Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tây Vực Liệt Vương Ký

“Gia Tư Đinh trước khi chết nói với Huyền Trang rằng: “Trong bình có quỷ…” Ấy vậy mà lại có ma quỷ thật. Con quỷ trong chiếc bình nhìn thấu dục vọng của chúng sinh, khuấy đảo cả một vùng Tây Vực vốn đã bất ổn nay lại càng hỗn loạn hơn. Chiếc bình của vua Đại Vệ đi đến đâu, nơi đó máu chảy nhuộm đỏ sa mạc, ánh nắng mặt trời không thể chiếu rọi. Nhưng ma quỷ có thần thông quảng đại đến mức một tay che kín cả bầu trời…” *** Bộ sách 81 Án Tây Du gồm có: Đại Đường Nê Lê Ngục Tây Vực Liệt Vương Ký Đại Đường Phạm Thiên Ký Đại Đường Đôn Hoàng Biến *** Reviewer: Điền Yên —– Tập 2 này hay không thua gì tập 1, các câu chuyện lồng ghép vào nhau, khi ta vừa tưởng đây là kẻ chủ mưu thì lại lòi ra một boss khác to hơn. Bối cảnh của truyện là phần sau của tập 1 nhưng không đọc tập 1 mà bay vào tập 2 cũng không quá mức lạ lẫm. Sau khi phá vỡ một âm mưu tày đình nhắm vào hoàng đế Trung Hoa thì Huyền Trang lại tiếp tục đường Tây Du, và lần này thì nâng level lên phá án xuyên quốc gia. Ở Tây Vực lưu truyền câu chuyện về Chiếc bình của vua Đại Vệ, giống như thần đèn, hắn cho ngươi 3 điều ước, sau khi điều ước số 3 hoàn thành, ngươi phải trả tự do cho hắn. Chiếc bình này là vật trấn quốc của Tát San Ba Tư suốt 400 năm. Có chiếc bình trong tay, không kẻ thù nào xâm phạm được vương quốc. Bởi vì quốc vương không bao giờ ước đủ 3 điều, cứ xong điều 2 thì truyền cho kế hoàng đế, cứ như thế lừa gạt, lợi dụng chiếc bình để duy trì thái bình thịnh trị. Nhưng sức hút của chiếc bình quá lớn, ai mà chẳng ôm ấp những khát vọng khó thành, bỗng nhiên xuất hiện một vị thần có thể biến chúng thành hiện thực, ngay đến người thiền tâm trấn định như Huyền Trang cũng không khói có chút lung lay, đừng nói những người dã tâm sâu nặng. Chính vì thế, chiếc bình trở thành vật bị tranh đoạt khắp Tây Vực. Nhưng thực tế hơn cả chiếc bình, đó là Con đường Tơ Lụa, các quốc gia nhỏ đều phải dựa vào con đường này mà tồn tại, chỉ cần tuyến đường thay đổi là có thể dẫn đến sự hưng thịnh hay suy tàn của cả vương quốc.Nhân vật chính trong cuộc chiến giành Con đường Tơ Lụa trong Tây Vực liệt vương ký là Yên Kỳ và Cao Xương. Mối tình như Romeo và Juliette của Tam hoàng tử Cao Xương và công chúa Yên Kỳ trở thành công cụ chính trị, có điều, ở đây khác một chút. Công chúa Yên Kỳ xinh đẹp cơ trí, từ nhỏ đã biết mình nặng gánh giang san nên hoàn toàn khinh bỉ chàng hoàng tử si tình tội nghiệp không màng vương vị. Nhưng nếu có thể lợi dụng tình yêu của chàng để đạt được mục đích thì nàng không ngại diễn một vở kịch tình yêu thống thiết. Tam hoàng tử này, ban đầu tôi cực kỳ ngứa mắt vì chàng ta ngoài tình yêu với Long Sương công chúa ra thì chẳng để ý tới bất kỳ cái gì. Giang sơn xã tắc, cha mẹ huynh đệ, danh dự mặt mũi chỉ là mây bay, chàng sẵn sàng tung hê tất cả chỉ vì một nụ cười của giai nhân. Sao trên đời lại có cái loại đàn ông bạc nhược ngu xuẩn thế không biết?! Long Sương Nguyệt Chi nghĩ thế, tôi đồng tình với nàng, cả thiên hạ không ai nghĩ khác, trừ Chu công công – người chăm sóc cho hoàng tử từ nhỏ. Trong mắt ông, chàng là người thông tuệ nhất. Mãi khi đọc đến cuối truyện tôi mới nhận ra Chu công công đã đúng. Không phải chàng là boss cuối, toàn bộ câu chuyện đều là mưu kế của chàng như tôi đã đoán mò ban đầu mà tận đến phút cuối cùng, Khúc Trí Thịnh vẫn là 1 người chỉ đặt Long Sương Nguyệt Chi làm mục tiêu tối thượng. Đó chính là điểm cao minh của chàng, biết rõ mình muốn gì, luôn một mực bám đuổi mục đích, không hề suy chuyển, bất chấp thế nhân, nhưng về sau, trên con đường Tây Du với Huyền Trang, chàng đã học được nhiều điều, biết buông bỏ mà không từ bỏ.Thực ra, gây ấn tượng sâu sắc nhất với tôi trong bộ truyện này là hai câu chuyện. Câu chuyện thứ nhất có thể viết thành một bộ ngôn tình. Khi đọc lịch sử, tôi luôn suy nghĩ về số phận của các nàng công chúa hòa thân – những cô gái chân yếu tay mềm gánh trọng trách của cả dân tộc, phải phát triển duy trì mối quan hệ giữa 2 quốc gia, phải đóng vai trò gián điệp công khai. Các nàng có khác gì chất tử, là con tin đưa đến dị quốc, quan hệ hai nước tốt đẹp thì nàng được tử tế, bằng không, sự khó khăn mà các nàng phải đối mặt thật khó tưởng tượng nối. Nếu quốc gia của nàng bị diệt vong, nàng chỉ là con bài vứt đi. Chết không chết được vì còn phải gánh trách nhiệm với lưu dân sống sót, sống cũng không xong, nhất là khi trượng phu của nàng là một kẻ khốn nạn. Vũ Văn Ngọc Ba là công chúa thời Tùy Mạt, sang Cao Xương hòa thân. Năm đầu tiên, phu thê ân ái, nhưng sang năm tiếp theo, nhà Tùy sụp đổ, vương triều Cao Xương bị đảo chính, nàng cùng hoàng tộc Cao Xương phải nương nhờ Đột Quyết. Một nàng công chúa vong quốc như nàng thì còn có tác dụng gì ngoài nhan sắc? Chồng nàng đẩy nàng lên giường quý tộc Đột Quyết, cố giành chút lợi ích. 6 năm lưu lạc là 6 năm nàng chịu đủ khuất nhục, đến khi giành lại được vương quyền, hắn vẫn phong nàng làm vương phi nhưng đêm đêm hàng hạ tra tấn nàng, khiến toàn thân nàng đầy vết thương thê thảm, khiến tâm hồn nàng chết tàn chết lụi. Nhưng nàng không dám tự sát vì con dân nàng vẫn còn sống, vì nàng tìm được một người yêu nàng. Người ấy vì nàng mà ủ mưu mười mấy năm, chỉ cần hắn lên ngôi, nàng sẽ là vương phi của hắn. Nhưng cả nàng và hắn lại đều chỉ là quân cờ trong một ván cờ của người khác. Người này cũng vì oán hận mà âm thầm lập kế 20 năm, không ngại hủy hoại ngàn vạn người. Trí tuệ của y thật khó lòng đo đếm được. Rốt cuộc, Ngọc Ba – nàng công chúa hòa thân của vong quốc vẫn không thể đến được với người mình thương. “Nhà gả ta tới phương trời xa, tới vùng dị quốc vua Ô Tôn cai trị. Lều vải thay nhà, tường là chăn dạ, lấy thịt thay cơm, sữa dùng thay nước. Ở nơi này thường đau lòng tưởng nhớ, muốn làm cánh hạc tìm về lại cố hương.” Và câu chuyện thứ hai khiến tôi nhớ đến Bạch Dạ Hành, dù người ấy đang ở dưới ánh mặt trời chói lọi vẫn như bước đi trong bóng tối u ám vĩnh hằng. Câu chuyện này, nếu tôi kể ra thì sẽ lộ hết bí mật. Huyền Trang là mắt xích kết nối tất cả những câu chuyện này. Là Phật tử nhưng dường như ngài theo chủ nghĩa duy vật, ngay từ đầu đã không tin ma quỷ, không tin chiếc bình kia thực sự có thần yêu trấn yểm mà đã dự đoán có người bày ra mưu ma chước quỷ hòng xáo động lòng người. Ngài làm mọi kế hoạch thay đổi, là người chứng kiến nỗi bi thương, lòng tham hận của con người, ý chí tới Thiên Trúc thỉnh kinh của ngài càng thêm sắt đá. Bằng lòng nhân từ và trí thông minh của mình, ngài đã phá giải bí mật lưu truyền hơn 400 năm về Chiếc bình của vua Đại Vệ. Nhưng dù sao, ngài cũng chỉ là một cá nhân nhỏ nhoi trong dòng chảy lịch sử, bánh xe số phận không vì ngài chặn mà dừng lại. Người phải chết vẫn chết, người không phải chết cũng chết. Hành sự tại nhân, thành sự tại thiên, người tính không bằng trời tính, tưởng đã xong hết rồi mới đau đớn nhận ra bao công lao khổ cực của mình bấy lâu chỉ đổ ra sông ra biển, toàn bộ kế hoạch đã hỏng ngay từ bước đầu tiên. Văn phong tác giả vẫn như tập 1, viết rất chắc tay, tìm hiểu kỹ càng lịch sử, lồng những chi tiết có thật vào tác phẩm tưởng tượng của mình. Lời văn vừa gay cấn vừa hóm hỉnh. Ví dụ như đoạn Huyền Trang và Khúc Trí Thịnh bị bắt, ném xuống một cái giếng hoang: “- Sư phụ, đệ tử sợ chết. – Khúc Trí Thịnh thành thật nói – người dùng Phật pháp khuyên răn đệ tử đi. – Bần tăng không có cách nào dùng Phật pháp để khuyên răn con, – Huyền Trang tiếp tục ngáp. – Tại sao? – Khúc Trí Thịnh buồn bực. – Bởi vì… – Huyền Trang duỗi chân ra cho hỏi mái một chút, nước tron giếng ào ào vang lên, – trong lòng bần tăng đang niệm A Di Đà Phật, khi sợ chết, ta lập tức nghĩ rằng có lẽ sau khi chết rồi vừa nhắm mắt lại liền có thể nhìn thấy Phật. Như vậy bản thân lại cảm thấy vui vẻ. Nhưng con thì sao? Trong lòng con chỉ nhớ đên Long Sương Nguyệt Chi, nếu vừa nhắm mắt mà lại nhìn thấy Phật A Di Đà, con chắc là không thấy vui vẻ đâu.” Dịch giả của tập 2 này cũng rất tốt. Truyện có khoảng hơn chục lỗi chính tả và ngữ pháp. Giá bìa 186K nhưng với lượng trang sách này thì giá đó là xứng đáng. Sách nặng 850g, nằm đọc chỉ sợ rơi vào mặt thì lại được lý do chính đáng đi làm lại mũi. Cùng một hình vẽ, màu cát rất hợp với cái tên truyện vì vùng Tây Vực luôn làm tôi nghĩ đến gió, cát và sa mạc. Truyện hay, đáng đọc. Vô cùng ngóng chờ tập 3 và các tác phẩm khác của Trần Tiệm, Dang Thi Quynh Anh *** Công Nguyên năm 628, Đại Đường năm Trinh Quán thứ hai. Mùa xuân tháng Hai. Tại lưu vực Lưỡng Hà cách Trường An một vạn bốn nghìn dặm, đế quốc Tát San Ba Tư[1] (Sassan) đã tồn tại được bốn trăm năm, đúng vào năm trị vì thứ ba mươi tám của vị hoàng đế vĩ đại cuối cùng - Khố Tư Lỗ đệ nhị[2] (Khosrow II). Khố Tư Lỗ đệ nhị đã già yếu và sa đọa. Ba mươi tám năm trước, sau khi phế vị rồi giết chết phụ vương mình, ông ta đã dành hai mươi năm để càn quét Bái Chiêm Đình[3] (Đế quốc Đông La Mã/Byzantium), chinh phục Tiểu Á Tế Á[4] (Anatolia), cướp sạch Tự Lợi Á (Syria), chiếm đóng An Điều Khắc[5] (Antiochia), Đại Mã Sĩ Cách[6] (Damascus), Gia Lộ Tát Lãnh[7] (Jerusalem) và toàn bộ Ai Cập[8], thánh vật của Bái Chiêm Đình - cây thập giá hành quyết Chúa Gia Tô (Chúa Jesus) - cũng trở thành chiến lợi phẩm cho ông ta tùy ý đem ra khoe mẽ, trưng giễu trên đường diễu binh, dưới sự trị vì của ông ta Tát San Ba Tư đã chuyển biến, đạt đến đỉnh điểm của sự huy hoàng. Sau đó, chỉ mất vỏn vẹn có hai năm để Khố Tư Lỗ đệ nhị đưa đế chế của mình từ đỉnh cao huy hoàng trượt dài xuống đáy sâu trụy lạc. Vị hoàng đế xấu xa của Bái Chiêm Đình là Hi Lạp Khắc Lược[9](Heraclius) và người Đột Quyết bí mật câu kết với nhau, chia làm hai cánh quân, từ hai mặt trận phía đông và tây đánh úp vào, đại quân của Hi Lạp Khắc Lược thế như chẻ tre, đánh thẳng từ Tiểu Á Tế Á tới Thái Tây Phong[10] (Ctesiphon). Trong thủ phủ của đế quốc, nơi nơi đều là những quý tộc ấp ủ tham vọng riêng, là những vị tướng quân cao ngạo không chịu tuân phục hoàn toàn, là những người dân thường đang chờ đợi thời cơ tạo phản và đám nhi tử lòng dạ hiểm ác khó lường. Ánh mặt trời chiếu rọi lên cung điện Thái Tây Phong, hương liệu an thần được đốt trong lư hương bằng ngọc lưu ly tỏa ra làn khói xanh nhàn nhạt, hòa trong ánh mặt trời, chờn vờn giữa tẩm cung nguy nga lộng lẫy. Khố Tư Lỗ đệ nhị mệt mỏi tỉnh dậy, nhưng xem chừng không muốn mở mắt ra. Hai năm nay lão hoàng đế mắc phải bệnh kiết lị, tháo dạ nghiêm trọng khiến sức khỏe suy sụp hẳn, cũng khiến cho tính tình càng trở nên cáu kỉnh, nóng nảy. Trong suy nghĩ, Khố Tư Lỗ đệ nhị hoài niệm đến hành cung Hải Nhĩ Vượng[11] (Dastgerd), nơi đó khiến ông ta nhớ đến những ngày tháng ở cùng với ái phi Hi Lâm[12] (Shirin). Ông ta vì nàng mà cho xây dựng cung điện Tháp Cách Địch Tư[13] (Behistun), vòm mái điện dát vàng, nạm bạch ngọc làm thành mặt trời, mặt trăng và các vì sao, kết hợp cùng nhiều cơ quan vận hành phức tạp, để khi bọn họ nằm trên giường, có thể nhìn thấy được sự chuyển động của mặt trời và sự thay đổi của bốn mùa. Mặc dù năm nay Hi Lâm đã gần năm mươi tuổi, ông ta vẫn cho rằng nàng là người phụ nữ đẹp nhất trên thế gian này. Đáng tiếc, hành cung Hải Nhĩ Vượng đã bị hoàng đế Hi Lạp Khắc Lược phá hủy, lúc này gã vẫn đang nán lại ở ngoài thành Thái Tây Phong chưa muốn dời binh, chờ đợi thời cơ giáng cho Tát San Ba Tư một đòn trí mạng. Nhớ đến Hi Lâm, gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị dịu dàng hẳn, ông ta quyết định nghe theo lời khuyên nhủ của Hi Lâm, lập hài tử của nàng là Mã Nhĩ Đan Sa (Mardanshah) làm thái tử, mặc dù đứa nhỏ mới chỉ sáu tuổi. Vậy thì đã sao? Ta vẫn là vua của Tát San Ba Tư, vua của vạn vua, vua của toàn vũ trụ! Khố Tư Lỗ đệ nhị hạ quyết tâm, gắng cựa người ngồi dậy, thì bất chợt có một bàn tay xuất hiện trong làn khói hương an thần chờn vờn trước mắt, áp lên trán và dùng sức ấn cơ thể ông ta nằm xuống giường. Khố Tư Lỗ đệ nhị còn chưa kịp phản ứng, đã thấy có thêm vô số bàn tay xuất hiện trong màn khói hương, cổ, tay và chân của ông ta đều bị giữ chặt, bị đè ép trên giường thành hình chữ đại (大). Sự tình quái lạ xảy ra trong nháy mắt, dường như đang có rất nhiều người khéo léo phối hợp cùng với nhau để đối phó với ông ta, nỗi sợ hãi khôn cùng dâng trào, nhưng lão hoàng đế không nhìn thấy bóng dáng những người đó. Khố Tư Lỗ đệ nhị cố há miệng ra, muốn kêu thét lên, nhưng miệng đã bị bịt chặt lại, bọn họ dùng một cái kìm bằng đồng xanh kẹp lấy một viên trầm an thần còn cháy đỏ lửa ra khỏi lư hương rồi nhét vào miệng ông ta. Lão hoàng đế không ngừng giãy giụa, phát ra những tiếng kêu rên rỉ vì đau đớn. Nhưng chiếc kìm kia vẫn đâm sâu vào trong cổ họng của ông ta, cho đến tận khi viên trầm nóng nghẹn lại trong cổ họng mới thôi. Cơn đau xé họng cùng sự khó thở đã khiến cho Khố Tư Lỗ đệ nhị ngất lịm đi. Cũng không biết qua bao lâu, Khố Tư Lỗ đệ nhị giật mình tỉnh lại trong cơn đau co giật, ông ta thấy trưởng tử của mình là Hi Lỗ Gia[14](Shiruya) đang kính cẩn đứng bên đầu giường. Hai mắt của Khố Tư Lỗ đệ nhị trợn ngược lên, nhất thời quên cả đau đớn, vì giờ ông ta đã nhận ra Hi Lỗ Gia đang khoác trên người bộ triều phục dành cho hoàng đế, tay nắm quyền trượng, đầu đội vương miện vàng. Lão hoàng đế cảm thấy tức tối vô cùng, nhưng cổ họng lại chỉ phát ra được những tiếng ú ớ không rõ ràng, cùng cơn đau bỏng rát đến khó chịu. “Suỵt!” Hi Lỗ Gia dùng tay nhẹ nhàng áp xuống, che miệng phụ vương của mình, rồi lại chỉ ra phía ngoài cửa sổ, “người nghe đi!”. Lúc này, những âm thanh nhiễu loạn ào ạt như sóng thần ập tới từ phía ngoài cung điện, Khố Tư Lỗ đệ nhị chú tâm lắng nghe, sắc mặt của ông ta cũng dần biến đổi. Đó không phải là tiếng sóng thần ập tới, mà là tiếng reo hò của vô số người. Tiếng reo hò từ xa vọng đến gần, càng lúc càng rõ ràng, cho đến khi vang rần làm chấn động cả tầng mái của cung điện - “Hoàng đế Ca Ngõa Đức (Kavadh)!”. “Ca Ngõa Đức đệ nhị”, Hi Lỗ Gia sửa lại, “chính là con, Hi Lỗ Gia.” Khố Tư Lỗ đệ nhị nằm đờ người ra, suy sụp hoàn toàn, lão hoàng đế hiểu được rằng mình đã bị phế truất, giống như ba mươi tám năm trước, ông ta phế truất ngôi vị của phụ vương mình là Hoắc Nhĩ Mạc Tư Đức đệ tứ[15] (Hormizd IV). “Phụ vương đáng kính của con, vị vua của vạn vua Ba Tư, người có biết tại sao con lại phải thiêu cháy cổ họng của người như vậy không?” Ca Ngõa Đức đệ nhị cười khẽ, “vì con không thể để người đọc câu thần chú đó được. Cũng giống với cách người từng làm trước khi soán ngôi của tổ phụ thôi, người đã khiến tổ phụ mù cả hai mắt. Tát San Ba Tư vĩ đại có thể tồn tại được suốt bốn trăm năm nay đều dựa cả vào sự bảo hộ từ Chiếc bình của vua Đại Vệ[16] (David), nên suốt ba mươi tám năm nay, dẫu cho người có dốc hết binh lực đi gây chiến, xa hoa lãng phí, hoang dâm vô đạo, cũng không có ai dám chống đối người cả. Ma lực từ Chiếc bình của vua Đại Vệ khiến cho vạn quốc khiếp sợ, đến Bái Chiêm Đình cường đại là thế cũng phải run sợ dưới ánh hào quang chói lọi của nó, để mặc cho quân đội của người giày xéo. Vậy tại sao chỉ trong vòng hai năm ngắn ngủi, sức mạnh của đế quốc chúng ta lại suy giảm, phải run sợ trước lưỡi đao của quân đội Bái Chiêm Đình và người Đột Quyết? Lẽ nào câu thần chú của người đã hết tác dụng rồi sao?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị nhắm mắt lại. “Nói cho con biết đi, phụ vương vĩ đại!” Ca Ngõa Đức đệ nhị lôi ra một tờ giấy đay của phương đông đã được cắt vuông vức, đặt trước ngực của Khố Tư Lỗ đệ nhị, rồi đưa cho ông ta một cây bút lông ngỗng, “Chiếc bình của vua Đại Vệ đang ở đâu? Con muốn là chủ nhân mới của nó và lại có được ba điều ước toàn năng. Con sẽ dẫn dắt Tát San Ba Tư đạt tới đỉnh cao huy hoàng thêm lần nữa, kiến lập nên một đế quốc hùng mạnh trước nay chưa từng có”. Trên gương mặt của Khố Tư Lỗ đệ nhị bỗng hiện lên một nụ cười lạnh lẽo, lão hoàng đế hất tay viết lên tờ giấy đay: "Chiếc bình của vua Đại Vệđã rời khỏi Ba Tư. Ngươi sẽ không bao giờ có được nó”. “Nó ở đâu?” Ca Ngõa Đức đệ nhị chết sững rồi đột nhiên nổi giận đùng đùng, “nói cho con biết, nó ở đâu?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị bật cười ha hả rồi viết lên tờ giấy: “Quê hương của tờ giấy này”. “Quê hương của tờ giấy này ư?” Ca Ngõa Đức đệ nhị suy nghĩ một lúc, hắn biết rằng tờ giấy này có xuất xứ từ Đại Đường ở phương đông, là giấy đay Ích Châu ngự dụng của cung đình Đại Đường, do đám người Túc Đặc[17] (Sogdiana) tham tài háo lợi kia đã liều mình vượt qua Con đường Tơ lụa dài hơn một vạn dặm để vận chuyển tới Ba Tư. “Không… không…” Ca Ngõa Đức đệ nhị khó mà tin được, “Đây là bảo vật trấn quốc của Tát San Ba Tư ta, đã truyền thừa suốt bốn trăm năm nay, sao người có thể đưa nó đến tận Đại Đường cách đây hơn vạn dặm được?”. Khố Tư Lỗ đệ nhị tiếp tục viết: “Mưu lược của bậc đế vương, ngươi không hiểu đâu. Một năm sau, khi Chiếc bình của vua Đại Vệ đến được hoàng cung Đại Đường, cục diện thế giới này sẽ chao đảo, Tát San Ba Tư sẽ lại được trùng sinh. Còn ngươi, nhi tử của ta, cả đời này ngươi sẽ luôn phải sống dưới cái bóng của ta, bị oai danh huy hoàng của ta che lấp”. “Không!” Ca Ngõa Đức đệ nhị gào thét tuyệt vọng, hai tay bóp chặt lấy cổ của Khố Tư Lỗ đệ nhị, vẻ mặt dữ tợn, cơ bắp co giật: “Người đã hủy hoại cơ đồ vương nghiệp của con, con sẽ ban cho người chút tôn nghiêm cuối cùng của bậc đế vương, để người chết sạch sẽ, không có đổ máu!”. Cổ họng của Khố Tư Lỗ đệ nhị run lên, phát ra những thanh âm ọ ọe, trước mắt tối sầm, nhưng nét mặt của ông ta lại tựa như đang cười, trong nụ cười ấy hàm chứa cả những giọt nước mắt. Mời các bạn đón đọc Tây Vực Liệt Vương Ký của tác giả Trần Tiệm & Lucia Nanami (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Trần Trụi Với Văn Chương - Paul Auster
Giới phê bình phương Tây gọi New York Trilogy là “tiểu thuyết trinh thám siêu hình”, là “giả tưởng phản trinh thám”, là “một biến tấu lạ lùng của thể loại trinh thám”, “một hỗn hợp của trinh thám và tân lãng mạn”, “một trò chơi chắp hình bằng thủy tinh”. Tất cả những cái đó khiến Paul Auster được liệt vào hàng văn sĩ hậu hiện đại. Tuy nhiên, khác với những văn phẩm hậu hiện đại điển hình vốn mang nặng phẩm chất “giả tưởng siêu hình” cùng các “yếu tố phản kháng”, New York Trilogy vẫn nhất quán trong lối kể chuyện, có cách nhìn tân hiện thực, và bộc lộ nỗi ưu tư đầy trách nhiệm của tác giả đối với những vấn đề xã hội và đạo đức. Có thể nói New York Trilogy là một dạng đặc biệt của tiểu thuyết trinh thám hậu hiện đại, vẫn dùng đến những yếu tố quen thuộc của tiểu thuyết trinh thám cổ điển, nhưng lại sáng tạo được một hình thức mới kết nối các đặc tính của thể loại này với các phẩm chất thử nghiệm, siêu hình và châm biếm mỉa mai của văn phong hậu hiện đại. Đó là ý kiến của giới phê bình Âu - Mỹ mà tôi chắt lọc từ nhiều nguồn khác nhau để bạn đọc biết New York Trilogy đã được đánh giá như thế nào, chứ còn ngay từ năm 1987, khi mới chân ướt chân ráo đến New York và đọc ấn bản đầu tiên của nó, tôi đã thấy nó rất hay, mà đã biết tí gì về văn chương hậu hiện đại đâu. Nhưng nói New York Trilogy hay như thế nào với bạn đọc ở đây thì thành chủ quan. Mà tóm tắt cốt truyện thì lại vô duyên, vì làm thế thì có khác gì mời bạn đi xem phim trinh thám rồi dọc đường đến rạp lại bô bô kể luôn ai bị giết ai bị bắt ai bị oan với những màn bất ngờ như thế nào mà cho đến giờ mình vẫn còn hồi hộp. Cho nên tôi chỉ xin phép nói mấy chuyện sau đây: Vừa rồi tôi có đọc cuốn Đường Kách mệnh , in trong tập 1 của bộ Văn kiện Đảng toàn tập ra năm 2005, và thực sự kinh ngạc và khâm phục ngôn ngữ sáng rõ của nó. Vấn đề gì cũng được nói đến một cách giản dị, sáng sủa, không thể ngờ vực gì được, như thể từ ngữ chính là linh hồn của cái mà chúng nói đến. Thế rồi tôi nghĩ đến hệ thống văn bản hiện nay, cái nào cũng cần hàng loạt những tài liệu hướng dẫn, những văn bản dưới luật, mà vẫn khó tìm thấy những tương đương của các câu chữ nọ trong thực tế. Và tôi tự hỏi: Ấy là vấn đề ngôn ngữ hay là vấn đề con người? Tại sao ngôn ngữ ngày càng mất tính chân xác và trở thành rối rắm như hiện nay? Làm thế nào để lại có thể ăn nói rõ ràng sáng sủa như trong Đường Kách mệnh ? Chuyện đi tìm lại thứ ngôn ngữ chân xác này của con người này, lạ lùng thay, lại là một chủ đề cốt lõi của New York Trilogy. Dạo hè vừa rồi tôi có dịch cuốn Tham vọng Bá quyền , bàn về tình hình thế giới sau sự kiện 11/9 – tức là sau khi tòa tháp đôi vĩ đại ở New York bị khủng bố phá sập. Hôm nọ lại đọc tin bên Dubai đang xây dựng một tòa tháp lớn nhất thế giới cao đến gần một cây số, bèn liên tưởng đến tòa tháp Babel huyền thoại, rồi ngẫm đến lịch sử loài người, rồi bỗng nhận ra rằng cái hệ lụy bi thảm trong ngôn ngữ và văn chương của tham vọng loài người cũng lại là một chủ đề của New York Trilogy. Tháng trước thì đọc thấy trên mạng một loạt những bài viết và ý kiến nhân hội nghị lí luận phê bình của Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ở Đồ Sơn. Hình như ai cũng cố đề cập đến công việc và nội tâm của những người sống bằng ngôn ngữ và nghề viết. Lúc ấy tôi đang dịch đến đúng đoạn giai thoại về cái bô đầy cứt trong phòng ngủ của nhà thơ Mỹ vĩ đại Walt Whitman và bộ óc của ông bị đánh rơi tung tóe xuống sàn phòng thí nghiệm (sau khi ông chết), rồi nhận xét của một nhân vật về hình thức tương tự giữa cái bô cứt và bộ óc của con người phi thường ấy. Nhân vật ấy kết luận rằng: “Chúng ta luôn nói đến chuyện cố thâm nhập vào bên trong một nhà văn để hiểu rõ hơn công việc của ông ta. Nhưng khi vào thẳng trong đó rồi thì lại chẳng thấy gì nhiều – nghĩa là nội tạng ai thì cũng vậy thôi, chẳng khác nhau là mấy”. Than ôi, đúng là chẳng khác nhau là mấy về hình thức, nhưng cái thế giới nội tâm của người sinh ra để viết văn vẫn cứ là một bí hiểm khôn lường. Và lạ lùng thay, hình như cái bí hiểm khôn lường ấy mới là chủ đề xuyên suốt của tập trinh thám siêu hình hậu hiện đại này. Thế rồi tôi chợt nhận ra rằng cả ba cái chủ đề trong New York Trilogy thực ra chỉ là triển khai của một ý niệm cơ bản duy nhất, ấy là tấn kịch bi tráng của giấc mộng và sự nghiệp văn chương khi người cầm bút phải loại bỏ mọi giả hình để trực giao trần trụi với bản thân và thế giới trên con đường đi tìm ngôn ngữ đích thực để diễn ngôn sự thật. Cái giá phải trả cho văn chương thật là ghê gớm! Lạ thay, đúng lúc ấy thì tôi nhận được email của biên tập, nói liệu có nên dịch cái đầu đề New York Trilogy là Bộ ba truyện New York hay không? Có thể đại đa số bạn đọc Việt Nam sẽ hiểu Bộ ba truyện New York là ba câu chuyện gì đó về thành phố hoặc tiểu bang New York ở bên Mỹ. Mà hiểu nhầm như vậy thì rất thiệt cho độc giả. Sau khi thảo luận tới 9 phương án khác nhau, chúng tôi mới quyết định đặt tên cho bản dịch tiếng Việt này của New York Trilogy là TRẦN TRỤI VỚI VĂN CHƯƠNG. Chúng tôi tin rằng đây là tên gọi gần gụi nhất với tấn kịch bi tráng mà Paul Auster đã mô tả rất lạ lùng trong ba câu chuyện hoàn toàn độc lập mà lại quan hệ chặt chẽ với nhau này. Để câu chuyện đậm đặc các vấn nạn hiện sinh của mình được chân xác, Paul Auster, cũng như các nhân vật của ông, đã viện đến nhiều giai thoại lịch sử về những số phận khác nhau, và cách viết này, cộng với cấu trúc nhiều nguồn của các câu chuyện, đã khiến cho Trần trụi với văn chương trở thành một văn phẩm mà người đọc cảm thấy không biết ai thực sự là tác giả. Chính Paul Auster cũng xuất hiện trong truyện, với tên thật của mình, tên vợ tên con thật của mình (Siri là vợ hiện nay của ông, và hai người con là Daniel và Sophie). Nhân vật xưng tôi trong Căn phòng khóa kín thì lại xưng là tác giả của cả Thành phố thủy tinh lẫn Những bóng ma ; và còn nói rằng cả ba truyện trong tập này thực ra chỉ là một câu chuyện, diễn biến theo ba giai đoạn. Bạn cứ đọc đi đã rồi sẽ tự tìm ra được câu chuyện ấy. Phải chăng đó cũng là một đặc tính của văn chương hậu hiện đại: Đặc tính interactive – tương tác : Người đọc phải tham gia và tự tìm thấy câu chuyện cùng nghĩa lí của nó. Trần trụi với văn chương là một văn bản mở. Với một văn bản như thế này, bạn đọc nên coi mình cũng là tác giả, và nếu tác giả đã viết nó ý tứ và thận trọng như thế nào thì ta cũng nên đọc nó ý tứ và thận trọng như vậy, rồi sẽ ngộ được cái khoái cảm đặc biệt mà loại văn chương này mang lại. Để giúp bạn đọc thưởng thức tối đa cái khoái cảm đã hứa hẹn ấy, tôi có dùng một số giải pháp dịch thuật theo lí thuyết Skopos – đặt mục tiêu phục vụ người đọc lên hàng đầu – để vừa chuyển tải được hết ý vừa giữ được liền mạch văn của tác giả cũng như mạch đọc của độc giả; đồng thời cũng cố gắng chú thích hết những chi tiết mà tôi cho là bạn đọc có thể chưa biết, mà lại rất nên biết để thưởng thức câu chuyện đặc biệt này. Thành phố New York là nơi tôi đã trải qua những chuyện lạ lùng nhất trong đời mình. Có lẽ vì vậy mà từ lâu tôi đã muốn dịch New York Trilogy . Tôi xin có lời cảm ơn Công Ty Văn Hóa Phương Nam đã tin rằng công việc có động cơ cá nhân này sẽ giúp bạn đọc mở thêm một cửa sổ nhỏ nữa vào thế giới kì thú của văn chương Mỹ đương đại. Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Carol Mann và Paul Auster đã không ngại trả lời nhiều câu hỏi của tôi trong khi dịch cuốn sách này. Bây giờ thì mời bạn đọc hãy bước vào thế giới của Paul Auster như một thám tử văn chương, rồi thể nào bạn cũng phát hiện ra những điều kì thú.   Trịnh Lữ Hà Nội, cuối Thu 2006. Mời các bạn đón đọc Trần Trụi Với Văn Chương của tác giả Paul Auster.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 4: Vòng Đua Nước Pháp - Paul Jacques Bonzon
Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** Tuyệt vời! Antonin Aubanel - tức Baba - một cuarơ có nhiều thành công, đã được tham gia vòng đua xe đạp quanh nước Pháp. Nhưng sự xuất hiện đột ngột của cuarơ mới này không được nhiều người hài lòng, những hành động, thái độ xấu xa luôn bám theo anh suốt chặng đường đua. May mắn thay, những người bạn đồng hành đã để mắt tới anh... *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Cái tên Antonin Aubanel đoạt chức á quân cuộc đua xe đạp Milan - San Remo làm chấn động thủ lãnh Tidou. Coi, buổi trưa hôm ấy tan học xong là hắn cầm tờ nhật trình nóng hổi chạy như bay về cư xá Chữ Thập Hung. Còn phải hỏi, Antonin Aubanel chỉ chịu thua quán quân Rodolfi người Ý trong gang tấc ở chặng nước rút, chuyện động trời ấy mà không tri hô lên cho mọi người biết thì quả là chẳng đáng mặt... đồng hương của á quân chút nào. Hắn chạy một lèo lên tầng năm. Vừa thoáng thấy bà mẹ đứng nơi ngưỡng cửa, Tidou la làng: - Mẹ ơi, mẹ còn nhớ anh Antonin Aubanel không? - Biết. Thằng Aubanel cùng quê Reillanette với nhà mình, hồi nhỏ hay nói ngọng phải không? Mẹ còn nhớ nó cứ bập bẹ cái tên Aubanel thành... Aubaba ấy. Nó là anh ruột thằng Frederic bạn con chớ gì? - Đúng rồi, hồi con mới tập đi anh ấy chuyên môn cõng con lên cổ làm kiệu. - Mẹ vẫn nhớ “Aubaba” là trưởng nam ông chủ lò bánh mì ngon nhất trong làng. Do tật cà lăm của cu cậu nên ai cũng gọi nó là... Baba thay cho cái tên Antonin Aubanel. Tidou đắc chí hỏi lại: - Mẹ chỉ biết có vậy thôi sao? Bà mẹ cười tủm tỉm: - Mẹ còn biết hơn nhiều ấy chứ. Sáng nay mẹ và ba con vừa thấy ảnh của nó đăng trong mục Thể Thao báo Tiến Bộ. Người ta đã đưa Baba lên tít chín tầng mây. Thế là bí mật của Tidou đã bị... bật mí trước người lớn. Hắn tiu nghỉu đưa tờ báo mới mua cho mẹ. - Con mới mua tờ Thời Đại có hình cuarơ Antonin Aubanel mình mẩy đầy bùn đất đang tu một chai nước khoáng có dán nhãn quảng cáo tiếp thị đây. Con đọc cho mẹ nghe nhé. - Ồ, đọc di nào. Tidou rổn rảng: - “Nước Pháp đang có một siêu vô địch sau cuộc tranh tài Milan - San Remo. Có lẽ không ai có thể ngờ được vùng nắng ấm quanh năm Reillanette lại sản sinh ra một ngôi sao cho làng xe đạp Pháp. Cách đây sáu tháng, chàng trai Antonin Aubanel chưa hề được ai biết đến bỗng trở thành đề tài cho các trang báo thể thao sau cuộc đua Milan - San Remo. Antonin Aubanel mới 20 tuổi, đã bứt lên ở 40 cây số cuối cùng, thoát khỏi sự đeo bám của hơn 50 cuarơ có hạng là một kỳ tích không phải ai cũng làm được. Tidou thở mạnh. - Cuối bài báo, người ta cho rằng anh Baba sẽ là một siêu sao trong tương lai. Mẹ nghĩ sao? - Mẹ cũng nghĩ như họ. Báo chí thường làm nhiệm vụ tiên tri mà. ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói - Paul Jacques Bonzon
  Series truyện trinh thám thiếu nhi của Pháp, ra mắt bạn đọc VN năm 1996 tới nay chưa tái bản.    Ngoài tính chất trinh thám, Sáu Người Bạn Đồng Hành còn cung cấp thông tin về đất nước, con người và lịch sử Pháp. Đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành không chỉ là giải trí. *** TIDOU, THỦ LÃNH 14 tuổi rưỡi, anh cả trong một gia đình thợ thuyền, chủ nhân của con chó lai sói lông đen Kafi và là sếp sòng của nhóm “Sáu người bạn đồng hành”. Tidou gốc người miền Nam nước Pháp, tóc đen, mắt sáng, rất đẹp trai, luôn mang trong mình dòng máu phiêu lưu, muốn khám phá đến tận cùng bí ẩn của sự việc, để mang lại công bằng đạo lý cho những con người không phương tự vệ. Là một người thẳng tính đến mức nóng nảy, Tidou luôn quyết đoán hành động. Ánh mắt của hắn chỉ dịu lại khi bắt gặp ánh mắt nhắc nhở của Mady, vì cô bé hắn sẵn sàng hy sinh cả bản thân mình. Tidou quả xứng đáng với danh hiệu thủ lĩnh của Sáu người bạn đồng hành. MADY, NỮ TIÊN TRI Sắp 14 tuổi, rất duyên dáng với mái tóc màu nâu sẫm, mắt đen, nước da bánh mật... Tạo hóa đã ban tặng cho cô bé xinh đẹp này sự phán đoán mẫn tiệp và trực giác tuyệt vời. Ngoài nét xinh xắn trời cho, Mady còn được các chiến hữu phong tặng biệt hiệu “Nữ Tiên Tri” bởi giác quan thư sáu của một nữ thám tử. Thường song hành bên cạnh Tidou, cô bé nổi lên như một nhà hòa giải thông minh và góp phần quyết định trong mọi hành động khi đặc vụ đi vào bế tắc. Mady là một báu vật mà thượng đế ban phát cho nhóm 6 người. TONDU, GIÁC ĐẤU 15 tuổi đúng, Tondu chỉ cần bỏ chiếc mũ bêrê ra là giống y chang một dũng sĩ giác đấu La Mã với cái đầu trọc lóc không một sợi tóc dính da bởi căn bệnh hiểm nghèo thời bé. Mặc kệ bạn bè thắc mắc với cái đầu trọc của mình, Tondu tỉnh bơ trong vai trò một “giác đấu”. Lớn tuổi nhất biết đấm đá, biết sửa chữa máy móc, xe cộ như một kĩ sư cơ khí, và nhất là biết liều lĩnh lúc cần thiết. Bằng phong cách đặc biệt của mình, Tondu là kẻ duy nhứt trong băng có thể “tàng hình” dễ dàng trong đám xã hội đen. GUILLE, NGHỆ SĨ Sắp 15 tuổi, không thể lẫn lộn với ai bởi mái tóc đỏ độc đáo của mình. Là một thành viên chính thức từ những ngày đầu thành lập, chàng thám tử bất đắc dĩ Guille đến với băng nhóm với cây kèn Acmonica trên môi và những bài thơ trong đầu. Tối kỵ với bạo lực, Guille đặt một chân dưới đất và một chân trên... mây, lãng mạn hóa mọi cuộc phiêu lưu nguy hiểm, trong bất cứ trường hợp nào cũng là nghệ sĩ giang hồ lãng tử. Nhưng có một điều chắc chắn, Guille là nghệ sĩ - hiệp sĩ chứ không phải nghệ sĩ của thính phòng. GNAFRON, HỀ XIẾC 13 tuổi rưỡi, còi xương bẩm sinh, tóc đen như lông quạ, rối nùi đến nỗi những cái lược phải chào thua không cách nào chải được. Theo truyền thuyết, Gnafron là tên một nhân vật đóng giày trong sân khấu múa rối Pháp, trong khi Gnafron của chúng ta trên thực tế cư ngụ trong một cư xá có hiệu đóng giày, thế là coi như chết luôn tên... cúng cơm. Tuy nhiên với bạn bè, Gnafron không hề là “thợ giày” chút nào. Nó nổi tiếng là “Hề Xiếc” bởi ngoài hình dáng gây cười bên ngoài ra, nó còn là cây tiếu lâm số một của cả nhóm và... cực kỳ đại láu cá. Sự ma lanh thiên phú của nó luôn luôn gây bất ngờ cho các đặc vụ của Sáu người bạn đồng hành. BISTÈQUE, ĐẦU BẾP Hơn 14 tuổi, tóc hạt dẻ, thấp lùn, má đỏ môi hồng, mặt... bánh bao nhưng còn còn lâu mới là con gái như Mady cho dù mang tên Bít tết. Sở dĩ cu cậu bị dính biệt hiệu như vậy cũng vì ông bố thân sinh ra nó là chủ nhân một cửa hàng thịt chế biến, mà trong đó các món bít tết, xúc xích bao giờ cũng được khách hàng có “tâm hồn ăn uống” ưa chuộng. Bistèque là thủ quỹ kiêm hậu cần của cả nhóm, chuyên cung cấp chất đạm cho các bạn sau những cuộc điều tra căng thẳng thần kinh. Có điều trong những cuộc mạo hiểm, đối với bọn bất lương, Bistèque khó xơi hơn bất cứ một... miếng BISTEQUE (bít tết) nào. KAFI, ĐẤU SĨ - VỆ SĨ Gốc gác từ hoang mạc của một xứ Ả Rập xa xôi, Kafi có nguồn cội kỳ dị ngay lúc còn nằm trong bụng mẹ cho đến khi lưu lạc giang hồ sang miền Nam nước Pháp. Với đôi tai dựng đứng, lưỡi thè lè, lông đen, đuôi rậm, bốn bàn chân đỏ như lửa, Kafi đúng là sản phẩm của hai dòng máu cha sói, mẹ chó nhà. Từ khi được cậu chủ Tidou nuôi nấng và dạy dỗ làm chó săn chuyên nghiệp, Kafi chưa bao giờ làm thất vọng nhóm Sáu người. Nó trung thành hết mực với Tidou, yêu quý Mady như người chủ thứ hai và là đại hung thần lúc ẩn lúc hiện làm bọn tội phạm kinh hồn táng đởm. *** Thấm thoát Tidou đã hơn 14 tuổi. Thời gian trôi tựa tên bay, mới ngày nào Thủ lãnh nhóm Sáu người còn chân ướt chân ráo làm quen với cái nóng điên người của mùa hè và run cầm cập trước mùa đông băng giá ở Lyon thì bây giờ thời tiết ở quê hương mới đã trở nên người bạn đồng hành của hắn trong những cuộc phiêu lưu mạo hiểm tuyệt vời. Hắn lên lớp 9 cùng lúc với sự trưởng thành của năm chiến hữu. Giáo viên chủ nhiệm của lớp 9 hiện thời là cô Lecoeq, một người phụ nữ đứng tuổi, những kỷ niệm học đường với ông thầy râu quai nón coi như đã lùi xa. * Tidou thức giấc trong cảm giác lành lạnh của tiết Nôen. Chăn màn hình như cũng biết thế nào là trời rét, chúng cuộn tròn quanh thân hình hắn để tìm hơi ấm loài người. Trời ạ, lạnh kiểu này thì cho dù Kafi có là sói thần chắc cũng chết cóng mất. Không biết cái đệm có đủ ấm cho nó không? Vừa mở mắt ra, hắn lập tức chiếu tướng quanh quất. Ê, sao tự nhiên Kafi không ngủ trong phòng. Tidou hoảng hồn bật dậy thò đầu xuống gầm giường. Thật kỳ cục, con cẩu từng nổi tiếng ngáy như sấm cũng chẳng thấy nằm đó. Cơn ác mộng ngày nào làm tóc gáy hắn dựng đứng: Kafi lại mất tích nữa chăng ? Hắn bồn chồn gọi: - Kafi, Kafi... Chỉ có luồng gió mang theo cái giá lạnh cuối năm thốc qua cánh cửa khép hờ trả lời hắn. Quỷ tha ma bắt thiệt, Tidou không một giây do dự nhảy phóc xuống giường, bước ra hành lang tối om. - Chẳng lẽ con chó lại nổi máu săn chuột ư? ... Mời các bạn đón đọc Sáu Người Bạn Đồng Hành Tập 3: Sừng Chó Sói của tác giả Paul Jacques Bonzon.
Sao Đen - Triệu Huấn
Trong khi hầu hết tiểu thuyết tình báo ở nước ta đều dựa vào một nguyên mẫu có thật: “Ông cố vấn” của Hữu Mai có nguyên mẫu là điệp viên huyền thoại Vũ Ngọc Nhạ; “Tiếng nổ trên chiến hạm Amyot D’inville” của Văn Phan đi từ câu chuyện của Anh hùng liệt nữ Nguyễn Thị Lợi; “Ông tướng tình báo với hai bà vợ” của Nguyễn Trần Thiết cũng là câu chuyện hoàn toàn có thật... thì “Sao đen” của Triệu Huấn lại có “nguyên mẫu” từ... “nhiều trong một” hư cấu mà thành. Ngay sau khi xuất hiện, (năm 1986) tiểu thuyết tình báo (TTTB) “Sao đen” (sau thành tên của cả bộ sách) của nhà văn Triệu Huấn đã gây được hiệu ứng nồng nhiệt với độc giả. Số lượng in hơn 200.000 bản mà nhiều người vẫn phải mua sách “chợ đen”. “Ly hương” (tập 2) cũng có số lượng không kém. “Cái tẩu” (tập 3), “Những người đến muộn” (tập 4) và “Vũ điệu thoát y” (tập 5) in vào thời điểm TTTB đã qua thời hoàng kim mà vẫn ở mức 30.000 bản... Cho đến nay, cả 5 tập đều đã được NXB CAND tái bản nhiều lần. Những con số lặng lẽ khiêm nhường mà có sức lan tỏa khi phần nào nói được sức hấp dẫn của “Sao đen”. Văn học là nhân học! “Sao đen” đã có cái kết nhân bản và hòa hợp, bởi tác giả có quan điểm rõ ràng: cần phải kết thúc đau thương và bớt tranh chấp, vì cuộc chiến 30 năm nhưng lại nhỏ bé so với chiều dài lịch sử dân tộc, nên cần lấy cuộc sống con người với con người làm trọng. Như khi trả lời phỏng vấn một phóng viên nước ngoài, ông cũng nói: “Quá khứ nên khép lại, nhưng không có nghĩa là bỏ và quên nó đi, bởi lịch sử là bất biến!”. *** Vừa hành quân từ Điện Biên Phủ về Phan Lương nghỉ ngơi được vài ngày thì đồng chí đại đội trưởng gọi tôi lên gặp riêng. Anh nói: - Cấp trên có lệnh điều cậu đi nhận công tác mới. Mình cũng chưa biết nội dung công việc, nhưng mình cứ chúc cậu gặp nhiều may mắn. Chỉ có điều là cả trung đoàn ta trên chỉ gọi mình cậu, do đó cậu cũng không nên nói rộng chuyện này cho ai. Chia tay anh em thì cậu cứ nói ra được chuyển sang đơn vị khác. Việc điều động quả bất ngờ với tôi. Thật tình tôi luôn luôn bị ám ảnh về thành phần giai cấp của của mình, khó mà có thể nhận được một sự tín nhiệm lớn lao. Tôi biết có một số con em địa chủ lúc đó buộc phải rời khỏi quân đội. Một số tuy là rất ít có vấn đề đối với nông dân được trả về địa phương để đối chứng với cuộc đấu tranh giai cấp. Phải chăng tôi cũng thuộc loại này? Tôi thấy tâm hồn mình u tối lại. Nhưng rồi lý trí cũng đánh thức tôi. Khi ở nhà tôi hãy còn trẻ đã làm nên tội lỗi gì. Hơn nữa vùng quê tôi còn trong địch hậu, chưa có cải cách ruộng đất. Như vậy làm gì có chuyện nông dân đòi tôi về. Thế là tôi lại yên tâm vui vẻ lên đường. Tôi nhớ mãi hôm chia tay đồng đội. Anh em nhìn tôi lưu luyến, nhưng cũng có những cặp mắt chứa đựng những dấu hỏi im lặnng. Đã vào sinh ra tử với nhau ngoài mặt trận, đã chân thành với nhau trong chỉnh quân chính trị thì mối thiện cảm với nhau cũng đã được xây dựng bền vững. Chúng tôi ôm nhau xúc động. Tôi ra đi một mình không ai đưa tiễn. Chỉ khi lên đến Phòng chính trị sư đoàn đồng chí trợ lý cán bộ mới đưa cho tôi giấy tờ và một bức thư nhỏ. Tôi mở ra đọc vội. Bức thư chỉ vẻn vẹn có mấy dòng: Cháu Phan Quang Nghĩa. Mẹ cháu ốm. Cậu xin phép cho cháu về thăm, tiện chuyến về Khu Ba công tác. Cậu chờ cháu ở xóm Trung xã Hoàng Văn Thụ, Đại Từ - Thái Nguyên. Cháu phải thu xếp nhanh, cậu sợ không kịp. Cậu của cháu - Nguyễn Hữu Đức 11 tháng 6 năm 1954 Thì ra câu chuyện chỉ có thế. Tôi vừa mừng vừa lo cho mẹ tôi. Không hiểu tại sao cậu Đức lại biết tôi hành quân về mà xin cấp trên cho tôi nghỉ phép. Câu chuyện đơn giản thế mà đại đội lại không thông báo cho tôi rõ ràng? Tại sao tôi lại phải mang toàn bộ tư trang và tấm giấy phép lại kèm theo cả giấy chuyển cung cấp về P.46? Khi tôi chưa thể lý giải được những sự kiện trên thì ký ức về người cậu họ lại dần dần tái hiện trong tôi lọc qua những lớp bụi thời gian mờ ảo. Cậu Đức là em họ xa của mẹ tôi. Là người có học hành đỗ đạt nên cậu nổi bật trong số những người thân bên ngoại. Quê mẹ tôi ở xa nên từ nhỏ tôi chỉ về thăm vài lần và cũng chưa được gặp cậu. Nhưng lần nào về tôi cũng được nghe họ hàng nói về cậu. Mười hai tuổi đầu cậu đã học xong những bộ sách chữ nho Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung... dày cộp mà nhiều người khác sôi kinh nấu sử từ thuở thiếu thời tới lúc vợ con đàn đống mà vẫn chưa thông hiểu chữ nghĩa của Thánh hiền. Gia đình thấy cậu sáng dạ và cái chữ Nho cũng đến thời mạt vận nên quyết định cho cậu theo tân học. Nhà ông bà nghèo nhưng cả họ xúm vào giúp đỡ, cậu được ra tỉnh theo việc đèn sách và cậu đã không phụ lòng cha mẹ. Tám năm sau cậu kiếm được cái bằng "đíp-lôm", làm rạng danh tổ tông làng xóm. Cậu không tiếp tục học nữa mà đi kiếm việc làm. Nhưng hình như cậu cũng không gặp may vì tuy chí thú như vậy cậu cũng chẳng đưa được đồng nào về nuôi dưỡng mẹ cha, đền ơn họ mạc. Năm 1944 không còn ai gặp cậu. Người đồn cậu bị vào tù, người nói cậu trốn đi Xiêm. Năm 1945 cách mạng thành công mọi người mới vỡ lẽ là cậu theo Việt Minh lên chiến khu hoạt động. Tôi đã tưởng tượng ra cậu và luôn luôn tự hào qua những giai thoại về cậu được bà con kể lại. Mãi tới sau ngày kháng chiến toàn quốc, trong một lần đi công tác cậu mới tạt qua thăm gia đình chúng tôi. Tôi được nhìn cậu lần đần trong bộ ka ki màu vàng của Vệ quốc quân, một khẩu súng ngắn đeo lệch bên sườn, một chiếc thắt lưng tổ ong to bản "rất đúng mốt" vào những năm 47, 48. Mẹ tôi rất kiêu hãnh về người em họ của mình, đặc biệt khi cậu ngồi nói chuyện về thời sự đất nước và quốc tế trước đám cử tọa gọi là am hiểu nhất của cánh nội chúng tôi. Tôi thấv trái tim mình tràn đầy lòng yêu nước, và nếu như lúc này người ta chấp nhận cho tôi đứng dưới lá Quân kỳ thì tôi sẽ không bao giờ lùi bước trong những trận đánh đầu rơi máu chảy. Đêm hôm đó hai cậu cháu tôi nói chuyện với nhau đến khuya. Tôi ngỏ ý xin đi theo cậu nhưng cậu chê tôi còn nhỏ quá. Cậu khuyên tôi cố gắng học hành, sớm muộn nguyên vọng của tôi sẽ được thực hiện. Từ đó thỉnh thoảng tôi có thư từ qua lại với cậu theo nhiều địa chỉ. ... Mời các bạn đón đọc Sao Đen của tác giả Triệu Huấn.