Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Quảng Ninh Đất Mạ Anh Hùng (Dương Thiên Lý)

LỊCH SỬ VÀ NHÂN CHỨNG

Dương Thiên Lý là một cây bút nữ xông xáo, đầy nhiệt huyết với không chỉ quê hương Quảng Bình (nơi chị sinh ra) mà với tất cả dải đất hình chữ S nói chung - cái không gian mà mỗi chúng ta tự hào gọi là đất Nước. Tôi biết chị định cư và lập nghiệp nhiều năm nay ở Bình Phước xa xôi nhưng tấm lòng với nơi chôn nhau cắt rốn thì không bao giờ phôi phai. Nếu có thể nói thì Dương Thiên Lý có một quê hương chung là Việt Nam. Chị có đồng bào chung của mình là người Việt Nam dẫu cho thuộc dân tộc nào. Dương Thiên Lý có ý thức trau dồi nghề văn, rèn dũa ngòi bút để viết làm sao ngày càng trong sáng hơn, sâu sắc hơn về quê hương mình, đồng bào mình. Tôi thực sự khâm phục người phụ nữ “ăn sóng nói gió” này đã không quản ngại gian khổ, như con thoi từ Bình Phước ra Hà Nội tâm sư học đạo (dự liền mấy khóa bồi dưỡng nghiệp vụ văn chương của Trung tâm bồi dưỡng viết văn Nguyễn Du, Hội Nhà văn Việt Nam). Dường như với chị thì “đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Quả là “vợ có công chồng không phụ”. Sự bền bỉ và tận hiến của Dương Thiên Lý với nghề chữ cuối cùng đã được đền đáp. Cho đến nay chị đã sở hữu đến mấy chục đầu sách thuộc đủ các thể loại. Như nhà văn Nguyễn Tuân đã nói: Công việc của nhà văn là đi - đọc - viết. đi và viết thì rõ rồi. Còn đọc dẫu cho “cơm áo không đùa với khách thơ”, thì tôi đố rằng chị cũng rất chịu khó. Không chịu khó thì lấy đâu nền tảng, lấy đâu ra bột mà gột nên hồ để viết về quá khứ như cuốn tiểu thuyết mới Quảng Ninh đất mạ anh hùng mà quý vị có trong tay đây, theo tôi, là một cuốn tiểu thuyết lịch sử - tư liệu. Không hư cấu vì lịch sử không cần hư cấu, nếu hư cấu tùy tiện và thấp lè tè. đang là thời kỳ độc giả riêng thích văn xuôi “phi hư cấu”. Bằng chứng là cuốn tiểu thuyết lịch sử - tư liệu Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của nhà báo - nhà văn Trần Mai Hạnh đã nhận được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, năm 2014 và Giải thưởng văn học đông Nam Á (aSEaN), năm 2015. đặt bút viết Lời giới thiệu cho tiểu thuyết Quảng Ninh đất mạ anh hùng của tác giả Dương Thiên Lý thì trong đầu tôi lại bỗng vang vọng ca khúc hào sảng, trữ tình Quảng Bình quê ta ơi của nhạc sĩ Hoàng Vân. Bây giờ nó vẫn vang lên tha thiết trong chương trình Giai điệu tự hào của đài Truyền hình Việt Nam (VTV). ai cố ý quên quá khứ thì người đó có thể xem là kẻ vô cảm, vô can. Dĩ nhiên không ai làm lại được lịch sử. Nhưng có thể rút ra từ lịch sử những bài học cho tương lai. Chọn cách nào để viết về lịch sử một vùng đất anh hùng nhưng đầy đau thương như Quảng Ninh, Quảng Bình? Cuốn tiểu thuyết này không phải là một phần lịch sử trong Dư địa chí Quảng Bình. Nó là một sự tái tạo hiện thực bằng ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ tiểu thuyết. Lịch sử được bắt đầu và kết thúc đều bằng chính con người. Thế thì nhà văn cũng hãy bắt đầu từ con người. Dương Thiên Lý đã thao tác chữ nghĩa theo cách này. Tác giả chỉ dành có 6 trang đầu giới thiệu tổng quan về Quảng Ninh, một huyện quan trọng của tỉnh Quảng Bình về nhiều mặt. Ngắn gọn nhưng đầy đủ. Một toát yếu về địa - văn hóa, địa - chính trị như là những “thông số văn hóa” để độc giả dù chưa một lần đặt chân đến vùng đất này cũng có thể hình dung ra Quảng Ninh (không phải là tỉnh). Từ chương hai đến chương mười ba là dành viết về con người Quảng Ninh nói riêng, con người Quảng Bình nói chung trong cuộc kháng chiến chống Pháp ác liệt, kết thúc bằng chiến dịch lịch sử điện Biên Phủ.

“Chín năm làm một Điện Biên.

Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”

Tố Hữu Tìm mua: Quảng Ninh Đất Mạ Anh Hùng TiKi Lazada Shopee

Viết về chiến tranh cách mạng, cuối cùng nhà văn không thể đi chệch khỏi quỹ đạo phản ánh và ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã sản sinh ra những con người anh hùng thời đại. Những con người anh hùng đều từ quần chúng nhân dân mà ra. Vì thế trong cuốn tiểu thuyết lịch sử - tư liệu Quảng Ninh đất mạ anh hùng của tác giả Dương Thiên Lý, như chúng ta thấy, không có những nhân vật cá thể, mà là nhân vật tập thể, nhân vật quần chúng vốn như một đặc điểm có tính chất thi pháp của nền văn học cách mạng lấy cảm hứng sử thi - lãng mạn làm nòng cốt. Những nhân vật sắc nét như “Mạ tôi”; “Cậu tôi”; “Ba xuân”; “Hai Nhị”; “Bà Nụ”; “Ông Sắt”; “anh Sắc”; “O Tốt”; “Chim Yến”… tạo nên một “dàn” nhân vật, trong đó mỗi người mang trong mình dòng máu con Rồng cháu Tiên. xúc động nhất là chuyện “O Tốt” chịu kế khổ nhục để đem lại bình an cho người khác, cuối cùng được chiêu tuyết. Hóa ra chiến công trong chiến tranh đôi khi không phải hiện ra nơi hòn tên mũi đạn mà ở những hy sinh thầm lặng, thậm chí đôi khi “vô tăm tích” của muôn vàn con người bình thường nhưng vĩ đại. Tác giả không thiên vị nhân vật nào vì chiến công này là của toàn thể nhân dân, và nếu có nỗi đau nào ập xuống thì không nỗi đau nào của riêng ai, và nếu có thành quả nào được tạo dựng, lập nên như một kỳ tích thì đó là mồ hôi, nước mắt và thậm chí là máu của đồng bào, đồng chí. Viết tiểu thuyết lịch sử - tư liệu Quảng Ninh đất mạ anh hùng, tôi hình dung tác giả Dương Thiên Lý có cái tâm thế và cảm xúc mạnh mẽ như nhà thơ Nguyễn đình Thi đã viết trong bài thơ Đất nước:

“Nước chúng ta.

Nước những người chưa bao giời khuất.

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất.

Những buổi ngày xưa vọng nói về”.

Có vẻ như Dương Thiên Lý không hề có kỹ thuật khi viết tiểu thuyết lịch sử - tư liệu Quảng Ninh đất mạ anh hùng. Tôi không nghĩ thế. Viết tiểu thuyết kiểu này điều quan trọng nhất là sự trung thành của tác giả với lịch sử. Lịch sử không thể đem ra để trao đổi, bán chác và lợi dụng như ai đó đã từng làm mù quáng. Lịch sử cũng không phải là một thứ trang sức để nhà văn kém tài “lòe” thiên hạ. Lịch sử và nhân chứng, có thể là nhân chứng sống trực tiếp và cũng có thể gián tiếp. Lịch sử không phải là “cái đinh” đóng lên tường để ai muốn treo mắc lên đó bất cứ cái gì cũng được. Lịch sử có tiếng nói riêng, độc quyền của mình. Lối viết của tác giả Dương Thiên Lý trong Quảng Ninh đất mạ anh hùng, theo tôi, là trung thành với sự thật lịch sử. Không tô vẽ, không màu mè, không uốn lượn. Nên đôi lúc có cái cảm giác khô cứng của tư liệu. đây là một thử thách không dễ bề vượt qua đối với bất kỳ cây bút nào muốn đối diện và tái tạo lịch sử, dù đó là lịch sử gần hay xa.

Lại có người khi đọc Dương Thiên Lý - những tác phẩm trước Quảng Ninh đất mạ anh hùng - thường nhận xét về giọng điệu hào sảng, đôi lúc bồng bột có thể không hợp với đề tài lịch sử. Nhận xét ấy có thể đúng. Nhưng đọc văn của bất kỳ ai, riêng tôi thường chú ý đến cái gọi là “tạng văn” của người ấy - “tạng văn” do “tạng người” mà ra. Các cụ nói “văn là người” quả là chí lý. Cái “căn” của Dương Thiên Lý là “thiên di”, cái “khí” của chị là nhiệt huyết nên hay va đập. Cái “lộc” của chị là ăn về hậu vận. Nói vậy cho vui vẻ một tí. đọc văn Dương Thiên Lý thấy câu chữ cứ chực cựa quậy, xáo trộn, tung tẩy, đôi khi “mất trật tự”. Nhưng cuối cùng thì đâu vào đấy, hàng ngũ chỉnh tề. Bề ngoài không có sự cân đối, nhịp nhàng, thậm chí đôi lúc thiếu sự mềm mại, uyển chuyển. Tóm lại như ai đó nói quá đi là thiếu “âm tính”. Không sai. Nhưng chưa thấu tình đạt lí. Nếu gần gũi sẽ thấy ngòi bút này đôi khi cố dùng cái ồn ào để che giấu một nỗi buồn mênh mang. Tôi nghĩ đó là một nỗi buồn đẹp. Một nỗi buồn đẹp thì nên cổ súy. Quý vị cứ mở trang sách đọc mà xem!

Xin trân trọng giới thiệu với quý độc giả gần xa tiểu thuyết mới của tác giả Dương Thiên Lý: Quảng Ninh đất mạ anh hùng./.

BÙI VIỆT THẮNG

***

Quảng Ninh là vùng đất eo thắt, hẹp nhất lãnh thổ Việt Nam, có diện tích tự nhiên 1.190,89 km2 địa hình thấp dần từ Tây sang đông, núi và gò đồi chiếm hơn 80% diện tích. Phía Tây Quảng Ninh là dãy Trường Sơn hùng vĩ có biên giới tự nhiên tiếp giáp với nước Lào. Phía đông Quảng Ninh là dải cát vàng ôm sát biển đông với chiều dài trên 20km, dải cát này nhà bác học Lê Quý đôn gọi là đại Trường Sa. Phía đông Bắc theo trục Quốc lộ 1A giáp thành phố đồng Hới. Phía Tây Bắc giáp huyện Bố Trạch và phía Nam giáp huyện Lệ Thủy.

Đồi núi ở Quảng Ninh không cao lắm. Đỉnh U Bò, đầu Mâu cao trên 1.000 mét, Cà Roòng, Thần Đinh thấp hơn một chút. Dân Quảng Ninh vẫn lưu truyền một câu sấm:

“Đầu Mâu vi bút

Hạc Hải vi nghiên

Trường Sa vi bản”

Người đời gọi núi đầu Mâu như ngọn bút, phá Hạc Hải như nghiên mực, dãy cát phía đông như trang giấy trải rộng.

Núi đầu Mâu cách huyện lỵ khoảng 20km về phía Tây. Theo đại Nam Nhất Thống Chí thì: “Thế núi hùng dũng cao chót vót, đứng sững ở bên trời. Tương truyền cạnh núi có giếng, trong giếng có cá lạ; chân núi kề sông cái, sẵn giống cua cá; hồi đầu bản triều nhà Nguyễn đắp lũy dài từ đầu Mâu đến động Hải, cao một trượng 5 thước, rộng hơn 30 thước, xe ngựa có thể đi lại trên mặt lũy, ngoài lũy có sông ngòi làm hào, núi chắn sông bao rất hiểm trở làm chỗ ngăn chặn lớn nhất giữa Bắc - Nam, tục gọi là “Lũy Thầy” vì do đào Duy Từ xây đắp...”

Núi Thần đinh cách huyện lỵ Khoảng 20km về phía Tây Nam. Núi Thần đinh có động sâu thẳm rộng rãi. Trong động có thạch nhũ rất lạ, có cái như tàn vàng, có cái khi gõ phát ra tiếng kêu như chuông như trống. Phía ngoài động có giếng đá, nước ngọt quanh năm không cạn.

Dinh Võ xá cách huyện lỵ 5 km về phía Nam. Chúa Nguyễn dựng dinh ở đây gọi là Dinh Mười. Khu vực dinh thự có đồng ruộng lầy sâu, quân Trịnh đã bị quân Nguyễn đánh úp ở vùng lầy thụt này, vì thế có câu ca rằng:

“Một lo đồng Hải - Lũy Dài.

Hai sợ ruộng lầy Võ xá”.

Thế núi hiểm trở là vậy, hình sông lại có hướng khác thường, tạo dòng chảy xuôi về phía Bắc. Sông Nhật Lệ rộng hàng km dài hơn 90 km.

Ở giữa địa hạt Quảng Ninh và Lệ Thủy có phá Hạc Hải. Phá Hạc Hải cách làng Quảng xá khoảng 5km, rộng chừng 5.000 mẫu, ở trên các sông ngòi Quảng Ninh và Lệ Thủy thông vào; ở dưới theo sông Kiến Giang ra biển. Phá Hạc Hải rộng bốn bề giới hạn mù mờ, mùa nắng hạ nước hạ xuống, trông phá nhỏ nhưng đến mùa mưa mênh mông bát ngát phá được gọi là Hải Nhi (biển nhỏ)...

Về khí hậu thì vùng đồi núi ven biển đất bạc và thưa thớt, sách đại Nam Nhất Thống Chí chép rằng: “Khí núi, tiết biển đan xen nhau, mùa hạ thường nắng, mùa thu mùa đông thường mưa. Chợt nắng liền nóng, chợt mưa liền lạnh...”

Miền núi đồi, miền ven biển đất bạc, cây cối thưa thớt, khí hậu khắc nghiệt là vậy, nhưng ở đồng bằng thì non sông tươi đẹp, bể cả thì sông nước mênh mông, núi đồi hùng vĩ. “xóm làng trù mật, lợn gà từng đàn, cỏ nước ngon lành nên trâu bò béo tốt, đất cát phì nhiêu nên được thóc không cần khó nhọc...”

Tác giả Dương Văn an viết trong Ô Châu Cận Lục như sau:

“Trai làng Vũ - Khuyến chăm việc canh nông, gái Trường Dục siêng nghề khung cửi... anh em Phúc Lộc dạy nhân học luật, dân làng Cái xá rất khéo đắp bờ. Gái làng Hoành Bồ biết xem mây trận. Trần xá có nước quanh co, làng Nguyệt Áng non sông lồng bóng nguyệt; xã xuân Hồi vườn tược đượm màu xanh. Hai làng Phúc Nhĩ, Phúc Thị ắt hẳn nhà nhà được phúc; nhân dân trù mật có xã Tả Phiên; làng xóm vui vầy thì có Quảng xá, Văn Yến - Văn La sẵn tay văn sĩ... làng Phúc Lương danh tính tốt lành, tiếng Cổ Hiền danh thơm muôn thuở; Phúc Duệ sao chịu tiếng hèn, Trung Trinh vẫn ghi ở dạ; Gia Cốc lúa tốt vàng tươi, của ngọc thực no nê lớn bé...” đất Quảng Ninh có truyền thống văn hóa lâu đời, nhiều thuần phong mỹ tục. Người Quảng Ninh nổi tiếng hiếu học, học giỏi. Vùng đất “địa linh” này đã nuôi dưỡng nhiều danh nhân văn hóa tiêu biểu như Thượng đẳng công thần khai quốc công thần tịnh Quốc công chiêu quận công Nguyễn Hữu Dật (được ví là Khổng Minh của Việt Nam), Hào lương hầu Nguyễn Hữu Hào, tác giả tập truyện thơ dài “Song tinh bất dạ”; Thượng đẳng thần - Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh; Thượng thư binh bộ Hoàng Kim xán; Thống đốc quân vụ đại thần Hoàng Kế Viêm; Tư thiện đại phu lễ bộ thượng thư Ngô đình Giới; Tam giáp đồng tiến sĩ Lê Hữu đệ; đệ tam giáp đồng tiến sĩ Phạm Văn Khải, Nguyễn Phạm Tuân, Lê Chẩn, Lê Sỹ, đề Én, đề Chít, Hoàng Phúc, Hoàng Thị Tám, đề Thường, Cai Thải, Thầy Mười (Quảng xá)…

Trong những danh nhân đó, nổi bật là Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, người có công khai sáng miền Nam nước Việt mở mang bờ cõi (cuối thế kỷ xVII, được nhân dân tôn vinh, ngưỡng mộ)… trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lần thứ nhất, quan đại thần Hoàng Kế Viêm đã liên kết với quân cờ đen chống quân xâm lược, đã giết chết tướng giặc ở Ô Cầu Giấy. Những người đỗ đạt khoa bảng làm quan ở nhiều nơi như quan Án sát Hải Dương, Dương Văn Trinh; Quốc sư Nguyễn Nhuận dạy vua Hàm Nghi; cử nhân Dương Văn Yên, Dương Văn Ứng; Tướng thần Dương Viết Oai; Tổng lãnh Dương Viết Hạc; Dương Viết Căn; Tri phủ Phú xuân Nguyễn Văn Thành; Dương Thành Nhâm.

Có một người mà không thể không nhắc đến công lao của cụ đối với dân Quảng Ninh, đó là cụ Nguyễn Ngồi. Ngay từ những năm 1929, cụ Nguyễn Ngồi đã bỏ tiền nhà ra xây dựng ba phòng học rồi đi xin quan phủ cho về mở lớp dạy chữ Quốc ngữ.

Làng Quảng xá sớm có phong trào và truyền thống làm cách mạng. Dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản, và sự dìu dắt của ông Nguyễn Trung Thầm, các thầy giáo Dương Viết Nặc, Dương Viết Hạng, Dương Viết Hiểu, Nguyễn Tốn, Nguyễn Chuân, Nguyễn động đã tổ chức các nhóm thanh niên yêu nước. Từ cái nôi đó, Hội “Tương tế ái hữu giáo sư hương trường”, Hội Thanh niên Phan anh…. ra đời.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Quảng Ninh Đất Mạ Anh Hùng PDF của tác giả Dương Thiên Lý nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Đô Thị Cổ Hội An Di Sản Văn Hóa Thế Giới (Nguyễn Trung Hiếu)
Nếu bạn là người yêu thích lịch sử và đang có ý định tham quan Hội An thì đây là cuốn sách nên tham khảo trước chuyến đi. Cuốn sách đề cập đến hầu hết các di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng của Hội An. Ngoài việc giới thiệu, tác giả còn trình bày quá trình phát triển, nét đặc sắc của các nhà cổ, ý nghĩa của các di tích lịch sử, nguồn gốc, nét đặc sắc của ẩm thực, các trò chơi dân gian... Nên có thể nói rằng cuốn sách này như một "hướng dẫn viên du lịch" về Hội An cho bạn. Điều mình thích nhất là sách có đề cập đến cả "mắt cửa Hội An", một phần rất quen thuộc trong các ngôi nhà cổ ở Hội An nhưng chưa thấy tài liệu nào đề cập đến. *** Hội An là trường hợp đặc biệt và cho đến nay chưa diễn ra lần thứ hai trong lịch sử Việt Nam. Hơn 500 năm trước đây, Hội An được ghi nhận là thương cảng của người Chămpa với những địa danh Đại Chiêm Hải Khẩu, Chiêm Bất Lao, cửa Đại Chiêm... Và trước đó, từ những đồng tiền Ngũ Thù, Vương Mãng thời tiền Hán được tìm thấy tại các di chỉ tại Cù Lao Chàm, Cẩm Hà trong các mộ chum Sa Huỳnh... nơi đây được đoán định là điểm giao thương quốc tế của cư dân thuộc nền Văn hóa Sa Huỳnh cách đây hơn 2.000 năm, cùng thời với Văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn ở phía Bắc và Óc Eo ở phía Nam... Xuất phát từ sự bức ép trong cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn vào những năm thế kỷ XVII, Nguyễn Hoàng mang binh, gia quyến thuộc vượt qua dãy Hoành Sơn vào Nam, chọn Hội An làm cửa ngõ thông thương ra phía ngoài. So với thương cảng Phố Hiến (Đàng Ngoài) cùng thời, cùng giữ vai trò, Hội An (Đàng Trong) tuy thành hình muộn hơn, nhưng lại nổi bật và thành công hơn rất nhiều. Sự lấn át của Hội An bộc lộ đến độ, ghi lại trong cuốn Phủ biên tạp lục (1776), nhà bác học Lê Quý Đôn miêu tả: “Thuyền từ Sơn Nam (Đàng Ngoài) về chỉ mua được một thứ củ nâu; thuyền từ Thuận Hóa (Phú Xuân) về thì cũng chỉ có một thứ là hồ tiêu. Còn từ Quảng Nam (tức Hội An) thì hàng hóa không thứ gì không có”. Trong thời thịnh vượng, Hội An không chỉ là nơi làm ra kho vàng lẫn bạc dồi dào cho 9 đời Chúa, cùng 13 đời vua Nguyễn giành lợi thế trước đối phương, mà từ đây những cuộc thử nghiệm kinh tế đã được áp dụng thành công đến nỗi vài trăm năm sau, hậu thế cũng chưa nơi nào sánh được. Ví dụ, lần đầu trong lịch sử (và có lẽ đến hôm nay), Chúa Nguyễn đã dám cắt đặt một thương gia Nhật làm thị trưởng thương cảng Hội An để điều hành công việc phát triển kinh tế; mạnh dạn cho phép “Hoa di ngoại tộc” định cư, mua đất lập làng, xây phố, dựng vợ gả chồng sinh sống lâu dài, ổn định... và đối xử với họ công bằng, chí tình như con dân nội thuộc. Nhờ vậy, suốt một chặng đường dài lịch sử, Hội An đóng vai trò như một cửa ngõ thông suốt, tiếp nhận, cải biên, biến hóa những tinh hoa văn hóa, ý tưởng mới mẻ từ bên ngoài, tạo ra kế sách, động lực... phát triển nhân tài, vật lực góp phần quan trọng cho công cuộc mở đất về phương Nam của dân tộc. Tìm mua: Đô Thị Cổ Hội An Di Sản Văn Hóa Thế Giới TiKi Lazada Shopee Và hôm nay, còn đáng lưu tâm hơn, dù trải qua bao nhiêu khốc hại của thiên tai, tranh chấp quyền lực, chiến tranh, thời gian tác động, Đô thị cổ Hội An là điểm duy nhất trong cả nước và khu vực Châu Á vẫn bảo tồn được hầu hết nét nguyên sơ của kiến trúc cổ cách đây hàng trăm năm từ những ngày còn hưng thịnh. Kiến trúc sư người Ba Lan Kazimierz Kwiatkowski (Kazik) từng cảm khái trong nhật ký của ông (1985): “Vẻ đẹp không trùng lắp, chứa đựng trong các phố phường lịch sử; sự phong phú của các thể dáng kiến trúc; sự hoàn hảo của nghệ thuật chạm khắc trong nội thất các quần thể kiến trúc, tạo nên cho Phố cổ Hội An những đặc điểm nổi bật trong một thiên nhiên riêng biệt... Những đặc điểm này đưa quần thể di tích phố cổ lên vị trí hàng đầu trong danh mục các di tích văn hóa của Việt Nam và cả trong kho tàng di sản văn hóa nhân loại”. Hội An là một di sản văn hóa thế giới theo cách của mình. Đô thị cổ với những dãy phố rêu phong trầm mặc, không khiến người ta giật mình thảng thốt, trầm trồ, choáng ngợp vì sự kì vĩ, hay kiều diễm như nhiều nơi khác. Hội An chỉ gây sự chú ý bằng cái cách là một góc nhỏ giản dị, thân mật và an toàn cho những người con xa, trở về nương tựa sau chuyến bươn bả hải hành.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đô Thị Cổ Hội An Di Sản Văn Hóa Thế Giới PDF của tác giả Nguyễn Trung Hiếu nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc (Nguyễn-Văn-Trung)
Sau khi chiếm đóng xong Nam kỳ, thực dân Pháp bắt đầu thiết lập guồng máy cai trị. Vì chưa thể có sẵn những nhân viên dân sự từ Pháp sang, nên buộc lòng thực dân phải dùng bọn Tướng Tá Sĩ Quan tại chỗ lo việc hành chánh, tư pháp. Đó là thời kỳ các Đề đốc cai trị. Bọn này chủ trương chính sách trực trị nhưng chưa am hiểu tính tình, phong tục, văn minh Việt nam, nhất là không biết nói tiếng An-nam. Do đó để tiếp xúc với Vua quan, dân chúng bản xứ, lúc đầu họ phải nhờ những thừa sai tu sĩ chủng sinh người Việt xuất thân từ các trường đạo, nhất là trường ở Pénang… Nhưng những người này vừa ít, vừa chỉ thông thạo chữ La-tinh, mà bọn Sĩ quan lại không thông thạo gì tiếng La-tinh, nên việc giao dịch thật khó khăn. Từ đó, thực dân thấy cần lập ngay một trường Thông ngôn để đào tạo lớp người trung-gian giữa nhà cầm quyền Pháp và dân bản xứ. Mở trường nhưng không kiếm ra người đi học. Những người có học thức (biết chữ nho, chữ nôm) hầu hết đều chống đối, tẩy chay, nên rút cục thực dân Pháp phải dụ dỗ, chấp nhận cả những thành phần vô học, bồi bếp, côn đồ vào học. Chính cái gốc côn đồ, thành tích bất hảo, dốt nát của những thầy thông ngôn đó sau này đã đẻ ra một đám những ông quan An-nam tham nhũng, hống hách, tàn ác, và đàng khác đã là một nguyên nhân đưa tới việc chống đối chữ quốc ngữ như sẽ nói dưới đây. Song song với việc mở trường thông ngôn đào tạo tầng lớp trung gian tay sai là mối bận tâm tìm ra một chữ viết làm phương tiện giao dịch giữa người Pháp và người bản xứ để cho dân chúng hiểu được những chỉ thị, mệnh lệnh thông cáo của nhà cầm quyền và hơn nữa hiểu được những chính sách đường lối cai trị nhà cầm quyền đề ra. Không thể dùng tiếng Pháp, chữ Pháp vì hiển nhiên người bản xứ chưa ai biết, không thể dùng chữ nho, chữ nôm, vì đó là thứ chữ chỉ thông dụng cho một thiểu số, rất khó học và nhất là vì thứ chữ của lớp người phản kháng, tiêu biểu cho sự chống Pháp. Vấn đề đặt ra cho thực dân cai trị như đã đặt ra cho giáo sĩ thừa sai làm sao truyền đạo cho đông đảo dân chúng không biết những tiếng Âu châu cũng không thông thạo chữ nho; các thừa sai đã sáng chế ra chữ viết ghi âm bằng chữ cái La-tinh dùng vào việc truyền đạo.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chữ, Văn Quốc Ngữ Thời Kỳ Đầu Pháp Thuộc PDF của tác giả Nguyễn-Văn-Trung nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Châu Phi Nghìn Trùng (Isak Dinesen)
Nhân một cuộc phỏng vấn sau sự kiện công bố giải Nobel Văn chương năm 1954, Ernest Hemingway từng nói về Isak Dinesen (dù hai người chưa từng gặp gỡ) như thế này: “Hôm nay, tôi cũng sẽ hạnh phúc - hạnh phúc hơn nữa - nếu giải thưởng ấy được trao cho nhà văn nữ xuất sắc Isak D” Isak Dinesen là bút danh của bà Karen Blixen - tác giả cuốn sách Out of Africa, tựa tiếng Việt: Châu Phi nghìn trùng. Cuốn hồi ức ra đời từ những năm tháng bà sinh sống tại châu Phi (1914 - 1931) trên một đồn điền cà phê rộng 4000 mẫu Anh gần Nairobi. Châu Phi nghìn trùng bao gồm 5 phần: hai phần đầu tập trung mô tả cư dân bản xứ với những quan niệm lâu đời, độc đáo về công lí cũng như sự trừng phạt. Phần thứ ba, Các vị khách của đồn điền, chuyển sang khắc họa tuyến nhân vật tìm đến tá túc ở nhà Blixen - như bà lí giải: “Tại các xứ thuộc địa mới khai phá, lòng hiếu khách là điều cần thiết cho cuộc sống của không chỉ du khách mà cả của người định cư tại đây. Mỗi vị khách là một người bạn, đem đến tin tức, tốt hoặc xấu, thứ bánh mì cho những tâm trí đói khát sống nơi cô quạnh. Một người bạn chân chính ghé chơi là một thiên sứ, mang theo bánh thánh”. Phần bốn, Trích sổ tay một người nhập cư, bao gồm những ghi chép ngắn phản ánh đời sống của một thực dân da trắng tại châu Phi. Cuối cùng, phần năm khép lại dòng hồi ức: Đồn điền lụn bại, vài thân hữu của Blixen như thủ lĩnh Kinanjui, vận động viên Denys Finch-Hatton ra đi vĩnh viễn. Về bối cảnh tác phẩm, độc giả có thể băn khoăn: Duyên cớ nào đã đưa bà, trong vai trò một người “thực dân”, tới miền đất Kenya bấy giờ thuộc về Anh quốc? Rời quê hương Đan Mạch, bà cùng chồng - ông Baron Bror von Blixen-Finecke - đặt chân đến đây, cai quản đồn điền cũng như những nhân công bản xứ: dân bộ lạc Kikuyu. Năm 1925, đôi vợ chồng chia tay nhau, bà Blixen chứ không phải ông Blixen đảm đương toàn bộ điền sản nói trên. Vị nữ điền chủ rất phù hợp với vai trò, điều đó thể hiện ở hai khía cạnh: khả năng coi sóc trang trại quy mô lớn một cách độc lập, và đặc biệt là mối quan hệ thân tình với con người châu Phi - bà không ngại chữa bệnh cho dân bản xứ, mở lớp học buổi tối cho trẻ em, cố gắng lắng nghe và phân xử những “sự vụ” xảy ra trên vùng này “Cá nhân mình, ngay từ vài tuần đầu sống tại Phi châu, tôi đã lập tức đem lòng quý mến người bản xứ. Tình cảm chân thật này tôi dành cho mọi lứa tuổi và giới tính.” Đáp lại, con người châu Phi cũng yêu quý, tin tưởng Blixen: từ Farah Aden, anh đầy tớ người Somali đã gắn bó với bà trong suốt quãng thời gian Blixen ở châu Phi, chú nhóc Kamante thuộc bộ lạc Kikuyu “sống thui thủi giống con thú bị ốm” nhưng lại dành cho Blixen thiện chí khó phai mờ, đến ngài Kinanjui - vị thủ lĩnh tối cao cai quản hơn 100.000 dân KBlixen gần gũi với châu Phi là vậy song tiếc thay địa hình, khí hậu của khu vực lại chẳng hề lí tưởng cho cây cà phê, đồn điền của bà phải trải qua mùa khô hạn cũng như họa châu chấu, việc làm ăn lụn bại dần. Blixen khép lại cuốn hồi ức bằng một chương thật buồn, đầy những ấn tượng khắc nghiệt về thiên nhiên: “Cũng năm ấy lũ châu chấu kéo đến. Sáng hôm sau tôi mở cửa nhìn ra ngoài, khắp nơi đã nhuộm màu hoàng thổ xỉn nhạt. Cây cối, bãi cỏ, con đường, mọi thứ trong tầm mắt, bị phủ thứ thuốc nhuộm ấy, tựa như đêm qua một lớp tuyết dày màu hoàng thổ đã đổ xuống khắp vùng” lẫn những giây phút lực bất tòng tâm của con người: Tìm mua: Châu Phi Nghìn Trùng TiKi Lazada Shopee “Kinanjui nằm xẹp trên giường. Mùi xú uế quanh ông ngột ngạt tới nỗi ban đầu tôi không dám mở miệng nói vì sợ buồn nôn. Đầu và thân trên Kinanjui teo quắt tới mức bộ khung xương to lớn của ông nổi nhô cả lên. Từng phân từng phân ông gom sức tàn kéo lê bàn tay phải qua thân mình để chạm vào tôi”. Kết cục chẳng thể tránh khỏi, Blixen buộc phải bán đồn điền rồi trở về Đan Mạch. Tại đây, bà bắt đầu viết lách lại - niềm mê thích từng bị ngăn cấm thời trẻ. Năm 1934, bà cho xuất bản một tuyển tập truyện ngắn, sau đó vào năm 1937 - cuốn hồi ức Châu Phi nghìn trùng. Có phỏng đoán rằng tiêu đề sách bắt nguồn từ tiêu đề thi phẩm Ex Africa (tạm dịch: Châu Phi xưa cũ) mà Blixen sáng tác trong năm 1915. Dù chi tiết này có thực hay không thì âm hưởng chung của toàn bộ cuốn hồi ức vẫn là niềm hoài vọng châu Phi, mãnh liệt đến nỗi kí ức trở nên sống động trên từng trang sách. Cách hành văn của tác giả gần gũi, mến yêu, quả là đáng ngạc nhiên bởi bà viết từ góc độ một thực dân da trắng. Chẳng hề xa cách, khinh mạn, chẳng hề cho rằng mình đến để “khai sáng” cho người châu Phi, Blixen tiếp cận dân cư bản xứ đầy cởi mở, trìu mến, và càng về sau càng gắn bó, bảo bọc. Cũng có lẽ vì ăm ắp những kỉ niệm với châu Phi, dù là vui hay buồn, lành hay gở thì tất cả đều như “mới hôm qua” nên tác giả đã chọn mạch phi-tuyến tính khi viết, hầu như xáo tung, làm mờ trật tự thời gian. Thế nhưng trên phương diện không gian rõ ràng giữa Blixen và châu Phi đã tồn tại khoảng cách “nghìn trùng” để rồi nỗi nhớ thêm day dứt. Qua phần cuối sách, độc giả sẽ biết ông Remi Martin - chủ nhân mới của đồn điền - từng ngỏ ý để bà Blixen ở lại căn nhà thân thương tại châu Phi, song bà từ chối. Ngẫm kĩ, sự khước từ này hóa ra có lí, bởi bấy giờ vùng thuộc địa đã chất chứa những nỗi buồn khó tả. Châu Phi nghìn trùng - tác phẩm ra đời từ những trải nghiệm cá nhân của một con người, nhưng lại mở cho chúng ta cánh cửa tới châu Phi rộng lớn: Có thiên nhiên hoang dã, khoáng đạt, trao tặng nhiều song lấy đi cũng cực kì tàn nhẫn; có con người “nguyên sơ” lắm lúc đến mức khôi hài và cũng thật đáng yêu. Qua cuốn hồi ức, châu Phi hiện lên lạ lùng trong mối tương giao giữa cái bản địa và thực dân da trắng, từ góc nhìn khác biệt, không khinh khi, xa cách mà ẩn chứa tình yêu.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Châu Phi Nghìn Trùng PDF của tác giả Isak Dinesen nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Chân Lạp Phong Thổ Ký (Chu Đạt Quan)
Theo Ngô Bắc thì nguyên tác Chân Lạp Phong Thổ Ký “đã được dịch đầu tiên sang tiếng Pháp bởi nhà Trung Hoa học Jean-Marie Abel-Rémusat năm 1819 và sau đó được dịch lại bởi Paul Pelliot trong năm 1902. Sau đó nó đã được chuyển ngữ sang Anh văn và Đức văn”. Cũng theo Ngô Bắc, Wikipedia có liệt kê nhiều “bản dịch sang Anh Ngữ, Pháp Ngữ, và Đức Ngữ”, nhưng còn thiếu: “bản dịch sang Việt Ngữ của Lê Hương, do nhà xuất bản Kỷ Nguyên Mới xuất bản tại Saigòn năm 1973” và “bản dịch sang tiếng Anh của Jeannette Mirsky, nhân viên thỉnh giảng của Department of Oriental Studies, Đại Học Princeton University, được đăng tải trong quyển The Great Chinese Travelers của cùng dịch giả Jeannette Mirsky, xuất bản năm 1964 tại Princeton, New Jersey”. Ông còn cho biết: “Bản dịch được đăng tải nơi đây chiếu theo bản dịch sang Anh ngữ của Jeannette Mirsky, và được đối chiếu với bản dịch sang Việt Ngữ của Lê Hương cùng các chú thích phần lớn của Pelliot mà dịch giả Lê Hương đã viện dẫn. Người dịch có kèm theo nguyên bản tiếng Hán quyển Chân Lạp Phong Thổ Ký để độc giả tiện tham khảo nơi Phụ Lục 2 của người dịch”. Hành trình của Chu Đạt Quan đến Cam Bốt được kể lại trong tập Chân Lạp Phong Thổ Ký và Ngô Bắc nói thêm trong phần giới thiệu, ở đây tôi xin góp thêm bản đồ (hình trên) chép từ trang "blog.ylib.com/jimyang". Thông qua tác phẩm này, Chu Đạt Quan đã phác họa nên bức tranh đầy màu sắc về “phong thổ, quốc sự” của vương quốc Chân Lạp trong quá khứ. Đây là một chuyến đi khá đặc biệt bởi nó được thực hiện sau khi nhà Nguyên chịu những thất bại nặng nề trong cuộc chinh phục Đại Việt và Champa bằng vũ lực diễn ra trước đó. Vì vậy, việc thu phục các quốc gia Đông Nam Á theo phương thức ngoại giao mềm dẻo hơn được ráo riết tiến hành. Là tư liệu hiếm hoi về Chân Lạp trong quá khứ, vì vậy, cuốn sách này được xem như một trong những nguồn tham khảo đặc biệt quan trọng của nhiều nhà nghiên cứu phương Tây khi thực hiện những nghiên cứu khảo sát về đời sống, xã hội của vùng đất này trong giai đoạn về sau. Tìm mua: Chân Lạp Phong Thổ Ký TiKi Lazada Shopee Đồng thời, Chân Lạp phong thổ ký cũng góp phần bổ sung khiếm khuyết của sử nhà Nguyên trong việc thiếu vắng những ghi chép về Chân Lạp như lời khảo xét của các đại thần nhà Thanh trong phần đề yếu khi đưa cuốn sách này vào bộ Khâm định tứ khố toàn thư dưới triều Càn Long.***Chu Đạt Quan (1266-1346 sau Công Nguyên) là một nhà ngoại giao Trung Hoa dưới thời Hoàng Đế Thành Tông nhà Nguyên. Ông được hay biết nhiều nhất nhờ tập bút ký về các phong tục của Căm Bốt và toàn thể khu vực đền đài Angkor trong thời gian ông đến thăm viếng nơi đó. Ông đã đến Angkor vào Tháng Tám năm 1296, và đã ở lại triều đình của Nhà Vua Indravarman III cho đến Tháng Bẩy, 1297. Ông không phải là đại điện Trung Hoa đầu tiên hay cuối cùng đến thăm viếng Kambuja. Tuy nhiên, sự lưu ngụ của ông được biết đến là bởi sau này ông đã viết một tập tường trình chi tiết về đời sống tại Angkor, quyển Chân Lạp Phong Thổ Ký. Sự tường thuật của ông ngày nay là một trong những nguồn tài liệu quan trọng nhất để tìm hiểu lịch sử Angkor và Đế Quốc Khmer. Cùng với sự mô tả nhiều ngôi đền vĩ đại, chẳng hạn như Bayon, Baphuon, Angkor Vat, và các ngôi đền khác, bản văn cũng cung cấp các tin tức quý giá về đời sống hàng ngày và các thói quen của cư dân ở Angkor.***...Khi một phụ nữ vừa sinh con, bà ta nấu cơm, lăn nắm cơm với muối, và đắp nó vào các bộ phận sinh dục của mình. Sau một ngày và một đêm, bà ta gỡ nó ra và chính nhờ thế việc mang thai của bà ta không có các hậu quả không hay; người đàn bà bảo tồn một dáng vẻ của thời thiếu nữ. Khi lần đầu tiên nghe thấy điều này, tôi lấy làm sững sờ và không khó có thể tin điều đó. Nhưng tôi đã có thể nhìn thấy điều này cho chính mình khi, trong gia đình mà tôi cùng sinh sống, một thiếu nữ sinh ra một đứa nhỏ, và ngay trong ngày kế tiếp, cô ta đã ôm đứa bé khi đi tắm tại một dòng sông. Đó là một điều thực sự kỳ lạ! Điều được nói là phụ nữ xứ này rất dâm dật. Chỉ một hay hai ngày sau khi sinh đẻ, họ ăn nằm với chồng họ. Khi một người chồng không thỏa mãn các khát khao của họ, họ bỏ rơi anh ta. Nếu người chồng bị gọi đi xa trong một thời gian kéo dài, người vợ có thể vẫn còn chung thủy trong nhiều đêm, nhưng sau hai tuần lễ, bà ta sẽ thường nói, “Tôi không phải là một con ma, làm sao tôi có thể ngủ một mình được?” Đối với một thời gian dài như thế, hành động sa đọa lôi họ đi! Tôi có nghe rằng có một số đàn bà vẫn giữ lòng chung thủy. Các phụ nữ chóng già; có thể bởi họ kết hôn khi còn trẻ và sinh con quá sớm. Ở tuổi hai mươi hay ba mươi, họ trông như phụ nữ Trung Hoa ở tuổi bốn mươi hay năm mươi.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Chân Lạp Phong Thổ Ký PDF của tác giả Chu Đạt Quan nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.