Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chị Đào Chị Lý

Đây là một tác phẩm không quá bi kịch hay nổi bật so với nhiều tác phẩm khác. Nhưng câu chuyện toát lên một vẻ rất riêng. Một bà Ngọc tao nhã nhưng u buồn, một cô Đào vui vẻ, xởi lởi, một cậu Khánh điển trai, trí thức, một cô Lý nhạy cảm, dịu dàng và nhiều nhiều nhân vật mang màu sắc sinh động vô cùng. Tính triết lí trong truyện nói lên hệ luật nhân-quả, những gì mà bất cứ ai, ở bất cứ thời điểm nào cũng đều sẽ hành động như thế, cũng đều sẽ cảm nhận những hỉ nộ ái ố mà nhân vật trong truyện. Có lẽ “Chị Đào chị Lý” của Hồ Biểu Chánh là một trong số những truyện hiếm hoi mà tác giả viết màu sắc khá sinh động, không quá buồn như các tác phẩm khác và cũng không quá mang tính hài hước, một tác phẩm khá bình dị và mộc mạc về người Nam Bộ. Truyện là một chuỗi những sắc thái khác nhau của các nhân vật: bà Ngọc, cô Đào, cô Lý…Truyện là một bài học về cách đối nhân xử thế và để chúng ta hiểu thêm rằng “Gieo nhân nào, gặp quả nấy” vẫn là quy luật muôn đời. *** Có buồn rồi mới có được vui; có cực rồi, mới biết sướng. Bà Ngọc trải qua những nỗi buồn rầu cực khổ. Từ đây bà mới vui sướng mà sống với cảnh đời thân ái giữa con trai con gái với dâu rể hòa thuận một nhà. Có một điều làm cho người không hiểu tâm sự của con rể bà, họ có hơi thắc mắc, là Khánh kêu vợ là chị Đào mà Hoài cũng kêu vợ là chị Lý. Ai muốn hiểu sao tự ý, bà Ngọc cứ vui cười tối ngày." Hồ Biểu Chánh tên thật là Hồ Văn Trung, là một trong những nhà văn tiêu biểu nhất của Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900 - 1930. Tiểu thuyết của ông bao quát những mảng hiện thực, những nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào những thập niên đầu thế kỷ 20. Đó là sự tha hóa của con người trước sự lớn lên vùn vụt của đầu óc trọng thương, là số phận đáng thương của những thường dân rơi vào cảnh cùng quẫn, là những câu chuyện thế sự giàu chất nhân văn của những con người trên vùng đất mới... Lối viết bình dị, ngôn ngữ gần với lời nói thường ngày là một ưu thế khiến tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chiếm được cảm tình đặc biệt của người dân Nam Bộ. *** Thường nghe người ta nói "vật hoán tinh di, tang điền thương hải" 1 : mấy lời ấy thiệt không sai. Khúc đường từ chợ Thị Nghè sang chợ Bà Chiểu mới có mấy năm nay mà nó nổi danh xóm Hàng Sanh rộn rực tưng bừng. Quang cảnh đìu hiu ngày trước đã biến thành quang cảnh náo nhiệt không thua gì Phú Nhuận, Hòa Hưng, Vườn Lài hay Xóm Chiếu. Hai bên đường nhà phố cất liên tiếp giáp hết không còn chỗ trống mà chen vô ở được nữa. Tối ngày thiên hạ qua lại dập dìu, lại thêm đủ thứ xe tranh nhau chạy rần rần không ngớt. Đến đây ai cũng nhớ cách lối ba mươi năm về trước những người giàu có với những khách tầm hoa, chiều chiều hay mướn xe cyclo đi hứng gió. Hễ đi vòng chợ Bà Chiểu mà qua khỏi chợ Thị Nghè, thì từ mũi tàu, là chỗ sở Trường Tiền dượt thi đặng phát giấy phép lái xe hơi, vòng qua tới Cầu Mới, là ranh Châu Thành Bà Chiểu, hai bên đường đều là ruộng rẫy sình lầy, quang cảnh vắng vẻ im lìm, giống như quang cảnh thôn quê đồng bái. Nếu ở Thị Nghè mà ngó thẳng xuồng cầu kinh Thanh Đa thì thấy mấy đám dừa nước xơ rơ, gió chiều thổi tàu lá xổng lên rồi oặt xuống như chào khách nhàn du, lại có mấy cây bần rạch đứng chần ngần theo mé xẻo 2 , dưới gốc lác mọc bao chung quanh như lác trìu mến không nở bỏ bần, còn bần như tiếc nước ròng nên đứng ngóng trông nước mau lớn lại. Xóm bây giờ người ta gọi là xóm Hàng Sanh đó thì ngày trước chỉ có vài ba cái chòi lá nhỏ, lại nằm cách xa nhau, có lẽ chủ cố ý giấu kín đời sống nghèo khổ của mình nên không chịu ở gần nhau, tránh cho khuất mắt dòm ngó của thiên hạ. Cái chòi dựa bên đuờng; gần ngã ba quanh qua Bà Chiểu tuy có một căn lúm túm, song coi cao ráo sạch sẽ hơn mấy cái ngoài xa kia. Trước chòi có cái sân nhỏ trồng rau dừa 3 hai bên, trổ bông đủ bốn mùa, bông trắng chen với bông đỏ, coi có vẻ vui vui một chút. Bên hè có cây đu đủ ngọn lên cao gần ngang đầu song, cổ có tới vài chục trái, dưới lớn bằng cái chén ăn cơm, trên nhỏ như trái cau ăn trầu, chủ nhà bữa nào cũng thăm chừng, chồng trông mau chín mà ăn, vợ tính để dành mà bán. Chòi nầy là chòi của anh Lê Văn Thái, cất với vợ là Nguyễn Thị Hòa hơn ba năm rồi, phía trong có lót cái chõng để vợ chồng ngủ, có bếp để nấu cơm ăn và có một cặp thúng một đôi gióng và một đôi quang gánh, để cho chị Hòa mỗi ngày đi kiếm mua thơm, mít, ổi, gánh ra chợ bán. Phía ngoài một bên có lót một bộ ván dầu 4 nhỏ để nằm chơi, còn một bên để bàn lóc nhóc, với hai cái ghế đẩu để có ai tới thì mời ngồi nói chuyện. Cái chòi như vậy mà vợ chồng anh Thái hãnh diện, nói chuyện với ai anh cũng khoe "nhà của tôi". Mà vợ chồng anh khoe cũng phải, chòi dầu lớn dầu nhỏ, dầu tốt dầu xấu, không phải cướp giựt của ai, cũng đủ cho vợ chồng ảnh đụt nắng đụt mưa mấy năm rồi, cũng là cái tổ êm ấm cho vợ chồng ảnh hẩm hút giữa thân yêu hòa thuận. Anh Thái làm bên sở Ba Son. Vì anh không phải là thợ chuyên môn về nghề nào hết, nên không lãnh tiền công theo thầy hay thợ đuợc. Anh biết chữ Việt rành. Anh viết chữ tốt, lại biết nói tiếng Pháp cột quẹt. Người ta mới giao cho anh phát thẻ cho thợ thuyền, kiểm điểm số công nhân đi làm mỗi buổi đặng biên rồi giao cho xếp rồi xớ rớ coi dọn dẹp nhà giấy vậy thôi. Công việc của anh làm thì nhẹ nhàng, khoẻ khoắn, nhưng tại như vậy người ta cho anh lãnh tiền công có 9 cắc một ngày mà chúa nhựt nghỉ thì không được ăn tiền. Anh cực có một việc là mỗi buổi anh phải có mặt trước giờ sở mở cửa và mãn giờ anh phải chờ thợ thuyền ra hết rồi anh sẽ về sau. May anh là người biết lo, lại anh nhờ có chiếc xe máy cũ cỡi đi làm, bởi vậy không bao giờ anh đi trễ. Còn chị Hòa là vợ anh thì chị bãi buôi nhậm lẹ, chị giỏi nghề mua bán, tay bằng miệng miệng bằng tay. Hễ xế chồng đi làm rồi thì chị khóa cửa quảy thúng đi mua trái cây gánh về để sáng đem ra chợ Thị Nghè ngồi bán, kiếm lời mỗi bữa 5-7 cắc hoặc 1 đồng phụ với chồng mà sống cho no ấm. Vợ chồng đồng tâm hiệp ý sống với nhau trót ba năm trong cảnh đời tuy không phải trưởng giả song luôn no ấm an vui. Thời may chị Hòa có thai, vợ chồng đều mừng, mừng vì có dấu tích về tình yêu của vợ chồng khắng khít. Tuy nhiên mà rồi lại phải lo, lo dành cho có sẵn một số tiền để cho vợ ăn đẻ. Chị Hòa lại lo hễ có con thì chị mắc nuôi con, làm sao đi mua bán mà kiếm tiền thêm. Thái lo tiện tặn đến nỗi khuya ăn cơm nguội hoặc mua xôi hay bắp ăn đi làm, chớ không dám ngồi quán ăn hủ tiếu uống cà phê như trước nữa. Chiều cũng vậy, hễ làm việc mãn giờ thì tuốt về nhà ăn cơm, chớ không dám ta bà ăn nhậu với chúng bạn. Đến chừng chuyển bụng, may có anh Thái ở nhà anh đưa vợ vào nhà bảo sanh Thị Nghè mà nằm. Chị sanh một đứa con gái mạnh mẽ. Mới được một đứa con đầu lòng, dầu gái hay trai không cần, vợ chồng đều mừng rỡ, đặt cho con tên Đào, là tên một trái quí. Nhờ vợ chồng lo trước, nên chị Hòa đi sanh trong túi có sẵn 40 đồng bạc, khỏi bối rối chi hết, nhà nghèo nếu sanh mạnh giỏi thì nằm ba bốn bữa rồi thường người ta bồng con về. Tuy Hòa khoẻ khoắn, ăn cơm biết ngon, đủ sữa cho em bú, Thái muốn vợ nằm lâu cho có người săn sóc lại cô mụ cũng nài ép nằm cho đủ tám bữa, em rụng rún rồi sẽ về lại càng tốt hơn, bởi vậy Hòa ráng nằm cho đủ 6 bữa đi đứng cứng cát rồi chị cứ đòi về nhà nằm cho thong thả và lo cơm nước cho chồng. Thái phải chiều theo ý vợ mà thiệt anh cũng muốn vợ con về nhà đặng sum hiệp cho vui. Anh mới đóng tiền nhà thương và đền ơn cô mụ rồi kêu xe kéo rước vợ con về, trong túi còn được 9, 10 đồng bạc lại còn 6 bữa nữa tới kỳ lãnh tiền nên không lo gì lắm. Trót một tuần đầu vợ chồng vui vẻ cực điểm. Thái đi làm về hễ thấy con thức thì giành với vợ đặng bồng mà nựng nịu; còn nếu con ngủ thì đứng chống tay mà nhìn, thấy vợ còn non ngày anh không cho làm việc chi hết, mỗi bữa đi làm về anh ghé chợ mua thịt cá hoặc khô mắm đem về rồi phụ kho nấu đặng vợ chồng ăn với nhau. Mắc mừng vui với đứa con nằm ngoa ngoe, ngủ thì mụ bà dạy cười, thức thì huơi tay chòi cẳng, vợ chồng say sưa hạnh phúc, quên hết cảnh hẩm hiu, bần hàn. Vui được chừng mươi bữa, rồi không hiểu tại sao mà chị Hoà ăn cơm không biết ngon, lại còn thêm chứng nóng lạnh. Thái mua thuốc hoàn thuốc tán cho vợ uống mấy bữa không thấy công hiệu chút nào. Anh biểu vợ phải bồng em ra tiệm thuốc cho thầy coi mạch đặng hốt thuốc thang mà uống. Chị Hòa nói sợ tốn tiền nên nói đau sơ sịa ít bữa rồi mạnh, cần gì phải uống thuốc. Đã không có thuốc bổ để tiếp dưỡng sức khoẻ lại thêm nóng lạnh, miệng đắng nên mỗi bữa ráng lắm mới ăn được một chén cơm mà thôi, tự nhiên chị Hòa phải ốm, nước da phải mét. Mà đàn bà cho con bú hễ thiếu sức khoẻ thì sữa phải giảm. Sữa của Hòa lại giảm nhiều. Con nhỏ sanh tuy mới 20 ngày, nhưng không có đủ sữa cho nó bú nên ban đêm nó thức khóc hoài, làm cho Hòa phải bồng nó ngồi mà dỗ. Thái thấy vợ bịnh mà nghỉ không được nên mặc dầu không có tiền nhiều, đến chúa nhựt anh ép vợ bồng con đi với anh ra tiệm thuốc đặng thầy coi mạch hốt thuốc thang cho vợ uống. Uống liên tiếp ba bốn thang mà bịnh vẫn còn bịnh. Anh Thái đem toa ra than phiền với ông thầy thuốc. Ông đổi toa mới và uống luôn ba thang nữa, bịnh cũng trơ trơ, trưa cũng en en lạnh trùm mền rồi nóng ăn cơm không biết ngon, không đủ sữa con bú. Mỗi buổi đi làm về, Thái thấy vợ đau rề rề con khóc nhề nhệ, anh châu mày nhăn mặt, đi vo gạo nấu cơm, mà bận lòng rối trí muốn điên. Trong túi còn có mấy đồng bạc, nhưng ăn cơm rồi anh tuốt ra chợ mua một hộp sữa bò, một cái ve với cái núm vú rồi đem về khuấy sữa đổ vô ve cho con bú. Con nhỏ khát sữa nên nó chầm bú no bụng rồi nằm êm mà ngủ. Thái khuấy luôn một chén nữa rồi bưng ra ép vợ uống, anh ta nói ăn cơm không được thì uống sữa nó bổ cũng như cơm. Mời các bạn đón đọc Chị Đào Chị Lý của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tên Của Khí Trời
Tôi đã đọc và dịch cuốn sách này trong “hoài niệm về cái lãng mạn và hồn nhiên”. Đó không hẳn là cái lãng mạn hồn nhiên mà con người từng có. Đúng hơn, đó là cái lãng mạn hồn nhiên mà con người luôn khao khát - dù có thể không tự nhận với chính mình - và có thể chưa bao giờ đạt được. Viết bằng thứ văn đẹp thuần khiết, như giọt sương sớm trong suốt, cuốn sách là một giọng nói đầy cảm xúc và tình yêu đối với con người, thấu hiểu và trân trọng những khát vọng sâu thẳm, chân thật, dễ tổn thương nhất của họ. Alberto Ruy Sanchez, nhà văn Mexico sinh năm 1951, tự cảm thấy mình là đứa con không phải chỉ của một đất nước, một châu lục, một nền văn hóa. Con người ấy, từng nhận bằng Tiến sĩ ở Đại học Paris, theo học các lý thuyết gia lẫy lừng như Roland Barthes và Michel Foucault, dường như lại chẳng bận tâm đến cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại, cảm quan hậu hiện đại, cùng với tất cả các chủ đề quen thuộc - sự hoài nghi, mỉa mai - và những kỹ thuật rắc rối kèm theo nó. Vào cái thời đại khi tâm thế chung dường như là hoài nghi và ngán ngẩm đối với con người, khi dường như có sự đồng thuận ngầm rằng nền văn minh đã khiến con người mất đi sự hồn nhiên, khi vấn đề dục tính của con người hình như đã bị khai thác cạn kiệt đến mức không còn gì hơn là một thứ “dục tính cơ giới”, và khi dường như niềm tin vào bất cứ cái gì cũng đáng bị đem ra chất vấn, nghi hoặc và giễu nhại, con người này, một cách bền bỉ và điềm tĩnh, cho thấy một niềm tin giản dị, không thể lay chuyển - cứ cho là bướng bỉnh và ngờ nghệch - vào chất thơ và cái đẹp của tính dục. Ruy Sanchez viết về dục vọng ái tình tự nhiên và khôn thỏa của con người như thể ông đang sống ở một chốn ngoài thời gian. Phải là kẻ yêu con người đến mức nào, và dũng cảm đến mức nào, mới có thể viết được như vậy. Là người tìm kiếm không mệt mỏi sự nối kết suốt nhiều thế kỷ giữa Marốc và Mexico, sự nối kết có tính huyết thống - song quan trọng hơn nhiều là có tính tinh thần - giữa văn hóa Ả rập với văn hóa Tây Ban Nha/Mỹ Latinh, Alberto Ruy Sanchez hiện thân cho sự “toàn cầu hóa” theo nghĩa cao nhất, chân chính nhất của nó, sự toàn cầu hóa về mặt tinh thần. Đó là sự toàn cầu hóa mà chất liệu và trái quả của nó là những người đàn ông đàn bà cảm thấy từ trong máu thịt rằng tất cả kho tàng và của cải tinh thần của loài người là của chính họ, cũng như những gì thuộc bên trong họ là thuộc về nhân loại. Tên của khí trời, tiểu thuyết đầu tay của Ruy Sanchez, là lời xưng tụng đẹp đẽ và khôn nguôi về khát vọng yêu đương của người đàn bà, những khát vọng đi liền với sự mong manh, sự e ấp, và sự táo bạo đầy ắp nữ tính. Đó là một trong những món quà đẹp nhất mà một người đàn ông - một con người - có thể trao tặng cho những người đàn bà của nhân loại. Về phương diện đó, Tên của khí trời, cũng như toàn bộ sáng tác của Ruy Sanchez, có thể gọi là một “bài thơ tình gửi toàn nhân loại”. Trần Tiễn Cao Đăng Mời các bạn đón đọc Tên Của Khí Trời của tác giả Alberto Ruy Sanchez.
Mật Mã Champa - Giản Tư Hải
Kiến trúc sư kiêm nhà khảo cổ người Pháp Paul Morierre cùng vợ là một phụ nữ Chăm có dòng dõi hoàng gia Champa làm việc tại thánh địa Mỹ Sơn từ những năm 90 của thế kỉ trước. Họ khai quật và nghiên cứu trên những phế tích đổ nát để tìm bí ẩn của nền văn minh Champa rực rỡ Đông Nam Á một thời. Là một nhà Phạn ngữ, ông từng dịch hàng trăm bia kí, những bộ thư tịch nói về dâng tế vàng bạc và máu người cho thần Siva từng tồn tại ở nước Champa cổ, nay thuộc miền trung Việt Nam. Điều làm ông bất ngờ và sợ hãi là những bí ẩn kho báu Champa và lễ hiến tế đó gắn liền với một hội kín tà giáo có từ thời trung cổ. Lúc họ quyết định thám hiểm vào sào huyệt của hội kín thì hai vợ chồng cùng cô con gái nhỏ bỗng dưng mất tích một cách bí ẩn. Sau 12 năm mai danh ẩn tích, ông lão gầy gò khắc khổ từng là nhà khảo cổ lừng danh bỗng xuất hiện tại thánh địa Mỹ Sơn và tuyên bố khai quật báu vật Champa quý báu nhất lịch sử. Đêm trước hôm tiến hành, người ta hãi hùng phát hiện ông chết thê thảm dưới bộ ngẫu tượng linga-yoni ngay trong một ngôi tháp. Sự kiện lập tức gây chấn động mạnh trong làng khảo cổ rồi mau chóng lan ra dân chúng bởi nó có dấu hiệu bị giết để lấy máu hiến tế theo nghi thức tôn giáo balamon cổ – một tục lệ cổ xưa từng diễn ra ở Champa. Rất may, trước khi chết, nhà khảo cổ đã kịp để lại một mật mã… *** Dưới độ sâu 35 mét, người đàn ông cao lớn và một phụ nữ dắt theo một con dê trắng thắt nơ đỏ đang dò dẫm dọc một đường hầm lát đá để tìm một cánh cửa. Ông ta cầm đèn pin chiếu lên tường hầm rồi dừng lại trước một mảng tường khả nghi quan sát hồi lâu. - Phòng 178. Chính căn phòng này. Người phụ nữ trẻ mệt mỏi đến mức không buồn nói câu nào, cô chỉ mong chồng đứng lại để tranh thủ ngồi phệt xuống. Cô không ngờ thánh địa lại xa xôi hiểm trở đến mức đi ba ngày trời mới tới. Ngay cả con dê đực quen nhảy nhót trên núi cũng run chân và thè lưỡi ra để thở. - Rốt cuộc cũng tới đích. – Người đàn ông Pháp nói - Chúng ta cứ trải chiếu nằm ở đây chờ cửa mở. Ông ta xem đồng hồ rồi lấy thuốc ra vừa hút vừa đi đi lại lại nhưng mắt không rời cánh cửa đá mang số 178 đang đóng im lìm. Bỗng đất đá xung quanh rung lên báo hiệu một cơn địa chấn dữ dội bất ngờ ập đến. Cánh cửa đá bật mở rồi rút lên cao theo chiều thẳng đứng, ông ta thét vợ ngồi dậy rồi cúi xuống nhìn cái hố vuông sâu nơi cánh cửa đá vừa rút lên trần. - Dê trắng đâu lại đây! – Ông thét to lên. Ông quay lại nhặt sợi dây nhấc bổng con vật đáng thương lên cao rồi thả xuống cái hố đen ngòm đang ngoác to. Tiếng thét thê thảm của con dê trắng câm bặt trong tiếng đá nghiến. Viên Kiến trúc sư người Pháp cùng với phu nhân mau lẹ vọt qua miệng hố trước mặt để vào bên trong. Hành trình gian nan đi tìm kho báu Champa cổ xưa mà họ theo đuổi bấy lâu nay rốt cuộc đã tới đích. Trong hang đá tối đen như mực, người phụ nữ trẻ tỏ ra sợ sệt khi nhìn lại cánh cửa đã sập xuống sau lưng. Một dải sáng lân tinh bò ngoằn ngoèo trên vách đá nổi lên một dòng chữ Phạn cổ đập thẳng vào mắt cô: “ Dâng máu cho Ngài! kẻ nào xúc phạm đến thần linh sẽ bị rút sạch máu ba đời dâng lên Ngài’’. - Anh nhìn kìa... - Cô gái chỉ tay nói. ... Mời các bạn đón đọc Mật Mã Champa của tác giả Giản Tư Hải.
Bạn Cùng Giường Trái Tính - Jennifer Crusie
Hai con người khác biệt nhau hoàn toàn cố cưỡng lại lực hút của trái tim, nhưng mọi điều kháng cự đều… bất khả kháng. Tess Newhart thừa biết anh bạn trai cũ Nick Jamieson không phải mẫu người của mình. Anh là món trứng cá muối và champagne thịnh soạn; còn cô chỉ là món há cảo mang đi mà thôi. Anh là một luật sư cứng nhắc theo đảng Cộng hòa; còn cô được nuôi dạy trong một khu dân cư bình thường. Anh muốn tiến xa trong sự nghiệp; còn cô chỉ muốn… anh. Tuy nhiên, không đời nào Tess chịu lệ thuộc vào công việc của anh. Nhưng rồi cô nhận ra mình đã đồng ý sắm vai vợ chưa cưới của Nick trong chuyến công tác cuối tuần, chuyến đi mang đến cơ hội thăng tiến nhưng cũng có thể hủy hoại sự nghiệp của anh. Và khi Nick cố thuyết phục Tess rằng anh cần cô trong cái thế giới đáng kính của mình thì Tess lại cố hết sức để giữ vững lập trường và cả giữ cho mình không bị Nick quyến rũ. “Hết sức mới mẻ, hài hước, tình cảm và táo bạo… Crusie là một trong những tác giả như thế.” *** Jennifer Crusie (sinh năm 1949) là bút danh của nhà văn Jennifer Smith, một tác giả dòng tiểu thuyết lãng mạn bán chạy và dành nhiều giải thưởng. Bà đã viết được hơn 15 cuốn tiểu thuyết, đã được xuất bản ở hơn 20 nước trên thế giới.  Bà đã tốt nghiệp ở trường Trung học Wapakoneta và có bằng cử nhân ngành Mỹ thuật tại trường Đại học Liên bang Bowling Green ở Bowling Green, bang Ohio. Bà có hai bằng Thạc sĩ. Bằng đầu tiên thuộc về chuyên ngành Professional Writing and Women's Literature ở Đại học Liên bang Wright, Crusie đã viết luận văn về vai trò người phụ nữ trong tác phẩm văn học kỳ bí. Bằng thạc sĩ thứ hai của bà thuộc nghành Mỹ thuật trong Tiểu thuyết của Đại học Liên bang Ohio.  Vào mùa hè năm 1991, bà bắt đầu nghiên cứu cho luận văn về ảnh hưởng giới tính đối với việc tường thuật, nghiên cứu sự khác nhau của việc kể chuyện giữa phụ nữ và đàn ông. Là một phần trong quá trình nghiên cứu, bà đã dự tính đọc một trăm cuốn tiểu thuyết lãng mạn dành cho phụ nữ và một trăm cuốn tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Các tiểu thuyết lãng mạn hóa ra khá nữ quyền và quá hấp dẫn, khiến bà không bao giờ đụng đến tiểu thuyết phiêu lưu dành cho đàn ông. Thay vào đó, bà quyết định viết tiểu thuyết, bỏ việc và dành toàn bộ thời gian để viết cũng như hoàn tất học vị tiến sĩ. Đây là một trong những bước biến chuyển vô cùng mạo hiểm vì bà đã không bán được cuốn sách đầu tiên của mình mãi cho đến tháng Tám năm 1992.  Mặc dầu NXB Silhouette đã từ chối cuốn tiểu thuyết tiếp theo của Crusie, NXB Harlequin đã chấp nhận nó và xuất bản vào năm 1993 với tên gọi Săn chồng thuộc dòng sách Quyến rũ của họ. Thêm năm cuốn nữa của bà được Harlequins xuất bản, gồm Getting Rid of Bradley - đã giành được giải RWA dành cho Tiểu thuyết ngắn hiện đại hay nhất, Strange Bedpersons, What the Lady Wants, Charlie All Night, and Anyone But You.  Các tác phẩm tiểu thuyết của bà tiếp tục khám phá các cuộc hành trình của những người phụ nữ, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến các mối quan hệ, tình bạn, cộng đồng, và sự sáng tạo. Bà là một phụ nữ may mắn, và bà biết điều đó. *** Sáu tuần sau đó, khi cuối cùng dàn nhạc đã rời khỏi khu vực bể bơi, Tess thơ thẩn đi lại trong nhà mình, vẫn mặc chiếc váy cưới bằng vải nhiễu trắng cô đã tìm được ở cửa hàng trang phục cổ điển ở phố 12, nhấm nháp sâm-panh và suy nghĩ về tương lai. Cô đi từ phòng này sang phòng khác, yêu thích sắc màu mà cô và Nick đã trang hoàng cho căn nhà mấy tuần qua, nhưng vẫn cảm thấy một chút u sầu. Giờ cô đã kết hôn rồi. Cô là người đứng đắn. Có trách nhiệm. Tess ngồi trên cầu thang trông ra bể bơi sạch bóng. Angela trèo vào lòng cô, Tess vuốt ve con mèo và thở dài. “Xin lỗi?” giọng Nick vang phía sau, cô quay lại và thấy anh đang cau mày nhìn cô qua những chấn song cầu thang. Anh vẫn đẹp trai như từ trước đến giờ, ăn vận hoàn hảo trong bộ lễ phục, tóc tai gọn gàng. “Em chỉ vừa mới kết hôn,” anh bảo cô, vờ tỏ ra nghiêm nghị “Lẽ ra em phải hạnh phúc mê ly mới phải. Nếu chưa thấy mê đắm thì em nên đi xem phòng ngủ lớn của anh đi.” “Em biết,” Tess nói. “Em là người đã sơn nó thành màu vàng.” “Anh không quan tâm về màu vàng,” Nick nói. “Nhưng em cứ phải sơn trần màu xanh dương và dán những ngôi sao dạ quang thế à? Đêm qua anh tắt đèn và suýt chút nữa bị nhồi máu cơ tim khi nằm ngửa ra.” “À, em đã biết rằng mình sẽ phải dành nhiều thời gian ngó lên đó,” Tess nói. “Anh biết đấy, nằm ngửa lưng trong bóng tối.” “Anh biết có một thông điệp ở đây mà anh chưa hiểu,” Nick nói. “Giờ em là bà Jekyll rồi, em phải cư xử đúng mực. Gina đã đọc cho em nghe đạo luật ngăn ngừa phá rối trật tự về chuyện đó, và cô ấy nói đúng. Không có thêm tình dục mạo hiểm nữa.” Nick bắt đầu cười rồi nén lại khi anh thấy cô nghiêm túc. “Vậy là giờ đây em đang lên kế hoạch dành phần còn lại của đời mình trong tư thế thông thường hả?” Anh lại cười. “Ê,” Tess nói. “Em đang thích nghi. Cho em một chút khen ngợi chứ.” “Anh thích cho em xem món quà cưới hơn.” Nick vòng tới trước cầu thang, nắm tay cô kéo dậy, khiến Angela rơi phịch xuống sàn. “Nó nằm trong phòng khách.” “Phòng khách làm gì có gì. Chúng ta đã bán cái bàn, nhớ không? Và vì anh từ chối mua chiếc bàn màu đỏ em thích, nên…” Cô theo anh vòng qua chân cầu thang và khựng lại, sửng sốt. Phòng khách bị choán bởi một chiếc đàn piano cánh lớn nhất cô từng thấy. Nó có màu đỏ tươi. Nick dựa người vào cây đàn. “Anh kiếm được nó ở cửa hàng giá rẻ, tin hay không tùy em.” ... Mời các bạn đón đọc Bạn Cùng Giường Trái Tính của tác giả Jennifer Crusie.
Ước Mơ - Christine Arnothy
Cuộc sống con người luôn cho ta những ước mơ, có những ước mơ rất đơn giản, bình dị, có những ước mơ lại cao siêu kỳ vĩ, có những ước mơ có thể thỏa mãn khát vọng của con người, nhưng cũng có những ước mơ suốt đời làm cho người ta đau khổ, dằn vặt vì không sao chạm được vào nó.  Tác phẩm kể về cuộc sống khó khăn, gian khổ của những người dân vô tội trong chiến tranh thế giới thứ 2. Tuy vậy họ vẫn yêu thương giúp đỡ lẫn nhau, cố gắng vượt qua qua gian khổ để vươn lên, đạt đến ước mơ vĩnh cửu của con người là sự tự do cho cuộc sống. Đó mới là ước mơ chính đáng nhất của nhân loại. Ước Mơ gồm hai phần: Phần một là "Mười lăm tuổi, tôi không muốn chết" và phần hai với tựa "Sống không phải dễ". Hãy hòa cùng tác phẩm và tác giả Christine Arnothy để xem các nhân vật của Ước Mơ suy nghĩ và mơ ước điều gì. *** Khi đến Vienne, chẳng có ai thèm để ý đến tôi... Chúng tôi đi trên đường, ít thấy đau đớn dưới cơn mưa tầm tã, hơn là khi thấy nét mặt dữ tợn của tên bồi bàn tại tiệm cà phê khi hắn cho chúng tôi biết những tờ bạc Schillings mà người đưa đường bán cho chúng tôi là tiền đã hết hạn lưu hành. Mẹ tôi đã đưa cho tên bồi bàn ấy chiếc nhẫn cuối cùng của bà và, bây giờ, vì sợ hãi, chúng tôi đi như chạy, nhưng tới một nơi vô định. Tôi ước mong có một người nào đó, miệng tươi cười, nắm tay chúng tôi để dẫn chúng tôi vào một ngôi nhà ấm áp, và người đó, với một cử chỉ tê nhị, chỉ cho chúng tôi cửa phòng tắm. Dò xét khuôn mặt của những người qua lại trên đường, tôi chỉ thấy những con mắt lờ đờ, nét mặt cau có. Họ nhìn chúng tôi một cách lơ đễnh, ánh mắt họ lướt qua trên chúng tôi như những giọt nước mưa. Bố tôi nói: – Hay là chúng ta trở lại nhà ga! – Để làm gì! Mẹ tôi hỏi. – Ở đó có trụ sở của một phái đoàn lo cho người tị nạn. Chúng ta đến xin ngủ ở đó đêm nay và ngày mai, tôi sẽ lo liệu. Không có tiền để đi tàu điện, chúng tôi cuốc bộ trở lại nhà ga. Ở đó, hai mẹ con tôi phải chờ bố tôi tiếp xúc trước với phái đoàn. Trong nhà ga đổ nát, mẹ tôi đứng tựa người vào một bức tường sứt lở, bà có vẻ yếu đuối, rã rượi đến nỗi tôi hoảng hồn, ôm hôn lên mặt bà. Bà ngước mắt lên nhìn tôi và mỉm cười: – Con ơi, giai đoạn khởi đầu một cuộc sống mới luôn luôn rất khó khăn... Nhưng chúng ta tự do. Đã lâu rồi mà bố tôi chưa trở lại. Tôi nhìn hai chân sưng phù lên của mẹ tôi; hai mắt cá chân đường nét mảnh mai của bà bây giờ chỉ còn là một khối thịt không có hình dáng. Và đâu đâu, trong cái nhà ga hoang vắng này, cũng không có lấy một cái ghế để ngồi. Gần bên chúng tôi có một phòng đợi cửa mở hé, nhưng nó không còn mái nhà. Có vài nhân viên hỏa xa đi ngang qua gần chúng tôi, nhưng họ không để ý đến chúng tôi. Tôi quỳ gối xuống trước mẹ tôi và đặt bàn tay lên trên một bàn chân của bà, bàn chân nóng như lửa. – Má đau lắm phải không? – Hơi đau thôi... Tôi phải cố gắng lắm mới khỏi gục xuống và ngủ thiếp đi dưới chân mẹ tôi. Đột ngột, như thể họ từ dưới đất chui lên, chúng tôi bị bao quanh bởi những hành khách đợi một con tàu sắp vào ga. Tôi đứng dậy, dò xét nét mặt họ, nhưng họ chẳng để ý gì đến chúng tôi, như thể họ không thấy chúng tôi ở đây. Tôi sờ cánh tay của chính mình, tôi vuốt mặt tôi với bàn tay dơ bẩn của chính tôi. Tôi băn khoăn tự hỏi: “Có thể chúng tôi đã trở thành trong suốt trong ánh sáng lạnh lẽo của mặt trăng chăng? Cho nên người ta đã không còn có thể trông thấy chúng tôi chăng? Có thể chuyện chúng tôi vượt qua biên giới chỉ là một giấc mơ và tôi sắp thức dậy ở Fonyod chăng?...” Mời các bạn đón đọc Ước Mơ của tác giả Christine Arnothy.