sau, tác phẩm được in thành sách, rồi đến đầu những năm 1910 thì được dịch sang tiếng Anh, Đức, và từ đó đến nay sang rất nhiều thứ tiếng khác trên thế giới. Còn ở trong nước cho đến nay tác phẩm đã được tái bản gần 50 lần. Những cậu con trai phố Pál phản ánh cuộc sống của thiếu niên Hungary những năm 90 của thế kỷ 19. Truyện kể về hai nhóm trẻ sống ở Budapest, học ở hai trường khác nhau: bọn con trai do Áts Feri cầm đầu thì chiếm giữ Vườn cỏ, còn những cậu con trai phố Pál do Boka làm chủ tướng thì đóng đô ở Khu đất trống. Bọn Áts Feri rắp tâm đánh chiếm Khu đất trống để làm sân đá bóng. Những cậu con trai phố Pál thì dũng cảm chiến đấu bảo vệ Khu đất trống không khác gì bảo vệ Tổ quốc của mình. Thông qua cuộc chiến đó, tác phẩm đã phản ánh toàn bộ thế giới trẻ thơ, nói chính xác hơn là thế giới của tuổi dậy thì như ước muốn tự do, sự anh dũng quả cảm, lòng trung thành, sẵn sàng hy sinh… Bên cạnh những phẩm chất tốt đẹp đó, tác giả cũng khéo léo đề cập đến những cái xấu xa của con người như là sự phản bội, sự ghen ghét đố kỵ, tính ăn cắp, thói quan liêu cứng nhắc… Nói cách khác, Những cậu con trai phố Pál là cuốn sách có giá trị giáo dục nhẹ nhàng mà sâu sắc cho trẻ em, và đọng lại nhiều dư vị cho người lớn. Một trong những yếu tố tạo nên sự hấp dẫn, chân thật cho tác phẩm chính là bối cảnh, nhân vật được rút tỉa từ chính ký ức và đời sống của tác giả. Thế giới trong truyện là có thực. Đó là vùng phụ cận với nhà số 83 đại lộ József nơi nhà văn ở. Ba địa điểm xuyên suốt câu chuyện là trường học Lónyay, Vườn cỏ và đặc biệt là Khu đất trống. Ngày nay, Vườn cỏ vẫn còn giữ lại một phần của Khu Nhà thương trên đường Üllői; còn tòa nhà 3 tầng, mà cái nền của nó là Khu đất trống, vẫn nằm ở góc phố Mária và phố Pál. Phố Rákos thì không còn, nhưng ngôi nhà của gia đình Nemecsek trên đó thì có thể ở gần Viện bảo tàng Mỹ thuật Công nghiệp bây giờ. Các nhân vật trong truyện cũng là những con người có thật: đó là những bạn học, những thầy giáo của Molnár ở trường Trung học Cải lương Lónyay. Có thể nói, Những cậu con trai phố Pál không chỉ là một trong những cuốn sách hay nhất của nền văn học thiếu nhi Hungary mà còn của cả thế giới. Đây là một tác phẩm khó quên nếu không muốn nói là không thể quên với những ai đã từng đọc một lần. Sau khi đọc xong dòng cuối, từ từ gấp cuốn sách lại, độc giả không thể không dành tiếp thời gian luyến tiếc, khâm phục và bùi ngùi nhớ đến các nhân vật trong truyện. Khương Đình, đầu xuân năm Canh Tý 2020 PGS. TS. VŨ NGỌC CÂN Mời các bạn đón đọc Những Cậu Con Trai Phố Pál của tác giả Molnár Ferenc & Vũ Ngọc Cân (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Đường Một Chiều - Bà Tùng Long
Con đường một chiều là một câu chuyện tình buồn, đầy tuyệt vọng của một họa sĩ trẻ và một người đàn ông hết lòng yêu nàng nhưng không được đền đáp. *** Phi Nga ngồi dựa lưng vào một gốc dừa tàu lá sum sê, nhìn về phía sông, đôi mắt mơ màng. Chưa bao giờ Phi Nga thấy trời đẹp như hôm nay. Nhưng nàng không phải ra đây để ngắm cảnh vì còn lạ gì phong cảnh làng này nữa, ngày nào mà nàng không ra ngồi nhìn những chiếc thuyền chở hàng hay những chiếc đò dọc chậm chạp trôi trên dòng nước xanh rì. Đôi mắt của Phi Nga khác nào những ống kính chụp mãi những bức tranh linh động của quê nàng, một ngôi làng yên tĩnh trên bờ Cửu Long miền Hậu giang. Phi Nga cảm thấy cuộc đời nàng không khác nào dòng sông trước mặt. Ngày nào cũng như ngày nấy, cũng những cảnh quen mắt, không thay đổi. Và Phi Nga bỗng ao ước một cuộc đời mới khác hẳn so với cuộc đời buồn tẻ của nàng. Sống trong gia đình, Phi Nga thấy không ai hiểu nàng hết. Hai em gái nàng, Phi Anh và Phi Yến, như quá xa cách mặc dù hàng ngày ba chị em vẫn sống bên nhau, dưới mái gia đình, bên cha mẹ. Ông bà Hoàng Minh chỉ có ba cô con gái nhưng không hề lấy chuyện không có con trai làm trọng. Ông Minh thường nói với bạn bè: - Đời bây giờ gái cũng như trai. ... *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Con Đường Một Chiều của tác giả Bà Tùng Long.
Bóng Người Xưa - Bà Tùng Long
Người xưa đã về tái hiện một giai đoạn lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc từ 1930 đến 1938. Có một tổ chức cách mạng với tên gọi “Yêu nước” vì mắc phải nhiều sai lầm trong đường lối cũng như xây dựng cơ sở trong quần chúng nhân dân nên phải nhận lấy thất bại. Nếu người đàn bà sinh ra chỉ để làm bạn với bếp núc, thì cái câu “Giặc đến nhà đàn bà phải đánh” chẳng là vô nghĩa lắm? Lệ Hằng, nhân vật chính của Bóng người xưa, là điển hình của người phụ nữ cao thượng ấy trong thời Pháp thuộc. Lệ Hằng tham gia một tổ chức chống Pháp và lãnh nhiệm vụ cung cấp tài chính. Cô lấy chồng là Anh Kiệt, một nhà tư sản giàu có theo sự phân công của tổ chức, và lấy tiền của Anh Kiệt trao cho tổ chức. Nhưng Anh Kiệt không phải là người chỉ biết tiền. Với cô, anh còn là người chồng chung thủy. Bên tình, bên nghĩa, cô phải làm sao? Và trong tình thế ấy, cô phải xử trí như thế nào để người bạn trăm năm của cô khỏi phải vì cô mà mang họa? *** Làng văn, làng báo Sài Gòn những năm 50-60 thế kỷ 20, Bà Tùng Long là một cái tên nổi tiếng. Tên thật của bà là Lê Thị Bạch Vân (1915-2006). Bà từng đi dạy Pháp văn, Việt văn ở các trường Tân Thịnh, Đạt Đức, Les Lauriers ở Sài Gòn, làm thư ký tòa soạn một số tờ báo và bắt đầu viết văn từ những năm 1953. Bà nổi tiếng với những tiểu thuyết về đề tài xã hội có nhân vật chính là người phụ nữ. Bà Tùng Long cũng là cây bút quen thuộc trên các báo như Sài Gòn Mới, Tiếng Vang, Phụ nữ Ngày mai, Phụ nữ Diễn đàn, Văn nghệ Tiền phong… Trong cuốn hồi ký của mình, bà viết: “Tôi chưa bao giờ dám tự hào xưng mình là văn sĩ, nữ sĩ. Tôi chỉ nói tôi viết văn là để nuôi con, chỉ thế thôi”. Dù chỉ nhận viết văn là nghề tay trái, nhưng bà đã cho ra đời 400 truyện ngắn, và 68 tiểu thuyết - một lượng tác phẩm lớn với sức làm việc đáng nể, nếu không muốn nói là sức lao động phi thường. Với Bà Tùng Long, viết văn là niềm vui lớn nhất đời. Sau năm 1975, nhiều tiểu thuyết của Bà Tùng Long được in và đông đảo công chúng đón nhận. Một số tác phẩm của tác giả Bà Tùng Long: Đường tơ đứt nối Bên hồ Thanh Thủy Một vụ án tình Những ai gieo gió Bóng người xưa Người xưa đã về Đời con gái Duyên tình lạc bến Con đường một chiều Hồi ký Bà Tùng Long Một lần lầm lỡ Mẹ chồng nàng dâu Nẻo về tình yêu Nhị Lan Giang San Nhà Chồng Chúa tiền Chúa bạc Định mệnh ... Mời các bạn đón đọc Bóng Người Xưa của tác giả Bà Tùng Long.
24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà - Stefan Zweig
Trong tác phẩm của mình, Stefan Zweig đã viết: “Chỉ hai mươi bốn giờ thôi cũng có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời một người đàn bà”. Tôi cũng là một người đàn bà. Tôi cũng đã thử hỏi, trong hai mươi bốn giờ quá ít ỏi ấy, một người đàn bà có thể làm gì để được gọi là thay đổi số phận, hay cuộc đời? Vậy mà khi tôi bắt đầu đọc câu chuyện của Stefan Zweig kể, tôi đã phải chạy đua với cảm xúc của nhân vật. Tôi không có được những cảm xúc mãnh liệt, bạo dạn như bà. Chỉ trong một ngày thôi, bà đã trải qua tất cả mọi cảm giác của cuộc đời này, đi đến tận cùng đê mê, hạnh phúc bên người tình chỉ trong một đêm, để rồi cũng phải chịu sự phản bội đến khốn nạn và nghiệt ngã khi bị sỉ nhục cay đắng bởi người mà mình đã yêu và trao đi tất cả. Người đàn bà ngoại tình ấy đáng thương hơn đáng giận rất nhiều, bởi đó là bản năng tuyệt vời của một người phụ nữ đã được đánh thức mãnh liệt sau những năm tháng sống bằng lặng và yên bình với những cảm xúc không thật. Tôi là một người đàn bà. Tôi trân trọng và cũng sợ hãi, xót thương cho những gì đã và đang diễn ra trong đời một người đàn bà giống như mình. Tôi đã cố gắng loay hoay với những cảm xúc của mình mà quên hẳn việc phải thành thật với cảm xúc của chính mình, và người phụ nữ đã mang trong mình một ám ảnh về tội lỗi ngoại tình với chồng con ấy đã chỉ cho tôi biết rằng , tôi không có nhiều thời gian để mài mòn cuộc sống trong những giả dối. Cách tốt nhất tôi có thể làm được chỉ là để mình tự do yêu, và sống cho thật với những gì mình cần phải sống. Ngẫm cho kĩ thì thời gian đâu có quan trọng ngắn dài, điều quan trọng hơn là cách mà chúng ta sống trong khoảng thời gian ấy thôi. Người đàn bà của tôi chỉ cần hai mươi bốn giờ sống thật sự để rồi "gặm nhấm" nó suốt một cuộc đời còn lại, như một nỗi ám ảnh, day dứt, thay đổi tất cả mọi cảm xúc của bà. Tôi xót xa cho số phận của một người đàn bà như mình, nhưng tôi biết tôi chẳng thể nào trốn tránh được những điều đó, bởi nó thuộc về bản năng, bản năng yêu và quyết định mọi thứ bằng trái tìm của tình yêu, mù quáng nhưng chân thành. Người kể câu chuyện về số phận của người đàn bà trong hai mươi bốn giờ ấy đã biểu hiện đủ đầy những diễn biến tâm lý, như một bản nhạc đầy thăng trầm, chỉ trong một khoảnh khắc rất ngắn của đời người, nhưng với những điều tôi đã cảm nhận được, nó còn ngân dài hơn bất kì một bản tình ca nào khác về người phụ nữ. Đó là biệt tài của Stefan Zweig. Và chúng ta, những người phụ nữ suốt đời mang thân phận yếu ớt, mỏng manh, tại sao không thể chia sẻ với những đam mê thật thà của người đàn bà này, và để biết rằng chúng ta có thể tìm thấy điều gì thuộc về nhau. Một trích đoạn rất nhỏ trong câu chuyện, mà tôi muốn dùng nó để kết thúc bài viết của mình, và để bắt đầu cho các bạn khi đã cầm trên tay cuốn sách này. … Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể về số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hawngrriet say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: Tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh ona và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tôi, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh lẫn tôi. Thế là khối đã đè nặng tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khức, đè chặt lấy quá khức không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ… *** Stefan Zweig sinh ra ở Viên (Áo). Cha ông lầ Moritz Zweig (1845–1926), nhà sản xuất dệt may giàu có người Do Thái; mẹ là Ida Brettauer (1854–1938), con gái một chủ ngân hàng người Do Thái. Ông là bà con của nhà văn Tiệp Khắc Egon Hostovský, người này mô tả Zweig là "một họ hàng xa"; có thuyết nói hai người là anh em họ. Không tìm thấy động lực rõ ràng, ông bỏ học sớm. Việc học của ông chỉ bắt đầu khi ông đi qua nhiều nước ở châu Âu và kết giao với nhiều nhân vật quan trọng vào thời đại của ông. Ông có nhiều chuyến đi đến Ấn Độ, châu Phi, Bắc và Trung Mỹ, cũng như Nga. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, vì lý do sức khỏe yếu, ông không phải ra mặt trận mà được làm thủ thư, phụ trách quản lý tư liệu chiến tranh. Nhưng chỉ đến khi sống một thời gian ngắn gần trận tuyến, ông mới nhận ra sự điên rồ của chiến tranh, và từ đó trở thành người cổ vũ mạnh mẽ cho hoà bình. Là một nhà văn có sức làm việc mạnh, ông đã viết nhiều tập tiểu sử (như quyển Ba bậc thầy bàn về Honoré de Balzac, Charles Dickens và Fyodor Dostoyevsky, xuất bản năm 1920), thêm truyện dài và truyện ngắn. Ông được ca ngợi là có óc phân tích tâm lý độc đáo, và có tài chắt lọc bỏ ra những tiểu tiết khiến cho những tập tiểu sử của ông đọc hấp dẫn như tiểu thuyết. Đến thập niên 1930, ông là một tác giả có tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất. Năm 1934, Adolf Hitler lên nắm quyền tại Đức, Zweig rời Áo sang Anh, ban đầu sống ở Luân Đông, đến năm 1939 chuyển đến Bath. Năm 1939 Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đức Quốc xã nhanh chóng chinh phục Tây Âu, Zweig và người vợ thứ 2 phải vượt Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ, định cư tại Thành phố New York năm 1940. Hai người có 2 tháng làm khách của Đại học Yale ở New Haven, Connecticut, về sau thuê 1 căn nhà tại Ossining, New York. Ngày 22 tháng 8 năm 1940, Zweig và vợ di cư tới Brasil, định cư ở Petrópolis, một thị trấn miền núi có đông đảo người Đức sinh sống, cách Rio de Janeiro 68 km về hướng bắc. Tháng 2 năm 1942, trong thời gian lễ hội ở Rio de Janeiro (Brasil), vì tâm trạng cô đơn và mệt mỏi, Stefan Zweig và vợ Lotte cùng nhau tự tử. Năm 1948, truyện Bức thư của người đàn bà không quen biết đã được dựng thành phim có tựa Letter from an unknown woman, với Joan Fontaine thủ vai cô gái nhân vật chính, Howard Koch viết kịch bản và John Houseman là nhà sản xuất. Howard Koch cũng đã viết kịch bản cho phim Casablanca (1942), và John Houseman là nhà đồng sản xuất của phim "Công dân Kane" (Citizen Kane) (1941) – cả hai phim này được xếp vào nhóm 10 phim hay nhất mọi thời đại. Phim Letter from an unknown woman lấy bối cảnh là thành phố Wien vào khoảng năm 1900. Phim làm rơi lệ nhiều khán giả này nằm trong nhóm 100 phim hay nhất mọi thời đại, được Thư viện Quốc hội Mỹ xếp hạng "có ý nghĩa về mặt văn hóa," và được tuyển chọn để lưu trữ tại Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia của Hoa Kỳ. Gần đây (2005), một phim khác được thực hiện ở Trung Quốc cũng dựa trên truyện này. Năm 1968, một truyện khác được chuyển thể thành phim "24 giờ làm phụ nữ" (24 hours in a woman's life), với nữ diễn viên chính là Ingrid Bergman, cũng khá thành công. Năm 2014, Bộ phim Khách sạn Đế vương, xây dựng dựa trên cảm hứng từ các công trình ghi chép của ông với nội dung tôn vinh những "tia sáng mong manh của nền văn minh sót lại trong chốn man rợ vốn từng được biết đến là nhân đạo", ra mắt trong sự ca ngợi của các nhà phê bình phim. Bộ phim dẫn đầu danh sách đề cử giải BAFTA với 11 đề cử, nhiều hơn bất kỳ bộ phim nào khác. Nó cũng giành được Giải Quả cầu vàng cho phim ca nhạc hoặc phim hài hay nhất và chín đề cử giải Oscar, bao gồm cả giải Phim hay nhất và Đạo diễn xuất sắc nhất. Bộ phim sau đó đã giành được 4 giải Oscar cho Thiết kế sản xuất xuất sắc nhất, Nhạc phim hay nhất, Thiết kế trang phục và Hóa Trang. Mời các bạn đón đọc 24 Giờ Trong Đời Một Người Đàn Bà của tác giả Stefan Zweig.
Chuyện Giải Buồn Quyển 1 - Paulus Của
Huỳnh Tịnh Paulus Của hay Huỳnh Tịnh Của người tỉnh Bà Rịa, ông thông thạo Hán và Pháp Văn. Năm 1881, được bổ ngạch Đốc phủ sứ, phụ trách công việc phiên dịch các văn án cho nhà cầm quyền Pháp tại Việt Nam. Ông cũng là nhà văn quốc ngữ tiền phong cộng tác với Gia Định báo. Tác phẩm quan trọng trong văn nghiệp của ông rất có giá trị, đó là quyển Đại Nam Quốc Âm Tự Vị, in thành 2 tập, tập I in năm 1895 từ mẫu tự A đến L, tập II in năm 1896 từ M đến X, cả hai quyển đều in tại Sàigòn do nhà in Imprimerie REY, CURIOL & Cie, Rues Catinat & d"Ormay. Năm 1983, nhà sách Khai Trí có in lại 2 tập của quyển tự vị nầy.  Chuyện Giải Buồn Quyển 1 gồm có: 1. CHÍ KHÍ CAO 2. CẦU TIẾNG CHƯỞI CHO RỤNG LÔNG VỊT 3. ĐỊA NGỤC Ở MIỀN DƯƠNG GIAN 4. ĂN MÀY XIN VÀNG NÉN 5. ĐẦU THAI BA KIẾP 6. KIỆN MẤT NÀNG DÂU 7. PHẬT ĐỔ MỒ HÔI 8. MƠ TƯỞNG VIỆC KHÔNG CÓ 9. NÓI MỊ 10.CHUYỆN MÌNH THÌ QUÁNG 11.ANH EM RUỘT GIÀNH GIA TÀI 12. VẼ HÌNH VAY BẠC 13.CHUYỆN VƯƠNG-THẬP 14. TÍCH CỌP LẠY 15. CHUYỆN CẢNH THẬP BÁT 16.CỌP CÓ NGHĨA 17.ĐUỔI YÊU QUÁI 18.RỦ NHAU CHẾT MỘT LƯỢT 19. BỐN MƯƠI NGÀN 20. BỢM BẢI 21.MẮC LỪA 22. CHỒN ĐẤT THƠ THỦY 23. CHUYỆN ÔNG TẤN SĨ LƯNG MỌC LÔNG DÊ 24.LẬP TỰ CHO CHÁU 25.NỢ KHÔNG TRÔNG TRẢ 26. CHUỘT CÓ NGHĨA 27. CHUYỆN NGƯỜI ĐINH TIỀN KHÊ 28. CHUYỆN THÂY MA LÀM DỮ 29.CHUYỆN HỌ THÂN 30.CHUYỆN ÔNG XA KÍNH 31.CHUYỆN ÔNG LƯU BÁ ÔN 32.CÓ PHƯỚC LÀM QUAN 33. CHUYỆN NHẬM TÚ 34. TRƯƠNG THÀNH 35. SỰ TÍCH CON BÀN BÀO 36.CHUYỆN MỘT VÌ TƯỚNG QUÂN 37.BÀN CHIÊM BAO 38. TRỒNG LÊ 39.ĐẠO BẠCH LIÊN 40. THẦY ĐẠO SĨ Ở NÚI LAO SƠN 41.PHÉP MA 42. SỰ TÍCH CŨ 43. HUÌNH SANH 44. ĐÔNG PHƯƠNG SÓC 45. CÔNG GIÃ TRƯỜNG 46. THI THÀNH HOÀNG 47. HAI ANH EM HỌ THƯƠNG 48. LỘC ĐỜI 49. NHÍP CHÁNH 50. NGƯU THÀNH CHƯƠNG 51.LIỂU SANH 52.CHUYỆN HƯỚNG-KlỂU 53. CHỊU ÁN OAN 54. CHUYỆN CON THẢO 55. CHUYỆN NGƯỜI BÁN VẢI 56.CÙ DỤC 57. DIÊM LA 58. CHUYỆN THƯƠNG TAM QUAN 59.CHUYỆN ÔNG TẾ VÕ KHI CÒN NHỎ 60.CHUYỆN NGƯỜI CAO LỚN 61. LIỂU TÚ TÀI 62. CHUYỆN LƯU HỖ 63. CON RƯỢU 64. CHÓ KHÔN 65.THẦN NÚI 66. CHUYỆN THẦY THUỐC 67.TỐNG QUỐC ANH 68. CHÓ BIẾT CỨU CHỦ Mời các bạn đón đọc Chuyện Giải Buồn Quyển 1 của tác giả Paulus Của.