Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Yêu Phải Tiểu Thư 0 Điểm (Lục Phong Tranh)

Trên sàn nhà trọ để mấy thùng giấy, Bạch Thư Duy đang đóng gói những thùng cuối cùng, làm bạn với anh trừ khúc nhạc thính phòng du dương của Chopin, còn có một bình rượu đỏ mùi trái cây thơm ngào ngạt, anh vừa uống vừa đóng gói rất thoải mái.

Đây là đêm cuối cùng anh ở Newyork. Ngày mai, anh phải trở về Đài Loan.

Trong phòng hầu hết đều trống rỗng, có thể tặng thì cũng đã tặng, không thể tặng đã đóng hết vào thùng chuẩn bị mang về Đài Loan. Tủ treo quần áo trống rỗng, ngay cả hộc tủ vốn bày đầy sách cũng chỉ còn dư lại 2, 3 quyển.

Anh đem nhưng thùng giấy đã được đóng hoàn chỉnh đặt ở vị trí gần cửa, để sáng sớm ngày mai người của công ty dọn nhà Quốc Tế tới dễ dàng chuyển đi.

Chuông điện thoại vang lên, hai chân thon dài nhanh chóng vượt qua mấy thùng giấy, Bạch Thư Duy rốt cuộc tìm được điện thoại dường như bị chìm ngập trên nền nhà, anh vươn tay ra lấy điện thoại rồi bấm nút nghe. Tìm mua: Yêu Phải Tiểu Thư 0 Điểm TiKi Lazada Shopee

Bạn đang đọc truyện tại ThíchTruyện.VN

“Hel¬lo.” Giọng nói tràn đầy từ tính.

“Thư Duy, là mẹ đây……. Con ngày mai trở về Đài Loan đúng không?”

“Đúng, trưa mai máy bay cất cánh, có phải muốn con giúp mẹ mang thứ gì về hay không?”

“Không không không……. Không cần, mẹ muốn nói cho con một chuyện, mẹ đang ở Thụy Sĩ, sau khi con về đến nhà phải tự chăm sóc bản thân đó.”

“Thụy Sĩ?” Nếu như anh nhớ không lầm thì mẹ không phải đang ở Pháp sao? Mà không, đó là chuyện mấy ngày trước, bây giờ bà nên kết thúc chuyến du lịch và bình an trở về Đài Loan mới đúng, tại sao ở Thụy Sĩ?

“Ha ha, kế hoạch thay đổi, dì Trần của con nói lần này mẹ đến Paris dì sẽ làm hướng dẫn viên du lịch, ngồi máy bay lâu làm cái mông đau muốn chết, lần sau nếu bay xa như vậy mẹ sợ sẽ không chịu nổi. Cho nên mẹ tạm thời quyết định, thừa dịp lần này ra ngoài đi du lịch mấy quốc gia luôn, mấy ngày nữa mẹ còn muốn đi Đan Mạch, chờ chơi đủ rồi lấy dũng khí chịu đau cái mông bay về Đài Loan.”

Coi, những người phụ nữ yếu đuối này thật có sức sống. Bạch Thư Duy vô cùng bái phục không quên dặn dò “Đừng đùa giỡn nữa, phải chú ý an toàn, biết không?”

Mẹ Bạch ở đầu kia điện thoại không chấp nhận, tức giận nói “Làm như mẹ là đứa trẻ ba tuổi vậy. Đừng quên, mẹ là mẹ của con.” Trả lời hùng hôn.

Aizzz…. Cũng vì biết mẹ là mẹ con nên con mới lo lắng. Bạch Thư Duy lầu bầu ở trong lòng.

Mẹ của anh cái gì cũng tốt, cũng rất biết hưởng thụ cuộc sống của mình, dù chỉ sống một người nhưng cuộc sống thường ngày cũng không có tẻ nhạt, hoàn toàn không cần lo lắng bà sẽ bị chứng u uất. Cũng nói, mấy năm này bà tự dưng si mê đi du lịch nên cuộc sống của bà còn có mục tiêu, ba ngày hai bữa thu xếp đồ đạc của mình rồi lên đường. Mỗi lần nhận được điện thoại, anh mới biết mẹ lại đi ra ngoài.

Nhưng đừng nhìn mẹ anh chu du các nước thì có kiến thức rộng rãi. Quên đi, đây chính là điều sẽ làm cho mọi người bị hù dọa đến khi chảy mồ hôi lạnh ướt sũng cả người.

Lấy chuyện an toàn của bản thân để nói, lúc anh đang ở Đài Loan thì trong nhà chưa từng bị ăn trộm ghé qua. Không ngờ anh chỉ xuất ngoại du học chưa tới nửa năm, ăn trộm đã chiếu cố đến ba lượt. Lý do không có gì khác là mẹ anh đi ra ngoài quên khóa cửa hoặc không thì chìa khóa cắm ở trên cửa không rút ra. Thật may lúc ăn trộm ghé thăm thì mẹ đều không ở nhà, nếu không thì hậu quả rất nghiêm trọng.

A…. nói đến chuyện an toàn của bản thân... Bạch Thư Duy đột nhiên nghĩ đến vì bị ăn trộm mà cửa trước và cửa sau đều đã đổi khóa, mẹ anh lại không có ở đó, anh không có chìa khóa thì làm thế nào vào được nhà?

“Đợi chút, mẹ đại nhân yêu quý của con ơi, xin hỏi con về bằng cách nào? Con không có chìa khóa nhà.” Anh không muốn đi ngàn dặm xa xôi về nhà, ban đêm lại phải tá ngoài lề đường.

“Dưới miếng lót đạp chân trước cửa có để sẵn một cái chìa khóa.” Mẹ Bạch xong cười sảng khoái.

“What?? Mẹ lại để chìa khóa ở dưới miếng lót đạp chân trước cửa.” Bạch Thư Duy kêu to, hoàn toàn không vui vẻ mà cảm thấy tê rần hết da đầu.

Mẹ cũng không ngẫm lại xem, lần gần nhất bị ăn trộm chính là vì tên trộm cầm chìa khóa ở dưới miếng lót đạp chân trước cửa, không cần tốn nhiều sức vẫn vào được nhà. Nhưng trộm không lấy thứ gì đáng giá chỉ ăn sạch thức ăn trong tủ lạnh, không ngờ bà vẫn không rút ra được bài học, vẫn tiếp tục để chìa khóa dưới miếng lót đạp chân trước cửa. Vậy chẳng hóa ra là muốn nhà mình thành khách sạn còn trộm thành quản gia nhà sao?

“Aizzz…. Đừng lo lắng… Con chưa nghe nói qua sao? Chỗ nguy hiểm nhất chính là chỗ an toàn nhất, mẹ cũng không phải là ngu ngốc mơ mơ màng màng. Tất cả mọi chuyện mẹ đều đã tính toán kỹ.”

Nghe giọng nói của mẹ vui vẻ như một cô gái, trên mặt Bạch Thư Duy xuất hiện ba đường vạch đen ——”Con thật sự không biết nên nói mẹ mơ mộng hay là ngu ngốc.”

“Có đứa con nào lại không tin tưởng mẹ mình giống như con không hả?” Mẹ Bạch đáp lại ngay.

“Xin lỗi, con cho rằng thành thật là một đức tính tốt.” Anh tức giận nói.

Thôi được, coi như ăn trộm muốn vào nhà, hai mẹ con bọn họ một ở Thụy Sĩ một ở Newyork, muốn ngăn cản cũng không ngăn cản được, suy nghĩ lạc quan hơn thì coi như ăn trộm có thể dọn sạch tất cả mọi thứ trong nhà cũng mang không mang đi được ngôi nhà. Thà về nhà mà không có giường còn hơn không có nhà để về.

A….. Anh có phải đang tự an ủi bản thân? Bạch Thư Duy tự mình đánh trống lãng lắc đầu.

Sau đó mẹ nói thêm ba bốn câu trò chuyện bình thường, anh cúp điện thoại rồi đặt xuống ngay chỗ đang đứng, tiếp tục đóng thùng còn đang dang dở.

Cầm những quyển sách còn sót trên giá sách xếp lại, đang chuẩn bị bỏ vào thùng giấy thì trong quyển sách mang từ Đài Loan sang tình cờ rơi ra một tấm hình.

Thấy thế, Bạch Thư Duy nhặt lên.

Nhớ là lúc đó chụp vội, ống kính bị chấn động lại không tập trung nên hình ảnh rất mơ hồ, cộng thêm bị ngược sáng nên không nhìn được rõ người trong hình là ai. Chỉ có thể thấy thân hình mảnh mai nên đoán đó là một cô gái, mặc đồng phục nữ sinh trung học, nghiêng người ngồi trên ghế và chống cằm.

Nhưng Bạch Thư Duy dường như không tốn hơi sức suy nghĩ thì tên cô gái đã hiện lên trong lòng.

Đây là Kha Dụ Phân mười tám tuổi, một cô gái trung học nghiêm túc, cứng nhắc, khô khan không hề thú vị.

Trước buổi lễ tốt nghiệp một ngày, bạn cùng lớp mang theo máy ảnh tới trường học, mọi người tò mò vuốt vuốt một hồi rồi cười cợt đùa giỡn tranh đoạt nhau cầm xem, không biết người nào nhấn nút shutter(*nút chụp). Vô tình chụp trúng Kha Dụ Phân đang ngồi ở xa xa.

Tấm này hoàn toàn không tốt và bị ném vào thùng rác, đến khi Bạch Thư Duy len lén nhặt lên, bỏ vào túi áo đồng phục mang về nhà.

Đối với anh mà nói, Kha Dụ Phân mười tám tuổi mơ hồ giống như tấm hình này, nhưng Kha Dụ Phân mười tuổi lại như một gốc cây nhỏ rắc rối khó gỡ, đâm rễ sâu trong lòng anh.

Anh nhớ cô, nhớ mùa hè năm ấy, lần đó bọn họ gặp nhau...

Mùa hè năm 1994,

Bạch Thư Duy mười tuổi, mấy ngày trước mới cùng mẹ dời đến thị trấn nhỏ này, vì để quen thuộc với nơi ở mới nên mỗi ngày anh đều ra ngoài một mình để thám hiểm mọi ngõ ngách.

Quần áo anh mặc vô cùng đơn giản, đồ anh mặc vô cùng quái gở. Quần short jean đã mòn và hơi bẩn, còn có mang theo một đôi dép lê để đi cho thuận tiện, mang theo một ít đồ ăn để có thể bổ sung năng lượng khi cần, còn ngậm một cây kẹo que ngon lành và bắt đầu lên đường thám hiểm.

Gặp Kha Dụ Phân chính vào một buổi chiều, sắc trời âm u như muốn trời mưa, không khí hơi ẩm ướt oi bức, hầu như mọi người đều núp ở trong nhà bật máy lạnh, chỉ có nhà thám hiểm bé nhỏ Bạch Thư Duy một mình đi xưng quanh công viên. Vô tình phát hiện cái xích đu anh thích nhất ở phía trước, nhưng đang đứng ở đó là một nữ sinh y hệt công chúa vô cùng xinh đẹp.

Tóc được chải rất chỉnh tề, mặc một cái áo đầm trắng như tuyết rất mộng ảo, dưới chân mang một đôi giày da trắng sáng giống như có thể nhìn thấy cái bóng của cô ấy. Khác với trên người anh là quần cụt dép... Oa ô, hoàn toàn khác biệt một trời một vực.

Nghe tiếng bước chân nữ sinh đó đột nhiên xoay đầu lại, đó là một gương mặt trắng trẻo mềm mại giống như một đứa con nít, hai má giống như bánh màn thầu mới ra lò, mềm mại non nớt, bộ dáng cực kỳ ngon miệng. Mắt tròn vo mi giống như bóng đèn dùng để trang trí cây thông noel trong nhà, cực kỳ sáng.

Nhưng cô xem ra hơi chột dạ, đôi mắt nhìn anh không ngừng xoay vòng, lông mi yêu kiều cong lên rung động không ngừng.

“Tôi…Tôi…Tôi...” Ấp a ấp úng thật lâu cuối cùng cô cũng không nói được cái gì, hơi chột dạ rồi bỏ chạy như một làn khói.

“A… Cô ta nhìn thấy quỷ hả?” Bạch Thư Duy gãi gãi đầu, bối rối không hiểu “Hay là trên xích đu có bẫy?”

Để tránh bị lừa, anh mở lớn mắt nhìn chằm chằm chỗ xích đu nữ sinh đó mới rời khỏi một lúc lâu. Khi xác nhận không có bất kỳ sự khác lạ nào, anh đặt mông ngồi lên, chân mang dép bắt đầu đung đưa, xích đu bắt đầu chuyển động theo ý anh.

Chỉ lát sau, Bạch Thư Duy đã đẩy xích đu lên thật cao, nhanh chậm đu đưa trong không khí làm tản đi thời tiết làm người ta khó chịu này. Anh khép hờ mí mắt hưởng thụ cảm giác đón gió, nhiều lần cảm thấy mình đã bay vào trong đám mây.

Rồi lại cao một chút, có lẽ anh thật có thể bay vào trong đám mây trở thành đứa trẻ nằm ở trên mây đầu tiên trên thế giới. Đến lúc đó khẳng định giống như minh tinh màn bạc, khắp nơi có người tìm anh ký tên. Bạch Thư Duy vui vẻ khi mơ đến điều đó.

Anh đang mơ đến giấc mơ tốt đẹp đó thì nữ sinh lúc nãy bỗng nhiên xuất hiện, mà đến thật khéo giống như khúc gỗ đâm thẳng vào phía trước bàn đu dây.

Thấy thế, Bạch Thư Duy trừng lớn mắt.

Ngu ngốc, cô không thể đứng ở đó, anh đu dây sẽ đụng vào cô!

“A….. Tránh ra! Né ra chỗ khác nhanh!” Trên xích đu Bạch Thư Duy vội vàng rống to, vẫy vẫy cánh tay muốn cô mau tránh ra, hai chân càng liều mạng cản xích đu lại, hy vọng có thể cô ấy không bị xích đu đụng phải.

Có lẽ quá nóng lòng, đột nhiên thay đổi trọng tâm nên anh không kịp phản ứng, cả người từ trên xích đu rớt xuống dưới té chỏng vó, cái ót còn bị xích đu đang đu lên gõ cho một cái.

“A……. Đau...” Bạch Thư Duy nằm dưới đất đau đến nhe răng trợn mắt, trong lòng lại cảm thấy thật xui xẻo.

Đợi chút, cô ấy không sao chứ?

Nghĩ đến nếu anh hại nữ sinh kia bị thương, về nhà nhất định mẹ sẽ cho anh ăn gậy trúc bầm dập tới no, anh không dám ở trên đất một giây đồng hồ nào nữa, nhịn đau nâng người lên, lấm lét nhìn trái phải tìm bóng dáng của nữ sinh kia.

Người nào?

Kỳ quái, rốt cuộc đã chạy đi đâu? Một người đang yên đang lành làm sao có thể vô duyên biến mất được? Chẳng lẽ cô là... Quỷ?

Nghĩ đến đây, Bạch Thư Duy run cầm cập không dám nghĩ tiếp, trong lòng vô cùng rối rắm.

“Aizzz… Tớ hỏi cậu, tại sao khi tớ ngồi xuống thì đứng yên, xích đu này lại bị hư hả?”

Nghe giọng nói của nữ sinh, Bạch Thư Duy giống như bị sét đánh. Đầu thuận theo tiếng nói quay đầu lại, quả nhiên nhìn thấy nữ sinh đó hù dọa làm anh chảy mồ hôi lạnh ướt sũng cả người, đang vô tư ngồi trên xích đu anh mới vừa chơi, trên đất có một cái bóng thật dài của cô.

A… Có bóng... A di đà Phật, cô ta có bóng.

Nhưng vừa nghĩ tới mình bị cô dọa sợ, Bạch Thư Duy lại trưng ra cái mặt thối đối mặt với cô.

“Cậu có biết cậu mới vừa làm một chuyện rất nguy hiểm hay không? Nếu tớ không dừng lại thì đầu cậu đã nở hoa rồi đó. Tớ nói với cậu, về sau tuyệt đối không được đứng trước mặt xích đu hoặc sau lưng xích đu, có nghe không?” Anh vô cùng bực tức cảnh cáo cô.

“Tại sao? Sẽ làm nó hư sao?” Mắt to tròn vo nháy nháy, nữ sinh này trưng ra vẻ mặt vô tội nhìn anh rồi đưa tay sờ sờ xích đu “Bây giờ nó bị hư rồi phải không? Bởi vì nó không di chuyển mà.”

Bạch Thư Duy không biết nên khóc hay cười “Ở đây không phải là khu vui chơi của trẻ con, xích đu trong công viên là phải tự mình đu, không thể tự chạy như trò chơi chạy bằng điện.” Anh hơi hoài nghi không biết nữ sinh này là ngu đần hay là người ngoài hành tinh.

Tức giận đứng dậy phủi đất ở trên người, xoa xoa chỗ té đau, anh nhảy cò cò một chân đi tìm chiếc dép bị thất lạc. Làm ơn, anh cũng quần áo chỉnh tề đó nhé.

“Cậu dạy cho tớ chơi xích đu được không?”

Anh nghiêng đầu qua, vẻ mặt cổ quái nhìn cô, ngón tay chỉ chỉ mình thì nhìn thấy cô gật đầu, anh cảm thấy vô cùng không thể tưởng tượng nổi “Không thể nào, cậu không biết chơi xích đu?”

Nữ sinh đó thành thật lắc đầu rồi ngước cằm lên, dịu dàng nhưng cũng rất quật cường.

“Tớ học rất nhanh nên cậu qua dạy tớ đi.” Không đợi anh đồng ý, mặt mày cô đã hớn hở bước nhanh về phía anh, không để anh cự tuyệt, cô lôi kéo tay của anh đi về phía xích đu.

Cơ thể cô tỏa ra mùi thơm dìu dịu, quần áo giày dép cũng đều sạch sẽ, không giống anh. Anh vốn ăn mặc rất tùy tiện, mới vừa nãy còn bị té nên quần áo bám bụi bẩn, hơn nữa, tay của cô thật mềm... Lần đầu tiên được một nữ sinh tuổi xấp xỉ nắm tay, Bạch Thư Duy đột nhiên cảm thấy mình không thể suy nghĩ gì, chỉ có thể lảo đảo đi theo.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Yêu Phải Tiểu Thư 0 Điểm PDF của tác giả Lục Phong Tranh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Người Mẹ - Pearl S. Buck
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Mời các bạn đón đọc Người Mẹ của tác giả Pearl S. Buck.
Ngài Đại Tá Chờ Thư - Gabriel García Márquez
G. Garcia Marquez  nói : Trên thực tế mỗi nhà văn chỉ viết có một cuốn sách. Cuốn sách tôi đang viết là cuốn sách nói về cái cô đơn.  Trong tác phẩm của ông, cái cô đơn được biểu hiện như là mặt trái của sự đoàn kết, như là sự tách mình khỏi cộng đồng xã hội của con người, hay nói khác đi, đó là những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cá nhân ích kỷ của con người trong xã hội tư bản. Đó là những típ người đã tha hoá xuống hạng người - thú, người - công cụ - những loại người ở mức dưới Người...  *** Gabriel Garcia Márquez (sinh năm 1927) tại Aracataca, một thị trấn bên bờ biển Caribê, thuộc miền Bắc Columbia, ông là nhà văn nổi tiếng người Colombia. Ngoài viết văn ông còn là một nhà báo và một nhà hoạt động chính trị. Ông được biết đến với các tiểu thuyết Tình yêu thời thổ tả, Mùa thu của vị trưởng lão, Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Trăm năm cô đơn... Gabriel Garcia Márquez sinh ra và lớn lên tại một gia đình trung lưu gồm 11 người con và ông là anh cả. Những năm đầu tiên học tại đại học Quốc gia Colombia Márquez đã bắt đầu tham gia viết báo và bắt đầu những tác phẩm văn học đầu tiên gồm 10 truyện ngắn nổi tiếng. Sau khi học được năm kỳ, ông quyết định bỏ học rồi chuyển về Barranquilla thực sự bước vào nghề báo và viết tiểu quyết đầu tay La hojarasca (Bão lá). Trong năm 1955, ông tới Thụy Sỹ làm đặc phái viên của tờ El Espectador. Sau đó qua Ý học tại Trung tâm thực nghiệm điện ảnh rồi sang Paris sinh sống trong điều kiện vật chất vô cùng khó khăn. Trong thời gian này ông viết cuốn tiểu thuyết La mala hora (giờ xấu), đồng thời tách từ cuốn này viết nên El coronel no tiene quien le escriba (Ngài đại tá chờ thư). Năm 1982 ông nhận giải Nobel văn học cho những cống hiến của mình. Sau đó ông vẫn tiếp tục sáng tác và có nhiều tác phẩm giá trị, ngày càng khẳng định được tên tuổi trên văn đàn thế giới. *** Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: - Ký sự về một cái chết đã được báo trước (tiểu thuyết), Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983. - Ngài đại tá chờ thư (tập truyện), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Mạnh Tứ dịch, NXB Văn Học, 1983; 2001. - Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Hải Phòng - NXB Đồng Nai, 1987. - Giờ xấu (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Thanh Niên, 1989; NXB Văn Học, 2001. - Tướng quân giữa mê hồn trận (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1990; NXB Hội Nhà Văn, 1999.  - Mười hai truyện phiêu dạt (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1995; NXB Văn Học, 2004. - Tình yêu thời thổ tả (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 1995; 2000. - Trăm năm cô đơn (tiểu thuyết), Nguyễn Trung Đức - Phạm Đình Lợi - Nguyễn Quốc Dũng dịch, NXB Văn Học, 1986; 1992; 1999; 2000. - 36 truyện đặc sắc (tập truyện ngắn), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2001. - Tin tức về một vụ bắt cóc (tiểu thuyết), Đoàn Đình Ca dịch, NXB Đà Nẵng, 1998; NXB Văn Nghệ TP. HCM, 2001. - Những người hành hương kì lạ (tập truyện ngắn), Phan Quang Định dịch, NXB Thanh Niên, 2002. - Tuyển tập truyện ngắn, Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Văn Học, 2004. - Sống để kể lại (hồi kí), Lê Xuân Quỳnh dịch, NXB TP. Hồ Chí Minh, 2005. - Ông già và đôi cánh khổng lồ, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài chọn lọc, NX B Quân Đội Nhân Dân, 1998; Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Làng này không có kẻ trộm, Quà Tết, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Dấu máu em trên tuyết (tập truyện), Nguyễn Trung Đức dịch, NXB Đà Nẵng, 1997. - Máy bay của người đẹp ngủ, Gió Bắc, Mùa hè hạnh phúc của bà Phorớt, Thánh bà, Người bạn Mutit của tôi, Thưa Tổng thống - chúc ngài thượng lộ bình an, Dấu máu em trên tuyết, Nguyễn Trung Đức dịch; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Nguyễn Kim Thạch dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn Châu Mỹ Latinh, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Chuyện buồn không thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong cuốn Thời cơ của Matraga, NXB Mũi Cà Mau, 1986; Những truyện ngắn nổi tiếng thế giới, NXB Hội Nhà Văn, 1999. - Buổi chiều tuyệt vời của Bantaxa, Dương Tường dịch; Thần chết thường ẩn sau ái tình, Người chết trôi đẹp nhất trần gian, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999. - Biển của thời đã mất, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 1999; Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Bà Maria Dos Przeres, Đoàn Đình Ca dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000. - Đôi mắt chó xanh, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn Châu Mỹ, NXB Văn Học, 2000; Truyện ngắn chọn lọc - tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 1998; Tuyển tập truyện ngắn các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Hội Nhà Văn, 2004. - Thần chết thường ẩn sau ái tình, Nguyễn Trung Đức dịch, in trong Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải Nobel, NXB Văn Học, 2004. *** Êrênhđira đang tắm cho bà nội thì cơn gió bất hạnh của đời cô cũng bắt đầu nổi lên. Căn nhà khổng lồ, tường đã lở vôi, vốn đã xiêu vẹo trong cảnh cô đơn của hoang mạc, rùng mình ngay từ cơn gió giật đầu tiên. Nhưng Êrênhđira và người bà đã quen với những nguy hiểm của thiên nhiên hung bạo ấy, cho nên cả hai người, đang ở trong buồng tắm, cái buồng tắm được trang trí bằng những chiếc lông công bện lại và bằng những bức khảm nổi thường dùng trong các nhà tắm thời các Hoàng đế Xêda – hầu như không nhận ra được sức gió mạnh tới mức nào.   Bà già, trần truồng và khổng lồ như một con cá voi, nằm trong chậu tắm bằng đá hoa cương. Cô cháu vừa xấp xỉ tuổi mười bốn, dáng người mảnh khảnh và quá ngây thơ so với tuổi của mình. Với cử động thong thả mang vẻ kính cẩn, cô cháu tắm cho bà mình bằng thứ nước lá thơm mà cứ mỗi bận dội nước xong, lá bám vào cái lưng nần nẫn, lá bám vào mái tóc ngã màu cước, lá bám trên đôi vai vạm vỡ có xăm hình nhăng nhít với vẻ giễu cợt của các thủy thủ.   - Đêm qua bà nằm mơ thấy mình đang chờ thư – người bà nói.   Êrênhđira, vốn chỉ nói khi thật cần thiết, hỏi bà:   - Bà nằm mơ vào hôm nào cơ?   - Vào ngày thứ Năm!   - Vậy là một lá thư buồn bã ạ! Nhưng có lẽ không khi nào nó tới, bà đừng lo!   Khi tắm xong cho bà già, cô cháu dắt bà mình vào phòng riêng. Bà già béo ục ịch tới mức mỗi bận đi lại bà phải vịn vào vai cô cháu hay chống một cái ba-toong giống hệt cây gậy của Đức giáo chủ. Nhưng trong những cử chỉ nặng nề ấy của bà già, người ta vẫn nhận ra cái vẻ oai phong của lối sống vương giả đã hết thời. Trong căn phòng bày biện có phần hơi bừa bãi y hệt sự bày biện trong toàn căn nhà, Êrênhđira phải mất hai giờ liền mới trang điểm xong cho bà nội mình. Trước tiên cô cháu gỡ từng sợi tóc một, xức nước hoa và chải mượt mái tóc cho bà sau đó mặc cho bà bộ váy hoa sặc sỡ. Cuối cùng cô tô điểm cho bà: thoa phấn da mặt, tô môi son, đánh má hồng, tô móng tay. Khi trang điểm xong cho bà mình như trang điểm cho con búp bê có cỡ người thực, Êrênhđira dẫn bà ra vườn hoa, cái vườn hoa nở toàn hoa sặc sỡ y hệt màu hoa trên váy áo bà, rồi để bà ngồi trên chiếc ghế có tay dựa y như chiếc ngai vàng của các đấng Quân vương, một mình lặng lẽ nghe đĩa hát. ... Mời các bạn đón đọc Ngài Đại Tá Chờ Thư của tác giả Gabriel García Márquez.
Narcisse và Goldmund - Hermann Hesse
Tập tu ở tu viện Mariabronn, Narcisse nổi bật bởi năng lực trí tuệ và văn hoá của mình. Người ta giao phó cho thầy cậu học sinh Goldmund mà thân sinh cậu ta muốn định phận làm một tu sĩ: để chuộc tội cho cuộc sống xáo động trong quá khứ của thân mẫu cậu. Narcisse kết bạn với chú em thông minh ấy. Thầy cảm nhận khuynh hướng của cậu không phải ở tu viện, và giúp cậu chọn con đường đi. Từ ấy, Goldmund lao vào sống lang thang: trải qua các cuộc phiêu lưu tình ái, cậu tha thiết bắt gặp được tiện mạo lý tưởng của người phụ nữ "Êva vĩnh cửu", gương mặt thần tượng có thể thay cho thân mẫu cậu đã qua đời. Goldmund trải qua mọi nỗi gian truân, phạm nhiều lỗi lầm trong cuộc sống nay đây mai đó. Không phải Goldmund không ý thức về bản ngã, các điều đối lập nhau trong tâm hồn và xúc cảm của mình. Trong một giờ khắc suy tư tỉnh táo và sâu lắng, cậu quyết định trở thành một nhà điêu khắc: nghệ thuật là phương sách để tìm cái đẹp. Tuy vậy, cậu lại ra đi, cuốn hút theo cuộc sống lang thang... Narcisse và Goldmand kết thân với nhau; tư chất, lối sống, số phận của họ khác nhau, nhưng họ có những điểm gặp để hiểu và yêu quý nhau, để bổ sung cho nhau, khi còn trẻ cũng như về sau này.  *** Văn hào lỗi lạc người Đức Hermann Hesse sinh ngày 2/7/1877 tại Đức. Cha mẹ ông đều là những nhà truyền giáo từng làm nhiệm vụ ở Ấn Độ, còn ông ngoại là nhà nghiên cứu nổi tiếng về Ấn Độ, bởi vậy tư tưởng của Hesse chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo. Cảnh gia đình trí thức ngoan đạo với sự pha trộn của nhiều nền văn hoá khác nhau ảnh hưởng rất sâu đậm trong con người nhà văn Hermann Hesse. Tâm hồn ông luôn chuyển động giữa hai cực Đông - Tây để đi tìm một nhân loại thuần khiết, một nhân loại sống trong cảnh bình yên. Hermann Hesse khởi nghiệp sáng tác bằng thơ ca năm 1898, với tập thơ "Romantische Lieder" (Các bài hát lãng mạn). Tuy nhiên, tên tuổi ông được biết đến nhiều hơn qua các tiểu thuyết "Peter Camenzind", "Demien", "Steppenwolf" (Sói đồng hoang), "Siddhartha" và "Das Glasperlenspiel" (Trò chơi với chuỗi hạt cườm). Con đường sáng tác của Hesse đi từ tình cảm cô đơn và nỗi buồn lãng mạn của cuối thế kỷ XIX đến tầm nhìn xa trông rộng, có trách nhiệm đối với xã hội ở thế kỷ XX, ước mơ và tin chắc vào tương lai tốt đẹp hơn của con người. Hermann Hesse đã từng viết : "Dù bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn tha thiết yêu thương trần gian điên dại này". Cuộc đời ông đã trải qua vô vàn những thăng trầm đau đớn, nhưng ông vẫn miệt mài sáng tạo. Năm 1946 ông được tặng Giải Goethe và Giải Nobel Văn học. *** M ùa hè trôi qua, hoa phù dung, cúc lam, hoa cây đen và cúc sao tàn rơi, ếch nhái trong ao im tiếng, lũ cò bay lên cao, chuẩn bị ra đi. Bấy giờ Goldmund lại trở về. Một chiều mù sương, cậu trở về, không vào tu viện mà đi thẳng đến cổng vào gian xưởng của mình. Cậu đi bộ, không có ngựa nữa. Erich hoảng hốt khi thấy thầy bước vào. Chú thợ bạn nhận ra ngay thầy qua cái nhìn đầu tiên, con tim chú nhưng muốn bay ra đón thầy, nhưng dường như đây là một người hoàn toàn khác lạ: Một Goldmund giả, già đi nhiều năm, bộ mặt gần như tàn tạ, đầy phong trần, héo hon, nhăn nheo, bệnh hoạn, đau khổ, nhưng không để lộ mình đang đau đớn mà điểm một nụ cười nhân từ và kiên nhẫn. Goldmund kéo lê bước chân vật vã và dường như rất uể oải, mệt nhọc. Cậu Goldmund biến dạng và không ai nhận ra ấy chăm chăm nhìn chú thợ bạn trẻ với một con mắt kỳ lạ. Chuyến trở về của cậu rất kín đáo; cậu ứng xử như mình vừa ở căn phòng bên cạnh, như thể mới chốc lát vừa rồi, cậu đã ở đây. Chìa bàn tay cho người học trò, cậu không nói gì, không chào hỏi, chỉ bảo: “Ta cần ngủ”, có vẻ rất mệt nhọc. Cậu cho Erich đi nơi khác và sang phòng của mình ở bên cạnh gian xưởng. Nơi đây, cậu dỡ mũ và đánh rơi xuống đất, cởi giày và lại bên chiếc giường. Trong góc phòng, dưới lớp rào che, cậu nhận ra pho tượng Đức Mẹ Đồng Trinh của mình, ra một dấu hiệu tỏ ý bạn bè nhưng không dở lớp vải che và không chào hình ảnh ấy. Ngược lại, cậu xuất hiện ở khung cửa sổ nhỏ, nhìn thấy Erich ở ngoài sân đang bối rối, và cậu lên tiếng réo gọi: - Erich, cháu không cần báo với bất cứ ai là ta đã trở về. Ta đang rất mệt. Từ bây giờ đến mai, còn thời gian. Sau đó, cậu để nguyên quần áo đang mặc, nằm lăn ra giường. Hồi lâu, không ngủ được, cậu ngồi dậy, nặng nề bước lại gần bức tường có treo một chiếc gương soi và đưa mắt nhìn vào đó. Cậu qua sát chăm chú lão Goldmund từ trong gương nhìn cậu: Một bộ mặt quen biết nhưng lại như xa lạ, đối với cậu nó dường như không thực sự hiện hữu, và cậu không hề cảm thấy có chút quan hệ nào. Cậu chỉ nhớ những bộ mặt khác từng quen biết: Một ít vì thầy Niklaus, một chút về vị hiệp sĩ già ngày trước đã ra lệnh may cho cậu một bộ áo quần đung thời trang, cũng có phần thánh Jacques trong ngôi nhà thờ, vị thánh Jacques cao niên, nhiều râu, dưới chiếc mũ khách hành hương có vẻ rất già, rất già và da xạm, tuy vậy vẫn toát ra một ấn tượng vui vẻ và nhân từ. ... Mời các bạn đón đọc Narcisse và Goldmund của tác giả Hermann Hesse.
Chiếc Cầu Trên Sông Drina - Ivo Andritch
Chiếc cầu danh tiếng xây trên sông Drina ở Vichégrad để nối xứ Bosnie với xứ Serbie, cả hai thời đó đều là những tỉnh trong đế quốc Thổ, mới là nhân vật chính trong bộ cố sự chép từ thế kỷ XVI tới năm 1914 đó. “Công trình kiến trúc quí báu, đẹp tuyệt vời” kia trong xứ hẻo lánh ấy làm cho người ta ngạc nhiên và giúp cho tác phẩm có tính cách nhất trí: Chương nào cũng chép một cố sự liên quan tới “chiếc cầu trên sông Drina” Chiếc cầu đó được xây 1571, chương 3 và 4 chép việc xây cầu, những khổ dịch, và đau khổ ghê gớm mà tên hiểm ác Abidaga, người tin cẩn của quan tể tướng, bắt dân chúng chịu âm mưu phá cầu do Radislav tổ chức bị phát giác, Radislav bị bắt giam rồi bị xử tử xóc xiên (cuộc hành trình này thật rùng rợn, bút pháp tả chân thành tàn nhẫn) Nhưng mọi thứ biến cố - hết thảy đều liên quan tới chiếc cầu trên sông Drina - nối tiếp nhau xảy ra trong những thế kỷ sau: nạn lụt, loạn lạc, bệnh dịch, và trên cầu đặt lính canh gác, kiểm tra mọi người qua cầu, vụ tự tử của thiếu nữ diễm lệ Fata, để tránh khỏi một cuộc ép duyên… Bố cố sự dài này xen lẫn nhiều truyện tình cảm hoặc khôi hài, hấp dẫn từ đầu tới cuối. Như trong tập Cố sự Travnik, biến cố lịch sử ghép vào những sự biến cố gia đình. Tác giả là một học giả mà cũng là một nghệ sĩ, mô tả tâm lý rất dài. *** Ivo Andrić là nhà văn Nam Tư đoạt giải Nobel Văn học năm 1961. Ivo Andrić sinh ở làng Dolac, gần Travnik, Bosna và Hercegovina, khi đó thuộc Đế chế Áo-Hung. Tên là Ivan nhưng mọi người thường gọi là Ivo. Bố mất năm Ivo lên 2, mẹ phải đưa con đến ở nhờ một bà dì. Thời trẻ Ivo Andrić sống ở Bosnia nên ông có điều kiện tiếp xúc với nhiều tầng lớp đại chúng của nhiều sắc tộc, nhiều tôn giáo, nhiều nền văn hóa khác nhau vùng Balkan. Ông học triết học tại các đại học ở Zagreb, Viên và Kraków. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra khiến ông phải nghỉ học; sau đó bị bỏ tù do hành động chống Đế quốc Áo. Năm 1923, Ivo Andrić nhận học vị tiến sĩ tại trường Đại học Graz, làm việc tại Bộ ngoại giao Nam Tư. Chức vụ cuối cùng mà ông nắm giữ là Tham tán tại Đại sứ quán Nam Tư ở Berlin. Khi Đức xâm lược Nam Tư năm 1939, Ivo Andrić trở lại Beograd cho tới hết Chiến tranh thế giới thứ hai, sau đó tiếp tục sống ở thủ đô Nam Tư. Ivo Andrić bắt đầu sự nghiệp văn chương với vai trò là nhà thơ: năm 1918 ra đời tập thơ Ex ponto (Từ biển), và hai năm sau là tập Немири Lo lắng. Sau đó, ông tập trung viết truyện ngắn. Cuốn đầu tiên là Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez), xuất bản năm 1920, được coi là một trong những tác phẩm nổi trội trong cuộc đời sáng tác của Ivo Andrić. Trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai, ông gần như bị quản thúc tại nhà; không thể tham gia cuộc kháng chiến chống phát xít, ông tập trung sáng tác. Năm 1941 - 1945 ông viết bộ sách có tên gọi chung "Bộ ba Bosna" với ba tiểu thuyết trở thành kiệt tác, На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina), Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka) và Госпођица (Tiểu thư); trong đó nổi tiếng nhất là Nhịp cầu trên sông Drina, kể về cuộc chiến giữa những người Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo trong lịch sử mấy trăm năm của Bosna. Ivo Andrić đạt tới đỉnh cao danh tiếng sau chiến tranh và trở thành một trong những nhà văn hàng đầu của Liên bang Nam Tư (mà Bosna là một trong sáu thành viên), vào Đảng Cộng sản và giữ chức Chủ tịch Hội Nhà văn Nam Tư. Năm 1948, ông giới thiệu cuốn Nove pripovetke (Những câu chuyện mới) viết về vấn đề con người xã hội lúc bấy giờ, về tâm lý của con người trong chiến tranh, về thời kì hậu chiến. Năm 1960, ông cho xuất bản tuyển tập truyện ngắn Lica (Những gương mặt). Ivo Andrić cũng viết một số khảo luận, trong đó nổi bật là Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya). Năm 1961 ông được nhận giải Nobel vì tài năng nghệ thuật sử thi "cho phép đặt ra những vấn đề và những số phận con người gắn với lịch sử đất nước một cách đầy đủ nhất". Ông mất năm 1975 ở Beograd. Tác phẩm: Ex ponto (Từ biển, 1918), tập thơ Немири (Lo lắng, 1919), tập thơ Пут Алије Ђерзелеза (Chuyến đi của Alija Djerzelez, 1920), tiểu thuyết Pripovetke (Truyện ngắn, 3 tập, 1924, 1931, 1936), truyện ngắn На Дрини ћуприја (Nhịp cầu trên sông Drina, 1945), tiểu thuyết Травничка хроника (Sử biên niên Travnicka, 1945), tiểu thuyết Госпођица (Tiểu thư, 1945), tiểu thuyết Nove pripovetke (Những câu chuyện mới, 1948), tập truyện Проклета авлија (Khu vườn bị nguyền rủa, 1954), truyện vừa Lica (Những gương mặt, 1960), tuyển tập truyện Zapisi o Goji (Những ghi chép về Goya, 1961), tiểu luận Омерпаша Латас (Omer-Pasha Latas, in sau khi mất vào năm 1977) *** Bối cảnh của truyện này là xứ Bosnie – Herzégovine, nhưng trong vài chương xứ Serbie cũng thường được nhắc tới; mà những xứ đó, đa số độc giả chưa được biết, nên chúng tôi giới thiệu ít hàng dưới dây để độc giả dễ hiểu truyện. Chúng ta thường nghe nói đến Nam Tư Lạp Phu (tiếng Pháp là Yougoslavie có nghĩa là xứ của dân tộc Slave phương Nam, mà Slave trỏ một giống người ở Trung Âu, nhất là Đông âu như dân tộc Ukraine, Serbie, Croatie, Nga, Bảo Gia Lợi …) và Thống chế Ti to, vị anh hùng Nam tư theo chế độ cộng sản. Ông có tinh thần quốc gia mạnh mẽ, ngày càng xích gần lại với Tây Âu. Bosnie – Herzégovine và Serbie nay là hai trong sáu tiểu bang của Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư, bốn tiểu bang kia là Croatie, Slovénie, Monténégro, Dalmatie. Liên bang đớ nằm trên bờ vịnh Adriatique, phía Tây ngó qua Ý, phía Đông Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bảo Gia Lợi, phía Bắc giáp Áo, phía Nam giáp Hy Lạp; dân số năm 1954 khoảng 17 triệu, kinh đô là Belgrade, trên tiểu bang Serbie. Bosnie – Herzégovine và Serbie là hai tiểu bang giáp nhau, rộng nhất, dân số mỗi tiểu bang năm 1954 khoảng bốn triệu. Cả hai đều nhiều núi, từ thế kỷ XIX trở về trước nguồn lợi canh là canh nông và mục súc. Kinh đô của Bosnie – Herzégovine là Sarajevo, của Serbie là Belglade. Dân hai xứ đều là giống Slave, hiện nay khoảng một phần ba theo Hồi giáo, hai phần ba theo Ki tô giáo. Lịch sử của họ rất gian truân, có lẽ nhờ vậy mà họ anh dũng và có tinh thần quốc gia mạnh. Mới đầu họ lệ thuộc La Mã, qua thế kỷ VII mới thành lập những tiểu quốc gần như độc lập: Bọsnie – Herzégovine, Serbie. Họ phải chống với những dân tộc ở chung quanh: Hi Lạp, Bảo Gia Lợi, Hung Gia Lợi. Thế kỷ IX họ theo Ki tô giáo. ... Mời các bạn đón đọc Chiếc Cầu Trên Sông Drina của tác giả Ivo Andritch.