Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Rạp Xiếc Đêm - Erin Morgenstern

Dưới câu chữ đầy mê hoặc của dòng văn học fantasy, "Rạp xiếc đêm cho ta biết tương lai không phải là bất định. Sau mọi phép thuật, thứ mạnh nhất vẫn là tình thương trong mỗi người. Thời gian gần đây, kẻ mộng mơ đang là cụm từ được nhiều người nhắc đến. Giữa tỉnh thức và say mê, giữa lằn ranh của những toan tính lợi thiệt, người ta bắt đầu cần các câu chuyện nhẹ nhàng và sâu lắng hơn. Rạp xiếc đêm của Erin Morgenstern chính là gã phù thủy tài năng kéo bạn vào cơn lốc của sự tưởng tượng trác tuyệt. Từ khi hai series đình đám Harry Potter và Chạng vạng kết thúc, cơn mộng mơ trong thể loại fantasy bắt đầu nhạt nhòa. Thay vào đó, các tác phẩm phóng tác lịch sử và phiêu lưu với vô vàn các yếu tố tình dục, bạo lực như Trò chơi vương quyền, Húng nhại lên ngôi. Vì vậy, Rạp xiếc đêm ra đời, với sự cấu thành từ sự hoành tráng trong bối cảnh, chuyện tình yêu nồng nàn không giới hạn, tư tưởng sâu sắc, nhiều tầng nghĩa đã chinh phục rất nhiều độc giả ở các lứa tuổi khác nhau. Đến với Rạp xiếc đêm, khuôn cảnh rạp xiếc hiện lên như một vùng đất đầy sinh động. Đây là điều đã làm nên thành công của tác phẩm fantasy này. Erin Morgenstern đưa ta vào luồng cảm xúc mạnh mẽ bằng câu chữ bỏ bùa. Rạp xiếc đêm còn lưu lại trong trí óc người đọc những cảm nhận tùy theo vốn sống và trải nghiệm. Một câu hỏi được đặt ra: Phép thuật có nên tồn tại giữa thế giới vật chất đầy lý tính, và khi người ta biết được những mánh khóe đằng sau các trò vui, liệu họ còn hứng thú? Cuốn sách cũng đưa đến cho người đọc chân lý thảm khốc mà J.K. Rowling cũng ngầm gửi gắm sau mạch truyện thiếu nhi: Đôi khi vì sự hiếu thắng, con người có thể bất chấp mọi thứ, thậm chí biến kẻ khác trở thành quân cờ tầm thường trong trận chiến. Một khía cạnh khác, đến với Rạp xiếc đêm, Erin Morgenstern đưa độc giả trở về cái thời bồi hồi khi chứng kiến mối tình đẹp đẽ đầy trăn trở như thời cặp đôi Chạng vạng đã làm được. Tình yêu của Celia và Marco rực cháy, nồng nàn, họ là hai mảnh ghép không thể chia lìa. Dưới mọi lá bài, mọi con mắt ma thuật biết trước tương lai, Celia và Marco buộc lòng phải hy sinh một người. Định mệnh đặt sẵn họ không thể bên nhau. Và chính bởi tình yêu, họ đã bất chấp tất cả, để vừa giữ lại rạp xiếc đã dựng xây, vừa níu lại người mình yêu thương nhất. Rạp xiếc đêm dưới câu chữ đầy mê hoặc của dòng văn học fantasy, đã cho ta biết tương lai không phải là bất định. Sau mọi phép thuật, thứ mạnh nhất vẫn là tình thương trong mỗi con người. Có thể cảm xúc đó là sai, niềm kỳ vọng đó là ngây thơ, Erin Morgenstern vẫn hy vọng các độc giả của cô mãi là những kẻ mộng mơ về tình yêu bất diệt. *** LONDON, 1 THÁNG MƯỜI MỘT, 1901 Celia ước gì mình có thể đóng băng được thời gian mỗi khi cô lắng nghe nhịp tim Marco đập bình ổn cùng tiếng tích tắc của đồng hồ. Để mãi mãi ở trong khoảng khắc này, cuộn tròn trong vòng tay anh, và bàn tay anh nhẹ vuốt lưng cô. Để không phải ra đi. Cô chỉ có thể khiến nhịp tim của Marco chậm lại vừa đủ để anh chìm vào giấc ngủ sâu. Cô đã có thể đánh thức anh, nhưng bầu trời ngoài kia đang dần sáng, và cô sợ hãi khi nghĩ phải nói lời tạm biệt. Thay vào đó, cô hôn thật nhẹ lên đôi môi anh và lặng lẽ mặc đồ khi anh vẫn đang ngủ. Cô tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay và đặt nó trên mặt lò sưởi, giữa hai trái tim sắc nét trên quân bài. Cô chựng lại khi mặc áo khoác, ánh mắt hướng vào những cuốn sách rải rác trên mặt bàn. Có lẽ nếu hiểu được rõ hơn các hệ thống của anh thì cô đã có thể sử dụng chúng để giúp rạp xiếc độc lập hơn. Để trút bỏ khỏi bản thân phần nào gánh nặng. Để họ có thể ở bên nhau thêm vài giờ đồng hồ vụng trộm, mà chẳng cần phá bỏ luật chơi. Đó là món quà tốt nhất cô nghĩ mình có thể tặng anh, nếu như họ không buộc được thầy của một trong hai bên đưa ra phán quyết cuối cùng. Cô nhặt tập sách kín đặc những cái tên. Có vẻ sẽ là khởi đầu tốt khi cô hiểu được nền tảng của những gì phải hoàn thành. Cô cầm theo nó khi rời đi. Celia đóng cửa căn hộ của Marco khẽ khàng hết mức có thể sau khi lách mình vào bóng tối ngoài sảnh với cuốn sách bìa da kẹp dưới cánh tay. Khóa trượt vào ổ phía sau cô phát ra những tiếng lạch cạch nghèn nghẹt. Cô không nhận ra dáng hình ẩn trong bóng tối gần đó cho đến khi ông lên tiếng. “Con điếm phản trắc,” ông thốt lên. Celia nhắm mắt, cố gắng tập trung, nhưng chẳng dễ gì gạt ông đi một khi ông tóm được cô, mà cô thì chẳng thể nào kiểm soát nổi chuyện này. “Ngạc nhiên thật, bố đợi ở sảnh chỉ để gọi con như thế,” cô nói. “Nơi này được phong ấn cẩn mật đến phát bực,” Hector nói, vẫy tay về phía cánh cửa. “Chẳng gì có thể chui vào nếu thằng nhãi kia không thực sự muốn thế.” “Thế thì tốt,” Celia nói. “Bố có thể tránh xa anh ấy, và bố có thể tránh xa con.” “Con định làm gì với cái của ấy?” ông hỏi, hướng về phía cuốn sách dưới cánh tay cô. “Không can dự tới bố,” Celia nói. “Con không được can thiệp vào công việc của cậu ta,” Hector nói. “Con biết, hình như can thiệp là một trong số rất ít những điều bị qui là phạm luật. Con không có ý định can thiệp, con muốn biết về hệ thống của anh ấy để mình không cần phải liên tục chi phối rạp xiếc quá nhiều.” “Hệ thống của cậu ta. Hệ thống của Alexander là thứ con không nên dính vào. Con không biết là mình đang làm cái gì đâu. Ta đã đánh giá quá cao năng lực đương đầu với thách thức lần này của con rồi.” “Chẳng phải đây là một trận đấu sao?” Celia hỏi. “Đó là việc làm thế nào giải quyết được những hậu họa của pháp thuật khi bị đặt tại một chốn công khai, trong một thế giới không hề tin những điều như thế. Đó là bài kiểm tra sức chịu đựng và khả năng kiểm soát chứ đâu phải kĩ năng.” “Nó là bài kiểm tra sức mạnh,” Hector nói. “Và con là kẻ yếu. Yếu hơn ta đã nghĩ.” “Vậy hãy để con thua đi,” cô nói. “Con kiệt sức rồi bố ạ. Con không thể làm việc này nữa. Không giống như bố có thể hể hả nốc cạn một chai whiskey một khi kẻ thắng cuộc được vinh danh.” “Kẻ thắng cuộc mà được vinh danh cái gì,” bố cô nói. “Trận đấu sẽ tiếp tục cho đến khi kết thúc chứ không có dừng lại giữa chừng đâu. Lẽ ra đến giờ con phải hiểu được điều đó mới phải. Con đã từng khá là thông minh cơ mà.” ... Mời các bạn đón đọc Rạp Xiếc Đêm của tác giả Erin Morgenstern.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Vượn Cáo - Benjamin Black
John Glass sống ở New York. Ông bỏ nghề báo để viết tiểu sử cho bố vợ mình là ngài Bill Mullholland, hay còn gọi là Bill lớn. Vốn là cựu nhân viên CIA, giờ Bill Lớn là trùm tư bản trong lĩnh vực truyền thông. Sáng sáng, John Glass đến làm việc tại văn phòng rộng lớn và sang trọng trong tòa nhà văn phòng Mullholland Tower; tối đến thì về nhà với người vợ giàu có và xuân sắc. Dù thỉnh thoảng có hoài nhớ về quãng đời trước, nhưng nói chung John Glass hài lòng với hiện tại.   Để hoàn thành cuốn tiểu sử, John Glass thuê một tay săn tin trẻ mà ông quen gọi là “Vượn Cáo” thu thập thông tin về người bố vợ. Từ lúc ấy cuộc sống dễ chịu của ông bị đe dọa. Sau đó, “Vượn Cáo” bị sát hại, ông quyết định đi tìm những gì hắn biết và thủ phạm giết hắn chỉ để đào xới thêm nhiều bí mật và cái chết bí ẩn khác. *** Người cung cấp thông tin là một chàng trai trẻ cao lêu đêu và gầy đét. Đầu hắn quá nhỏ so với khung xương, còn cục yết hầu to bằng trái banh gôn. Mắt kính hắn đeo không có gọng viền quanh và gần như vô hình, chỉ làm tăng thêm độ bóng cho đôi mắt đen, tròn, to tướng và hơi bị trố. Một túm râu màu vàng ngắn ngủn, cứng quèo mọc thẳng từ cằm hắn. Cặp lông mày cong, rất xa mắt lấm tấm sẹo mụn trứng cá cũ. Hắn có đôi bàn tay mảnh mai, trắng trẻo, các ngón dài búp măng hệt như tay con gái, hay ít nhất là giống những gì người ta ca ngợi về bàn tay của phụ nữ khuê các. Dù đang ngồi, đũng quần jeans thụng của hắn vẫn thõng xuống ngang đùi. Ngực áo phông màu cháo lòng không của ai ngoài hắn mang dòng chữ: “Đời bi đát tiễn ta về cõi âm”. Thoạt nhìn, hắn mới chỉ mười bảy nhưng John Glass đoán tên này chí ít cũng phải gần ba mươi, cổ dài, đầu nhỏ và cặp mắt tròn đen láy khiến hắn cực kỳ giống một loài gặm nhấm quý hiếm mà nhất thời Glass chưa nhớ ra là con gì. Tên hắn là Dylan Riley. Glass thầm mỉa mai: cái tên Dylan nghe quý phái gớm. Hắn nói: - Vậy ra ông là con rể của Bill Lớn? Hắn ngồi lọt thỏm trong chiếc ghế xoay bọc da đen trong văn phòng mà bố vợ Glass cho mượn nằm ở mé phía bắc của tòa nhà Mulholland Tower. Sau lưng hắn, bên kia bức tường kính trong suốt là một Manhattan ẩm ướt, ảm đạm dưới màn mưa phùn tháng tư. - Sao? Cậu thấy ngộ nghĩnh lắm ư? Glass vặn vẹo. Ông đặc biệt ghét loại người thích mặc áo phông in đủ thứ triết lý lên đó. Dylan Riley cười khẩy: - Ngộ nghĩnh gì đâu. Tôi chỉ ngạc nhiên thôi. Tôi thấy ông không giống người nhà Bill Lớn chút nào. Glass vờ như không nghe thấy gì. Hơi thở của ông bắt đầu nặng nề, thậm chí phát ra tiếng phì phò. Đó luôn là dấu hiệu cảnh báo sự căng thẳng đang gia tăng. Glass nhấn mạnh như muốn nhắc Riley phải lễ phép hơn: - Ngài Mulholland muốn tôi thu thập mọi dữ liệu và dùng chúng một cách đúng đắn nhất. Riley cười toe toét, gật lia lịa, xoay xoay trên ghế vẻ khoái chí: - Phải, nhất định dữ liệu phải đầy đủ rồi. Glass lạnh lùng nhắc lại: - Điều tiên quyết là phải đủ thông tin chính xác. Chính vì thế tôi mới thuê cậu. Glass đến bên chiếc bàn làm việc vuông vức bằng kim loại cỡ lớn kê trong góc phòng và thận trọng ngồi xuống ghế phía sau nó. Tư thế ngồi luôn giúp Glass bớt bấn loạn. Phòng ông ở tầng ba mươi chín. Trông đợi ông làm ăn được gì ở độ cao như vậy quả là ngớ ngẩn. Hôm đầu tiên vào phòng này, Glass sợ sệt nhích từng chút đến sát tường kính ngó xuống. Dưới chân ông chừng hai tầng nhà, những cụm mây trắng xốp trông như tảng băng lững thững trôi ngang qua, che khuất thành phố phía dưới. Giờ ông bíu hai tay lên mặt bàn trước mặt như người sắp chết đuối cố bám mép chiếc bè nan. Glass thèm thuốc không thể tả. Dylan Riley xoay chiếc ghế quanh bàn. Chắc chắn hắn biết ông chóng mặt, buồn nôn cỡ nào khi ngồi trong cái lồng kính làm bằng thép và thủy tinh ngất ngưởng giữa lưng chừng trời như thế này. Bàn tay Glass vuốt thành hình vòng cung trên mặt bàn, như thể muốn gạt vật gì đó vô hình xuống đất. Động tác ấy khiến ông nhớ đến cái cảnh Tổng thống Richard Nixon khổ sở, toát mồ hôi hột trong một bản tin chiều phát mấy năm trước, cố phân bua rằng mình không phải kẻ dối trá. Trong thời kỳ dân chúng hoang mang vì chứng kiến quá nhiều cáo buộc lẫn nhau ấy, ánh sáng ở trường quay quá gắt khiến ai trông cũng giống nhân vật phản diện trong bộ phim dùng hệ màu Eastmancolor giai đoạn đầu. ... Mời các bạn đón đọc Vượn Cáo của tác giả Benjamin Black.
Truyện Ngắn Trinh Thám
Tập Truyện Ngắn Trinh Thám này gồm có: Kẻ đội lốt Hai chàng thợ săn và một cô gái Chiếc hộp bí mật Không có cánh bay Bà góa Ephese Nhân chứng có ba bộ mặt Cây cầu bằng thủy tinh Một vạn đô-la Được ăn cả, ngã về không Tiếng còi trong sương đêm Không thương tiếc Hai cái chết *** Bốn giờ sáng, hai viên cảnh sát mặc đồng phục áp giải hắn vào văn phòng của nhà giam trung tâm. Ở đây, người ta kiểm tra người hắn, tịch thu mọi đồ dùng cá nhân của hắn, trừ gói thuốc lá, chiếc khăn tay và đưa cho hắn một tờ giấy biên nhận. Sau đó người ta lấy dấu vân tay của hắn và dán vào khẩu súng lục mà người ta tìm thấy trong người hắn một mẩu giấy có chữ “vật chứng”. Viên đội trưởng hỏi tên họ và hắn trả lời mình là George Carter. Với những câu hỏi tiếp theo như tiền án, tiền sự... thì hắn trả lời là không. Cảnh sát còn hỏi trên một chục câu hỏi khác rồi ghi vào sổ nói rõ hắn bị bắt về tội ăn cướp trong tay có vũ khí. Cuối cùng người ta giam hắn trong một xà lim chưa có người. Khi còn lại một mình, việc làm đầu tiên của hắn là châm một điếu thuốc lá rồi nằm dài trên một trong bốn chiếc nệm. Rủi ro làm sao! Hắn cay đắng nghĩ. Số phận mới đen đủi làm sao! Hai tiếng đồng hồ trước đây, theo một kế hoạch đã lập ra một cách tỉ mỉ trong một tuần lễ liền, hắn đã đột nhập vào một quán rượu ở giữa thành phố trước giờ đóng cửa để ăn cướp. Hắn đợi cho chủ quán đóng cửa hàng trong khi hắn vẫn ở trong nơi ẩn nấp, sau đó hắn nhốt ông chủ khốn khổ vào trong toa-lét còn hắn thì đi lục lọi trong quán. Kết quả thật là bất ngờ: hai hoặc ba ngàn đô-la trong két sắt ở văn phòng. Trước khi tẩu thoát, hắn còn nhặt thêm bốn chai úych-ky hảo hạng thêm vào món chiến lợi phẩm ấy. Cho đến lúc ấy, mọi việc diễn ra êm đẹp. Hắn đã nghĩ đến những cuộc đi nghỉ thú vị mà hắn có thể thực hiện được bằng cách tính toán lưng vốn của mình: khoảng trên một ngàn năm trăm đô-la để dành đặt ở một nơi an toàn. Tổng cộng là năm ngàn đô-la đủ để nghỉ ở Mê-hi-cô ba hoặc bốn tháng, nếu hắn không hoang phí. Nhưng hắn sẽ không làm như vậy vì hắn không phải là kẻ không biết sử dụng tiền bạc. Một căn hộ khiêm tốn ở thành phố, một tủ quần áo hiện đại và về mặt giải trí, buổi chiều hắn sẽ đi dạo, nói chuyện về các cuộc chơi bóng pơ-lốt, các cuộc đua chó và đi uống một cốc vào buổi tối; dự những trận đầu bò tót vào ngày Chủ nhật ở Acapulco; thỉnh thoảng cho các cô thu tiền hoặc các cô phục vụ xinh đẹp một khoản tiền boa hào phóng... Đó là tất cả. Những nhu cầu của hắn rất đơn giản, không tốn kém, giống như những người làm công có thu nhập ở mức trung bình trong mỗi kỳ đi nghỉ. Tuy nhiên có sự khác nhau giữa hắn và người những ấy, vì người ăn lương phải tiết kiệm cả một năm trời để đi nghỉ, còn hắn, hắn chỉ cần ba hoặc bốn phi vụ trong một năm, mỗi phi vụ chỉ cần bốn năm phút đồng hồ thôi. Và hai ba năm nay mọi việc đều diễn ra một cách trôi chảy. Nhưng bây giờ tất cả đã kết thúc - hắn nghĩ. Chuyện đó diễn ra một cách khá bất ngờ: khi hắn ra khỏi kho rượu thì va phải người em trai chủ quán đánh xe đến để đón anh về. Nếu cuộc đụng độ ấy không quá đột ngột, nếu trong một hoàn cảnh khác, hắn chỉ cần hạ gục người đàn ông ấy rồi lủi cho nhanh. Nhưng tình hình lại không phải như vậy vì người em chủ quán lại là một cảnh sát trong đội chống nạn mại dâm, tuy không phải đang trong giờ làm việc nhưng anh ta vẫn còn đeo súng bên người. Rất vô ích mà nói rằng viên cảnh sát không nghi ngờ gì khi thấy hắn với hai chiếc túi căng phồng và bốn chai rượu trên tay tuy đèn lúc này chỉ lờ mờ sáng. Anh ta chỉ giơ súng lên và thế là George bị tóm gọn. Đúng hai tiếng đồng hồ sau đó, George bị kết tội ăn cướp có vũ khí và bị tống giam. Việc khai tên giả của hắn cũng sẽ chẳng kết quả gì vì sau đây bốn mươi tám tiếng nữa, với những dấu vân tay, FBI sẽ biết rõ cái tên George Carter mà hắn đã khai là giả mạo mà chính George Maxwell mới là tên thật của hắn. Mà George Maxwell đã bị ngồi tù hai lần vì tội trộm cướp: lần đầu, hai năm vì tội ăn cắp, thời ấy hắn mới vào nghề, và lần thứ hai, năm năm vì tội ăn cướp có vũ khí, việc này xảy ra cách đây ba năm. Như vậy hắn được tự do mới có ba mươi sáu tháng. Lần này, với những tiền án ấy, chắc chắn án hai mươi năm tù sẽ treo trước mũi hắn. Năm nay ba mươi nhăm tuổi... Hai mươi năm ngồi bóc lịch, thế là kết thúc cuộc đời... Thật là đen đủi - hắn lại nghĩ với tiếng thở dài não nề khi thấy giấc mộng đi nghỉ ở Mê-hi-cô đã tan thành mây khói. Hắn ném điếu thuốc đi để mặc nó tiếp tục cháy. Sau đó, quay mặt vào tường, nghĩ đến tương lai ảm đạm của mình. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Ngắn Trinh Thám.
Phái Viên Mật - Graham Greene
Đây không phải là cuốn trinh thám dạng "giải trí", không gay cấn, hồi hộp...mà nặng nề, ám ảnh, day dứt, phiền muộn. *** Graham Henry Greene (2 tháng 10, 1904 - 3 tháng 4, 1991) là tiểu thuyết gia người Anh. Ông sinh tại Berkhamsted, Hertfordshire, Anh quốc, là con của một hiệu trưởng, và theo học Đại học Oxford. Ông làm việc cho tờ báo London Times trong giai đoạn 1926-1929 (từng làm tổng biên tập) rồi hành nghề ký giả tự do. Năm 1935, ông nhận chân điểm phim cho tờ Spectator, và đến 1940 nhận chân chủ bút văn học. Trong thời gian 1942-1943, ông phục vụ Bộ Ngoại giao Anh ở miền đông châu Phi. Sau Thế chiến thứ Hai (1939-1945), ông đi đến nhiều nơi. Ông viết nhiều, là một trong các tác giả tiêu biểu của văn học Anh thế kỷ XX. Tác phẩm đầu của ông được xuất bản năm 1925. Graham Greene khởi đầu sự nghiệp văn chương với những sách thuộc loại “giải trí” vì thuộc thể loại hành động, như truyện gián điệp. Dần dà, ông mới chuyển qua thể loại “tiểu thuyết,” nổi tiếng nhất là The quiet American (Người Mỹ trầm lặng - 1955), gần đây được dựng thành phim hợp tác với điện ảnh Việt Nam (15 tiểu thuyết của ông đã được dựng thành phim). Ông cũng viết một kịch bản dành riêng cho phim truyện, và một số tác phẩm cho trẻ em. Graham Greene có xu hướng viết về những đấu tranh tâm linh trong một thế giới đang mục rữa. Tác phẩm của ông có đặc tính đi vào chi tiết sống động, và lấy bối cảnh đa dạng ở nhiều nơi (Mexico, châu Phi, Haiti, Việt Nam), miêu tả nhiều nhân vật sống dưới những áp lực khác nhau về xã hội, chính trị hoặc tâm lý. Tác phẩm cuối cùng, A world of my own: A dream diary (1994), được viết trong những tháng cuối cùng trong cuộc đời của tác giả, có tính nửa hư cấu nửa tự thuật dựa trên 800 trang tác giả ghi lại qua 24 năm.   Mời các bạn đón đọc Phái Viên Mật của tác giả Graham Greene.
Ngôi Nhà Số 12 - John Milne
Nancy bốn mươi sáu tuổi, một người phụ nữ trầm lặng, cô đơn, sống cô độc trong ngôi nhà và mớ tài sản do cha mẹ cô để lại. Chẳng có người bạn nào bên cạnh, Nancy đến Eastbourne để nghỉ dưỡng và kiếm bạn mới. Và cô đã gặp được Henry John, xấp xỉ ngũ tuần, góa vợ và đang sống cùng người em Isobel Jones trong một thị trấn nhỏ gần London. Cuộc gặp gỡ với Henry đã khiến Nancy nghĩ rằng từ nay cô sẽ không bao giờ phải cô đơn nữa. Nhưng Nancy đâu ngờ rằng, sau hôn lễ lặng lẽ, một cuộc đời bi đát hơn đang chờ đợi cô trong ngôi nhà mang số 12 đại lộ Rừng Sồi... Tình tiết nhanh, ngắn gọn, John Milne một lần nữa mang đến độc giả một bí ẩn mới đậm chất John Milne như đã từng gặp trong các tác phẩm như Con mèo đen, Đường hầm, Oliver Twist,... Liệu văn phòng thám tử Terry Mason và những người bạn của mình có phát hiện ra được bí mật đen tối trong ngôi nhà số 12? Liệu Nancy có thoát khỏi căn nhà u ám đó trước khi quá muộn hay chịu nằm chờ chết trong tuyệt vọng? Tất cả còn chờ các bạn độc giả cùng khám phá. *** Những nhân vật trong truyện Nancy Robert là một thiếu phụ bốn mươi tuổi. Cô ta đã sống cùng gia đình nhiều năm ở Ấn Độ. Đến năm 1970, gia đình cô chuyển sang nước Anh sinh sống. Cha mẹ cô giờ đây đã chết. Nancy trở thành một người phụ nữ trầm lặng và cô đơn. Henry John xấp xỉ tuổi ngũ tuần và góa vợ. Vợ hắn đã mất một năm trước đây. Isobel Jones trạc tuổi Nancy. Cô ta sống với anh trai mình là Henry John trong một thị trấn nhỏ gần London. Terry Mason là một người làm công tác văn phòng nhưng anh ta không thích công việc của mình. Anh ta luôn muốn trở thành thám tử. Một ngày nọ, Terry được hưởng một số tiền từ di chúc của người cậu quá cố, và giờ đây Terry Mason đã lập một văn phòng thám tử tư. Sheila Williams là bạn của Terry Mason trong nhiều năm. Cô ta làm việc cho một văn phòng môi giới bất động sản. Bill Evans là một người giao sữa. Anh ta lái một chiếc xe chở sữa đi đến các căn hộ để giao sữa vào mỗi sáng sớm. Tom Matthews là một cậu bé bán báo mười ba tuổi. Cậu ta cũng giao báo đến các hộ trong khu phố vào mỗi sáng sớm. Bob Wilkinson là một người bạn của Terry. Anh ta làm việc tại Sở Xã Hội. Gordon Burgess là bạn của bạn Terry. Anh ta làm việc tại Tòa Thị Chính.   Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Số 12 của tác giả John Milne.