Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Italy, Đi Rồi Sẽ Đến

C ầm trên tay cuốn sách đầu tay của Lê Thủy Anh là một cảm giác rất đặc biệt với tôi. Cơ duyên của tôi và em bắt đầu từ vài năm trước đây khi tôi nhận được e-mail của một cô bé tự giới thiệu là sinh viên ĐH Ngoại thương nhưng không học tôi mà chỉ biết tôi qua bạn bè. Em gặp một vài khó khăn trong cuộc sống và mong được tôi cho ý kiến. Cuộc gặp ấy đã khởi đầu cho một mối duyên lâu dài giữa tôi và em, một cô gái giàu nghị lực, rất đáng khâm phục. Lần đầu gặp nhau, em chia sẻ rất nhiều về sự bất lực trước gánh nặng gia đình và công việc cùng đổ dồn lên đôi vai bé nhỏ của em. Tôi còn nhớ mình đã rất xót xa khi nhìn một cô gái trẻ, làm việc rất chăm chỉ, kiếm ra tiền nhưng hoàn toàn không có thì giờ chăm sóc bản thân mà chỉ biết nghĩ cho người khác. Sau này tôi mới biết, lúc ấy em còn đang rất đau khổ vì mối tình không lối thoát của mình. Gia đình em ở xa, không thể an ủi, chăm sóc em nhưng gánh nặng kinh tế và nghĩa vụ của người chị với 3 đứa em, trong đó có một em bị Down luôn đè nặng lên vai em. Dù cố sức an ủi cô gái bé nhỏ nhưng tôi vẫn lo ngại em khó có thể thoát ra khỏi cái vòng kim cô của nghĩa vụ ấy để được sống cho mình, được thực hiện ước mơ du học, bước ra ngoài thế giới của em. Khỏi phải nói tôi đã vui mừng thế nào khi 2 năm sau được em cho biết đã xin được học bổng để đi học Thạc sĩ ngành em mơ ước ở Italy và cũng đã tìm được một chàng trai tâm đầu ý hợp ở nơi ấy. Tôi hồi hộp theo dõi từng bước chân em trong quá trình học tập rồi lập gia đình vì tôi biết em học thạc sĩ khá muộn và việc hội nhập với đời sống ở châu Âu không đơn giản, nhất là em vốn quen với văn hóa Nhật Bản, Á Đông. Nhưng rồi tin vui cứ dồn dập đổ về, em đã hoàn thành chương trình học thạc sĩ rất khó khăn đó và cũng đã tìm được một mái ấm ngọt ngào trên đất nước Italy xinh đẹp. Những tưởng em đang an hưởng những ngày hạnh phúc sau thời gian dài vất vả nhưng hóa ra cô gái bất khuất này vẫn không thể ngồi yên. Dù bản thân đã tìm được bến đỗ nhưng cô vẫn khát khao chia sẻ con đường của mình với những người đi sau, mong mỏi giúp được các bạn bớt khó khăn trong quá trình tìm kiếm cơ hội trên đất Italy. Cuốn sách này là câu chuyện rất chân thực của một cô gái từ kinh nghiệm học tập khi mới bắt đầu vào đại học ở xa nhà, đến kinh nghiệm học tốt ngoại ngữ, kinh nghiệm kiếm được việc làm thêm để trang trải cuộc sống và đỡ đần gia đình… Những chia sẻ về những ngày đầu đi làm, kinh nghiệm làm hồ sơ, va chạm/hòa nhập với nơi làm việc mới sẽ rất đáng quý với những bạn trẻ đang chuẩn bị bước vào đời. Đặc biệt, câu chuyện của em về quá trình xin học bổng, làm visa đi Italy, rồi việc học tập, định cư ở nơi xa xôi ấy chắc chắn sẽ rất hấp dẫn người đọc. Trên hết, cuốn sách này là một bài ca về nghị lực sống, về tinh thần vượt khó vươn lên của một cô gái Việt, một người đã biết vượt lên không chỉ những khó khăn, cản trở đặc trưng với một phụ nữ Á Đông mà còn biết dung hòa giữa nghĩa vụ gia đình và khát vọng sống của bản thân. Những gì Thủy Anh đã làm được sẽ tạo động lực cho rất nhiều bạn gái trẻ đang chuẩn bị vào đời, giúp các em thêm tin tưởng vào quyền được hạnh phúc, vào giá trị bản thân của người phụ nữ, giúp củng cố niềm tin là chỉ cần nỗ lực bền bỉ, AI CŨNG CÓ QUYỀN VÀ CÓ THỂ ĐƯỢC HẠNH PHÚC! Tháng 9 năm 2017 PGS. TS. NGUYỄN HOÀNG ÁNH - Giảng viên Đại học Ngoại thương Hà Nội *** Quá trình chuẩn bị cho chuyến du lịch Ý năm 2014 Vấn đề đầu tiên là “TIỀN ĐÂU” T ừ lúc tôi có ý định đi du lịch Ý cho đến khi tôi thực hiện được kế hoạch của mình là 1 năm. Tôi dự định phải có ít nhất 50 triệu đồng cho chuyến đi đó. Điều này thì tùy kế hoạch, khả năng thu nhập và cách chi tiêu của mỗi người. Tôi quyết định hạn chế tối đa những chuyến đi nhỏ và ngắn ngày để dành ngày nghỉ phép ở công ty và mỗi tháng cố gắng tiết kiệm ít nhất 5 triệu. Dĩ nhiên là tôi phá vỡ kế hoạch liên tục vì tôi có rất nhiều khoản phát sinh. Nếu muốn ta sẽ tìm cách, khi không muốn ta sẽ tìm lý do. Lên danh sách chi phí hành trình: ba khoản cơ bản tốn kém nhất là: di chuyển (vé máy bay, vé tàu, vé buýt…); ở (hostel, homestay…) và ăn. Ngoài ra còn tiền vé cho một số điểm tham quan và các chi phí phát sinh. Học tiếng Ý: Tôi bắt đầu học tiếng Ý 1 tuần 3 buổi tại trung tâm Dante, 16 Lê Phụng Hiểu. Sau 1 năm thì tôi học được bốn khóa, đi học rất vui vì biết nhiều hơn về văn hóa, ẩm thực, con người, lịch sử… nước Ý. Học tiếng Ý là quyết định rất sáng suốt vì người dân Ý không dùng tiếng Anh nhiều. Chưa kể việc làm quen và bắt chuyện với người dân địa phương giúp tôi biết thêm rất nhiều điều thú vị. Biết thêm một ngôn ngữ thấy mình bước thêm được một bước ra thế giới rộng lớn và bao la. Xin VISA Tôi tự tìm hiểu trên các diễn đàn để tìm hiểu thông tin xin visa Schengen. Hồ sơ của tôi là phụ nữ độc thân đi du lịch tự túc nên khả năng cao là sẽ bị từ chối thẳng. Với kinh nghiệm sau vài năm đi làm và thường xuyên đến các đại sứ quán Đức, Nhật… để xin visa cho sếp và cho các chuyến đi công tác của mình thì tôi thấy không gì là không thể. Cứ chuẩn bị đầy đủ các giấy tờ như theo yêu cầu của đại sứ quán. Trang web và hướng dẫn thủ tục của Đại sứ quán Ý: www.ambhanoi.esteri.it/ambasciata_hanoi/vi/informazioni_e_servizi/visti Thủ tục yêu cầu như sau: Thị thực du lịch (Thời gian lưu trú tối đa: 90 ngày) 1. Đơn xin cấp visa. 2. 2 ảnh cỡ 4x6 (nền trắng, yêu cầu chụp ảnh để xin visa châu Âu). 3. Hộ chiếu còn giá trị sử dụng ít nhất 3 tháng tính từ ngày hết hạn visa được cấp. 4. Đặt vé máy bay hoặc vé máy bay khứ hồi. (Cái này chỉ yêu cầu đặt vé thôi. Mọi người có thể nhờ phòng vé đặt hộ cho phần này. Bao giờ có visa mà yêu cầu phải xuất vé bay thì mới mua. Tôi đặt online trên trang của Cathay. Đến phần thanh toán tôi chọn thanh toán sau, nó sẽ tự động gửi về mail xác nhận đặt phòng cho hành trình mình chọn. Tôi in cái này ra và nộp cho đại sứ quán. Trường hợp của tôi có visa, không yêu cầu phải xuất vé vì vậy sau này tôi mới mua vé.) 5. Bằng chứng về nơi ở tại Ý: biên lai đặt tour du lịch, đặt khách sạn hoặc thư mời nếu có người mời từ Ý (trong trường hợp có người mời từ Ý, yêu cầu thư mời làm theo mẫu của Sứ quán quy định). Thư mời này yêu cầu 2 bản: một bản fax hoặc e-mail trực tiếp từ Ý đến Phòng Visa Đại sứ quán Ý tại Hà nội (Fax: +84 439351179, e-mail: [email protected]) và một bản do người nộp hồ sơ trình tại thời điểm nộp hồ sơ cùng những giấy tờ khác. Trước khi làm thị thực du lịch tôi làm thêm một cái gọi là lịch trình cơ bản cho 20 ngày: đi đâu, bằng phương tiện gì, tham quan những đâu… Càng chi tiết càng tốt vì sẽ thể hiện rõ mong muốn du lịch của mình và tìm hiểu kỹ những nơi đi. Vì tôi muốn xin visa Schengen nên tôi cho thêm vào lịch trình là 3 ngày ở Paris (nếu chỉ du lịch ở Ý, thông thường đại sứ quán sẽ chỉ cấp visa National ở Ý thôi). Vì lịch trình có Paris nên tôi phải có vé bay hoặc bằng chứng đi lại, ăn ở tại Paris. Tôi xuất vé của Ryan Air vé rẻ khứ hồi tầm 60 Euro (Roma – Paris, Paris – Milan) nên trường hợp có bị từ chối hoặc thay đổi lịch trình cũng đỡ tiếc. Tôi thường đặt khách sạn trên www.booking.com theo lịch trình của mình. Tôi chỉ chọn những khách sạn cho hủy miễn phí (free cancellation) để đặt. Sau khi đặt xong sẽ có xác nhận gửi về e-mail. Tôi in ra và nộp cho Đại sứ quán. Có visa rồi thì tôi hủy hết các đặt phòng trước và đặt các hostel theo lịch trình thực tế của mình. Trường hợp bạn nào có thư mời ở homestay thì có thể dùng thư mời theo mẫu trên website của Đại sứ quán Ý, điền các thông tin và ghi rõ mình ở đó trong khoảng thời gian nào. Lưu ý là phần chi phí bạn phải ghi rõ là bạn chịu hết nếu không Đại sứ quán sẽ yêu cầu mục 6 (bảo lãnh ngân hàng). Tôi dùng booking toàn bộ ở khách sạn để tránh việc Đại sứ quán hỏi về mối quan hệ hay đòi thêm các giấy tờ từ người mời. 6. Bảo lãnh ngân hàng (atto di fideiussione bancaria) mở tại ngân hàng của Ý. Chỉ dùng trong trường hợp người mời đài thọ hết các chi phí để chứng minh là người mời có đủ khả năng tài chính chi trả cho chuyến đi của bạn. Việc bảo lãnh ngân hàng ở Ý khá phức tạp nên sẽ gây phiền cho người mời. Nếu thực sự thân quen và bạn không có đủ năng lực chứng minh tài chính thì mới nên dùng cách này. 7. Chứng minh khả năng tài chính (bản sao kê tài khoản ngân hàng 6 tháng cuối, sổ tiết kiệm, giấy báo tài khoản ngân hàng và giấy tờ nhà đất, xe cộ, thẻ tín dụng, thẻ visa, v.v..). Tôi nộp bản sao kê tài khoản lương 6 tháng (chứng minh mình có thu nhập đều đặn), hạn mức tín dụng, xác nhận số dư (thể hiện toàn bộ các khoản thu nhập mình có), sổ tiết kiệm trị giá 100 triệu đồng (theo như tôi biết yêu cầu tối thiểu khoảng 5.000 đô-la, mức đó không có thông báo chính thức nhưng tôi vẫn chuẩn bị sẵn). 8. Giấy tờ chứng minh công việc: Trường hợp đi làm phải có giấy đồng ý nghỉ phép của công ty + hợp đồng lao động. Tôi nộp hợp đồng lao động và giấy đồng ý nghỉ phép của công ty có chữ ký của sếp và đóng dấu công ty. Tất cả giấy tờ đều bằng tiếng Anh. 9. Bảo hiểm du lịch, bảo hiểm y tế với mức tối thiểu là 30.000 Euro cho việc cấp cứu, viện phí khẩn cấp và các chi phí hồi hương. Tôi mua của Gras Savoye Willis Vietnam phí bảo hiểm là 27 đô-la cho 22 ngày. Trường hợp không được cấp visa có thể hủy và lấy lại tiền (tham khảo tại website: www.grassavoyewillis-vn.com). Tôi chuẩn bị đầy đủ giấy tờ và viết thêm một lá thư gửi Đại sứ quán ghi rõ công việc hiện tại của mình, lý do tôi muốn đi châu Âu để du lịch chứ không định ở lại sau chuyến đi. Thời gian nộp hồ sơ ở Đại sứ quán Ý khi đó là: Thứ Hai, thứ Ba, thứ Năm từ 9:00-11:00: Nhận và trả hồ sơ xin thị thực. 11:00-12:30: Lấy dấu vân tay. Thứ Tư: 14:00-15:00: Nhận và trả hồ sơ xin thị thực. 15:00 - 16:00: Lấy dấu vân tay. Thứ Sáu: đóng cửa. Lúc nộp hồ sơ sẽ phải lấy luôn dấu vân tay ở cả hai bàn tay. Sáng thứ Hai tôi nộp hồ sơ thì đến thứ Ba tôi nhận được điện thoại hẹn phỏng vấn vào tuần sau và yêu cầu bổ sung thêm lịch trình đi Paris. Đúng ngày hẹn, tôi lên nộp nốt giấy tờ và phỏng vấn. Đại sứ quán chỉ xác nhận lại có đúng tôi đang làm ở công ty này không và có phải là lần đầu đi Ý không. Tôi trả lời là đúng và mong muốn nguyện vọng của mình thành hiện thực và bên Đại sứ quán đã chấp nhận. Chào mừng đến với nước Ý. Cảm giác cầm visa Schengen trên tay mà tôi rưng rưng xúc động. Không có gì là không thể nếu mình không thử và cố gắng hết sức vì nó. Mời các bạn đón đọc Italy, Đi Rồi Sẽ Đến của tác giả Fanara Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ký Ức Phiên Lãng - Tô Hoài
Trong làng văn học Việt Nam rất hiếm có nhà văn nào nhận được sự yêu thương, mến mộ từ nhiều thế hệ độc giả khác nhau như nhà văn Tô Hoài. Nếu các bạn nhỏ biết đến ông như một người bạn dí dỏm, đáng yêu qua kiệt tác Dế mèn phiêu lưu ký và series truyện ngộ nghĩnh về loài vật, thì độc giả lớn tuổi biết đến ông như một cây đại thụ của làng văn với nhiều tác phẩm đã trở thành những tượng đài bất tử như Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường, Chuyện đầm sen đền Đồng Cổ… Tưởng nhớ một năm ngày Cụ trở về với cát bụi, Công ty Sách Phương Nam đã cho xuất bản và tái bản những tuyệt phẩm để đời của nhà văn, như một lời tri ân sâu sắc kính dâng lên Cụ. Ký Ức Phiên Lãng ghi lại những hồi ức đẹp về con người, về những vùng đất khác nhau trong ký ức của nhà văn Tô Hoài. Ông có dịp đi qua nhiều nước, được gặp gỡ nhiều người và bằng ngòi bút chân thực của mình ông đã ghi lại những con người vừa chân chất, vừa mền khách, vừa anh dũng không chịu khuất phục trước gông xiềng nô lệ. Đó là đất nước Lào với những con người hiền hòa mến khách, là một Campuchia vừa thoát khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt đang từng bước xây dựng lại đất nước, là một Ê-ti-ô-pi-a dù đang đương đầu với chiến tranh nhưng vẫn luôn hiền hòa tràn đầy hi vọng... Với bút pháp miêu tả bậc thầy nhà văn Tô Hoài đã tái hiện lại mảng ký ức đẹp về con người và đất nước bạn. Giờ đây nó không chỉ là ký ức của riêng ông mà còn sống mãi trong lòng người đọc Việt. *** Tô Hoài (tên khai sinh: Nguyễn Sen; 27 tháng 9 năm 1920 – 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ.     Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn,… nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. *** HÀ NỘI - QUẢNG CHÂU, Air Việt Nam bay một tiếng ba mươi phút. Cất cánh bờ sông Hồng chân Tam Đảo, uống một lon bia thì trông thấy thành phố Quảng Châu bên sông Châu Giang với núi Bạch Vân mùa đông mù mịt. Trong các phương tiện đi lại ngày nay, con ngựa, con thuyền, tàu thủy, tàu hỏa, chiếc xe và đôi chân người thì cái tàu bay đã làm cho kẻ lữ hành nhãng mất cảm tưởng xa gần nơi đến nơi đi. Quảng Châu tôi chưa bao giờ được tới mà đã sẵn gần gũi rồi. Dẫu cho dọc đường dưới kia có nhọc nhằn ngày đi đêm nghỉ biết mấy thì phương trời này với tôi không phải từ hồng hoang. Khi mới biết mặt chữ, những trang vỡ lòng đã cho chúng tôi thuộc làu làu những Lĩnh Nam, những Ngũ Lĩnh, những Lĩnh Nam trích quái , những quân quan tuần thú phương nam trong sử sách mà bao nhiêu năm về sau còn cảm thấy trập trùng thiên sơn vạn thủy khi nghe bài hát Nhị Lang Sơn . Thành Phiên Ngung bây giờ là một thị trấn vệ tinh của Quảng Châu. Trên đại lộ giữa Quảng Châu hiện đại, năm 1983 mới phát hiện mộ Nam Việt Vương - mối tình bi thảm Mỵ Châu - Trọng Thủy xa gần nguồn gốc từ đây. Công viên đồi Hoàng Hoa, mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái (1904 - 1924), bia khắc năm ông hy sinh, tôi khi đó mới chập chững biết đi. Trước mặt, doi đất Sa Diện bờ Châu Giang, địa phận tô giới Pháp - Anh ngày trước, khách sạn Victoria vẫn như xưa. Phạm Hồng Thái ném bom định giết Mec-lanh toàn quyền Đông Dương rồi băng ra sông Châu - chỗ ấy ngã ba kênh đào, liệt sĩ đã bỏ mình giữa nơi sông nước mênh mang này. Đến đây, hôm nay mới thấy, nhưng chúng tôi đã nghe được kỳ tích anh hùng Phạm Hồng Thái từ tuổi thanh niên. Lịch sử thế nào, con người và thời gian thì vừa ngắn ngủi vừa lâu dài. Nơi Bác Hồ đã sáng lập và làm báo Việt Nam Thanh niên Cách mệnh Đồng chí Hội ở phố Văn Minh, một phố cũ như Hàng Đường, Hàng Giấy Hà Nội. Nhà ở và cửa hàng chen khít, một cổng ngách sâu vào nhà trong. Nghĩ về hang đá Pác Bó ở rừng Hà Quảng Cao Bằng hơn hai mươi năm sau. Thì đây đã là một hang Pác Bó giữa nơi phồn hoa, Người vì lý tưởng, sá gì ở chỗ nào, thế nào. ... Mời các bạn đón đọc Ký Ức Phiên Lãng của tác giả Tô Hoài.
Độc Thoại Hai Mươi - Mạc Thụy
“Giữa đời sống bộn bề và tấp nập, có khi nào bạn kịp nhận ra mình đang đi quá nhanh? Có khi nào bạn nghe được đời sống đang nghiêng nghiêng, thầm thì? Có khi nào bạn ngoái lại nhìn một điều gì trong nuối tiếc? Tôi nghĩ, đời sống có nhiều thứ diễm lệ và khí chất hơn việc chỉ khư khư sầu đau mỗi chuyện ái tình” Độc thoại hai mươi là cuốn sách ghi lại hành trình của những xê dịch. Xê dịch từ những miền đất chàng trai trẻ đó đã đi qua; xê dịch những cảm xúc trong tâm hồn giữa buồn, vui, hờ hững, nuối tiếc, cả những cảm xúc không gọi thành tên; xê dịch để cảm nhận và xê dịch để chiêm nghiệm. Đọc những con chữ của Mạc Thụy, người đọc như được buông mình giữa những hối hả của cuộc sống hàng ngày. Đôi khi người ta bắt gặp chính mình, nỗi niềm đó, cảm xúc đó, tâm trạng đó dưới những dòng ghi chép tản mạn của chàng trai trẻ. Những thứ vu vơ rất thật, những nỗi buồn chênh vênh của một thời tuổi trẻ, những hoài niệm về chuyện cũ đã qua, và cả những yêu thương ấm áp của mối tình đầu. Mạc Thụy đã rong ruổi ngồi sắp lại tất cả những điều đó trong 58 bài viết của cuốn sách này. *** Nhận định "Thằng Thụy sến, nhưng cái sến của nó mang cả một bầu trời của hoài niệm về những ngày xưa cũ. Văn thằng Thụy cũng như con người nó, đầy chất tự sự, đầy chất hoài niệm và đầy chất thơ. Thằng Thụy viết ngày hai mươi, nhưng đọc của nó, lại cứ thấy giống của một người ngoài năm mươi đang ngồi dẫm trà, nhớ về kỉ niệm xưa. Mà kỉ niệm, thì lúc nào chẳng đẹp, vì người ta không bao giờ tìm lại được cảm giác như kỉ niệm lần nào nữa trong đời. Vì vậy, đọc văn thằng Thụy cũng thấy cái vẻ đẹp phảng phất mùi kỉ niệm đó." (Nguyễn Ngọc Thạch) *** Trong dòng đời sống của mỗi con người, ai cũng có một thứ gắn liền với mảnh đất nơi họ từ đó bước ra đi, để nhớ nhung về, để thương yêu và thổn thức về. Với mảnh đất ấy, trong tôi là một con sông. Có những đêm Sài Gòn sương xuống trở lạnh, việc của đời, tôi tạm gác lại, và ngồi thở khó nhọc vì sự ngột ngạt của căn gác trọ. Những lúc ấy, tôi thường mở toang cửa sổ, mong tìm kiếm một cơn gió đi lạc vào chốn nhà len chặt nhà, mong tìm thấy một ánh trăng bàng bạc lọt qua khung trời dần kín mít những tầng là tầng cao. Những lúc vận may mỉm cười, tôi vẫn tìm được sự cứu rỗi trong phút chốc. Có đôi khi, tiếng rao lạc lõng giữa đêm hun hút, lại cồn cào trong tôi nỗi nhớ: về con sông quê hương. Về những đêm bên này bờ nhìn bên kia bờ dưới ánh đèn vàng vọt. Về những người xa và vài mảnh tình con con êm ái. Dân vùng gọi nó là Cà Ty. Tôi gọi nó là sông Mong. Mong chờ. Một điều lí thú là, có khá ít những con sông chảy băng ngang qua giữa trung tâm thành phố. Nhưng, hễ có con sông nào ngạo nghễ cắt thành phố ra đôi bờ bên này bên kia thì hẳn thể nào cũng nên thơ, nên văn. Có thể kể ra trên đầu ngón tay sơ sơ vài cái tên nổi tiếng, được vào thi ca. Bên Tây có dòng La Seine, đằm thắm dạo chơi qua Paris, êm ái và kiêu kì như một nàng tiểu thư đài các. Giữa những đêm huyền diệu bên dòng La Seine, nhạc sĩ tài danh Matthieu Chedid đã cảm tác nên bài La Seine làm rúng động con tim bao thế hệ. Bản này, nàng “chanteuse” Bạch Yến của Việt Nam cũng từng ca qua và nhận được nhiều sự yêu mến từ cả dân Paris lẫn dân Việt. Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ của Việt Nam khi sang đây du học hoặc định cư đều không thoát khỏi vẻ đẹp mê đắm của dòng sông Seine, để rồi viết nên những lời thơ, ý nhạc trở thành bất hủ, như Cung Trầm Tưởng, Nguyên Sa, Anh Bằng, Lam Phương… Rồi nhiều nữa những dòng Thames của Anh Quốc sương mù vương vấn, hay dòng Danube với nhạc phẩm huyền thoại Le Beau Danube Bleu (tên tiếng Việt là Dòng sông Xanh gắn liền với tiếng hát của đại danh ca Thái Thanh). Ở ta thì không thể không nhắc đến dòng Hương Giang. Nàng Hương Giang sầu mộng đi vào không biết bao nhiêu lời văn, ý thơ, tứ nhạc của các tài danh xứ Việt. Biết bao cuộc tình thơ mộng và biến động thời cuộc bên dòng xanh thẳm này. Ấy vậy mà người ta vẫn nghêu ngao hoài: “Hát nữa đi Hương, hát điệu nhạc buồn, điệu nhạc quê hương…” (Hương ca vô tận - Trầm Tử Thiêng), rồi thì: “Dòng sông Hương vẫn mơ, thời gian trôi chưa xóa màu xanh mơ hồ…” (Trở về Huế - Văn Phụng), để rồi tự vấn hoài câu hỏi mãi chẳng có lời đáp: Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Dòng Cà Ty của Phan Thiết - dòng Mong Chờ của tôi - thì chẳng chảy dài trong từng áng thi văn như thế. Dòng Mong Chờ chỉ tuôn mãi trong hoài niệm và kí ức của những con người dung dị nơi phố biển này mà thôi, trong đó có cả tôi, qua những câu chuyện má kể, qua những sớm tối rong ruổi dưới ánh đèn màu… Dòng sông chảy dài qua Phan Thiết êm êm một màu phù sa từ thượng nguồn. Mạn đầu lúc mới vào thành phố, hai bên bờ len kín những nhà là nhà của bà con làng chài. Từng manh lưới, cái thúng đến nong khô cá được dân chài phơi phóng giữa ngày ngư nhàn tạo nên một bức tranh miền biển rộn rã, yên bình và mặn mòi. Nhà cửa hai bên bờ thường xây theo kiểu dã chiến, nửa nhà sàn vươn ra phía sông, hoặc ai khấm khá thì đôn nền thật cao để tránh khi nước lớn. Ở mạn cuối trước khi dòng sông đổ ra cửa biển, và cũng là trung tâm thành phố, hai bên bờ dần được cải tạo thành hành lang ven sông, khá tươm tất và đẹp mắt. Ðoạn gần cảng biển, tàu bè đậu nhiều lắm. Những con tàu đánh cá bằng gỗ ván, dày dạn sóng gió. ... Mời các bạn đón đọc Độc Thoại Hai Mươi của tác giả Mạc Thụy.
Ký Ức Lạc Loài
Ký ức lạc loài (nguyên tác tiếng Đức: Die Ausgewanderten) là tuyển tập bút ký của W.G. Sebald ấn hành năm 1992; từng được trao các giải thưởng văn chương danh giá: Berlin Literature Prize, the Literatur Nord Prize và Huy chương Johannes Bobrowski. Bản tiếng Việt do Đăng Thư dịch lại từ phiên bản tiếng Anh có nhan đề The Emigrants của Michael Hulse, in 1997. Cuốn sách là bốn câu chuyện đầy u uẩn của bốn nhân vật: Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach - những người Đức di cư đến Anh, Mỹ sau Thế chiến Thứ hai. Các nhân vật của Sebald đa phần thuộc thành phần trí thức: bác sĩ, giáo viên,… trở thành những người di dân và bị lưu đày trong vùng ký ức ngột ngạt. Trong buổi hoàng hôn của cuộc đời, họ không thể tìm thấy bình yên. Họ tự sát, tự đi vào nhà thương điên hay tìm cách trở về rồi biến mất… Lối viết tỉ mỉ, cùng hình ảnh tư liệu minh họa, các câu chuyện đan bện vào nhau như những thước phim tài liệu có màu sắc ảm đạm, chậm rãi và ẩn giấu nhiều sự thật tàn khốc, chạm vào tầng sâu kín nhất của tâm thức di dân. Đọc W. G. Sebald cũng có thể nhận ra tâm trí con người là thứ bị hủy hoại nặng nề và khó tái thiết nhất sau những dư chấn lịch sử. *** Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức, chiến tranh âm thầm len lỏi, những thất vọng và đổ vỡ được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ Có những nhà văn sinh ra để lưu giữ ký ức của một dân tộc, để không gì bị lãng quên. Đối với những người Đức nhập cư, W.G. Sebald là người trao truyền ký ức của họ. "Ký ức lạc loài" (Đăng Thư dịch, Phanbook và NXB Đà Nẵng ấn hành 2019) là tác phẩm ký thác những mảnh vụn đời sống của một thế hệ người nhập cư sau Đệ nhị Thế chiến. Thật khó để định dạng rõ ràng thể loại của tác phẩm này. Là một tiểu thuyết, nó đầy ắp tư liệu hình ảnh, những ngày tháng. Là một hồi ký, nó bàng bạc tính hư cấu và những liên tưởng văn chương. W.G. Sebald đưa người đọc vào thế giới của những thước phim tài liệu, như một biên niên ký ghi nhận 4 cuộc đời song hành cùng nhau, đau thương cùng nhau và hủy diệt cùng nhau. Lần lượt trải qua 4 nhân vật: bác sĩ Henry Selwyn, Paul Bereyter, Ambros Adelwarth và Max Aurach, nhà văn tái hiện bức chân dung của những con người tha hương lưu lạc nơi đất khách, từng người mang theo trong mình gánh nặng quá khứ. Đối với họ, đời sống ở nơi chốn mới không khác chi sự lưu đày, khi mà những thương tổn xa xưa vĩnh viễn in hằn trong trí nhớ. Ký ức đối với họ "là một thứ ngu ngốc. Nó làm đầu óc ta choáng váng, chẳng khác gì ta không nhìn ngược về phối cảnh đang lùi xa dần của thời gian mà là nhìn xuống mặt đất từ một độ cao chót vót, từ trên một tòa tháp nào đó mà đỉnh đã chìm khuất trong mây". Trên cái "độ cao chót vót" ấy, W.G. Sebald nhìn xuống quá khứ như nhìn xuống một vực thẳm, từ vực thẳm, những tiếng nói tưởng chừng bị chôn vùi bỗng vang vọng, sống động và chân xác như thể ở cái chốn thâm u của lịch sử ấy, những số phận lạc loài vẫn ngày ngày cất lên lời ai oán về những nỗi đau chiến tranh. Có thể xếp W.G. Sebald vào những nhà văn Đức hậu chiến, mặc cho ông bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn, dù rằng ông rời bỏ nước Đức khi tuổi đời còn rất trẻ và quyết định sống nốt phần đời còn lại ở nước ngoài. Dường như ông muốn giữ khoảng cách với quê hương, một khoảng cách vừa đủ để ông nhìn lại nó dưới thấu kính của mình. "Ký ức lạc loài" từ đầu đến cuối giữ một điểm nhìn trung lập, người kể chuyện giữ mối quan hệ nhất định với các nhân vật nhưng đồng thời lại có vẻ biết rất ít về những con người đã dần phai nhạt trên cuộc đời, thứ nhắc nhớ chỉ còn là những di vật từng thuộc về một ai đó đã tồn tại cứ khiến ta băn khoăn đến sự hiện hữu của họ. Trong tác phẩm của W.G. Sebald, chiến tranh hiện lên chớp nhoáng. Khác với những nhà văn khác, ông không miêu tả một xã hội Đức rệu rã, hỗn loạn, đánh mất niềm tin không chỉ vì nỗi nhục thua trận trong chiến tranh mà còn bởi những giá trị về con người và nhân phẩm bị rạn vỡ. Ông sinh vào giai đoạn Thế chiến thứ hai đã đến hồi tàn, ông không trực tiếp trải qua cuộc chiến, không đứng hẳn về phía những kẻ chiến bại, không phát điên về nó. Ông trưởng thành trong một thời đại không thấy anh hùng, cho nên không khắc họa sự thiếu vắng lý tưởng ở các nhân vật của thời đại. Ông đối thoại với quá khứ bằng số liệu, ông lạnh lùng nhìn lại thế hệ cha ông với đôi mắt tinh tường và một tinh thần phán xét. W.G. Sebald có người cha đi lính cho Đức quốc xã, trở thành tù binh chiến tranh, chỉ được thả vào năm 1947. Sinh năm 1944, ký ức chiến tranh hiện diện sâu sắc nhất trong đời ông chính là khi ở trường, ông được cho xem những bức ảnh về trại tập trung Holocaust. Từ đó Holocaust và nước Đức thời hậu chiến trở thành chủ đề lớn trong các tác phẩm của ông. W.G. Sebald làm công việc của một sử quan nhưng không mấy chú trọng vào toàn cảnh của lịch sử mà tập trung vào những nhân vật phụ, những tiểu cảnh lẩn khuất phía xa trong tổng thể của một bức tranh lớn. Với cái nhìn nhẹ bẫng, ông bày biện ra trước mắt người đọc những vật chứng, bức ảnh một người đàn ông bắt bướm, một nghĩa trang hoang lạnh, một tờ báo cũ, một sơ đồ... Gabriel García Márquez từng nói: "Trong báo chí, một dữ liệu sai phủ nhận toàn bộ công trình. Ngược lại, trong tiểu thuyết, một chi tiết thật cũng tạo được sự tin cậy cho toàn tác phẩm". Sự tin cậy mà W.G. Sebald tạo được không chỉ đến từ những "vật chứng" được ông bày ra khắp cuốn sách mà còn từ chỗ các nhân vật của ông từ một tiểu sử cá nhân đã phổ quát thành mẫu số chung của những thân phận lưu dân, được tác giả khéo léo đan cài trong những trang sách. Giữa những trang sách như một mê cung của ký ức ấy, chiến tranh âm thầm len lỏi như một bóng ma truy đuổi con người, những thất vọng và đổ vỡ, sự thiếu quê hương được chất chứa trong một hình thức bình thản đến kỳ lạ.  *** W. G. SEBALD (1944-2001): Là một trong những nhà văn, học giả người Đức quan trọng sau Thế chiến thứ hai. Các tác phẩm của ông xoay quanh chủ đề người Đức với ký ức, sự lãng quên và những thương tổn tinh thần trong thời hậu chiến. Ngoài ra, ông còn viết về sự hủy diệt, mất mát của các nền văn minh, của truyền thống và các biểu trưng lịch sử văn hóa thông qua những vật thể. Văn chương của ông được giới phê bình, học thuật đánh giá cao. Ông được nhiều nhà phê bình văn học xem là một trong những nhà văn lớn nhất ở thời đại. Tủ sách Danh tác của Phanbook sẽ lần lượt giới thiệu đến độc giả Việt Nam các tác phẩm lớn của W. G. Sebald: Ký ức lạc loài, Vành Thổ tinh, Vertigo và Austerlitz. Dù sống chủ yếu ở Anh, W.G. Sebald vẫn là nhà văn viết tiếng Đức, một thứ tiếng Đức mà các nhà phê bình nhận xét là cổ điển và cầu kỳ, nên nhà văn đã rất kỹ lưỡng theo dõi quá trình dịch tác phẩm của ông sang tiếng Anh. "Ký ức lạc loài" nằm trong bộ tứ: "Vertigo" (1990), "Ký ức lạc loài" (1992), "The Rings of Saturn" (1995) và "Austerlitz"(2001). Ông được nhiều nhà phê bình văn học ca ngợi là một trong những tác giả vĩ đại nhất lúc sinh thời, tuy nhiên, một tai nạn giao thông đã cướp đi sinh mạng nhà văn năm 2001. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2007, Horace Engdahl, cựu thư ký của Viện Hàn lâm Thụy Điển, đã nhắc đến W.G. Sebald, Ryszard Kapuściński và Jacques Derrida là 3 nhà văn vừa qua đời gần đây, những người đáng được nhận giải Nobel Văn chương.   Mời các bạn đón đọc Ký Ức Lạc Loài của tác giả W. G. Sebald.
Xứ Con Người - Antoine de Saint-Exupéry
Bản dịch khác của Xứ Con Người là Cõi Người Ta, dịch giả: Bùi Giáng. Xứ con người là tác phẩm thứ ba, được xuất bản của nhà văn người Pháp Antoine de Saint-Exupéry, sau Thư phương Nam và Bay đêm. Cuốn sách mang đậm tính tự truyện này trước hết là bản hùng ca dành tặng các phi công của hãng Không Bưu, đặc biệt là hai đồng nghiệp của tác giả, Jean Mermoz và Henri Guillaumet. Văn phong phóng khoáng và lãng mạn, Xứ con người không chỉ thuật lại những chuyến phiêu lưu trên máy bay của chính Saint-Exupéry và các đồng đội qua mọi miền thế giới, mà là nơi ông chiêm nghiệm những vấn đề khác như tình bạn, triết học, định mệnh, tiến bộ công nghệ, những mâu thuẫn của loài người.   Xứ con người đã đạt Giải Thưởng Lớn dành cho tiểu thuyết của Viện Hàn lâm Pháp, dù đây không phải là một cuốn tiểu thuyết. Tại Mỹ, dưới nhan đề Wind, Sand and Stars (Gió, cát và những vì sao), Xứ con người đã được Hiệp hội các nhà Sách nước này chào đón liệt nhiệt.    *** Nhận định   “Yêu thương tuyệt không phải là người này nhìn người kia, mà là cùng nhau nhìn về một hướng.” - Saint-Exupéry *** Ấy là năm 1926. Tôi vừa vào nhận việc, là người lái trẻ đường dài ở hãng Latécoère, hãng này bấy giờ đảm nhiệm chặng Toulouse-Dakar, trước hãng Aéropostale và hãng Air France. Tôi học nghề là ở đây. Như các bạn bè, tôi đến lượt trải qua thời kỳ tập sự mà những người trẻ phải trải qua trước khi được vinh dự lái chiếc bưu cơ. Bay tập thử các loại máy bay. Đi, về Toulouse và Perpignan. Những buổi học buồn tẻ về khí tượng tận cuối một nhà vòm giá lạnh. Chúng tôi sống trong mối e ngại về những ngọn núi ở Tây Ban Nha mà chúng tôi chưa được thấy, và với sự nể phục các bậc đàn anh. Các bậc đàn anh ấy, chúng tôi thấy họ trở về, thấy họ vào quán ăn, cau có, hơi cách biệt, rất kẻ cả ném cho chúng tôi những lời khuyên bảo. Và khi một người nào đó trong bọn họ, từ Alicante hay Casablanca mà về muộn, áo da sũng nước mưa, có trả lời ai trong bọn chúng tôi khi chúng tôi rụt rè hỏi về chuyến đi thì những câu trả lời ngắn ngủn của anh ta, vào những ngày bão tố, cũng dựng lên trong chúng tôi một thế giới y hệt trong thần thoại, đầy bẫy sập, đầy lưới bủa, đầy những ghềnh đá đột nhiên nhô ra, những xoáy nước có thể bứt vứt được những cây bách hương. Những con rồng đen canh gác lối ra vào các thung lũng, hàng bó chớp vây lấy các đỉnh núi như là vương miện. Các bậc đàn anh ấy biết nuôi giữ lòng kính trọng của chúng tôi. Nhưng lâu lâu lại có một người, trong bọn họ, trở thành thiên thu đáng kính trọng, không trở về. Như vậy đấy, tôi nhớ một chuyến trở về của Bury, sau này chết trong dãy Corbières. Người lái già ấy vừa ngồi xuống giữa bọn tôi, ăn uống mệt nhọc, chẳng nói năng gì, hai vai còn sễ vì đã dụng sức. Ấy là vào cuối một trong những ngày xấu mà từ đầu chí cuối đường bay, vòm trời úa vỡ, tất cả các đỉnh núi, trước mắt người lái, như vầy trong bùn ghét, giống các khẩu đại bạc cắn đứt được các dây chằng, cày nát sàn những chiếc thuyền buồm ngày trước. Tôi nhìn Bury và nuốt nước bọt trước khi đánh liều hỏi anh chuyến bay hôm nay có vất vả không. Không nghe thấy tôi hỏi, trán đầy nếp răn, Bury cúi gằm xuống đĩa. Trên những chiếc máy bay không mui, vào lúc trời xấu, phải nghiêng người ra ngoài kính chắn để thấy cho được rõ, những cái tát của gió còn rít mãi trong tai người lái. Một lúc lâu, anh mới ngẩng đầu, có vẽ đã nghe thấy, có vẻ nhớ lại và đột nhiên bật lên một tiếng cười khanh khách. Cái cười ấy khiến tôi kinh ngạc thán phục, vì Bury ít cười, và cái cười ngắn này làm cho nỗi mệt nhọc của anh như bừng sáng lên. Anh không giảng giải chút gì nữa về thắng lợi của mình, nghiêng đầu và tiếp tục yên lặng nhai. Nhưng trong không khí quán ăn mờ xám, giữa bọn công chức nhỏ không lấy gì làm mỏi mệt lắm đang ăn để lấy lại sức, người đồng nghiệp hai vai nặng trĩu kia bỗng nhiên đối với tôi có một vẻ cao quý khác thường: anh đã cho tôi thấy, qua cái vỏ ngoài cục mịch, vị thiên thần thắng được rồng tinh. ... Mời các bạn đón đọc Xứ Con Người của tác giả Antoine de Saint-Exupéry.