Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôn Ngữ và Ý Thức

Đây là bản in lần thứ ba được chờ đợi từ lâu về tuyển tập các bài viết của Chomsky về ngôn ngữ và ý thức. Sáu chương đầu, được công bố vào những năm 1960, tạo nền tảng cho lí thuyết ngôn ngữ. Lần in mới này bổ sung vào một chương nữa và một lời tựa mới, đưa cách tiếp cận có ảnh hưởng của Chomsky vào thế kỷ mới. Chương 1 - 6 trình bày công trình của Chomsky về bản chất và thụ đắc ngôn ngữ như là một hệ thống sinh học được thiên phú về di truyền (ngữ pháp phổ niệm), thông qua các quy tắc và nguyên tắc của nó chúng ta thụ đắc kiến thức nội hiện (I-language). Hơn 50 năm qua, khung lí thuyết này đã châm ngòi cho sự bùng nổ và nghiên cứu trong một phạm vị rộng lớn các ngôn ngữ, và đã thu được những vấn đề lí thuyết quan trọng. Chương cuối cùng trở lại những vấn đề chủ chốt, tổng quan lại cách tiếp cận "ngôn ngữ học sinh học" đã dẫn đường cho công trình của Chomsky từ những khởi nguồn của nó cho đến nay, đưa ra một số thách thức mới gây phấn khích cho việc nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức. NOAM CHOMSKY là Giáo sư Ngôn ngữ học ở Viện Công nghệ Massachusetts. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách : Những chân trời mới trong nghiên cứu ngôn ngữ và ý thức (New Horizons in the Studies of Language and Minds) (Cambridge University Press, 2000) và Về tự nhiên và ngôn ngữ (On Nature and Language) (Cambridge University Press, 2002).   Noam Chomsky được The New York Times bình chọn là tri thức gia quan trọng nhất hiện đang còn sống. Ông đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới về ngôn ngữ và theo ông, ngôn ngữ chính là một chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa đi tới bản chất con người. Ông không chỉ là một nhà ngôn ngữ học mà còn là một nhà phê bình chính trị, sử gia, triết gia đồng thời dấn thân vào hoạt động xã hội một cách chừng mực. Bài phỏng vấn dưới đây được thực hiện bởi Wiktor Osiatynski vào năm 1984 về chủ đề Ngôn ngữ và Văn hóa. BookHunter xin giới thiệu với bạn đọc để chúng ta hiểu rõ thêm góc nhìn của Noam Chomsky về bản chất con người thông qua ngôn ngữ học.   *** Hỏi:  Ngài đưa ra một cách tiếp cận nhân học đối với ngôn ngữ.  Ngài cho rằng ngôn ngữ có thể góp phần giải mã các vẫn đề mang tính triết học trong tự nhiên lẫn văn hóa của nhân loại? Chomsky: Tôi cảm thấy là sự tồn tại của loài người hay bất kỳ sinh vật phức tạp nào đều có một hệ thống các cấu trúc nhận thức, thứ phát triển theo theo sự phát triển về mặt thể chất. Nó thuộc về đặc điểm cơ bản  bẩm sinh của chúng; hình thái sơ khai này được định hình bằng cấu trúc gen di truyền. Tất nhiên, chúng phát triển dưới những điều kiện môi trường riêng biệt, giả sử như một hình thái đặc trưng nhường chỗ cho một vài sự thay đổi. Phần lớn cái phân biệt giữa loài người với nhau là cách cư xử riêng rẽ mà trong đó phát triển hàng loạt các cấu trúc nhận thức được chia sẻ. Có lẽ phần rắc rối nhất trong những cấu trúc này là ngôn ngữ. Trong nghiên cứu ngôn ngữ, chúng ta có thể khám phá ra rất nhiều thuộc tính cơ bản của cấu trúc nhận thức này, cơ cấu tổ chức, và cả các tố bẩm di truyền – nền tảng cho sự phát triển của nó. Vậy nên về điểm này, ngôn ngữ học, trước nhất, đang cố gắng mô tả nét đặc trưng chính trong tổ chức nhận thức của con người. Và điều thứ hai, tôi nghĩ nó có thể cung cấp một hình mẫu có tính gợi ý cho việc nghiên cứu các hệ thống nhận thức khác. Đồng thời ghi nhập những hệ thống này là một khía cạnh tự nhiên của con người. Hỏi: Ngôn ngữ, sau đó, là chìa khóa cho bản chất của loài người? Chomsky: Tư tưởng khoa học phương Tây từ vài thế kỷ trước cho đến giờ có khuynh hướng giả sử rằng bản chất tự nhiên của con người bị giới hạn ở cấu trúc vật lý có thể nhìn thấy ngay tức thì của cơ thể. Và  đối với những khía cạnh khác của bản chất con người, cụ thể là cử chỉ, lại không hề có các cấu trúc được xác định nhờ di truyền nào có thể so sánh được về bản chất phức tạp với các tổ chức vật lý có thể nhìn thấy được trực tiếp bên trong cơ thể. Vì vậy, cấu trúc vật lý của con người và cấu trúc trí năng nói chung được nghiên cứu theo những phương pháp khác nhau. Gỉa định rằng các cấu trúc vật lý đó được di truyền và các cấu trúc trí năng được học. Tôi cho rằng giả định đó không chính xác. Không cấu trúc nào trong số đó học được cả. Tất cả chúng phát triển; chúng phát triển theo cách so sánh; các hình thái sau chót của chúng phụ thuộc nhiều vào các tố bẩm sinh di truyền. Nếu chúng ta hiểu được, nhưng chúng ta không làm được vậy, cơ sở vật chất của những cấu trúc này, tôi có hơi ngờ vực rằng chúng ta hẳn sẽ tìm thấy trong não bộ các cấu trúc tương tác xã hội, ngôn ngữ hoặc phân tích độc lập – sự nguyên vẹn của các hệ thống đã phát triển dựa trên nền tảng của một khả năng sinh học đặc biệt. Hỏi: Ý ngài là toàn bộ hành vi của chúng ta đều do bẩm sinh mà có, được xác định bằng di truyền? Chomsky: Không, nhưng các cấu trúc cơ bản cấu thành lên hành vi của chúng ta là bẩm sinh. Những chi tiết đặc trưng trong cách chúng phát triển sẽ phụ thuộc vào tương tác với môi trường. Hỏi: Giả sử ngôn ngữ học có thể mô tả một cấu trúc như vậy, liệu có thể áp dụng những điều khám phá được cho toàn bộ các hoạt động trí não của chúng ta? Chúng ta chỉ suy nghĩ trong ngôn ngữ? Hay cũng tồn tại những thể thức phi ngôn ngữ của suy nghĩ? Chomsky: Việc phân tích các cấu trúc ngôn ngữ có thể giúp hiểu về các cấu trúc trí năng khác. Hiện nay, tôi không nghĩ có bất cứ bằng chứng khoa học nào cho câu hỏi rằng chúng ta chỉ suy nghĩ thông qua ngôn ngữ hay không. Tuy nhiên, tự xem xét từ bản thân thì cũng đã chỉ ra khá rõ ràng rằng chúng ta không cần thiết suy nghĩ thông qua ngôn ngữ. Chúng ta cũng có thể suy nghĩ qua các hình ảnh nhìn thấy được, chúng ta suy nghĩ trong các tình huống cũng như các sự kiện, và nhiều nữa, nhiều trường hợp chúng ta không thể thể hiện được bằng từ ngữ cái chúng ta đang nghĩ trong đầu. Cho dù là chúng ta có khả năng thể hiện nó bằng từ ngữ, người ta nói về thứ gì đó theo thói quen thường thấy và sau đó nhận ra rằng nó không diễn đạt được ý của mình, nó là một cái gì đó khác. Điều này có nghĩa là gì? Là có một dạng suy nghĩ phi ngôn ngữ đang diễn ra mà ở đó chúng ta cố trình bày bằng ngôn ngữ, để rồi đôi lúc chúng ta biết mình thất bại. Hỏi: Tôi đã có lần đọc được là chúng ta suy nghĩ bằng ngôn ngữ nhưng lại “cảm thấy” nó phi ngôn ngữ. Chomsky: Tôi biết điều đó không đúng với bản thân tôi, ít nhất nếu “ngôn ngữ” (trong trường hợp của tôi) quy vào tiếng Anh, và tôi giả sử rằng nó sai đối với những người khác. Tôi không nghĩ bạn sẽ gặp khó khăn gì để quyết định rằng bạn đang nghĩ về vài sự kiện rồi sau đó mường tượng nó xảy ra kèm với các hệ quả, và  phân tích sáng suốt mà không thể phát biểu thành lời thật đầy đủ sự phức tạp của nó. Hỏi: Ngài dùng cụm “phân tích sáng suốt.” Ngài tin rằng tất cả suy nghĩ của chúng ta đều sáng suốt và tuyến tính? Chomsky: Tôi không nghĩ tất cả suy tư đều là một dạng cấu trúc sáng suốt. Nhưng tôi cũng không cho rằng nó đúng để định hình sự  phân định sáng suốt – không sáng suốt với phân định ngôn ngữ – phi ngôn ngữ. Hỏi: Vậy ngôn ngữ có thể không sáng suốt? Chomsky: Đúng thế; vì vậy đó là hai chiều không tương quan với nhau. Đúng là ngôn ngữ ở trong một tuyến tính ý thức tuy nhiên điều đó cũng rõ ràng như không gian nhận thức là ba chiều. Hỏi: Như tôi hiểu thì ngôn ngữ có một nền tảng sinh học bẩm sinh. Công dụng của nó, tất nhiên, là tính xã hội. Ngài nghĩ các chức năng xã hội của ngôn ngữ là gì? Trước nhất có phải là phương tiện giao tiếp? Chomsky: Tôi nghĩ một khía cạnh rất quan trọng mà ngôn ngữ phải làm được là thiết lập các mối quan hệ xã hội và tương tác. Thường thì điều này được miêu tả như là giao tiếp. Nhưng tôi nghĩ, như thế rất sai lầm. Có một tầng hẹp của việc sử dụng ngôn ngữ  mà ở đó bạn dự định giao tiếp. Sự giao tiếp dẫn đến cố gắng đưa người ta vào cùng một ý hiểu giống nhau. Và điều đó, chắc chắn, là một cách sử dụng ngôn ngữ đang được dùng trong xã hội. Tuy vậy, tôi không nghĩ chỉ có xã hội sử dụng ngôn ngữ. Cũng như ngôn ngữ chỉ được dùng có vậy trong xã hội. Ví dụ, ngôn ngữ có thể dùng để bộc lộ hoặc tường minh những suy nghĩ của một người ít quan tâm đến xã hội, nếu có. Tôi nghĩ sử dụng ngôn ngữ bằng cách nào đó mang ý nghĩa rất quan trọng với các loài, bởi thiên tính sinh học của nó, tạo ra một loại không gian xã hội, để đặt chính nó vào những mối tương tác với những người khác. Nó không có tác dụng với sự giao tiếp ở trong một cảm quan chật hẹp; đó là, nó không tham gia vào sự truyền giao thông tin. Có nhiều thông tin được truyền giao nhưng lại không phải là truyền giao nội dung được nhắc tới. Rõ ràng không phải tranh cãi nhiều để biết về những cách sử dụng ngôn ngữ trong xã hội, để giao tiếp hoặc cho những mục đích khác. Nhưng ở hiện tại, không có gì nhiều trong cách nghiên cứu một giả thiết ngôn ngữ học, về giao sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội, theo như tôi biết. Hỏi: Điều gì, sau đó, trong lĩnh vực ngôn ngữ học, là thành tựu vĩ đại nhất? Chomsky: Tôi nghĩ công việc quan trọng nhất vẫn đang tiến hành là nghiên cứu các đặc trưng chung cũng như trừu tượng về cái mà đôi lúc được gọi là ngữ pháp phổ quát: những đặc tính chung của ngôn ngữ phản ánh một dạng nhu cầu sinh học hơn là nhu cầu logic; có nghĩa rằng, các đặc tính đó không cần thiết logic khi đặt trong một hệ thống nhưng ngôn ngữ của loài người lại cần phải có các đặc tính bất biến và được biết đến mà không cần đến sự học. Chúng ta biết những đặc tính này nhưng chúng ta không học chúng. Chúng ta chỉ đơn giản là dùng tri thức tự có của bản thân làm nền tảng cho sự học. Hỏi: Chúng ta di truyền tri thức này? Chomsky: Đúng, chúng ta được di truyền. Thực tế, thông qua ngữ pháp phổ quát, tôi có ý rằng hệ thống các quy tắc và cấu trúc là những điều kiện tiên quyết cho sự tiếp thu của ngôn ngữ, và để mọi ngôn ngữ nhất thiết đều tương thích. Hỏi: Thế có nghĩa là nền tảng di truyền của ngôn ngữ là phổ quát? Chomsky: Đúng thế. Nhưng chúng ta chỉ là một giống loài. Bạn có thể tưởng tượng ra một thế giới khác mà ở đó có một số lượng các loài sinh vật đã phát triển với các hệ thống ngôn ngữ được xác định theo di truyền. Không xảy ra tiến hóa. Cái đã xảy ra là một loài phát triển, và cấu trúc di truyền của loài này tham gia vào sự đa dạng của các quy phạm trừu tượng rắc rối trong tổ chức ngôn ngữ đó, do vậy, cần phải hạn chế mọi ngôn ngữ, và, thực tế, tạo ra nền tảng học ngôn ngữ như  một cách trải nghiệm vẫn hơn là dùng việc học từ kinh nghiệm để cấu thành điều gì đó. Hỏi: Vậy tri thức này cũng sẽ giúp ích cho việc hiểu về thiên tính của con người? Chomsky: Đúng thế, theo hai hướng. Thứ nhất, tự thân nó là một phần của việc nghiên cứu trí tuệ con người, có lẽ là khía cạnh cốt lõi của thiên tính con người. Và thứ hai, tôi nghĩ, nó là khuôn mẫu tốt cho việc nghiên cứu những đặc trưng khác của con người, cái nên được các chuyên gia tâm lý xem xét theo phương pháp tương tự. Hỏi:  Ý của ngài là ngôn ngữ học đem lại lợi ích cho ngành tâm lý? Ngài có thể giải thích rõ hơn không? Chomsky: Một thứ mà cả tôi và bạn đều biết là ngôn ngữ. Cái khác chúng ta cũng biết là cách các khác thể hành xử trong không gian cảm quan. Chúng ta có nguyên cả đống các cách hiểu phức tạp về bản chất của không gian thị giác. Phần nào của tâm lý học, và trong vài năm gần đây nữa, nên cố gắng  tìm hiểu các quy tắc về cách chúng ta tổ chức không gian thị giác. Tôi sẽ nói rằng sự tương đồng này chính xác trong mọi phạm vi của ngôn ngữ học lẫn nhân học. Ví dụ thế này, để hiểu cách con người tổ chức các hệ thống xã hội, chúng ta phải tìm hiểu về những nguyên tắc mà chúng ta đặt ra để khiến một vài tầng lớp xã hội hiểu được. Hỏi: Tôi hiểu là chúng ta đã có thể có một dạng ngữ pháp phổ quát của các hình thái phi ngôn ngữ trong hành vi ứng xử của con người . Nhưng nếu thế, như ngài nói, hành vi của chúng ta và ngôn ngữ đều bị định hình bởi các quy tắc chúng, tại sao và trên toàn thế giới thì chúng khác nhau nhiều chứ? Chomsky: Tôi không nghĩ chúng khác nhau nhiều lắm. Tôi cho rằng cũng như sự tồn tại của con người, một cách khá tự nhiên chúng ta chứ cho rằng cái gì nằm trong sự tồn tại đó cũng đều giống nhau, và, sau đó, chúng ta chú ý đến cái gì khác biệt với mình. Điều đó tạo ra cảm giác hoàn hảo đối với sự tồn tại của chúng ta. Tôi cho là những con ếch không chú ý đến sự tồn tại của chúng. Chúng quan tâm đến cái khác. Điều một con ếch quan tâm là những khác biệt trong giống loài của mình. Từ góc nhìn của chúng ta, chúng giống nhau nhiều hoặc ít, còn từ góc nhìn của chúng thì tất cả hoàn toàn khác. Tương tự vậy. Với mình, tất cả chúng ta rất khác biệt, ngôn ngữ của chúng ta khác nhau, và xã hội của chúng ta cũng thế. Nhưng nếu chúng ta có thể tự rút ra từ góc nhìn của mình và phần nào nhìn cuộc đời con người theo cách một nhà sinh vật học xem xét các loài sinh vật khác, tôi nghĩ chúng ta có thể nhìn nó theo cách khác đi. Hãy tưởng tượng một người quan sát công tâm đang xem xét chúng ta. Người này sẽ được đánh giá chính xác thông qua tính chất đồng nhất của các ngôn ngữ của con người, qua sự thay đổi nhỏ từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, và bằng cách lưu ý tới những điểm giống nhau trong tất cả các ngôn ngữ. Tiếp đến, anh ta sẽ để ý rằng chúng ta không tập trung lắm vào điều đó bởi mục đích của cuộc đời con người là hết sức tự nhiên và chỉ cho rằng mọi thứ đều là bình thường.  Chúng ta không quan tâm đến chính mình, tất cả chúng ta lại lo lắng về những điều khác biệt. Hỏi: Người quan sát khách quan này sẽ có cùng cách nghĩ về các biểu tượng, ý tưởng, nhu cầu và giá trị của chúng ta chứ? Chomsky: Tuyệt đối là vậy, tôi nghĩ thông qua sự đồng nhất giữa các tầng lớp của xã hội loài người trong mọi khía cạnh, anh ta sẽ bị thu hút. Hãy tưởng tượng một lần nữa, anh ta vẫn đang nhìn chúng ta mà không có bất kỳ định kiến nào. Tôi cho là anh sẽ lại chú ý đến thực tế, mặc dù sự tồn tại của con người có khả năng phát triển tri thức khoa học, nó hẳn là khả năng bị giới hạn bởi được thực hiện trong những phạm vi nhỏ hẹp và đặc biệt. Có những lĩnh vực to lớn, nơi suy nghĩ của con người dường như là không có khả năng được khoa học định hình, hoặc ít nhất là vẫn chưa làm được. Lại có những lĩnh vực khác – rất khác nữa, trong thực tế, một lĩnh vực duy nhất  –  mà ở đó chúng ta đã và đang chứng minh khả năng cho sự phát triển đúng đắn của khoa học. Hỏi: Các lĩnh vực vật lý chăng? Chomsky: Các lĩnh vực vật lý và những phần thuộc các lĩnh vực mở rộng của vật lý – hóa học, cấu trúc đại phân tử – đều nằm trong đó, có tiến bộ đáng kể. Ở nhiều lĩnh vực khác thì sự phát triển tri thức khoa học thực tế rất ít. Hỏi: Không phải là do con người muốn tập kiểm soát thế giới vật lý đấy chứ? Chomsky: Tôi không nghĩ thế. Ý tôi là nó hầu như phản ánh điều gì đó rất đặc biệt về đặc tính tư duy của chúng ta. Không có sức ép tiến hóa nào tạo ra được cho tư dụy khả năng định hình khoa học; nó chỉ xảy đến. Sức ép tiến hóa không giúp tăng khả năng giải quyết các vấn đề hay hình thành các ý tưởng khoa học mới mẻ. Vì thế, trong thực tế, các khả năng định hình khoa học được thể hiện vì những lý do khác, sẽ không quá ngạc nhiên nếu các cấu trúc khác thường đó phát triển và được chứng minh rằng đặt chúng đặc biệt hơn khi đặt trong tính bẩm sinh, nó cho thấy những ngẫu nhiên trong tiến hóa hoặc cách vận hành của quy luật vật lý. Hỏi: Ý ngài là chúng ta có thể, nhờ vào ưu điểm mà nguồn gốc ngẫu nhiên của khoa học này đem lại, có khả năng phát triểu một vài quy luật khoa học và không có khả năng khác? Đồng thời chúng ta cũng không ý thức được điều đó? Chomsky: Đúng vậy, giống cách chúng ta không ý thức về sự tồn tại của loài người, bởi chúng mặc nhiên cho rằng các cấu trúc tinh thần của bản thân là phổ quát. Tuy nhiên, tôi tin rằng một nhà sinh vật học nhìn từ ngoài vào sẽ thấy rất khác. Anh ta sẽ thấy, giống như cách xem xét các loài khác, chúng ta có một khoảng hẹp mà ở trong đó chúng ta vẫn tốt đẹp, nhưng nơi ấy cũng bị giới hạn. Và rằng, thực ra, những thành tựu chúng ta có thể có trong ấy lại gây ra sự thiếu thốn ở nhiều chỗ khác. Điều kiện để xây dựng một học thuyết khoa học từ dữ liệu và có thể nhận ra rằng nó là học thuyết hợp lý, là cần có một số nguyên tắc giới hạn rõ ràng, thứ dẫn dắt bạn đi theo hướng nhất định cũng như ngăn bạn lạc sang hướng khác. Nếu không thì bạn sẽ chẳng có khoa học gì sất, chỉ đơn thuần chọn một giả thiết ngẫu nhiên nào đó. Rồi tiếp đến, những thiên tài có thể có nhiều cơ hội không bị giới hạn để phát triển theo một hướng, nhưng đồng thời thiên tài cũng sẽ không đi theo hướng khác được. Và hai điều cân nhắc đó có liên quan đến nhau. Rất nhiều đặc tính của tư duy con người đem đến một cơ hội lớn cho thiên tài trong vài lĩnh vực sẽ trở thành chướng ngại vật cho sự phát triển của những lĩnh vực khác, chính xác thì những đặt tính bộc lộ ở mỗi đứa trẻ nhằm cho phép có được một ngôn ngữ phức tạp và ngăn việc thu nhập các hệ thống ngôn ngữ tưởng tượng khác. Hỏi: Ngài nghĩ những lĩnh vực nào sẽ trở lên lạc hậu nhất và bị sao nhãng? Chomsky: Tôi nghĩ về cơ bản thì chũng ta chẳng có gì trong lĩnh vực ứng xử con người. Có thể đó chỉ là tình cảnh bỏ bê tạm thời. Nhưng cũng có thể là chúng ta chỉ đơn giản là không được trang bị theo cách thông minh để phát triển một học thuyết như vậy. Hỏi: Ý ngài là chúng ta không chỉ không có công cụ để phát triển một học thuyết như vậy mà còn không có khả năng tạo ra công cụ cần thiết? Chomsky: Đúng rồi, những công cụ thông minh. Tư duy của chúng ta đặc biệt phù hợp với việc phát triển các học thuyết cố định, và chúng ta có một ngành khoa học nếu các học thuyết tồn tại trong tư duy của mình diễn ra theo hướng gần với sự thật. À, không có lý do đặc biệt nào để tin rằng sự giao cắt giữa những học thuyết đúng đắn với các học thuyết, thứ dễ dàng đạt được trong tư duy, là có quy mô. Nó có thể không quá lớn. Hỏi: Ít nhất chúng ta có thể biết nó rộng đến thế nào chứ? Chomsky: Đó là một câu hỏi thuộc về sinh học, mối tương giao ấy to lớn ra sao. Và nếu con người được cấu thành giống như mọi loài thì chúng ta nên trông chờ, rằng có một vài lĩnh vực mà sự tiến bộ của khoa học là khả thi, còn những cái khác thì không. Người dịch: Leica Green Mời các bạn đón đọc Ngôn Ngữ và Ý Thức của tác giả Noam Chomsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Hòn Tuyết Lăn: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Warren Buffett - Tập 2 (Alice Schroeder)
Giờ đây, cái tên Warren Buffett không còn mấy xa lạ với mọi người ở khắp các châu lục, bởi vì con người này có một tầm ảnh hưởng vô cùng rộng lớn và luôn có mặt trong danh sách những người giàu nhất thế giới suốt hai thập kỷ vừa qua. Song, ít ai biết rằng, vị tỷ phú 80 tuổi đáng kính ấy, “nhà hiền triết vùng Omaha” của Hoa Kỳ thuở thiếu thời lại là một cậu học sinh thường bị điểm kém, từng bỏ nhà đi hoang, nhiều lần tham gia đánh cắp những món đồ thể thao từ cửa hiệu Sears, điều hành một lộ trình giao báo năm 13 tuổi, mua một trang trại 40 mẫu Anh vào năm học lớp 10, bị trường Harvard từ chối, có một cuộc tình “đầy sóng gió” với Hoa hậu Nebraska 1949 Vanita Mae Brown, từng là một “tín đồ” trung thành có thâm niên hàng chục năm của Pepsi trước khi chuyển sang uống Cherry Coke của Coca-cola từ năm 1987, kết thân và xem vợ chồng tỷ phú số 1 thế giới 2009 Bill Gates và Melinda Gates gần như con ruột nhưng không bao giờ đầu tư một đồng vào “đế chế” Microsoft hùng mạnh, cùng vô số những thương vụ đầy táo bạo mang đến cho ông những thành công tột bậc (và một vài thất bại “nho nhỏ”) dọc theo chiều dài sự nghiệp của ông... cho đến khi đọc The Snowball - Hòn Tuyết Lăn, quyển tự truyện về cuộc đời và sự nghiệp của Warren Buffett do Alice Shroeder chấp bút theo đề nghị của chính ông.***Đó là mùa đông thứ chín trong cuộc đời của Warren. Cậu đang nghịch tuyết ngoài sân cùng Bertie, cô em gái nhỏ của mình.Warren đưa tay đón từng bông tuyết trắng tinh đang rơi xuống từ trên tận trời cao rồi đặt vào lòng bàn tay kia cho đến khi cậu có một nắm bông tuyết đầy ắp. Cậu ém chặt và vo nó lại thành một viên bi rồi đặt xuống đất. Viên bi bắt đầu lăn chầm chậm sau mỗi cú hích của cậu và ngày càng to ra vì tích thêm nhiều tuyết trên đường lăn của nó. Cậu lăn nó xuyên qua thảm cỏ nhà mình, lúc này đã phủ tuyết trắng xóa, chẳng mấy chốc cậu đã chạm đến mí vườn. Một thoáng ngập ngừng, cậu quyết định tiến lên và lăn viên bi sang thảm cỏ của những nhà kế cận. Và kể từ đó, Warren tiếp tục lăn quả bóng tuyết của mình đi khắp trên thế giới... Tìm mua: Hòn Tuyết Lăn: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Warren Buffett - Tập 2 TiKi Lazada Shopee ***Omaha, 1980 - 1986 Năm trăm con người giàu có và lịch lãm trong những chiếc áo tô-ga thắt nơ đen lần lượt bước lên tấm thảm đỏ tiến vào Đại Khán phòng Metropolitan sang trọng vào hàng bậc nhất New York để dự buổi tiệc mừng sinh nhật lần thứ 50 của Warren Buffett. Với mỗi cổ phiếu Berkshire Hathaway đang được giao dịch ở mức 375 đô la, tài sản gia đình Buffett giờ đây đã tăng lên gấp đôi so với một năm rưỡi trước đó và họ không chút đắn đo khi chọn địa điểm này để tổ chức mừng sinh nhật ông. [1] Thấp thoáng giữa các thành viên của Nhóm Buffett là các ngôi sao chớm nổi tiếng như chị gái của nam diễn viên Cary Cooper. Susie đã đặt một chiếc bánh kem sáu tầng có hình dáng như những thùng Pepsi-Cola thân yêu của Buffett. Ông đã đề nghị người bạn thời kinh doanh máy trò chơi pinball trong các tiệm hớt tóc, Dan Danly, mang theo cho ông bảng cân đối kế toán của công ty sản xuất các loại máy vận hành bằng tiền xu (Coin-Operated Machine Company) [2] của Ngài Wilson. Buffett bắt đầu thu thập tài liệu về các công ty từ thuở ông vừa bước chân vào kinh doanh ở tuổi niên thiếu. Ông xem các vật này như những vật thiêng và thường mang ra khoe với mọi người bằng một ánh mắt ánh lên vẻ phục thù. Chúng trông như những bằng chứng có thể sờ mó được, những món đồ tạo tác, về chính con người ông. Susie mang theo ban nhạc của bà đến từ San Francisco. Họ chiếm lấy sân khấu trung tâm và mở màn bằng bài hát cải biên có tựa đề đặt lại là “Shuffle Off to Buffalo” để chúc mừng Buffett: Warren đã ngán kẹo tới cổ Nhưng tem thưởng thì không thuận tay… Bài hát tiếp tục hết đoạn này đến đoạn khác nhắm vào việc làm kỳ quặc mới nhất của Buffett: gói ghém hành lý và vội vàng đi Buffalo để mua lại một tờ báo được bán dưới giá gốc. Giọng hát của Susie lúc này đã chuyển sang một khuynh hướng mới, nghe ủy mị nhưng ngọt ngào. Các thành viên trong gia đình Buffett và bạn bè bắt đầu lên sân khấu để kể ra - trước sự chứng kiến của ông - danh sách các công ty và các thương vụ mà ông đã sưu tầm được như những hạt ngọc trong một chuỗi ngọc quý. Với đôi chân mày xoăn tít như đám dây thường xuân nhô lên khỏi cặp kính, trông ông lúc này đã bớt vụng về hơn trong bộ vét-tông kiểu cách thắt nơ đen. Một Berkshire Hathaway hiện đại giờ đây đều đặn sản xuất ra rất nhiều hạt ngọc mới cho gia đình ông. Cuộc săn lùng thâu tóm các công ty khác giờ đã trở thành một tham vọng mãnh liệt hơn vì không còn những mẩu xì-gà béo bở hay những vụ kiện tụng bó buộc chân tay như trong thập niên trước đó. Qui luật lãi suất kép miệt mài phát huy tác dụng như một tên đầy tớ chăm chỉ phụng sự ông chủ của nó trong sự kinh ngạc của mọi người. Phương pháp đầu tư của ông vẫn vậy: đánh giá giá trị thực chất của từng vụ đầu tư, tối thiểu hóa các rủi ro, mua vào theo biên an toàn, duy trì sự tập trung, luôn giữ mức thu nhập dồi dào và để quả bóng tuyết tự do lăn tới trước trong khi lãi suất kép phát huy tác dụng. Bất kỳ ai cũng có thể hiểu được những ý tưởng đơn giản này nhưng chỉ có một vài người biết cách áp dụng. Mặc dù Buffett cố gắng giải thích sao cho mọi người thấy qui trình này không mất nhiều công sức, nhưng kỳ thực bản thân ông và các nhân viên của ông phải làm việc cật lực với một khối lượng công việc và thông tin cực lớn. Toàn bộ đế chế kinh doanh của ông giờ đây đã mở rộng từ bờ Đông sang bờ Tây nước Mỹ, từ bờ Hồ Erie phía Bắc dọc xuống các khu ngoại ô Los Angeles, nơi có tòa nhà Kiewit Plaza đứng sừng sững ngay giữa trung tâm thành phố - một tòa nhà thương mại yên tĩnh nhưng bận rộn không dứt được trang trí nội thất bằng những bộ bàn ghế có khung sắt thường bị người ta kéo tới kéo lui xoàn xoạt trên sàn nhà được lót bằng vải sơn. Cứ thêm một thương vụ mới thì họ lại có thêm nhiều việc hơn để làm, nhưng số lượng nhân viên trong văn phòng không hề tăng lên. Buffett vẫn cố thủ trong phòng cách ly, được chốt chặn bởi cô thư ký Gladys. Bill Scott giàu sụ lúc này chỉ còn làm việc bán thời gian và dành phần còn lại trong ngày đi nhảy Polka với nhóm bạn bè của mình. Một quản lý mới tên là Mike Goldberg vừa gia nhập góp phần làm tăng tổng số nhân viên của công ty. Verne McKenzie chịu trách nhiệm quản lý tài chính. Các nhân viên hiếm khi rời chỗ làm việc chật chội của mình trừ phi phải tham dự một buổi họp kín nào đó trong phòng họp công ty, vốn chỉ đủ chỗ cho bốn người. Không một cuộc tán gẫu nào diễn ra quanh bàn nước. Nói về giai đoạn thoải mái này sau những cuộc tranh chấp tại tòa báo Buffalo Evening News, McKenzie phát biểu: “Chưa bao giờ có quãng thời gian nào giống như thế!” [3] Những người đã từng thử Luật Nhiệt động lực học của Rickershauser nhận ra rằng thật ra “mặt trời” rất dịu dàng và nồng ấm, nhưng Buffett là người rất tập trung và nhanh nhạy đến mức những cuộc đàm luận mở rộng với ông có thể làm họ bị “bỏng nắng”. “Đầu óc tôi quá mệt mỏi!” một người nói. “Tôi cần nghỉ ngơi để hồi phục sau khi gặp ông ấy!” Một người khác. “Đầu tôi như vừa hứng những cú đấm thẳng choáng váng!” Một nhân viên cũ của ông nói nh ư thế. Buffett có nguồn năng lượng và bầu nhiệt huyết của một cậu thiếu niên hiếu động. Dường như ông nhớ tất cả các con số hay dữ kiện mà ông đã đọc qua. Ông khuyến dụ mọi người tình nguyện nhận những công việc khó để sau đó tuyên bố rằng họ vừa tạo ra một phép màu. Ông sẵn sàng chịu đựng búa rìu dư luận, miễn là điều đó giúp ông tiết kiệm được tiền bạc. Ông hết sức quan tâm đến hiệu quả công việc, ông nắm rõ kỹ năng của từng nhân viên cho nên bất kể họ hoàn thành công việc với kết quả xa gần thế nào so với kỳ vọng của ông, ông luôn đánh giá thấp khối lượng công việc của họ. Buffett, mặt trời mà mọi người đều phải quay quanh, cứ trơ trơ trước sức tác động của Luật Nhiệt động lực học của Rickershauser. “ Mọi người bảo rằng tôi đặt áp lực lên họ. Tôi không bao giờ có ý đó. Một số người thích gây áp lực với nhân viên, nhưng tôi thì không bao giờ. Thực ra đó chỉ là biện pháp cuối cùng mà thôi. Tôi nghĩ tôi không bao giờ làm như vậy, nhưng khi có quá nhiều người nói như thế thì có lẽ chuyện đó cũng có phần đúng.” Các nhà quản lý chịu trách nhiệm điều hành các công ty nằm sâu trong lục địa mà Berkshire Hathaway và Blue Chip sở hữu lại khá may mắn vì Buffett hầu như để họ tự do một mình. Bí quyết quản trị của ông là chọn những người có óc cầu toàn đến mức ám ảnh, như chính ông, kiểu người chỉ biết làm việc không ngơi nghỉ. Sau đó, ông cứ để mặc họ, ngoại trừ thỉnh thoảng ông lại “Carnegizing” [4] họ - tức tỏ ra ân cần, thán phục và sử dụng những bí quyết “đắc nhân tâm” khác đối với họ. Hầu như không ai có thể làm khác đi các kỳ vọng mà ông đã đặt vào họ. Quyết định của Buffett về việc mua vào ồ ạt các loại cổ phiếu trong thập niên 1970 là những vụ đặt cược đầy thách thức trước sự bi quan của thị trường các nhà đầu tư giá xuống, lại bị gây khó khăn bởi nạn thất nghiệp lan tràn và sự gia tăng giá cả sinh hoạt tới mức không thể chịu đựng nổi: 15% một năm. Giờ đây, phán đoán của ông đã được đền bù, một phần nhờ Tổng thống Jimmy Carter trong cơn tuyệt vọng đã bổ nhiệm Chủ tịch Quỹ Dự trữ Liên bang mới, Paul Volcker, vào năm 1979. Volcker nâng tỉ lệ chiết khấu cho ngân hàng trung ương lên 14% để kiểm soát lạm phát. Năm 1981, Tổng thống mới đắc cử Ronald Reagan bắt đầu mạnh tay cắt giảm thuế và tiến hành bãi bỏ các qui định cản trở kinh doanh đồng thời ủng hộ Volcker bất chấp những tiếng thét gào của dân chúng vì phải chịu đựng chính sách kinh tế hà khắc của ông. Nền kinh tế và thị trường trải qua một thời kỳ đen tối trong khoảng hai năm rưỡi. Vào cuối năm 1982, thị trường chứng khoán cho các nhà đầu tư giá lên bắt đầu biến động khi giá cả cổ phiếu bắt đầu bắt kịp tốc độ tăng tỉ suất lợi nhuận của các công ty. [5] Những khoản tiền mà Buffett đã sử dụng để thực hiện những vụ đầu tư lớn ở những năm cuối thập niên 1970 đến từ nguồn trôi nổi qua các công ty bảo hiểm và từ những con tem thưởng. Trong khi National Indemnity làm ăn phát đạt thì tại Blue Chip, việc kinh doanh tem thưởng tiếp tục thu hẹp và các khoản đầu tư từ nguồn float đang dần dần co lại từ các khoản tiền tem vốn được trả trước một cách hào phóng. [6]Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hòn Tuyết Lăn: Cuộc Đời Và Sự Nghiệp Của Warren Buffett - Tập 2 PDF của tác giả Alice Schroeder nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Hơn Cả Tiền (Mark Albion)
“Lạ thường.” “Sôi nổi.” “Truyền cảm.” “Tuyệt diệu.” Là sinh viên các lớp Cao học QTKD, bạn chạm trán với nhiều kiểu giáo viên. Có những giáo sư biên chế giảng bài bằng trí nhớ. Có những giảng viên thỉnh giảng mang những nghiên cứu điển hình có thật trong cuộc sống vào lớp học. Có những trợ giảng kiên nhẫn, những người một cách tượng trưng giúp bạn gặm nhấm chương trình giảng dạy nòng cốt. Và tiếp theo là Mark Albion. Mark là một kiểu giáo viên khác biệt, một người mạo hiểm thoát khỏi những khuôn khổ trường lớp để dạy những gì ông ấy yêu quý cho những người ông ấy yêu quý. Mark đam mê tìm kiếm ý nghĩa trong cuộc sống và công việc, và ông biến nó thành nhiệm vụ của cuộc đời mình để chia sẻ niềm đam mê đó với những người khác. Tại hội nghị thường niên của Net Impact, chúng ta may mắn được gặp vô số những diễn giả tuyệt vời, nhưng rất ít người có tác động đến sinh viên như Mark Albion đã làm. Những tính từ ở đầu phần này chỉ là một vài từ trong những lời ca ngợi được nghe hàng năm khi chúng tôi thăm dò ý kiến của những người tham dự về diễn giả yêu thích nhất của họ. Tên của Mark luôn luôn nằm đầu danh sách. Tìm mua: Hơn Cả Tiền TiKi Lazada Shopee Tại sao Mark lại là một người được yêu thích như vậy với các sinh viên cao học QTKD và những sinh viên ngành kinh doanh khác hay những chuyên gia? Tôi có vài giả thuyết của mình: Ø Mark hiện thân cho lời khuyên ông đưa ra. Trong cuốn Hơn Cả Tiền, Mark khuyên độc giả nghĩ khác đi về những khả năng nghề nghiệp. Câu chuyện cá nhân của Mark là một câu chuyện mà trong đó ông đã nghĩ khác đi, đã chọn khác đi, và đã hành động khác đi - và ông cảm thấy ấm áp với sự bình yên cá nhân khi làm như vậy. Ø Mark hiểu rằng đề tài của ông là một đề tài khó. Thật không dễ để đưa ra những lựa chọn sự nghiệp trong khi còn ở trường kinh doanh, với rất nhiều lựa chọn, nhiều nguồn lời khuyên, và những thúc ép tài chính bạn phải đối mặt. Chọn lựa công việc hay nơi thực tập thích hợp có thể dường như là quyết định quan trọng nhất trên thế giới đối với những sinh viên cao học QTKD đang căng thẳng và ngập mình trong đó. Mark biết điều này, và ông không hề xem thường sự nghiêm túc của việc lựa chọn, nhưng quan trọng hơn là giúp đỡ thính giả của ông đưa ra quyết định đúng đắn. Ø Giống như bất kỳ sinh viên giỏi nào, Mark đã làm bài tập về nhà của ông. Ông đã thu thập hàng trăm câu chuyện đời và những ví dụ về những con đường sự nghiệp, và ông đã đi toàn cầu để học và chia sẻ những kinh nghiệm này với người khác. Ø Mark là một người nồng hậu, vui vẻ, và chu đáo. Với Mark là người hướng dẫn thay vì vài loại người khác bạn có thể gặp trên hành trình QTKD của mình (bạn biết những loại tôi muốn nói), sẽ dễ dàng hơn nhiều để tin rằng mọi thứ sẽ ổn. Và Mark đã đúng - mọi thứ sẽ ổn! Đặc biệt là nếu bạn dùng Hơn Cả Tiền làm một nguồn tham khảo. Tại Net Impact, chúng tôi rất thường nghe từ những sinh viên cao học QTKD rằng họ bị giằng xé về việc làm thế nào để tạo ra sự khác biệt và khi nào cần tạo ra sự thay đổi trong sự nghiệp của họ. Đưa ra quyết định quả là việc khó khăn, và những câu trả lời phụ thuộc vào đam mê, tài năng, và những mục tiêu cuộc đời của mỗi cá nhân. Quyển sách này là cho tất cả những ai hiện nay đang cân nhắc những vấn đề này hay những ai sẽ phải đối mặt với chúng trong tương lai. Mark sẽ dẫn dắt chúng ta qua quy trình chất vấn bằng những câu hỏi đúng đắn và quy trình tìm ra con đường đúng đắn độc nhất vô nhị của ông. Có rất nhiều cuốn sách được thiết kế để giúp bạn nghĩ về sự nghiệp và những cuốn khác giúp bạn khám phá những cảm xúc về cuộc đời của mình, nhưng rất ít cuốn hòa lẫn hai chuyện này một cách thành công như Mark đã làm. Hơn Cả Tiền sẽ hỏi bạn những câu hỏi khó về việc bạn là ai, bạn muốn gì, và bạn đưa ra những quyết định như thế nào. Nếu bạn thách thức chính bản thân mình thì cuốn sách này không phải là cuốn sách dễ dàng nhất mà bạn từng đọc, nhưng nó có thể tránh cho bạn nhiều năm phiền muộn. Mark viết quyển sách của ông dựa trên bốn câu hỏi và 12 nguyên tắc sống (lifeline), kết quả của điều này là cái mà ông gọi là một “kế hoạch số phận (destiny plan)”. Ông cung cấp cho bạn những lựa chọn về việc bạn muốn đào sâu như thế nào những câu hỏi ông đưa ra và cung cấp những đề xuất để bạn làm việc với những nhóm bạn hay đồng nghiệp nhằm khám phá những ý tưởng và những hành động tiềm tàng. Ông cũng cung cấp những công cụ và những nguồn tham khảo để trang bị cho bạn trên hành trình tìm kiếm của mình. Và ông đưa ra rất nhiều câu chuyện thú vị để giữ cho bạn đầy cảm hứng và làm cho bạn cười. Cho dù bạn tò mò hay chỉ muốn thưởng thức bài viết hay của Mark hoặc bạn sẵn sàng để lên kế hoạch chi tiết cho tương lai của bạn, quyển sách của Mark sẽ đền đáp cho những nỗ lực của bạn với những ý tưởng sâu sắc và những khả năng mới. Quyển sách này là một món quà từ một người bạn tận tâm của Net Impact, và một người thầy uyên bác tận tụy dành cho các sinh viên cao học QTKD và những chuyên gia khắp thế giới. Như Mark nói, Hơn Cả Tiền “hỗ trợ bạn để bạn theo đuổi giấc mơ của mình và để bạn cống hiến.” Tôi hy vọng rằng quyển sách này dẫn dắt bạn đến chỗ không những hơn cả tiền mà là một tương lai sẽ làm bạn hài lòng hơn bất cứ điều gì bạn từng dám mơ đến. ________________________________ Liz Cutler Maw là giám đốc điều hành của Net Impact từ mùa thu năm 2004. Liz đã làm việc với mạng lưới Net Impact từ năm 1999; bà là đồng lãnh đạo của hội sinh viên Net Impact của Trường Kinh Doanh Columbia và là đồng sáng lập và lãnh đạo của Hội Chuyên Gia Vùng Vịnh (Bay Area Professionals Chapter). Kinh nghiệm chuyên môn của Liz bao gồm tư vấn chiến lược cho những tổ chức phi lợi nhuận cùng Bridgespan Group, một hãng tư vấn chiến lược phi lợi nhuận, cũng như gây quỹ và tiếp thị trực tiếp cho những tổ chức phi lợi nhuận ở thành phố New York và Washington, D.C. Bà lấy bằng cử nhân hạng ưu tại Đại học Yale và bằng cao học QTKD tại Trường Kinh Doanh Columbia. Liz cũng học một học kì tại Trường Kinh Doanh Haas của Đại học California ở Berkeley (U.C. Berkeley).Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Hơn Cả Tiền PDF của tác giả Mark Albion nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Du Hành Trong Thế Giới Sáng Tạo (Michael De Kretser)
Nếu bạn đang tìm một cuốn sách chứa đầy những biểu đồ, số liệu và bảng biểu về PR ở Châu Á thì hãy đặt cuốn sách này xuống, vì nó không phải là những điều khô khan như thế. Hay nói cách khác, đây là một cuốn sách bom tấn - không phải là sách hàn lâm. Tại sao lại gọi đây là sách bom tấn? Vì tựa như những bộ phim bom tấn thu hút khán giả ngoài rạp chiếu kia, Đi Để Đến! tràn đầy sự đam mê, ý tưởng, sự phiêu lưu mạo hiểm và trên tất cả, nó tạo cảm giác thú vị cực kỳ cho người đọc. Xuyên suốt cuốn sách là câu chuyện của một người không bao giờ hài lòng với những gì đơn giản - Michael de Kretser, được mệnh danh là Quý ông PR của châu Á. Đó là câu chuyện về việc đứng lên và thành công từ vấp ngã, khi ông bắt tay xây dựng mạng lưới PR châu Á không phải một mà những hai lần! Đó cũng đồng thời là câu chuyện về những Kẻ Nói Không - những người luôn chỉ biết lặp đi lặp lại câu “Không được làm cái đó!” và “Đây không phải là thời điểm để làm điều này, Michael!”. Ngoài ra, bạn sẽ tìm thấy trong Đi Để Đến! cái cách Michael thuyết phục người đứng đầu Madame Tussauds để đặt Thiếu nữ Singapore vào bảo tàng tượng sáp danh tiếng này. Tìm mua: Du Hành Trong Thế Giới Sáng Tạo TiKi Lazada Shopee Bạn sẽ hiểu được lý do tại sao nên tá túc trong “khách sạn tình yêu” khi mở một văn phòng mới ở Đài Loan. Và bạn cũng sẽ tìm thấy những ích lợi của việc đặt văn phòng ngay phía trên nhà hàng Ấn Độ ở Kuala Lumpur. Trên tất cả, bạn chắc chắn sẽ bị thu hút bởi giọng văn hóm hỉnh, thông minh và đầy quyến rũ của Michael. Càng thu hút hơn nếu bạn nhận ra ẩn chứa trong những dòng chữ đó là một tâm hồn sâu sắc cùng sự tâm huyết trong công việc của ông để đem lại cho khách hàng những điều tốt nhất. Nếu bạn thấy hứng thú với PR nói riêng và quảng cáo nói chung, bạn nên đọc đi đọc lại cuốn sách này. Bởi vì những câu chuyện của Michael còn chứa đựng nhiều kiến thức thực tiễn về PR và truyền thông hơn bất kỳ bảng biểu hay số liệu nào trên thị trường. Và còn vì hành trình của ông ấy thật sự rất thú vị, như kịch bản của bao bộ phim bom tấn khác. Bạn đã sẵn sàng để mỉm cười trên suốt chặng đường thú vị trong cuốn sách chưa? Nếu câu trả lời là có, thì cuốn sách này hẳn nhiên dành cho bạn. *** Lời khen tặng“Sâu sắc và chạm vào tâm trí người đọc, khiến họ bị lôi cuốn theo cuộc hành trình đầy thú vị trong sự nghiệp PR sáng chói của Michael.” Christopher Forbes, Phó chủ tịch Nhà xuất bản Forbes “Chương nào trong cuốn sách cũng đều chứa đựng sự dí dỏm, vui nhộn và thông minh. Bạn sẽ cười phá lên, sẽ “ngấu nghiến” cuốn sách này và lắc đầu kinh ngạc khi Michael chỉ ra rằng tất cả chúng ta đều có thể suy nghĩ và biến những ý tưởng lớn thành hiện thực.” Tham Khai Meng, Giám đốc sáng tạo toàn cầu của Ogilvy & Mather “Trong một thế giới truyền thông đang bị nắm giữ bởi những cái đầu lạnh, thì đây thực sự là một cuốn sách dí dỏm, hài hước và đầy trí tuệ đến từ một trong những bậc thầy PR của thế giới. Michael viết sách như cách ông chơi cricket(1) vậy - súc tích, lôi cuốn, dí dỏm nhưng ẩn chứa bên trong là trí tuệ sắc bén và sự nỗ lực không ngừng trong công việc.” James Woolett, Giám đốc sáng tạo của J. Walter Thompson & Campaign Palace “Mỗi chương trong cuốn sách này lại đem đến cho người đọc những điều ngạc nhiên thú vị. Một “ly cocktail đời thực” - được pha trộn bằng “nguyên liệu” là những mẩu chuyện về con người, địa điểm và các chiến dịch PR. Rất dí dỏm, tinh nghịch và hữu ích. Lorraine Hahn, người dẫn chương trình TalkAsia của CNN “Một tư liệu có giá trị cho bất cứ ai yêu thích marketing và PR ở châu Á. Và những câu chuyện trong cuốn sách cực kỳ lý thú!” Jim Aitchison, Tác giả của cuốn Cutting Edge Advertising “Michael cho bạn một nguồn tư liệu phong phú về PR. Bạn có thể học được nhiều thứ từ Thầy phù thuỷ của những điều ngạc nhiên này.” Chris Boyd, Giám đốc điều hành của CB Richard Ellis, Malaysia “Sẽ không ngoa nếu tôi nói rằng Michael là bậc thầy của những điều kỳ thú! Ông ấy mang trong mình sự quyến rũ của những cô gái mặc đồ Sarong ưa tiệc tùng, sự hóm hỉnh của những nhân viên trên Đại lộ Madison(2) và sự khéo léo của một người làm bánh murtabak(3). Cuốn sách chứa đựng nhiều sự tiếc nuối và những điều tự hào chân thực nhất bởi vì nó là sự thật, nó là cuộc sống!” Harmandar Singh (Ham), chủ bút tạp chí ADOI “Du hành trong thế giới sáng tạo là câu chuyện về cuộc hành trình trong thế giới PR của nhân vật trung tâm - Michael de Kretser, người viết lên cuốn sách, chứa đầy sự kiên trì, năng lượng, hóm hỉnh và thật sự rất khác biệt!” Peter Semone, Phó chủ tịch Pacific Asia Travel Association (PATA) “Với những ai đã từng sống ở châu Á vào thập niên 70 và 80, cuốn sách này hẳn sẽ gợi lại rất nhiều những ký ức ở thời kỳ bùng nổ của marketing và truyền thông châu Á. Đó là một chuyến tàu lượn siêu tốc thực sự! Đầy những hiểm nguy, những khoảnh khắc eureka! tuyệt diệu và nguồn cảm hứng thì bất tận. PR từng thú vị như thế, và Michael, cùng với những trải nghiệm giá trị của ông, đã xác nhận cho chúng ta điều đó.” Lauren McMullen, Cựu biên tập viên của Singapore Trade & Industry “Michael được xem như là một trong những người khiêu khích nhất, bí ẩn nhất, hấp dẫn nhất, nhạy cảm nhất, khó đoán nhất, sôi nổi nhất và sáng tạo nhất trong lịch sử truyền thông ở châu Á Thái Bình Dương. Còn cuốn sách của ông giống như phiên bản chân thật và trẻ trung của Michael vậy!” Jacqueline Fong, Nhà sáng lập khách sạn Batik Boutique “Một hành trình thú vị xuyên suốt cuộc đời Michael - rất dí dỏm và hài hước! Nhiều bài học của cuộc sống đã được ghi nhận từ người đàn ông sâu sắc này.” Mary Buffet, đồng tác giả của cuốn sách bán chạy nhất BuffettologyĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Du Hành Trong Thế Giới Sáng Tạo PDF của tác giả Michael De Kretser nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đông Lai Bác Nghị (Dương Tấn Tươi)
Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng: vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây »! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Tìm mua: Đông Lai Bác Nghị TiKi Lazada Shopee Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương: « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận: « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi: « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận: « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì: « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt - tốt và xấu, thanh với tục - của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc: « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến? » Cụ giảng: « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ: Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ: « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ: bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu: « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời »? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết: « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo: quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép: « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép: « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên: « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi: « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép: « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống - công tử Ấn và Đãng Ý-Chư - Xuân-Thu chép: « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu: « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường: được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó: phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đông Lai Bác Nghị PDF của tác giả Dương Tấn Tươi nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.