Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiếc Thang Cao Màu Xanh

Chiếc thang cao màu xanh là câu chuyện về sự trưởng thành, về tình yêu của một chàng trai - một tu sĩ. Tác giả Gong Ji Young đã vẽ nên câu chuyện tình yêu xen lẫn sự bàng hoàng của Yo-Han – một chàng trai sống và làm việc trong tu viện. Đó là quá trình mà Yo-Han gặp gỡ, yêu và trưởng thành, từ đó đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là cái gì?”… Thời gian dần qua đi, khi tất cả những sôi nổi yêu thương ngày nào đã trở thành dĩ vãng, Yo-Han của ngày hôm nay đã có thể bình tâm nhìn lại quá khứ:  “Ai sống trên đời cũng có những khoảng thời gian không thể nào quên. Đau khổ… Tươi đẹp… Cả những vết sẹo đã mờ nhưng vẫn còn nhức nhối... Mỗi khi nghĩ về quãng thời gian ấy, trái tim đang đập của tôi dường như nguội lạnh và phủ đầy rêu phong... Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng: “Tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây”. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời…” Câu chuyện bắt đầu từ một ngày nọ, Yo-Han nhận được tin của Soo-Hee và những ký ức về thời tuổi trẻ của ông trỗi dậy. Ngày ấy, Yo-Han trong khi giúp đỡ cô gái trẻ Soo-Hee làm luận văn đã nảy sinh một thứ tình cảm khác lạ, chưa từng biết đến, thôi thúc anh nghe theo tiếng nói nhân từ vang lên từ trái tim: “Ta đã mang cô ấy đến cho con. Hãy yêu đi, Yo Han”. Nhưng rồi sóng gió cuộc đời ập đến làm cho cuộc sống trong tu viện vốn đang trôi qua một cách bình lặng đột nhiên dậy sóng, nhấn chìm tất cả mọi bình yên đang có, và cuộc đời mỗi nhân vật rẽ sang những hướng khác nhau. Đó là một đêm mưa tầm tã, hai người bạn thân của Yo-Han là Micheal và Angelo chết vì tai nạn giao thông trong một cuộc tìm kiếm những chính kiến và niềm tin của riêng mình. Quá khủng hoảng, Yo-Han đã quay lại nhà thờ để cầu xin được gặp Soo-Hee một lần cuối cùng, nhưng cô đã không đến... Xuyên suốt cuốn sách là cách kể đan xen giữa những câu chuyện về thời kì Chiến tranh thế giới thứ 2 của một cha xứ người Đức, câu chuyện về cuộc loạn lạc trong nội chiến Nam - Bắc Hàn... và hơn hết là câu chuyện thấm đẫm tình yêu và sự hi sinh. Hóa ra, tình yêu thực sự không phải là cố công giữ lấy, mà là biết buông tay và quay đi để người kia bước tiếp mới thực là tình yêu cao cả. Câu chuyện đến cuối cùng mới để người đọc hiểu ra rằng, hóa ra tình yêu của cô gái trẻ Soo-Hee với Yo-Han lớn lao đến thế. Nội dung cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin thực tế về xã hội Hàn Quốc, có một số chi tiết đề cao tính nhân văn cao cả của tình yêu con người, sự hi sinh giữa cái sống và cái chết, giữa sự lựa chọn mất còn. Những chuỗi hồi tưởng nối tiếp nhau như ngàn con sóng vỗ bờ, kí ức với những cảm xúc sống động một thời tuổi trẻ sôi nổi và yêu thương của lớp người sinh ra sau chiến tranh, hưởng thụ cuộc sống đầy đủ về vật chất nhưng không vì thế mà không có lí tưởng về sự công bằng, về những điều đúng - sai, phải - trái, hoặc những bất công trong xã hội. Câu chuyện tình yêu của nhân vật chính được vẽ nên bằng thủ pháp hồi tưởng, vì vậy  càng khiến nó rung lên như những giai điệu trữ tình, sâu lắng nhất mà cũng ám ảnh nhất: “Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ, chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy, vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng”. Có thể nói, toàn bức tranh trong câu chuyện Chiếc thang cao màu xanh khiến người đọc cảm thấy thỏa mãn cả về thông tin cũng như về tiết tấu cảm xúc của nhân vật trong truyện. Nhà xuất bản Phụ nữ xin trân trọng giới thiệu đến quý độc giả cuốn tiểu thuyết này, hi vọng mỗi độc giả sau khi đọc xong sẽ tự tìm được câu trả lời cho câu hỏi luôn ám ảnh chúng ta suốt cuộc đời: “Con người ta vì sao mà tồn tại? Nỗi thống khổ vì đâu mà có? Và tình yêu rốt cuộc là gì?” Tác giả GONG JI YOUNG  Sinh năm 1963 ở Seoul, tốt nghiệp khoa tiếng Anh trường Đại học Yonsei – một trong những trường đại học nổi tiếng nhất của Hàn Quốc. Bà là một trong bốn nữ nhà văn đương đại có sức ảnh hưởng lớn trên văn đàn Hàn Quốc, tác giả của nhiều cuốn sách bestseller. Tác phẩm của bà được dịch sang nhiều thứ tiếng, trong đó có một số đã được dịch sang tiếng Việt như Cá Thu, Dù con sống thế nào mẹ cũng luôn ủng hộ, Yêu người tử tù...  Bà được nhận nhiều giải thưởng văn học có uy tín: - 2001: Giải Văn học Hàn Quốc thế kỉ 21 lần thứ 7 và giải Văn học Tiểu thuyết lần thứ 27 của Hiệp hội Nhà văn Hàn Quốc. - 2004: Giải Văn học Oh Young Soo lần thứ 12. - 2011: Giải Văn học Yi Sang. Dịch giả: NGHIÊM THỊ THU HƯƠNG  Sinh năm 1979, Tốt nghiệp đại học chính quy ngành Tiếng Hàn, nhận học vị Tiến sĩ ngành Ngôn ngữ học, từng được giải thưởng Sinh viên nước ngoài có thành tích học tập xuất sắc nhất năm 2005 của Bộ trưởng Bộ tri thức Kinh tế Hàn Quốc. Hiện đang giảng dạy tại khoa Tiếng Hàn Quốc, Đại học Hà Nội. Các tác phẩm đã xuất bản:  Cẩm nang cho con gái đi lấy chồng (dịch chung), NXB Thanh niên, 2001 100 mẫu câu tiếng Hàn dành cho giáo viên và học sinh (Lee Yun Jin), NXB Giáo dục, 2004 Ngữ pháp tiếng Hàn đơn giản cho người nước ngoài (viết chung với tác giả Doo Won Sook), NXB Language Plus (Hàn Quốc), 2006 Hướng dẫn học và thi KLPT, NXB Giáo dục, 2008 Nâng cao năng lực dịch Hàn – Việt (viết chung với tác giả Lee Kye Sun), NXB Moon Erim (Hàn Quốc), 2015 Cá thu (Gong Ji Young), NXB Hội Nhà văn, 2015 Mây họa ánh trăng – Tập 5 (Yoon Isu), NXB Phụ nữ, 2018. Một số trích đoạn trong tác phẩm: 1. [...] Nói về cuộc sống trong tu viện, điều đầu tiên phải nhắc đến có lẽ là sự im lặng. Sống ở nơi này, tôi ngộ ra rằng sự im lặng không đơn giản là sự thanh vắng hay là trạng thái không có tiếng động, cũng không phải là khoảng lặng giữa những thanh âm. Ngược lại, có thể gọi nó là trạng thái của sự lắng nghe tích cực. Để tiếng ồn át tiếng ồn, cảm xúc vượt lên cảm xúc thì im lặng là lẽ tất nhiên.    Lần đầu tiên đến nơi này, tôi đang dạo bước bỗng dừng lại bởi nghe thấy tiếng chân mình – thứ âm thanh tôi chưa từng nghe thấy. Phần đế dép của tôi lúc đó bằng cao su, hầu như không phát ra tiếng động. Vậy mà có vô số tiếng động ẩn sau tiếng dép khe khẽ ấy vọng đến tai tôi. Tiếng của những bông hoa tuyết phủ trên cành thông rơi rơi, tiếng những cành cây trơ trụi lặng lẽ rung rung trong gió, tiếng côn trùng trở mình trong lòng đất, tiếng rễ cây từ từ vươn những nhánh rễ nhỏ đâm sâu vào đất mẹ. Tiếng gió nhẹ thoảng qua bên tai tôi lúc đó, phải chăng là tiếng ma sát của trái đất tự quay quanh trục? Dù vũ trụ, thần hay là người, khoảnh khắc dường như hé lộ về bản thân một cách ít ỏi, chính là những lúc như vậy. Thi thoảng những lúc ấy, bầu trời bất chợt mở ra với tôi, và có cái gì đó như sự bình yên không thể diễn tả được cứ lan ra trong lồng ngực.[...] 2. [...] Bi kịch của cuộc sống là khi ta giải mã được những tín hiệu đó thì sự việc đã kết thúc, hoặc không thể quay lại được nữa. Khi tất cả mọi sự đã chấm dứt rồi, ta nhìn lại, ta cứ tin rằng cuộc sống sẽ cho ta thấy những điểm sáng, nhưng cuộc sống lại phản chiếu cho ta những khung cảnh lộn xộn. Thế nên, tôi biết bắt đầu câu chuyện năm đó từ đâu nhỉ? Phải nói về ai trước nhỉ? Núi Bulamsan, tu viện Joseph, hoa lê trắng... Phải rồi, tên của cô gái ấy, tôi sẽ viết ra tên của cô ấy lần đầu tiên ở đây. Kim So Hee, So Hwa Teresa. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, cô ấy mặc chiếc áo len chui đầu màu đậu đỏ rộng thùng thình, đôi tất trắng cao đến đầu gối, đôi giầy thấp màu xanh nhạt diêm dúa. Khi tôi lần đầu tiên ngắm nhìn từ xa bóng dáng nhẹ nhàng ấy, cô gái ấy đang bước cùng một tu sĩ khác dưới những cành hoa lê. Cô vuốt ve mái tóc dài xõa ngang vai và nói gì đó với tu sĩ đang đi bên cạnh rồi nghiêng đầu về phía sau cười khúc khích. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy cô ấy, dáng vẻ của cô ấy là như thế đó. Lúc đó, tuy ở khoảng cách rất xa nhưng tôi vẫn như thấy rõ cô ấy đưa những ngón tay trắng ngần lên vuốt mái tóc. Những ngón tay mảnh mai. Và tôi giấu bức tranh chớp nhoáng của kí ức lần đầu gặp mặt người con gái ấy xuống tận đáy sâu của vô thức. Có lẽ là tôi đã xúc động mãnh liệt. Nếu lần đầu gặp mặt không bị uy hiếp thì chắc chắn tôi đã không cần thiết phải như vậy. Một thời gian sau, phải đến khi nhận được câu hỏi đầy thách thức của người con gái ấy ở thành phố W, kí ức cũ kĩ được lưu giữ trong vô thức kia mới hắt lên hóa thành ý thức của tôi. Đến lúc đó và một thời gian từ sau đó, cô ấy đã không hề có ý nghĩa gì đối với tôi.  “Cháu gái của Đức Giám mục, đã hoàn thành khóa học thạc sĩ ở Mỹ và về nước viết luận văn. Hình như là viết về sự áp lực của người theo tôn giáo. Thấy bảo là nhất định phải đến thành phố W”.[...] 3. [...] Đêm hôm đó, dường như tôi đã mang về phòng mình hình ảnh em bước đi giữa những bông hoa lê trắng, bộ váy trắng ngang đầu gối bay phất phơ, đôi chân nhỏ khi cánh cửa tàu bật mở, dáng ngồi nghiêng nhìn đăm chiêu qua khung cửa sổ, và tiếng em nghiêng đầu cười khúc khích.    Khác với cảm xúc hân hoan trong lòng, người tôi mệt lử, tôi không buồn nghĩ đến việc tắm rửa, mà đổ ập xuống giường và tắt đèn. Đúng khoảnh khắc đèn tắt, có luồng ánh sáng vụt qua. Tâm thức mệt ngoài của tôi tự hỏi, hay là tôi chưa tắt đèn? Chính giây phút tưởng lầm ấy, tôi hiểu ra ánh sáng đó chính là gương mặt em. Tôi chẳng ý thức được hết tất cả, gương mặt trắng mịn của em làm giãn các đốt xương tôi, ùa vào trái tim tôi. Ngẫm lại, có lẽ điều đó đi kèm với một chút đau đớn. Tôi hiểu đây là tình yêu. Dù tôi đã nhìn thấy mũi tên em bắn vào trái tim tôi, tôi nhìn thấy khoảnh khắc mũi tên lao đến, tôi đổ gục, nhưng tôi biết mình chẳng thể làm gì được. Nỗi đau của cảm giác ngọt ngào cực độ, nỗi đau của cảm giác cay đắng nghiệt ngã... “Như vậy không được đâu!” Tôi từ chối bằng một giọng rất nhỏ và cảm thấy thanh thản hơn. “Tại sao bạn yêu người ấy?” là một câu đúng về ngữ pháp. “Làm thế nào mà bạn được người ấy yêu?” cũng là một câu đúng về ngữ pháp. Thế nhưng thực tế, những câu đó không thể trả lời được. Nếu có thể nói rõ ràng lí do tại sao yêu thì là bởi vì trước đó không phải là tình yêu. Mãi sau này, một người đồng môn của tôi đã yêu một người con gái và rời tu viện để cưới cô ấy. Khi được hỏi tại sao cậu thấy yêu cô ấy, cậu ta đã trả lời thế này: “ Khoảnh khắc tớ nhìn thấy đôi tay cô ấy lúc đưa cho tớ tờ giấy A4, tớ đã phải lòng cô ấy rồi.” Thế thì là vì tờ giấy A4, hay là vì đôi tay của cô ấy? Câu trả lời là vì tình yêu, vậy thôi! [...] 4. [...] Đêm đó, tôi mang về phòng mình gương mặt em sau khi xóa lớp trang điểm có vết tàn nhang mờ mờ dưới mắt, tôi mang về đôi tay em mềm mại như cục bột mì mới nhào và giọng nói pha chút nũng nịu của em nữa. Lần này, trước khi tắt đèn, tôi thấy hình ảnh em vội nắm lấy và kéo tay tôi lại. Tôi không nhớ đã nhìn tay mình từ lúc nào. Tay trái tôi là tay So Hee, tay trái ấy nắm lấy tay phải. Bàn tay đã sần sùi nhiều. Tôi ngượng nghịu xoa xoa bàn tay thô ráp lên mu bàn tay khô. Rồi tôi ngả lưng, tôi trông thấy gương mặt em với đôi mắt mở to, chớp chớp và cứ thế tôi gọi tên em. “So” nghĩa là Hy vọng, “Hee” nghĩa là Màu trắng. Tên em nghĩa là HY VỌNG MÀU TRẮNG. Tôi gọi tên em mà thấy như từ đâu những bông hoa trắng đang rơi rơi.  Tôi không kể với ai chuyện có hình bóng em trong trái tim tôi. Mỗi ngày, tôi cầu nguyện vì em. Tôi tin những lời cầu nguyện của tôi là chân thành, và tôi hạnh phúc. Tiếng chuông sáng sớm vừa reo, tôi cất gương mặt trắng mịn ấy trong lồng ngực và dự giờ cầu nguyện sáng. Cả thế giới đang là mùa xuân, khắp đất trời đang ngập tràn hương hoa.[...] 5. [...] Chúng tôi đi vào con đường hướng ra phía bờ sông. Thành phố W rất yên tĩnh. Thỉnh thoảng có chiếc xe chạy ngang qua rất nhanh như cắt mặt đường nhựa nhợt nhạt, gió thổi mạnh làm mái tóc của So Hee tung bay, và mỗi lần như thế, tôi lại nghe như có một mùi hương tựa hương hoa thần bí lãng đãng đâu đây. Mặt trăng đang chiếu soi mọi con đường của thành phố W. Con đường hắt lên thứ ánh sáng bàng bạc, và những cột đèn đường màu vàng đứng sừng sững như những cây hoa cao lớn ở thành phố W lúc về đêm. Bóng của chúng tôi đổ xuống lắc lư, dài ngoằng. Lúc đầu, khoảng cách giữa cô ấy và tôi rộng đủ để gập cả khuỷu tay, nhưng rồi theo bước chân và hình dáng của con đường mà khoảng cách ấy dần dần thu hẹp lại, và cứ mỗi lần bờ vai của hai chúng tôi va vào nhau, chúng tôi lại cúi đầu và tiếp tục bước đều, xen lẫn chút căng thẳng. Mỗi người cầm một lon bia trên tay, và chúng tôi ngồi xuống một chiếc ghế băng bên bờ sông. Dường như thứ bột ánh sáng bạc từ mặt trăng rắc xuống đang bao phủ cả thế gian này. Dường như khi chúng ta ngủ, bằng một mùi hương khác, thế gian như bị ủ lại, muối và lên men. Việc tôi ngồi cùng cô ấy ở bờ sông đêm nay chỉ như một giấc mơ. So Hee ngồi trên băng ghế, chân đung đưa, chắp hai tay lại ngay ngắn và nhìn ngắm nước sông. Chiếc bóng của vầng trán trắng, của sống mũi  thật sự rất đẹp. “Em đã đọc một bài viết của tác giả nào đó. Trong đó có nói là thế giới này có hai loại người. Một là bỗng dưng vào một đêm nào đó muốn nắm tay ai thật chặt và bỏ chạy, một là chưa từng có suy nghĩ như vậy. Vấn đề là ở chỗ phải nắm tay thật chặt”. So Hee nhìn dòng sông và lẩm nhẩm như đang nói một mình, vừa dứt lời liền quay đầu nhìn tôi chăm chú. Tôi không nhớ rõ ai là người đã tiến đến gần với người kia trước. Và rồi đêm hôm ấy, hai cặp môi, một thì lạnh như đá khô và một thì nóng bỏng như lò luyện, một nét đẹp như cánh hoa hồng và sắc ngọt như một vết thương của lưỡi dao lam đã khắc sâu vào trái tim tôi. Khoảnh khắc môi chạm vào bờ môi, toàn bộ cơ thể tôi như tan vụn xuống giống những hạt vụn bạc, và toàn bộ cơ thể tôi lại đột ngột trong tích tắc như muốn bay vút lên đỉnh núi. Máu trong huyết quản dồn ứ như nước sông xoay vần, và một dòng điện hàng vạn vôn khiến tôi không còn chút sức lực nào, tôi thấy mình rộng thênh thang như những bình nguyên lộng gió. Chúng tôi ngồi trên băng ghế, hai tay của mỗi người vẫn giữ những lon bia, đôi môi vừa chạm nhẹ, So Hee liền vừa vòng tay ôm lấy cổ tôi, vừa nép sát vào người tôi. “Chúng mình nắm thật chặt tay, rồi... bỏ chạy nhé?” Tôi hỏi. “Ừ, chúng mình nắm thật chặt tay rồi...” Cô ấy đã trả lời. Chúng tôi đã nắm tay thật chặt và ngồi ở đó cho đến khi mặt trăng gần như lặn mất ở phía bên kia sông. Ngày hôm ấy, dòng sông, ánh trăng, băng ghế, con đường và những thân cây đã hiện diện cùng chúng tôi hết sức bình yên. Đến khi giây phút mà tôi đã ước gì thời gian ngưng lại được ấy, cái đêm mà tôi đã nghĩ muốn buộc chặt trăng vào bầu trời trên kia, giữ lại nước sông và làm cho những thân cây với màu xanh mơn mởn sẽ mãi mãi đung đưa trên đầu chúng tôi ấy tàn đi, chúng tôi lại bước về hướng tu viện. Tu viện đang chìm trong giấc ngủ. Thế nhưng tu viện đang ngủ như bao ngày khác đó, đối với tôi đã không còn là tu viện ấy nữa. [...] 6. [...] “Bà chỉ sống chung được với ông khoảng một năm sáu tháng. Nhưng năm mươi năm trôi qua, chưa một lần tình yêu của bà với ông thay đổi. Thật đấy! Dù chỉ là một lần… Như cháu đã biết, sau này bà cũng có những người bạn mới. Nếu nói bà không có người bạn khác là không đúng. Nhưng bà không thể tiến xa hơn với họ được bởi không thể hứa hẹn được điều gì. Vì trong lòng bà, ông ấy vẫn còn hiện hữu. Đừng có mang cái nét mặt như thế, Yo Han! Điều đó không có gì phải buồn! Không phải là vì sau này bà yêu những người đó ít hơn, mà là vì dù cho họ có là ai đi nữa thì tình yêu của bà với họ cũng không thể nào sống động, mạnh mẽ như tình yêu của bà với ông cháu được. Và bà cũng không cảm thấy được ở họ cảm xúc như của ông khi yêu bà. Sau một thời gian dài, thỉnh thoảng bà lại nghĩ, liệu mình có phải là một người phụ nữ hạnh phúc ở tuổi này hay không?” Hồi tưởng lại những việc đã qua hơn năm mươi năm, sức mạnh tình yêu có thể khóc lên như vậy gọi là gì? Là sức mạnh có thể nói rằng: Hạnh phúc khi trải qua nỗi đau? Hay sức mạnh tình yêu ngắn ngủi mãnh liệt hơn tất cả? Người ta cho rằng thời gian là liều thuốc chữa lành vết thương, thời gian trôi đi ta có thể quên tất cả, tôi tin những người lớn tuổi sẽ nói như vậy. Thế chẳng phải thời gian có thể xoa dịu nỗi đau hay sao? Sau đó rất lâu tôi vẫn cứ nghĩ mãi về điều ấy. Và sau rồi tôi nhận ra, sự mài mòn của thời gian chẳng có ý nghĩa gì. Tình yêu chân chính dường như là thứ không thể nào mòn được, nỗi đau chân chính, nỗi buồn chân chính và cả niềm vui chân chính, thời gian có thể làm tiêu tan, làm biến mất mọi thứ giả dối nhưng để lại tất cả những chân tình, đích thực. Như vậy, có thể nói cái mà thời gian có thể khiến ta quên đi được không phải là những chân tình. [...] 7. [...] Một hôm, sau lễ Misa, tôi quỳ lạy ở bục xưng tội và lại ngước nhìn lên cây thánh giá. “Ta gửi cô ấy đến bên con. Hãy yêu đi! Hãy yêu nhiều hơn nữa”. Dường như giọng nói ấy lại vang lên. Sự tức giận vẫn chưa hoàn toàn nguôi ngoai. Rốt cuộc Người bảo tôi hãy yêu nhiều hơn nữa, yêu hết mình rồi lại bảo “cái gọi là tình yêu nghĩa là tình yêu không báo đáp”, rốt cuộc thì Người đang chế giễu tôi. Vào một đêm mất ngủ, tôi nghe thấy tiếng những con rệp kêu dai dẳng. Tôi chợt nhận ra mùa thu đã tràn ngập khắp nơi, vào giây phút vũ trụ vẫn đang chuyển mình như thế, tôi thậm chí còn cảm nhận được những chuyển động rất nhỏ. Đó là bởi từ nơi sâu thẳm bên trong tôi có điều gì đó đang thay đổi và đang muốn thay đổi. Bên trong tôi, những điều không muốn thay đổi và những điều muốn thay đổi đang cọ xát và tranh đấu với nhau. Những vết thương lại đau đớn và nhức nhối. Tôi cảm nhận được linh hồn mình sốt cao. Dù không biết điều gì sẽ đến, nhưng tôi dự cảm được rằng qua đêm nay sẽ có điều quan trọng nào đó đến. Dù sao, đêm nay giống như một tiết giao mùa của cuộc đời.  Tôi đứng dậy và đi đến gần cửa sổ. Lâu lắm rồi tôi mới ngước nhìn bầu trời đêm. Mặt trăng tròn viên mãn, phía nửa kia là những vì sao đang tỏa sáng hòng đua tranh. Tôi bỗng lại nhớ về một đêm trong thời gian tu tập ở tu viện. Tôi nhớ đến cây thánh giá của tu viện sáng lấp lánh nhờ luồng sáng kì lạ do những chòm sao gắn với nhau tỏa ra. Sự khoan khoái mỗi khi ngắm nhìn cây thánh giá của tu viện, tấm chân tình của tuổi thanh xuân nồng nhiệt hướng đến thánh thần của tôi đã đi đâu mất rồi? “Bởi tình yêu không biết đi”. Câu nói của tu sĩ Thomas lại vang lên. Tôi cũng nhớ đến câu nói của vị linh mục người Đức: “Đối với chúng ta, cho dù không có niềm tin đủ để xê dịch núi sông, cho dù không thể nói được thứ ngôn ngữ kì lạ, dù không chết vì người khác, nhưng nếu có tình yêu thì chúng ta cũng không vì những điều đó mà trở nên vô nghĩa”. Nghĩ đến việc trong muôn vàn tình yêu thương mà tôi được nhận từ khi sinh ra mà không có thứ gì đọng lại làm trái tim tôi thấy xót xa. Tôi cảm thấy thật bi thảm, cảm thấy mình có lỗi và một chút gì đó như bi quan khiến tôi không thể hiên ngang được. Kể từ sau khi Michael và Angelo chết, tôi còn lại có một mình. Sự cô độc đã kéo tôi chìm sâu hơn nữa vào trong nỗi cô đơn. Sự trầm mặc thì luôn nặng nề mà sự cô đơn thì luôn yếu đuối. Tôi mang tâm trạng hoang mang của một người không biết phải đi đâu, mà con đường trước mắt thì mờ mịt như sương phủ kín. Giống như lời của một nhà thơ nào đó đã nói, “đến cả một chỗ để đặt chân” cũng không thấy. Hàn Quốc trong trái tim tu sĩ Thomas cũng vậy, ông nội tôi trong trái tim bà tôi cũng vậy, Michael trong trái tim cô gái ấy, tôi trong trái tim của người mẹ đơn thân Monica kia, đâu đó luôn ngự trị một tình yêu. Nhưng trong trái tim tôi chẳng có gì. Tự nhiên, lúc đó trong lòng tôi lại vang vang những lời như ai đó đang thủ thỉ vỗ về:  “Không sao đâu Yo Han! Thế cũng được mà”. Trong phút chốc tôi bỗng thấy bàng hoàng, tôi do dự hỏi lại chính mình “có thực sự là không sao không?” và bật khóc. [...]      8. [...] Tôi đã rời khỏi tu viện. Bỗng nhiên đập vào mắt tôi là hình ảnh cây mộc liên mà tôi đã từng treo bộ lễ phục tôi cởi ra để đi dạo đêm với So Hee. Trong mười năm vừa qua, cây đã lan ra thành rất nhiều tán và cao lên nhiều. Dưới bóng râm của tán cây ấy, Angelo trẻ tuổi đang đứng chất những hộp nến sáp ong mới làm xong lên. Michael đang từ từ lần chuỗi hạt và treo hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh lên. So Hee mặc áo len trắng, tai đang đeo tai nghe và vẫy tôi từ đằng xa. Thời gian đã làm hao mòn đi mọi thứ. Chỉ còn lại những thứ mang tính bản chất. Và cuối cùng thì tuổi trẻ lại không phải là thứ mang tính bản chất ấy. Vì tuổi trẻ cũng sẽ bị hao mòn. Nhưng trong tâm trí luôn hướng về những điều ấy của tôi thì không hề bị hao mòn. Tình yêu của tôi là thật lòng. Tu sĩ Thomas, người đã lên thiên đàng năm ngoái, đã từng nói với tôi như thế này: “Tình yêu là thứ không thể mất đi được. Vì tình yêu là thứ không biết đến sự ra đi”.  Nỗi buồn dù có tụ hội lại và sự thật về nỗi đau sót lại cũng sẽ không còn nhiều trong kí ức của tôi, nhưng những thứ còn lại của tình yêu thì đến giờ tôi vẫn nhớ. Có một nhà thơ đã hát lên rằng tình yêu, điều mà không bao giờ biến mất, tuổi trẻ ơi hãy ở lại đây. Tôi đã muốn nói lên như vậy. Tình yêu à, hãy ở lại đó mãi mãi. Khi đó tiếng chuông ngân lên. Tiếng chuông ngân lên như một chiếc thang đan bằng những sợi dây thừng màu xanh thẳm tuôn ra từ bầu trời.[...] Mời các bạn đón đọc Chiếc Thang Cao Màu Xanh của tác giả Gong Ji Young & Nghiêm Thu Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chàng Hải Âu Kỳ Diệu - Richard Bach
Richard Bach là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, xuất bản năm 1970, kể cho chúng ta về cuộc đời của Jonathan, một chàng hải âu: “Đối với hầu hết hải âu, ăn quan trọng hơn là bay. Nhưng riêng với Jonathan Livingston, niềm say mê bay lại lớn hơn tất cả mọi thứ khác trên đời”. Vì thế chàng bắt đầu tập bay; bay với tốc độ cao, bay ở thế nhào lộn,... Nhưng Đàn Hải âu lại không thích chàng làm như thế, do đó chàng bị coi là nỗi nhục nhã, chàng trở thành kẻ bị Lưu Đày, bị bỏ mặc trong sự cô đơn, nhưng điều đó không làm chàng nản chí, vì sự thật là những con hải âu khác sẽ không bao giờ biết được vẻ đẹp và cảm giác vĩ đại khi bay.   Ở đây chàng Hải âu học được một điều: “Thiên Đường không phải là nơi chốn, mà cũng không phải thời gian. Thiên Đường là trạng thái khi ta đạt được toàn thiện”... Những hải âu luyện tập qua nhiều đời để đạt được sự toàn thiện. Nếu ở kiếp sống này ta không học thêm được cái gì cả, thì thế giới của kiếp sống sau sẽ giống hệt như thế giới này... Nhưng nếu ta học cách bay và ta luyện tập đủ tốt, thì ta sẽ ở trên cao hơn những bậc thang không có kết thúc để lên đến Thiên Đường, vì vậy đó chỉ là một bước tiến xa hơn. Bay ở đây được hiểu như là một cách nghĩ vậy... Ta phải nghĩ bản thân ta là một thực thể tự do vô hạn, ta tự do khỏi tất cả những Luật Lệ vốn chỉ trực ngăn cản ước vọng của bản thân ta.  *** Richard Bach sinh năm 1936, vốn là phi công chiến đấu và thợ cơ khí máy bay. Ông là tác giả của mười một đầu sách, trong đó nổi tiếng nhất là Hải âu Jonathan Livingston (Jonathan Livingston Seagull) và Ảo ảnh: Những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên tri bất đắc dĩ (Illusions: The Adventures of a Reluctant Messiah, 1977). Richard Bach sinh tại Oak Park, Mỹ –  con trai của Roland Robert và Ruth Helen (Shaw) Bach, cháu trai của nhà soạn nhạc thiên tài Johann Sebastian Bach. Ông từng học tại trường Long Beach State College (nay là đại học California, Long Beach). Không chỉ là một phi công máy bay, Richard Bach còn là một nhà văn. Niềm yêu thích viết lách đến từ khi ông còn học trung học. Cùng với niềm đam mê về hàng không, hình ảnh máy bay và bầu trời xuất hiện trong hầu hết các cuốn sách của Richard. Điển hình là hình ảnh chú chim hải âu say mê bay trong Jonathan Livingston Seagull, được lấy cảm hứng từ chính những chuyến bay của ông. Với hơn 60 triệu bản sách được bán, Richard Bach là một trong những tác giả được yêu thích nhất thế giới. Các tác phẩm gần đây nhất của ông bao gồm: Travels With Puff, Puff And Illusions II: The Adventures Of A Reluctant Student. ***  Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một câu chuyện nhỏ nhưng những bài học mà nó đem lại chứa đựng rất nhiều triết lý sống. Khi chúng ta cố gắng tìm xem những gì có thể làm được, chúng ta đã tự tạo ra giới hạn cho chính bản thân mình. Việc trói buộc bởi những suy nghĩ của người khác cũng là một loại giới hạn. Jonathan sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, vượt qua định kiến xã hội và niềm tin về những điều không thể. Nhờ đó, cậu hiểu được một chân lý: không bao giờ tồn tại giới hạn. Đây cũng là tư duy mà chúng ta cần phải học. “Không giới hạn ư, Jonathan?. Cậu nghĩ, và cậu mỉm cười. Hành trình học tập của cậu đã bắt đầu”. Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một cuốn sách tuyệt vời tiết lộ cho chúng ta biết tự do thật sự là như thế nào. Khi chúng ta học với sự thực hành đủ, chúng ta sẽ biết rằng khả năng của mình là vô hạn. Tự do sống theo cách bạn muốn và không để lạc lối bởi quan điểm của người khác, đó là bài học thứ nhất. Lựa chọn cách sống và con đường mà bạn sẽ đi, dù không dễ dàng, đó là bài học thứ hai. Không ngừng nhận thức về bản thân, bạn sẽ khám phá bản ngã thật sự của chính mình, đó là bài học thứ ba. Và cuối cùng, đừng bao giờ nghĩ rằng đây chỉ là câu chuyện của một con chim – “Tặng chàng hải âu đích thực đang sống trong mỗi một chúng ta” – Richard Bach. Trong phần cuối của quyển sách là lời cuối của sư phụ của chàng. Đó là: “Tiếp tục hành động cho Tình Yêu Thương”. Trong phần này chàng hiểu là tinh thần không thể nào được thực sự giải thoát mà không có lòng thứ tha và đối với chàng đó là cách để tiến bộ tâm linh, dẫn đến con đường giác ngộ chứ không phải con đường khổ luyện của một đệ tử. Chàng quay trở về vớí nhóm hải âu để chia sẻ những lý tưởng mình vừa khám phá và kinh nghiệm to lớn mình vừa trải qua và sẵn sàng cho cuộc chiến đấu gay go với những qui điều cứng nhắc của nhóm hải âu đó. Khả năng tha thứ được xem là “điều kiện bắt buộc có để vượt lên cao”. “Con có hết sức muốn bay bổng để có thể tha thứ cho các huynh đệ của mình và học hỏi và trở về với họ một ngày nào đó và giúp họ không?” Đó là lời chàng hỏi những đệ tử của mình trưóc khi giảng thuyết tiếp cho họ. Cốt lỏi trong ý tưởng này là tư tưởng: kẻ giỏi hơn có thể thăng tiến bằng cách rời bỏ những kẻ yếu kém hơn mình là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Do vậy mà tình yêu đáng phải được kính trọng và sự tha thứ cũng có cùng tầm mức quan trọng như sự tự do khỏi áp lực bị buộc phải tuân theo những khuôn thước do mọi người đề ra. Bây giờ xin được nói qua về tác giả Richard Bach. Richard David Bach sinh năm 1936 là một nhà văn ngươì Mỹ. Ông được nổi tiếng qua hai cuốn truyện có thật nhiều người đọc là Jonathan Livingston Seagull và The Adventures of a Reluctant Messiah. Sách của ông mang trong đó triết lý rằng những giới hạn thể chất của mình và sư tạm bợ của nó chỉ có tính cách của mặt mỏng bề ngoài mà ta có thể vượt qua được. Ông rất đam mê bay bổng và với những quyển sách viết về lướt cánh, tung mây và về “bay”, theo nghĩa ẩn dụ của chiều hướng tâm linh. Ông đã theo nghiệp bay từ hồi 17 tuổi. Sinh ra ở Illinois, theo học ĐH Long Beach State College năm 1955 là tác giả của một số truyện có thực và giả tưởng. Đa số là loại bán-tự -truyện, dùng những dữ kiện thật hay hư tạo từ cuộc đời của chính mình để phô diễn triết lý của ông. Ông phục vụ với tính cách trừ bị trong Hải quân và sau đó là trong Phi đội chiến đấu 108 trong Không quân Phòng không New Jersey, và là phi công F-84F trong Phi đoàn 141, Không quân Hoa kỳ. Sau đó ông là cây viết về kỷ thuật cho Douglas Aircraft và đóng góp bài cho tạp chí Flying. Năm 1960, ông được điều qua phục vụ ở Pháp. Muà hè năm 1970, ông và người bạn phi hành du lịch sang Aí nhỉ Lan để bay trong một cuốn phim. Năm 1973, cuốn Chàng Hải Âu Kỳ Diệu được quay thành phim với phần diển tả do danh ca Neil Diamond phụ trách. Cuốn sách thứ nhì của ông ra đời năm 1977 là câu chuyện về một nhà tiên tri của thời hiện tại quyết định từ bỏ lý tuởng của mình. Trong những năm của 1990, ông xuất hiện trên online trong website của “Compuserve” và đích thân trả lời emails cho từng ngươì gỡi. Tháng Tư năm 2005, ông được phỏng vấn trên đài truyền thanh Conscious Talk Radio và đã được truyền lại vài lần vào năm 2006. Ông có sáu con với người vợ đầu tiên. Bà này đã đánh máy và duyệt bản thảo cho hầu hết bài viết của ông. Bà này cũng là một phi công và viết một quyển sách về đời bay của mình. Con trai của ông là một nhà báo và kỷ sư về nhu liệu có viết sách nói về cha mình. Năm 1977 ông lập gia đình lại với một phụ nữ ông gặp trong thời gian quay cuốn phim về chàng hải âu Jonathan. Họ chia tay năm 1999 và ông cưới ngươì thứ ba vào tháng Tư 1999. Bach là một trong số tác giả Mỹ chịu ảnh hưởng triết lý của Đông phương và đã tìm về Chân Ngã để vượt qua những giới hạn của thân xác rồi đưa tâm linh về với Vô Ngã. Bach đã không cho phép mình mãn nguyện khi đã giác ngộ mà cho rằng mình phải tìm về để giúp đở cho đồng loại đang chìm trong bể mê. Có lẽ đây là điểm son chói lọi của “Chàng Hải Âu Kỳ Diệu” này vậy./. Mời các bạn đón đọc Chàng Hải Âu Kỳ Diệu của tác giả Richard Bach.
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết - Ismail Kadare
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết là câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt binh sĩ ở Anbani của một viên tướng sau 20 năm chiến tranh kết thúc - một cuộc hành trình của tâm trạng và nhận thức của một kẻ mang niềm kiêu hãnh, một nước lớn đi khai hóa văn minh cho một nước bé. Nhưng vượt lên tất cả những điều ấy là hình ảnh một đất nước Anbani hiểm trở, hùng vĩ với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời , với những con người ngoan cường dũng cảm, biết vượt qua những đau thương của chiến tranh để tự khẳng định mình...." Mê và cay đắng, viên tướng của đạo quân chết là khúc bi thương cho những người trẻ tuổi của tất cả những quốc gia đã bị đưa ra nước ngoài để chết cho cuộc chiến". *** Ismail Kadare là một nhà văn còn trẻ (ông sinh năm 1936) nhưng đã có một vị trí hàng đầu trong văn học Albania hiện đại. Ông nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay «Mùa xuân tương lai» sáng tác năm ông mới mười tám tuổi rồi năm 1957, ông đoạt giải thưởng văn học quốc gia với trường ca «Những niềm mơ ước». Một trường ca khác của ông - «Công chúa Argjiro» - được độc giả Albania rất ưa thích. Ông còn có một tập truyện ngắn «Đám cưới». Tuy nhiên tên tuổi ông chỉ thực sự được biết đến ở nước ngoài với cuốn tiểu thuyết «Viên tướng của đạo quân chết». Nội dung cuốn sách này thật ra rất đơn giản. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, một viên tướng (tác giả cố ý không nói rõ họ tên, tuổi tác, quốc tịch của hắn; người đọc chỉ «ngẫu nhiên» biết hắn cao một thước tám mươi hai và đoán chừng hắn là người Ý) cùng với một linh mục, hàm đại tá, làm thông ngôn, sang Albania để tìm kiếm thi hài các binh sĩ của đạo quân phát xít nước hắn đã tử trận ở Albania. Theo những bản danh sách và bản đồ được lập sẵn một cách công phu, tỉ mỉ, hắn và ông linh mục, có một cán bộ chuyên môn Albania và một kíp công nhân đi cùng, đã lặn lội khắp đất nước Albania, đào bới, thu nhặt những nắm xương tàn của đạo quân phát xít hai mươi năm trước đây đã bại trận. Cuộc tìm kiếm kéo dài hai năm ròng rã; các bộ hài cốt tìm thấy được bỏ vào các túi nylon đặc biệt màu xanh, sọc trắng, viền đen và gửi về cho các gia đình đã bao năm nay chờ đợi chồng con họ. Cuối cùng, viên tướng hoàn thành công việc, tổ chức lễ cầu hồn, mở một tiệc chiêu đãi nhỏ rồi lên đường về nước. Câu chuyện chỉ có vậy, bình thường và có thể nói là khô khan nữa, đến cái mức tưởng đâu như không có gì để viết được thành một cuốn tiểu thuyết. Nhưng Ismail Kadare đã biết chọn một góc nhìn độc đáo. Ông không kể lại câu chuyện theo chủ quan của ông, một người Albania, mà là thông qua con mắt của viên tướng, quân nhân một nước trước đây đã tiến hành một cuộc xâm lăng tàn bạo và đẫm máu trên đất nước Albania và giờ đây nhận nhiệm vụ đi sang Albania với rất nhiều định kiến. Ismail Kadare chỉ để cho nhân vật chính của ông nhìn thấy và kể lại những gì phù hợp với tính cách của hắn. Có thể nói đất nước Albania được miêu tả ở đây không phải là đất nước Albania của bản thân tác giả mà là một đất nước xa lạ nhìn qua con mắt của viên tướng: toàn núi non ghê rợn, với bùn lầy, mưa tuyết, gió lạnh… Ngay câu mở đầu cuốn sách đã xác định rõ cách nhìn ấy: «Mưa pha tuyết rơi trên đất khách…»; đó cũng là câu bắt đầu chương chót và cuốn sách chấm dứt với câu: «gió vẫn thổi không ngừng». Trong hai năm trời lang thang đây đó để khai quật mồ mả, viên tướng chỉ nhìn thấy có bùn lầy mùa thu và mưa tuyết mùa đông. Qua câu chuyện kể lại theo một trình tự thời gian chặt chẽ, Ismail Kadare đã không để cho viên tướng được thấy cảnh mùa xuân, cũng như không để cho ông ta có được một nụ cười. Câu chuyện bắt đầu với mưa, tuyết và kết thúc với gió thổi. Như vậy, câu chuyện không phải đơn thuần chỉ kể lại sự việc mà thực ra chính là quá trình diễn biến trong tâm tư viên tướng từ khi đặt chân lên Albania cho đến lúc ra sân bay trở về nước. Chính vì thế mà, nếu như độc giả không biết gì về tên tuổi, dung mạo, bề ngoài của viên tướng - trừ chiều cao một thước tám mươi hai, - thì trái lại, qua đoạn này, đoạn khác, đây một nét, kia một chi tiết, người ta biết rất rõ tâm trạng của hắn từng lúc một. Hắn lên đường sang Albania với quan niệm đây là một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng; hắn rất thích thú câu nói của một mụ quý tộc nước hắn ca tụng hắn trước ngày khởi hành: «Như một con chim oai hùng và đơn độc, ngài sẽ bay lượn trên những ngọn núi lặng lẽ và bi thảm ấy để lôi kéo con em khốn khổ của chúng ta ra khỏi nanh vuốt chúng». Hắn luôn luôn muốn người Albania hiểu là hắn cầm đầu cái phái đoàn hai người, hắn là nhân vật quan trọng nhất. Hắn ngầm chê bọn tướng lĩnh ngu dốt xưa kia đã đưa quân đội nước hắn «những con em của chúng ta, oai hùng và dũng cảm», đến chỗ thất bại và bị tiêu diệt, còn hắn, hắn đến Albania để đưa các tử sĩ đó ra khỏi quên lãng. Hắn tự cho mình là đại diện của một cường quốc văn minh đi đến một nước dã man, lạc hậu, nhỏ xíu chỉ bằng một cái chấm trên bản đồ. Hắn đặc biệt chú ý tìm kiếm di hài viên đại tá Z, con trai độc nhất của mụ quý tộc giàu có, quyền thế nọ, «con cưng» của Bộ Chiến tranh, «có bản lĩnh của một thiên tài quân sự» đã «mất tích» ở Albania. Gia đình viên đại tá đã xây sẵn một ngôi mộ nguy nga bằng cẩm thạch, có dựng tượng, trồng hoa hồng để chờ đón hài cốt của «người anh hùng» đó và đặt hết hy vọng vào viên tướng… Trong một lúc rượu say chuếnh choáng, tâm sự với người bạn đồng hành, viên tướng đã thổ lộ ý muốn của hắn là «sẽ hiên ngang đi giữa những người Albania, nhìn họ một cách căm hờn và khinh bỉ»; hắn đã «hình dung trước buổi lễ bàn giao hài cốt, long trọng và nghiêm trang,» và sẽ «cho diễu các quan tài binh sĩ nước hắn giữa đám dân chúng Albania để cho họ thấy là cái chết của chúng ta còn đẹp hơn cả cuộc sống của họ»… Nhưng rồi sự việc đã diễn ra khác hẳn, như hắn về sau đã đau khổ thú nhận: «Thái độ kiêu hãnh của chúng ta biến mất trước tiên, rồi tất cả những công việc này chẳng còn gì là long trọng nữa và cuối cùng những ảo tưởng của tôi cũng tan biến và bây giờ chúng ta đi dạo trong sự hờ hững chung của mọi người, dưới những con mắt bí hiểm và giễu cợt, như những thằng hề thảm hại của chiến tranh, còn đáng thương hơn cả những kẻ đã chiến đấu và chiến bại trên đất nước này». Thật vậy, hai năm trời trèo đèo, lội suối, xuôi ngược trên khắp các nẻo đường đất nước Albania, viên tướng đã đi từ phát hiện này đến phát hiện khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác, những định kiến của hắn sụp đổ dần. Cái bi kịch của hắn là ở chỗ chính hắn đã từng sống những ngày đầu của chiến tranh vào mùa xuân 1939, khi quân phát xít đổ bộ lên Albania: đài phát thanh nước hắn báo tin «chiến thắng» dồn dập, dân chúng Albania đem hoa ra đón tiếp những đạo quân «sẽ dẫn văn minh và hạnh phúc đến cho họ». Rồi báo chí đăng bài, tranh ảnh, ca ngợi mùa xuân rực rỡ, bầu trời, mặt biển Albania chan hòa ánh nắng, các cô gái Albania duyên dáng, những y phục và những điệu múa đầy màu sắc. Binh lính nước hắn và cả bản thân hắn nữa - lúc đó hắn đang ở châu Phi - đều náo nức mơ ước được điều sang cái nơi thanh bình, tươi đẹp ấy, dưới bóng những cây ô liu cổ thụ… Và giờ đây, chính hắn lại tới đó để thu nhặt tàn tích của chính những đạo quân ấy và đồng thời cũng là thu nhặt những bằng chứng tuyệt đối về sự thất bại thảm hại của chúng. Có những đơn vị đã bị tiêu diệt hoàn toàn, xương người lẫn lộn với xương lừa ngựa, có những tên, kể cả sĩ quan, đã đào ngũ, đi ở cho nông dân Albania để mưu cầu cái sống thừa trong ô nhục, rồi cuối cùng chết vì tay những đơn vị trừng phạt của chính quân đội phát xít. Viên đại tá Z, «người anh hùng» của hắn, thực ra chỉ là một tên sát nhân hung ác, chỉ huy «Tiểu đoàn xanh» khét tiếng tàn bạo, đã cưỡng dâm một cô bé Albania 14 tuổi khiến cô bé tủi nhục nhảy xuống giếng tự tử; y đã bị giết chết không biết chôn ở đâu. Cho đến một tối nọ, công việc sắp hoàn thành, viên tướng cao hứng tự động đến dự một bữa tiệc cưới của một gia đình nông dân Albania, một bà cụ đã ném cái túi đựng hài cốt tên đại tá Z xuống trước mặt hắn, «như nhổ vào mặt hắn», với những lời nguyền rủa thậm tệ vì bà cụ chính là mẹ cô bé Albania nọ, chồng bà cụ đã bị «Tiểu đoàn xanh» treo cổ, chính bà cụ đã giết tên đại tá Z khi tên này - không biết cô gái đã tự tử - hôm sau lại mò đến nhà cô ta. «Và trong sự im lặng chung, viên tướng từ từ cúi xuống, run rẩy nắm lấy cái túi bê bết bùn,… hất lên vai, khom khom đi ra, như mang trên vai tất cả nỗi sỉ nhục và sức nặng của trái đất.» Bên cạnh những mẩu chuyện biết được về từng trường hợp binh sĩ nước hắn, viên tướng cũng được biết nhiều chuyện về người Albania, về truyền thống và phong tục tập quán Albania, về cuộc chiến đấu của nhân dân Albania… Sự hy sinh của Nik Martini, một người dân miền núi, đã để lại trong lòng hắn một ấn tượng sâu sắc: Nik Martini đã một mình vác súng đi xuống bờ biển, một mình đương đầu với cả đạo quân đổ bộ, đông như kiến cỏ. Tất nhiên, như viên tướng xác nhận, anh đã chiếm được một vị trí chiến đấu lợi hại, chỉ có trọng pháo mới đánh bật được anh ra khỏi đó, nhưng dù sao thì Nik Martini, cũng như biết bao người Albania khác, từng nhóm năm ba người một, hoặc đơn độc một mình, từ khắp nơi đổ đến bờ biển để cản đường quân xâm lược rồi hy sinh, không để lại dấu vết, trừ những bài hát của nhân dân sáng tác để ca ngợi và tưởng nhớ họ, - dù sao đi nữa, viên tướng cũng cảm thấy kinh ngạc, xấu hổ: Ních Martini, cũng như các chiến sĩ Albania khác, là những hình ảnh hoàn toàn khác hẳn binh sĩ nước hắn, khác hẳn tên đại tá Z. Một bên là những con người chân chính, biết mình chiến đấu cho cái gì và bất chấp những cuộc giao phong chênh lệch, đã dũng cảm lao vào quân thù, làm trọn nhiệm vụ con người của họ; một bên là sức mạnh mù quáng, ngu ngốc, hung ác và xét cho cùng, hèn nhát. Rút cuộc, chuyến đi hai năm trời của viên tướng là một nỗi ê chề, nhục nhã kéo dài, một cơn ác mộng, lắm lúc khiến hắn gần như sa vào tình trạng thác loạn tinh thần. Cuối cùng, đêm hôm trước ngày hắn lên đường trở về hước, hắn đã nghĩ đến cách đánh tráo hài cốt, lấy một bộ xương cũng cao một thước tám mươi hai để thế vào di hài viên đại tá Z mà, trong một lúc hoang mang thảng thốt, hắn đã hất xuống suối. Đang lúc say rượu, hắn loạng choạng đến cửa buồng ông linh mục đã khóa chặt, lom khom nói qua lỗ khóa để bày tỏ ý đồ gian lận của hắn. Bất đồ, hắn nhầm buồng, cửa buồng sịch mở, một bà to béo hiện ra, sỉ vả hắn tàn tệ đã nhòm vào buồng bà ta giữa lúc đêm hôm khuya khoắt. Cái cảnh vừa kệch cỡm, vừa thảm hại ấy, đánh dấu sự rã rời, suy sụp hoàn toàn trong con người hắn: còn đâu «con chim oai hùng, đơn độc bay lượn…», còn đâu sứ mệnh thiêng liêng, cao cả? Rõ ràng qua diễn biến tâm tư của viên tướng, có tính chất một biểu tượng, Ismail Kadare đã giễu cợt và lên án quân đội phát xít và nói chung, tất cả các đạo quân xâm lược. Nhưng vượt lên trên cả nhân vật trung tâm ấy, choán hết cả cuốn sách chính là hình ảnh đất nước và nhân dân Albania. Mặc dù câu chuyện được kể lại qua con mắt viên tướng nước ngoài, người ta vẫn thấy Ismail Kadare yêu tha thiết đất nước ông với những núi non hiểm trở, hùng vĩ, với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời, với những con người ngoan cường dũng cảm, từ bao đời nay vẫn trọng danh dự và nhân phẩm và hiện đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Ông ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân nước ông và nói chung, của tất cả các dân tộc đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của mình. Qua cái chết của bác thợ đấu già Gjoleka - bị nhiễm trùng vì chiếc khuy gỉ trên quân phục một tên lính phát xít chết đã 20 năm nay - ông còn ngụ ý rằng chiến tranh chưa thật sự kết thúc hay nói cho đúng hơn, hòa bình chưa phải đã vững chắc: như những con vi trùng, tuy bị vùi sâu dưới đất cùng với xác tên lính hàng mấy chục năm trời, khi gặp khí trời, ánh sáng, lại phục hồi tất cả cái tính độc hại ác liệt của nó, chiến tranh vẫn còn ngấm ngầm âm ỉ, chờ lúc chúng ta lơ là để nổ ra, tàn phá. Tất cả những ý đó, Ismail Kadare đã thể hiện với một nghệ thuật già dặn, vững vàng. Những hình ảnh tương phản, những so sánh về hai mẫu người, hai hệ tư tưởng, hai thế giới khác nhau, ông để người đọc tự rút ra, tự suy nghĩ lấy. Ông chỉ trình bày những sự việc rất thực và chọn lọc, theo lối nhìn và cảm nghĩ của viên tướng nước ngoài, và kể lại câu chuyện một cách rất tự nhiên, thoải mái, gọn gàng, giản dị, khiến người đọc có cảm giác như ông rất «khách quan», hầu như thản nhiên với nhân vật của ông, với những sự việc ông kể, và do đó, từ một đề tài rất bình thường, đơn giản, nếu không phải khô khan, ông đã viết nên một cuốn sách thật hấp dẫn, có sức mạnh thuyết phục và tác động sâu sắc, xứng đáng là một tác phẩm ưu tú của Albania, một tác phẩm chúng ta có thể học tập được nhiều chẳng những về nội dung mà cả về nghệ thuật thể hiện. NGUYỄN VĨNH Mời các bạn đón đọc Viên Tướng Của Đạo Quân Chết của tác giả Ismail Kadare.
Trang Viên Mansfield - Jane Austen
“Trang viên Mansfield” là cuốn tiểu thuyết Jane Austen viết từ năm 1812 đến năm 1814. Đây là tác phẩm nhiều tham vọng nhất của Austen, về độ dài, miêu tả tính cách đa dạng và phạm vi các chủ đề. Tác phẩm xoáy vào việc giáo dục đạo đức cá nhân trong ba gia đình thuộc ba tầng lớp khác nhau trong xã hội lúc bấy giờ. Fanny Price, nhân vật nữ chính trong truyện, là con gái thứ của một gia đình nghèo đông con. Vì không thể nuôi nổi gia đình, bà Price đã quyết định gửi cô cho người chị ruột của mình nuôi nấng. Fanny được sống trong trang viên Mansfield cùng bốn người con của ông bà Bertram, hai công tử và hai tiểu thư. Gồm Tom, Edmund, Maria và Julia Bertram. Cô là một thiếu nữ nghèo hiền hậu, nhu mì, thông minh, nhạy cảm, giàu đức hy sinh, chân thành với nguyên tắc của mình, song quá khiêm nhường và bị ngược đãi. Cô phải chống chọi lại những hậu quả này, đồng thời xem xét lại tình cảm riêng của mình, trong lúc chịu đựng sự thờ ơ phi lý, nệ cổ và thái độ coi thường, hợm hĩnh của những người quanh cô. Edmund Bertram là anh họ của Fanny, cậu dí dỏm và hấp dẫn khi được phép sống tự nhiên, nhưng do nhiều tình huống bắt buộc phải dè dặt, nên anh có vẻ cứng nhắc và hay suy xét. Còn anh em Henry và Mary Crawford mồ côi sớm, được chú thím thuộc tầng lớp thượng lưu ở Luân Đôn nuôi dưỡng. Chú thím yêu quý song không quan tâm giáo dục đạo đức cho họ, nên tuy tràn đầy sức sống và hấp dẫn, cả hai đều ích kỷ, phù phiếm và nông cạn không sao cứu vãn nổi. Edmund bị hấp dẫn bởi Mary nhưng lại đau khổ vì cô. Henry sau khi bỏ ý định quyến rũ hai cô em gái của Edmund thì nhận ra mình bị cuốn hút bởi sự dịu dàng, thùy mị của Fanny. Trong khi đó, Fanny nhận ra mình yêu anh họ Edmund của mình biết nhường nào nhưng vẫn im lặng chờ đợi. Họ bị vướng vào vòng xoáy tình cảm rắc rối. Tuy nhiên, Fanny và Edmund là hai con người sinh ra là để cho nhau, sau bao khó khăn và trưởng thành của cả đôi bên, họ đã đi đến hôn nhân. Cuốn tiểu thuyết nêu bật sức mạnh đạo đức thể hiện chiều sâu của tâm hồn, các nhân vật nữ thùy mị và thực tế, sẵn sàng hy sinh cơ hội được hưởng hạnh phúc trần thế hơn là hành động ngược lại tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của họ, không ngừng đề cao tình yêu vị tha và biết quên mình, nhận thức được những giới hạn, sự bí ẩn của trí tuệ và tính cách con người. Tác phẩm này đã được dựng thành phim. *** Jane Austen (1775-1817) là nhà tiểu thuyết Anh, nổi tiếng vì những đề tài sâu sắc, dí dỏm về xã hội nước Anh đầu thế kỷ 19. Austen được tôn vinh là một trong những nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất của thế kỷ 19 và 20. Các tác phẩm nổi tiếng của bà: Kiêu Hãnh Và Định Kiến Lý Trí Và Tình Cảm Thuyết Phục Emma Trang viên Mansfield, Tu viện Northanger. “Tiểu thuyết của Jane Austen thực sự là những câu chuyện đích thực của trái tim. Sự quyến rũ của những cuốn tiếu thuyết ấy là mạch lãng mạn chảy ngầm dưới những câu chuyện tình, là tài phân tích tâm lý cảm xúc của nhân vật nữ một cách phi thường, là khả năng khắc họa những hình ảnh lý tưởng khác nhau của các chàng trai khiến trái tim độc giả nữ mê muội, là chất hài hước thể hiện một con mắt quan sát xã hội rất sắc sảo, là kết thúc có hậu khi tất cả các nhân vật nữ sau nhiều sóng gió đều tìm được tình yêu đích thực… Có lẽ Jane Austen không chỉ quá lãng mạn mà còn quá thông minh.” Mời các bạn đón đọc Trang Viên Mansfield của tác giả Jane Austen.
Trái Tim Tuổi 19 - Tony Parsons
Bạn mất gì khi bỗng dưng trẻ lại? Và bạn được những gì? Bạn sống cuộc sống của mình như thế nào? Bạn nên quan tâm dến hành tinh và xã hội ở mức độ nào so với những người mà bạn thương yêu? Bạn có muốn trở thành người bạn của con cái hoặc cha mẹ mình không? Đến lúc nào bạn mới thôi bắt cha mẹ chăm sóc mình để bắt đầu lo lắng cho họ? Ở độ tuổi nào thì một người đàn ông trở nên lố bịch khi mặc chiếc quần jeans bó sát? Trái tim tuổi 19 là hành trình kiếm tìm lời giải, kiếm tìm sự khai sáng, là câu chuyện về việc bạn trưởng thành như thế nào, làm thế nào để từ bỏ những giấc mơ tuổi trẻ và theo đuổi những mục tiêu cao đẹp hơn, và liệu có bao nhiêu cơ hội để bạn thực hiện điều đó. - George Bailey được trao tặng một món quà mà tất thảy chúng ta đều mơ ước: đó là cơ hội được sống thêm lần nữa. Sau một cơn đau tim ở tuổi 47, George được thay tim của một cậu bé 19 tuổi, và bỗng dưng mọi thứ đổi thay.   Anh không còn là ông bố nghiêm khắc, luôn dõi theo nhất cử nhất động của cậu con trai và cô con gái đang tuổi lớn. Anh trở thành bạn của các con. Anh yêu vợ hết mực, Song đã không còn là một người chồng đúng nghĩa. Và anh muốn thay đổi cả thế giới...  "Một câu chuyện rất thật về cách chúng ta vẫn loay hoay tìm kiếm tình yêu và sau khi có được rồi, chúng ta lại đạp đổ đi...đôi khi chỉ vì điều đó dễ dàng hơn"   -Observer *** Được sống thêm lần nữa là món quà kỳ diệu của cuộc sống, cũng giống như Chúa vừa ném vào đống lửa đang tắt của chúng ta thêm một que củi vậy. Với ngòi bút dí dỏm, tinh tế, tác giả Tony Parsons mang đến cho người đọc câu chuyện cảm động và ý nghĩa về giá trị của cuộc sống trong cuốn Trái tim tuổi 19. Cuốn sách kể lại chuyện, sau cơn đau tim, viên cảnh sát bàn giấy George Bailey, 47 tuổi, được thay trái tim của một cậu bé 19 tuổi. Xuất viện, George trở lại với cuộc sống của mình, thế nhưng, anh sớm nhận ra mọi thứ không còn như xưa. Anh làm tình với vợ, đam mê và mãnh liệt như một chàng trai 19. Anh thấy đồng cảm với tham vọng cứu vớt hành tinh của cô con gái nhỏ, và gần như trở thành người bạn của cậu con trai lớn hơn là một ông bố. George không biết được rằng điều này lại trở nên tồi tệ. Cuộc sống của anh đã đảo lộn. Vợ của George, Lara, chợt nhận ra sống cùng chồng chẳng khác nào sống cùng một cậu bé mới lớn. Mệt mỏi vì phải một mình gánh vác trọng trách nuôi dạy con cái và hụt hẫng vì người chồng mình yêu thương dường như trở thành một người khác, Lara muốn rời xa George. Thế nên, tạm thời anh chuyển đến sống cùng bố mẹ. Anh thường xuyên say khướt vì chẳng biết mình thực sự là ai. Anh khao khát được quay về cuộc sống bên vợ và hai con như trước kia. Vì thế, Geogre quyết định tìm hiểu món quà được trao tặng, trái tim đang đập trong lồng ngực mình đến từ đâu. Trong thời gian này, anh dần nhận ra nhiều điều mới mẻ và giá trị trong cuộc sống. Tony Parsons vừa là nhà văn vừa là nhà báo viết mảng âm nhạc tại Anh. Ông là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy như: One For My Baby (2001), Man and Wife (2003), The Family Way (2004), Stories We Could Tell (2006), My Favourite Wife (2007), Starting Over (2009) và Men From the Boys (2010). Mời các bạn đón đọc Trái Tim Tuổi 19 của tác giả Tony Parsons.