Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyển họa thành phúc

Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được  lưu hành   rộng rãi  nhất. Nội dung tuy không có gì quá  sâu xa  khó hiểu, nhưng  quả thật  là những điều  nhận thức   vô cùng   thiết thực  và  lợi lạc  trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả  cuộc đời ,  hay nói  theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”.

Tập sách này được soạn dịch từ hai bản văn khuyến thiện bằng chữ Hán được 

lưu hành

 

rộng rãi

 nhất. Nội dung tuy không có gì quá 

sâu xa

 khó hiểu, nhưng 

quả thật

 là những điều 

nhận thức

 

vô cùng

 

thiết thực

 và 

lợi lạc

 trong cuộc sống, có thể giúp người ta thay đổi cả 

cuộc đời

hay nói

 theo cách của người xưa là “chuyển đổi số mạng”.

Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của  tiên sinh   Viên Liễu Phàm , do ông viết ra để kể lại  câu chuyện  của chính  cuộc đời  mình cho con cháu,  đồng thời  cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý  nhân quả , khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và  nỗ lực  làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại  cuộc đời  nhiều  sóng gió  của mình cùng cuộc hội ngộ  ly kỳ  với một nhân vật mà ông  tin chắc  là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được  nội tâm  của chính mình để  nhận ra  và  phân biệt  được những điều  thiện ác  thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ  quyết tâm  “tránh ác làm thiện”, và  cuối cùng  đạt kết quả là  chấm dứt  được những chuỗi ngày  tai họa   liên tục  giáng xuống  gia đình  ông, để có thể sống một cách an vui  hạnh phúc   cho đến   tuổi già . Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc. Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được  Đại sư   Ấn Quang  chọn khắc in vào phần  phụ lục  của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng  nghĩa lý  bài văn Âm chất.  Đại sư   Ấn Quang  đã có nhiều hàm ý rất  sâu xa  khi chọn  lưu hành  hai bản văn khuyến thiện này, và  hiệu quả   lợi lạc  của việc này đối với người đọc đã được  chứng minh  một cách  rõ ràng  qua  thời gian . Về bản văn thứ nhất,  tiên sinh   Viên Liễu Phàm  không viết ra như một  nghiên cứu  triết lý, mà như một sự chia sẻ  kinh nghiệm   thực tiễn , bởi chính ông là người đã vận dụng  thành công  những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự  chuyển đổi  được số mạng, thay đổi  cuộc đời  từ những điều  bất hạnh  sang thành an vui  hạnh phúc . Có thể nói, bằng vào những  nỗ lực  cứu người giúp đời không  mệt mỏi   liên tục  nhiều năm, ông đã  thành công  trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không  cầu xin  bất kỳ một  sức mạnh   siêu nhiên  nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong  chúng ta  cũng đều có thể làm được nếu có đủ  quyết tâm , không loại trừ bất cứ ai. 

Bản văn thứ nhất là “Liễu Phàm tứ huấn” hay Bốn điều khuyên dạy của 

tiên sinh

 

Viên Liễu Phàm

, do ông viết ra để kể lại 

câu chuyện

 của chính 

cuộc đời

 mình cho con cháu, 

đồng thời

 cũng thông qua đó nêu rõ tính xác thực của lý 

nhân quả

, khuyên người phải biết sợ sệt tránh xa những việc xấu ác và 

nỗ lực

 làm thiện. Bản văn thứ hai là “Du Tịnh Ý công ngộ Táo thần ký” hay Chuyện Du Tịnh Ý gặp thần Bếp, do ông Du Tịnh Ý kể lại 

cuộc đời

 nhiều 

sóng gió

 của mình cùng cuộc hội ngộ 

ly kỳ

 với một nhân vật mà ông 

tin chắc

 là thần Bếp, qua đó đã giúp ông nhìn lại được 

nội tâm

 của chính mình để 

nhận ra

 và 

phân biệt

 được những điều 

thiện ác

 thật rõ rệt, nhờ đó đã có thể hạ 

quyết tâm

 “tránh ác làm thiện”, và 

cuối cùng

 đạt kết quả là 

chấm dứt

 được những chuỗi ngày 

tai họa

 

liên tục

 giáng xuống 

gia đình

 ông, để có thể sống một cách an vui 

hạnh phúc

 

cho đến

 

tuổi già

. Nói cách khác, bằng sự thay đổi tâm ý của chính mình, ông đã chuyển họa thành phúc.

Cả hai bản văn nêu rõ việc “chuyển họa thành phúc” này đều đã được 

Đại sư

 

Ấn Quang

 chọn khắc in vào phần 

phụ lục

 của sách An Sĩ toàn thư (bản Hán văn), được xếp ngay sau phần Giảng rộng 

nghĩa lý

 bài văn Âm chất. 

Đại sư

 

Ấn Quang

 đã có nhiều hàm ý rất 

sâu xa

 khi chọn 

lưu hành

 hai bản văn khuyến thiện này, và 

hiệu quả

 

lợi lạc

 của việc này đối với người đọc đã được 

chứng minh

 một cách 

rõ ràng

 qua 

thời gian

.

Về bản văn thứ nhất, 

tiên sinh

 

Viên Liễu Phàm

 không viết ra như một 

nghiên cứu

 triết lý, mà như một sự chia sẻ 

kinh nghiệm

 

thực tiễn

, bởi chính ông là người đã vận dụng 

thành công

 những điều ông viết ra đây. Ông đã thực sự 

chuyển đổi

 được số mạng, thay đổi 

cuộc đời

 từ những điều 

bất hạnh

 sang thành an vui 

hạnh phúc

. Có thể nói, bằng vào những 

nỗ lực

 cứu người giúp đời không 

mệt mỏi

 

liên tục

 nhiều năm, ông đã 

thành công

 trong việc tự thay đổi số phận của mình mà không 

cầu xin

 bất kỳ một 

sức mạnh

 

siêu nhiên

 nào. Ông đã tự mình tạo lập số mạng. Và hơn thế nữa, ông đã xác quyết rằng những gì ông làm được thì mỗi người trong 

chúng ta

 cũng đều có thể làm được nếu có đủ 

quyết tâm

, không loại trừ bất cứ ai. 

Nguồn: dantocking.com

Đọc Sách

Truyện Thánh Martin De Porres
Tấm Lòng Vàng là Tập Tiểu-sử trong đó tác giả đã dùng ngòi bút quen thuộc phác lại đại cương cuộc đời đầy xả kỷ, hy sinh, bác ái của một người “da đen” mà ngày 6.6-1962 vừa qua, Đức Thánh Cha Gioan XXIII đã long trọng suy tôn lên Đài vinh quang các Thánh trước mặt 39 Hồng Y, rất đông Giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và hơn 70.000 giáo dân hành hương bời tứ phương tuôn đến Kính Thánh bất diệt trong dịp này…..
Tịnh Độ Vô Vi - Nguyễn Kim Muôn PDF
Cái Tuyệt đối thể hiện qua hình thức phi cá thể là ‘Vô vi’ hay ‘Niết bàn’, và trong hình thức một cá nhân cụ thể, là đức ‘Phật’ hay ‘Như lai’. Các kinh đã nói về tính siêu nghiệm của Niết bàn bằng ngôn ngữ được cảm nhận sâu sắc của thi ca. Khối lượng văn tịch đồ sộ A-tỳ-đàm nhắm phân tích về hữu vi. Các phát biểu về Vô vi khá hiếm thấy và chủ yếu nằm trong ba đề tài chính. Thứ nhất là các chủ đề đã được thảo luận chi tiết trong phần I, nơi Niết bàn được định nghĩa trong tương quan với ba đặc tính của mọi pháp hữu vi. Chủ đề thứ hai và thứ ba đề cập sự liên hệ của Niết bàn với nhân quả và hiện hữu, mà ở đây cần nói thêm vài điều. Chỉ có ở Đại thừa, sự quan tâm rõ ràng chuyển hướng về Vô vi là cái hầu như đã trở thành đề tài bàn luận duy nhất, tính siêu nghiệm của nó được bảo vệ để tránh mọi hiểu lầm không những bởi sự phủ định chất chồng lên phủ định, mà còn bởi các nỗ lực không ngừng để minh xác ý nghĩa của những quan điểm phủ định được sử dụng.Tịnh Độ Vô ViNXB Đức Lưu Phương 1928Nguyễn Kim Muôn44 TrangFile PDF-SCAN
Tiên Thiên Chánh Lý Trực Luận PDF Xung Hư Tử
Tiên Thiên Chánh Lý Trực LuậnNhà in Bùi Văn Nhân Xung Hư Tử141 TrangFile PDF-SCAN
Tu Thân - Nguyễn Kim Muôn PDF (NXB Xưa Nay 1933)
Hai chữ TU THÂN rất rẽ rề, mà phần nhiều người tu phải chẳng nổi, chỉ làm theo bề ngoài cái sự Tu Thân, nên vẫn còn hư sanh chết lảng. Tưởng đâu hai chữ Tu Thân là tu mà nhờ thân sau, nên miểng là tu ít tu nhiều, được để dành qua kiếp sau vậy; phải biết, mình tu như mình làm một sự gì phải cho có kết quả. Tu ít kết quả ít, Tu nhiều kết quả nhiều. Ăn một ngày chay củng vậy, nó có ích về chổ nào mới ăn, chớ chẳng phải ăn chay trường đó là quí, mà tu hoài tu hủy, cái Tánh củng còn ganh ghét.Tu ThânNXB Xưa Nay 1933Nguyễn Kim Muôn84 TrangFile PDF-SCAN