Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyện Ngắn 100 Chữ (Nhiều Tác Giả)

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Truyện Ngắn 100 Chữ PDF của tác giả Nhiều Tác Giả nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Hoa Vàng Cố Hương - Lưu Chấn Vân
Hoa Vàng Cố Hương là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc Lưu Chấn Vân. Thời kỳ đầu chế ngộ Dân quốc, trưởng thôn Điện Nguyên bị giết trong lò gạch. Vụ án mạng đã gây nên mối thù truyền kiếp giữa hai gia đình. Vật đổi sao dời, thời thế thay đổi, nhưng cho dù ai làm trưởng thôn cũng đều tham quyền, hiếu sắc. Người dân liên tục phải chịu cảnh can qua, đầu rơi máu chảy... Một ngôi làng bé nhưng lại lột tả cả diện mạo xã hội Trung Quốc vô cùng phức tạp trong suốt nửa thế kỷ. Ngôn từ trong tiểu thuyết tinh tế, hài hước. Nhân vật trong tiểu thuyết mang nhiều màu sắc khác nhau, thể hiện rất rõ phong cách của tác giả. *** Đêm mùng 4 tháng chạp, trưởng thôn Tôn Điện Nguyên bị siết cổ chết ở lò gạch mé tây thôn Mã. Hung thủ thật ngông cuồng! Sau khi gây án, hắn ta còn thản nhiên nán lại trong lò đánh một bữa khoai lang nướng. Bằng chứng là một đống vỏ khoai vẫn còn vương vãi cạnh thi thể ông trưởng thôn. Phó trưởng thôn Lộ Hắc Tiểu quả quyết: - Đã thắt cổ người ta lại còn ăn khoai lang. Rõ là bọn thổ phỉ! - Hay cậu chủ nghĩ quẩn, treo cổ tự vẫn? - Phùng Vĩ Ba, một trai làng trong thôn, chêm vào. - Trong lò gạch làm gì có chỗ mà treo cổ? Mày thử treo cổ tao xem nào! Bây giờ thổ phỉ nhiều thì nhiều thật, nhưng cũng không dám khinh suất đến thế đâu! - Hắc Tiểu trợn mắt nhìn Vĩ Ba. Bố của trưởng thôn là Tôn Lão Nguyên lọ mọ chống ba-toong đến chiếc lò gạch. Hắc Tiểu chỉ vào đống vỏ khoai nói: - Chú, chú xem. Chỗ này có cả vỏ khoai! Vừa nhìn thấy xác con trai, Lão Nguyên đã nước mắt vòng quanh. Ông nện chiếc ba-toong thình thịch xuống đất, than: - Mấy đời nhà tôi nào đã làm điều gì trái với lương tâm đâu! Trưởng thôn có hai vợ. Vợ cả 35 tuổi, vợ hai 18 tuổi. Vợ cả vừa thấy xác chồng liền lao đến khóc lóc ầm ĩ. Vợ hai thấy xác chồng, liền quay gót chạy một mạch về nhà thu xếp tay nải tư trang. Ngày thường, vợ cả vụng chân vụng tay hay làm vỡ bát mẻ đĩa, còn vợ hai thì xởi lởi. Thật đúng là phải đến lúc nguy nan mới hiểu được lòng người. Lão Nguyên lại nện ba-toong nói: - Chỉ có vợ cả là tử tế! Chỉ có vợ cả là tử tế! Trưởng thôn Điện Nguyên hưởng thọ 32 tuổi. Thi thể của trưởng thôn sau khi khiêng về làng được đặt trong chiếc sân mé Tây nhà ông ta. Đây là nơi trưởng thôn làm việc lúc còn sống. Trước cửa treo tấm biển “Văn phòng thôn Mã”. Thôn Mã chưa bao giờ có một văn phòng làm việc cho hẳn hoi, nên trưởng thôn đành treo biển làm việc tại nhà riêng. Trong làng hễ xảy ra tranh chấp, nguyên cáo, bị cáo đều kéo nhau đến đây đôi co. Bên nguyên và bên bị đều phải nộp hai cân rưỡi bột mỳ để Vĩ Ba nướng bánh. Trưởng thôn, phó trưởng thôn, người đứng đầu các dòng họ trong thôn ăn bánh nướng xong mới phân xử đúng sai. Chiếc chảo lớn dùng để nướng bánh vẫn đặt trong sân. Mọi việc to nhỏ trong thôn, từ thu thuế đất, cắt cử phu phen phục dịch đến chuyện trên huyện tuyển suất đinh, đón tiếp quan trên… tất tật đều diễn ra tại căn phòng này. Bây giờ, nó lại trở thành nơi truy điệu ông trưởng thôn xấu số. Người ta lấy giấy âm phủ bọc cánh cửa ra vào. Trong sân, hai thợ mộc đang lạch cạch đóng quan tài. Có quan tài rồi, người ta đưa thi thể ông trưởng thôn nhập quan. Cậu con trai duy nhất của ông trưởng thôn là Tôn Thỉ Căn (8 tuổi) đầu chít khăn trắng, mặc áo tang, quỳ trước quan tài. Con cháu trong dòng họ quỳ hai bên. Bạn bè hàng xóm bắt đầu vào viếng. Phó trưởng thôn Hắc Tiểu cũng đầu vấn khăn trắng trực sẵn ở cửa. Mỗi khi có người đến viếng, Hắc Tiểu liền hô: - Có khách đến viếng! - Nổi nhạc! - Đốt giấy! - Trao khăn tang! Tiếng hô vừa dứt, đội bát âm ngoài sân liền tấu nhạc. Con cháu hai bên quan tài nằm rạp xuống kêu khóc. Người đến viếng sụp lạy trước quan tài. Ngay lập tức, Vĩ Ba chạy đến trước quan tài đốt một tờ giấy âm phủ. Khách viếng xong, thằng bé Thỉ Căn lại lồm cồm bò dậy đi ra cửa. Đến cửa, nó quỳ xuống, hai tay đỡ một chiếc khăn tang dâng cao quá đầu, rồi trao cho khách. Trưởng thôn qua đời, người trong thôn thảy đều đến viếng. Người ta liên tục đốt giấy âm phủ. Trong sân mù mịt khói, chẳng khác cháy nhà. Địa chủ Tôn Lão Nguyên cũng đến tiễn con trai lần cuối. Ông lập cập nện chiếc ba-toong lê bước vào sân: - Người đi trước là bề trên. Điện Nguyên ơi, cha dập đầu lạy con đây! Nói xong, Lão Nguyên quỳ xuống, dập đầu trước linh cữu con. Hắc Tiểu thấy vậy cũng vội chổng mông dập đầu lạy một lạy. Lý Lão Hỷ, một địa chủ khác trong thôn cũng đến viếng. Vừa thấy ông ta, đám người thấp cổ bé họng đến viếng từ trước cùng cánh đàn bà con nít rối rít lùi lại phía sau nhường đường. Lão Hỷ đội mũ vải, mặc khoác đen, tay cầm một chiếc khăn tay. Đầy tớ trong nhà khiêng một chiếc hộp thức ăn đen theo sau. Mở chiếc hộp ra, bên trong có 8 món cúng và một giỏ bánh bao hấp không nhân. Đầy tớ nhà trưởng thôn đỡ lấy chiếc hộp rồi bày thức ăn và bánh bao trước linh cữu. Lại đốt giấy. Thằng bé con trai trưởng thôn lại phủ phục kêu khóc. Bát âm lại tấu nhạc. Lão Hỷ bắt đầu thi lễ trước quan tài. Ông bỏ mũ, lùi chân phải ra sau, quỳ xuống, rồi quỳ tiếp chân trái, kính cẩn dập đầu bốn lạy. Sau đó, đứng lên, lấy khăn chấm nước mắt, rồi bước ra khỏi nhà. Ra khỏi nhà, ông đón tấm khăn tang khổ rộng do Thỉ Căn dâng lên, rồi quay sang chắp tay vái Lão Nguyên: - Lão Nguyên, chẳng ngờ cậu chủ nhà ta... Lo chuyện cho cậu chủ xong, mời ông sang nhà tôi cho khuây khỏa! Lão Nguyên chắp tay vái tạ. Vừa thốt lên hai chữ “Lão Hỷ...”, ông đã nghẹn ngào không nói nên lời. Lão Nguyên năm nay 55 tuổi, kém Lão Hỷ 2 tuổi. Hai người vái chào nhau xong, Lão Hỷ được người cháu của Lão Nguyên là Tôn Mao Đán tiễn ra tận cửa. Chủ khách lại vái nhau một vái. Sau đó, Lão Hỷ mới cưỡi lừa ra về. Lễ viếng trưởng thôn kéo dài hai ngày. Người dân trong ngoài thôn hầu như đều đã đến viếng đông đủ cả. Nhưng nhà mẹ đẻ của hai bà vợ ông trưởng thôn thì tịnh không thấy mặt mũi đâu. Nhà mẹ đẻ bà vợ cả không đến còn có thể tha thứ được, vì ông trưởng thôn khi còn sống đã từng xích mích với nhà vợ. Một lần sang nhà vợ chúc Tết, chỉ vì mỗi chén rượu, mà ông trưởng thôn dám giang tay đánh bố vợ. Hai nhà cắt đứt quan hệ từ đó. Nhà vợ hai vốn là một hộ tá điền. Ông trưởng thôn khi còn sống rất quan tâm sốt sắng đến gia đình nhà vợ, từng cho người đánh hẳn xe to đến chở muối giúp nhà vợ, sau lại còn giúp bố vợ mở một quán ăn. Vậy mà đến khi trưởng thôn mất, không thấy người nhà vợ hai bén mảng đến. Mao Đán nói với Lão Nguyên: - Ông bố vợ hai của anh Nguyên thật không biết điều. Chỉ cần chú nói một câu, cháu sẽ dẫn hai thằng trai làng sang dạy cho lão ta một bài học! Lão Nguyên nói: - Mao Đán, xác của Điện Nguyên còn nằm đây chưa mang đi chôn. Hung thủ thì chưa có manh mối gì. Bây giờ có dạy cho nhà nó một bài học thì cũng ích gì! Ngày mùng 8 tháng chạp, phòng Tư pháp của huyện cử một tổ 3 người xuống điều tra vụ trưởng thôn bị giết hại. Viên tổ trưởng họ Mã, còn hai người kia là nhân viên. Mã vốn làm thợ pha nan tre cho một công ty tre trúc trên huyện. Năm ngoái, anh rể Mã được điều về làm trưởng phòng tư pháp. Mã bèn về phòng tư pháp làm chân tổ trưởng. Dưới quyền Mã có một nhân viên đã luống tuổi, hơn 50, còn một người trẻ hơn, mới hơn 20. Tổ điều tra ăn cháo cúng ngày 8 tháng chạp, bắn vài điếu thuốc ở nhà trưởng thôn xong, mới theo Mao Đán ra quan tài nhìn ngó xác trưởng thôn, sau đó đi ra mé tây thôn ngó nghiêng chiếc lò gạch một hồi, rồi lại quay về nhà trưởng thôn uống rượu. Mã nói với Lão Nguyên: - Chú ạ, bọn cháu đã kiểm tra rồi. Ông trưởng thôn đúng là đã bị hung thủ thắt cổ bằng dây thừng! ... Mời các bạn đón đọc Hoa Vàng Cố Hương của tác giả Lưu Chấn Vân.
Hoa Tulip Đen - Alexandre Dumas
Câu chuyện tình yêu lồng trong bối cảnh chính trị và sở thích trồng hoa, trong đó nhân vật chính là một chàng trai với nhiều ưu điểm bị số phận đưa đẩy phải trải qua ngục tù và nhiều thử thách. Chỉ vì giữ một văn bản chính trị mà chính mình không hề biết nội dung, bị gã hàng xóm cũng là dân chơi trồng hoa như chàng lén lút tố cáo, mà chàng bị bắt giam vào ngục. Con gái người quản tù đã cảm mến chàng trai và giúp chàng tìm lại tự do. Hoa tu-lip đen là loài hoa mà tất cả những nghệ nhân trồng hoa đều ao ước có thể ươm thành công một lần. Câu chuyện về tình yêu giữa chàng trai trồng hoa bị bỏ tù và con gái người cai ngục cũng đẹp như chính loài hoa huyền thoại ấy. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Ngày 20 tháng tám 1672, ở La Haye, thủ đô của bảy Tỉnh Hợp nhất, các công dân tràn xuống các ngả đường lớn thành một dòng người đen kịt. Họ vai vác súng, tay cầm gậy vội vàng, hổn hển -bụng dạ không yên, chạy về phía nhà tù Buytenhof, nơi giam giữ Corneille de Witt, anh ruột của ông cựu thủ tướng vĩ đại Hà Lan. Từ khi bị nhà phẫu thuật Tyckelaer buộc tội giết người, ông bị bắt giam và đang sống leo lắt ở nhà tù nói trên. Nếu lịch sử của thời kỳ đó, nhất là vào cái năm chúng tôi bắt đầu kể câu chuyện dưới đây, không gắn liền mật thiết với hai tên gọi nói trên thì một vài dòng chúng tôi giải thích sau đây chỉ có thể coi như một món "hors-d’Âuvre" mà thôi. Nhưng chúng tôi xin báo trước bạn đọc rằng cái điều cảnh báo ấy cũng cần thiết để hiểu rõ câu chuyện chúng tôi kể chẳng khác gì để hiểu biết sự kiện lịch sử to lớn xảy ra trong đó chuyện của chúng tôi đã được lồng vào. Vào năm Corneille hoặc Cornélius de Witt 49 tuổi, nhân dân Hà Lan đã thấy chán nản nền cộng hòa theo kiểu Jean de Witt, ụi toàn quyền vĩ đại của Hà Lan. Họ rất thích chế độ xtatudera đã bị sắc lệnh của Jean de Witt buộc phải bãi bỏ vĩnh viễn trong bảy Tỉnh Hợp nhất ở Hà Lan rồi. Vì ít có trường hợp dân chúng thấy đằng sau một nguyên lý lại không có bóng dáng một con người nên họ thấy nét mặt trang nghiêm của anh em dòng họ De Witt là thấy bóng dáng của nền cộng hòa. Hai ông là cha sinh không khoan nhượng của một nền tự do có khuôn phép và một nền thịnh vượng không thừa thãi xa hoa. Cũng vậy, đằng sau chế độ stathoudérat, họ thấy có Guillaume d’ Or-ange trai trẻ với vầng trán nghiêng nghiêng, trang trọng và suy tư được những người đương thời gọi là ông Trầm Mặc, sau này ông cũng được hậu thế gọi y như thế. Hai anh em nhà de Witt kiêng nể Louis XIV vua nước Pháp vì cảm thấy uy tín của ông càng ngày càng lớn trên khắp châu Âu. ông vừa thắng trận trong chiến dịch kỳ diệu sông Ranh: sau ba tháng giao tranh ông đã chế ngự được sức mạnh của bảy Tỉnh Hợp nhất. Từ lâu Louis XIV là kẻ thù của nhân dân Hà Lan. Nay họ mong có một người khác đứng lên cứu đất nước họ thoát khỏi cảnh tan nát và tủi nhục. Người đó đã sẵn sàng xuất hiện và có đủ khả năng để chống lại Louis XIV. Đó là Guillaume d’Orange, con vua Guillaume II, cậu bé trầm mặc như trên đã nói, người ta thấy bóng dáng của cậu thấp thoáng đằng sau chế độ stathoudérat. Năm 1672, cậu hai mươi hai tuổi. Jean de Witt đã từng là thái phó của cậu và ông muốn dạy cậu sau này trở thành một công dân tốt. Đặt quyền lợi của tổ quốc lên trên quyền lợi của trò mình, ông đã ban bố sắc lệnh bãi bỏ vĩnh viễn chế độ stathoudérat, làm tắt hy vọng khôi phục chế độ này, nhưng dân Hà Lan mong muốn lập lại chế độ cũ. Ông thủ tướng vĩ đại chiều theo ý muốn của toàn dân; nhưng Corneille de Witt bướng bỉnh hơn. Ông không chịu ký vào bản chứng thư tái lập chế độ cũ. Sau cùng chiều ý do bà vợ khóc lóc van xin, ông đành ký, có điều ông ghi thêm vào dưới chữ ký của mình hai chữ: V.C. vi coactus, có nghĩa là: chịu ký vì áp lực. Nhưng những người theo phái orangistes không cần biết điều ấy. Chính hai anh em De Witt mới là vật cản chính của họ. Để đạt được mục đích của mình, họ dùng mưu vu khống và trong hoàn cảnh đó họ đã tìm được một tên khốn nạn sẵn sàng vào cuộc chơi với họ. Tên này, chúng tôi hình như đã có lần nói rồi, gọi là Tyckelaer, làm nghề phẫu thuật. ... Mời các bạn đón đọc Hoa Tulip Đen của tác giả Alexandre Dumas.
Hẹn Ước Nơi Thiên Đường - Hải Nham
Cuốn tiểu thuyết của nhà văn Hải Nham - cây bút được đánh giá là nhà văn thành phố ăn khách nhất Trung Quốc - vừa được xuất bản tại Việt Nam qua bản dịch của Sơn Lê. Nội dung tác phẩm xoay quanh câu chuyện của Lâm Tinh - một nữ phóng viên xinh đẹp, đang tìm kiếm tư liệu viết về tập đoàn nổi tiếng Trường Thiên và tiếp cận được với Tổng giám đốc Ngô Trường Thiên. Cô tình cờ quen và yêu Ngô Hiểu - cậu con trai duy nhất của ông Trường Thiên, người sẽ thừa kế toàn bộ tài sản to lớn của tập đoàn sau này, nhưng lại có thú vui chỉ muốn làm nghệ sĩ thổi saxophone. Cuộc tranh giành quyền lực kinh tế chốn thương trường khiến ông Trường Thiên buộc phải ép duyên con trai với con gái một quan chức nhà nước - người có khả năng cứu giúp tập đoàn Trường Thiên khỏi cơn sóng gió đe dọa bị thôn tính bởi các thế lực khác. Ngô Hiểu phản đối cha, cương quyết dọn ra ngoài chung sống với Lâm Tinh. Tình cảm cha con rạn nứt. Cuộc ngộ sát Hân - cô bạn thuê chung phòng với Lâm Tinh - ngay tại biệt thự của ông Trường Thiên kéo theo hàng loạt cuộc ám sát giết người diệt khẩu. Lâm Tinh vô tình nắm được bí mật của cha chồng… Cuốn sách từng được chuyển thể thành phim truyền hình nổi tiếng ở Trung Quốc. *** Giao thời của thiên niên kỷ có vô vàn câu chuyện ngàn năm ít gặp, nhưng lớn nhất cũng không bằng chuyện cửu đại hành tinh của vũ trụ xếp thành hình chữ thập... Điều dự đoán về ngày tận diệt vẫn là nỗi sợ hãi vĩnh viễn của loài người. Những người vô tư nhất cũng không khỏi suy nghĩ đến ngày ấy và tháng Bảy chết chóc. Lời tiên đoán về thảm họa tràn ngập trở thành nỗi ám ảnh thường nhật vào cuối thế kỷ của những người chỉ lo chuyện không đâu. Nhưng nếu không có cuộc phỏng vấn ông Ngô Trường Thiên, chưa chắc Lâm Tinh đã biết trong văn hóa Trung Hoa thiên văn học là ngành khoa học phát triển sớm nhất. “Tam viên nhị thập bát túc” cổ nhân phân định không khác gì khái niệm kinh độ vĩ độ trong thiên văn học ngày nay. Xưa nay trong con mắt người Trung Quốc, các thiên thể vẫn gắn liền với những chuyện thần thoại dân gian, mang màu sắc nhân sinh. Cứ theo cách nói của ông Ngô Trường Thiên, cái đạo làm người của Trung Quốc cũng có liên quan đến tận trăng sao trên trời, lớn là quốc gia, nhỏ là bộ tộc, nhỏ nữa là gia đình, tất thảy đều xoay quanh một trung tâm, một lãnh tụ, một con người cụ thể, giống như ngàn sao xoay quanh Bắc Đẩu. Lãnh tụ uy nghi bất động chỉ cần phát ra một hiệu lệnh, muôn dân đều hướng về phía tay ông ta chỉ, đất trời cũng phải xoay chuyển theo. Quy luật tự nhiên của vũ trụ ngàn năm không đổi. Lẽ nào chỉ trong tháng Bảy, mùa hè cuối cùng của hai ngàn năm có một ngôi sao chổi bay qua đụng vào, khiến cả nhân loại sống chết không biết ra sao? Nếu nói dải Ngân Hà sắp có những biến động bất thường chỉ là chuyện ngẫu nhiên đối với quy luật tự nhiên. Vậy trước mắt Lâm Tinh lúc này, ông Ngô Trường Thiên là trung tâm ổn định tất yếu của tập đoàn doanh nghiệp Trường Thiên có một trăm tám mươi ngàn con người và tám tỉ đồng tiền vốn. Từ trong cái văn phòng rộng lớn của ông, mọi cú điện thoại gọi đi, mọi mệnh lệnh phát ra, đều khiến hàng ngàn con người, hàng triệu đồng vốn phải chuyển động một cách có hiệu quả, giống như bấm một nút điều khiến bí mật, khiến Lâm Tinh phải kính nể. Văn phòng có những cửa kính sát xuống tận sàn nhà, tiếng chuông điện thoại nghe lúc rõ lúc không. Một ê-kíp thư ký mẫn cán đang trả lời những âm thanh ấy, tiếng nói lộn xộn chỉ vang vào trong văn phòng này mỗi khi có người đẩy cửa bước vào. Trong phòng trong bày một cái bàn làm việc rộng rãi và bộ sofa lớn bằng da, tủ sách cửa kính sáng loáng, một phòng vệ sinh bồn sứ trắng tinh. Lâm Tinh ngồi ở một góc sofa dài, không khỏi có cảm giác nhỏ bé, nhưng ông Ngô Trường Thiên đang được người khác săn đón, cứ ra ra vào vào nhà vệ sinh, vội vã chải tóc, thắt cà vạt trước khi đi, đồng thời trả lời những câu hỏi của Lâm Tinh. Đây là lần đầu tiên Lâm Tinh được ngồi trên cái sofa sang trọng và đắt tiền như vậy. Cô thỉnh thoảng phải chú ý đến tư thế. Cô và tạp chí của cô hình như không ngờ cô lại một mình dễ dàng thâm nhập vào văn phòng của ông Chủ tịch tập đoàn Trường Thiên để có cuộc phỏng vấn kể từ sau ngày tốt nghiệp đại học. Tất nhiên điều ấy bắt nguồn từ lòng tự tin, tự tin vì khuôn mặt tươi trẻ và ưa nhìn của cô. Đấy là mối quan hệ nhân quả vô cùng đơn giản. Hồi ở đại học, lúc đi thực tập phỏng vấn, cô đã vận dụng điều kiện này của mình và không một chỗ nào cô không chiến thắng. Hôm nay cô không mời mà đến, bắt đầu từ người bảo vệ ở cửa, cô đi qua ba cửa, sáu ngõ vào thẳng, cuối cùng bước vào ô cửa sang trọng này. Lúc các cô thư ký ở phòng ngoài hỏi han vài câu và đang định “mời” cô đi ra thì ông Thiên từ phòng trong ra và nói: “Tôi chỉ có năm phút.” “Thưa bác Chủ tịch, cháu cũng chỉ có một vấn đề.” Cô nói. Vậy là cô bước vào trái tim của một doanh nghiệp lớn kiểu Titanic, có được một vị trí ngắn ngủi trên cái sofa kiểu Mỹ. Cô định lần lượt làm việc với các công ty thuộc tập đoàn doanh nghiệp Trường Thiên, viết một loạt bài điều tra về quá trình ra đời và phát triển của tập đoàn này để soi sáng sự đổi thay của thời đại sau hai mươi năm Trung Quốc cải cách mở cửa. Cô đã báo cáo đề tài với tòa soạn, nhưng chưa được chấp nhận và ủng hộ. Trong con mắt của những phóng viên cũ có đủ tư cách, kế hoạch của cô đưa ra bỗng trở thành điển hình của chuyện vui. Về điểm này, qua biểu hiện của ông trưởng phòng cũng có thể trông thấy đôi chút. Chính vì biểu hiện ấy mới thúc đẩy cô hôm nay đơn thương độc mã gặp may ngay trong tòa cao ốc của chi nhánh tập đoàn Trường Thiên tại Bắc Kinh. Được gặp nhân vật truyền kì gây dựng cơ nghiệp bằng năm ngàn đồng, đối với Lâm Tinh là điều bất ngờ. Cho dù ông Ngô Trường Thiên chỉ dành cho cô năm phút, nhưng khi ông bước vào phòng trong lại không có nổi nửa phút rỗi rãi. Thư ký cứ liên tục vào mời ông nghe điện thoại, ký giấy tờ, giúp ông mặc áo quần, báo để ông biết xe đã sẵn sàng... Lâm Tinh ngồi lặng lẽ quan sát. Qua báo chí, cô biết ông năm nay mới năm mươi tuổi, nhưng vất vả khiến ông già hơn tuổi. Có lẽ một đứa con nít hai mươi tuổi đầu như cô rất dễ dàng nhìn người trung niên có phần già hơn. Cô ngồi ở sofa vẫn không vội nêu câu hỏi, cho đến khi ông Thiên trong lúc bận bịu đưa ánh mắt ra hiệu, cô mới nêu những đề mục tạm thời xác định. “Thưa bác Chủ tịch, cháu muốn biết một vị lãnh đạo doanh nghiệp, ví dụ như bác, mọi người sẽ phải miêu tả vị trí của bác trong doanh nghiệp như thế nào?” ... Mời các bạn đón đọc Hẹn Ước Nơi Thiên Đường của tác giả Hải Nham.
Hai Mươi Năm Sau - Alexandre Dumas
Hai Mươi Năm Sau là tập thứ hai trong thiên tiểu thuyết lịch sử gồm: “Ba Người Lính Ngự Lâm”, “Hai Mươi Năm Sau” và “Tử Tước De Bragelonne” (hay Mười Năm Sau Nữa). Hai Mươi Năm Sau diễn ra trong hoàn cảnh lịch sử nước Pháp những năm 1648 - 1649 khi mà các nhân vật của tập truyện thứ nhất đã thêm hai mươi tuổi đời. Lúc ấy, Giáo Chủ Tể Tướng De Richelieu và Vua Luis XIII đã chết, Vua Louis XIV nối ngôi mới có mười tuổi. Hoàng Hậu Anne D'Autriche làm nhiếp chính và đưa người tình của mình là Giáo Chủ Mazarin gốc Ý lên làm Tể Tướng. Tính tham lam, biển lận, xảo quyệt và những sự bóc lột tàn tệ của Mazarin cùng những hành vi chuyên quyền độc đoán của triều đình đã dấy lên lòng căm phẫn cao độ trong nhân dân và cả trong lớp Hoàng Thân, quý tộc bị chèn ép, khủng bố. Thời gian ấy giai cấp tư sản ở Châu Âu đã hình thành và phát triển, bắt đầu bộc lộ những mâu thuẫn gay gắt với giai cấp phong kiến thống trị triều đình của nó. Ở nước Anh, một nước công nghiệp phát triển sớm và mạnh, cuộc cách mạng dân chủ tư sản do Olivier Cromwell lãnh đạo rồi lôi kéo được Nghị Viện và quân đội chống lại Vua Charles I, lật đổ vương quyền và tuyên bố nền cộng hòa, gây ảnh hưởng vang dội đến tình hình các nước Châu Âu, đặc biệt là Pháp. Tại Pháp, những tầng lớp tư sản giành được sự đồng tình của Nghị Viện và một số nhà quý tộc lại được nhiều tầng lớp nhân dân, nhất là thị dân ủng hộ, đã lập ra phong trào La Fronde chống lại Mazarin và triều đình, gây lên những cuộc bạo loạn và dựng những luỹ chiến đấu nổi tiếng ở giữa Paris, buộc triều đình phải trốn khỏi kinh đô và đàm phán. Trong bối cảnh lịch sử rối ren và sôi động ấy, Alexandre Dumas đưa các chàng ngự lâm quân quen thuộc của chúng ta trở lại sân khấu chính trị - xã hội. D'Artagnan và Porthos phục vụ trong ngự lâm quân trực tiếp dưới quyền của Tể Tướng và Hoàng Hậu, còn Arthos và Aramis bí mật tham gia phong trào La Fronde. Những cuộc chạm trán bất ngờ và đọ kiếm nảy lửa giữa bốn người bạn tâm đắc thuộc hai phe đối lập tưởng như sẽ làm tan vỡ tình bằng hữu, trái lại lại đi đến củng cố tình bạn keo sơn sống chết có nhau. Vì bản chất của bốn con người ấy vẫn là trong sáng, nhân hậu, thủy chung, cùng yêu mến và căm ghét giống nhau, vì nghĩa lớn và tình riêng mà hành động, dù đường đi có khác nhau. Tính cách của nhân vật được khắc họa trên các bối cảnh lịch sử đang trở dạ, sôi sục những cuộc bạo động và khủng bố, những cuộc đấu tranh giai cấp giữa chủ nghĩa tư bản đang lên và chế độ phong kiến đang suy tàn. Hoạt động của các chàng ngự lâm quân trong bộ truyện này gắn bó hơn với những sự kiện lịch sử và có thể nói, tham gia trực tiếp vào đó. Cái chất sôi nổi, lãng mạn, hùng tráng của họ trước kia phát triển thành sâu sắc, chín chắn và thực tế hơn, còn mang tính hiện thực đậm đà. Dù ở phe bên này hay phe bên kia, họ đều nhìn thấy sự thối nát của triều đình, bản chất xấu xa ti tiện của Tể Tướng, tính độc đoán, tàn bạo và bạc bẽo của Hoàng Hậu, sự suy vong của các vương triều, sự lợi dụng của những kẻ cầm đầu tranh thủ nhân dân để phục vụ lợi ích của chính mình. Qua lời nói của các chàng ngự lâm quân, tác giả đã nhận xét: “Ở Pháp lúc này mọi thứ đều tồi tàn nhỏ mọn. Chúng ta có một ông Vua mười tuổi chưa hiểu mình muốn gì. Chúng ta có một Hoàng Hậu mà nỗi đam mê muộn mằn khiến trở thành mù quáng. Chúng ta có một Tể Tướng cai trị nước Pháp như cai quản một trang trại lớn, nghĩa là bận tâm xem ở đó vàng có mọc lên được không khi cày bừa nó bằng âm mưu và thói xảo quyệt Ý. Chúng ta có những Ông Hoàng gây sự chống đối có tính cách cá nhân và ích kỷ chẳng đi tới đâu ngoài việc moi từ tay Mazarin mấy thỏi vàng và vài mảnh quyền thế”. “Còn nhân dân thì sao?… Tội nghiêp cho những con người kia! Họ tiến ra chỗ chết để người ta trả lại đất Sedan cho ông De Bouillon, để người ta ban quyền tập chức đô đốc cho ông De Beaufort, và để ngài Chủ Giáo được phong làm Giáo Chủ!” “Dân chúng không kêu ca gì cho các vị Hoàng Thân, mà lại nổi dậy vì Broussel chính vì đây là một người thuộc tầng lớp bình dân, và bảo vệ Broussel, dân chúng cảm thấy một cách tự nhiên rằng họ bảo vệ chính mình”. Sức mạnh của quần chúng nhân dân khi đã vùng lên là cơn bão táp ghê gớm, thậm chí chỉ một gã trùm ăn mày mà “Chẳng ai hồ nghi rằng hai bàn tay của hắn vừa mới giúp kéo ra khỏi tòa kiến trúc xã hội hòn đá nền tảng của vương quyền”. Với thái độ thiện cảm, tác giả nhìn Olivier Cromwell như “một thủ lĩnh tài ba và vững vàng, kiên quyết chống lại một vương triều thối rữa và mọt ruỗng, nó sắp sụp đổ một sớm một chiều như một túp lều cũ nát”. Viết tiếp “Hai Mươi Năm Sau”, A. Dumas chứng tỏ ngòi bút khỏe khoắn, linh hoạt và sức tưởng tượng dồi dào, phong phú của mình. Vẫn những chàng ngự lâm kia nay đã sang tuổi trung niên, rất ít những chuyện đấu kiếm hoặc yêu đương, tập truyện vẫn hấp dẫn người đọc bằng sự kiện, những tình tiết luôn luôn bất ngờ, lý thú và hồi hộp, bằng hơi văn sinh động, tự nhiên, pha chút châm biếm mỉa mai. Tính cách mỗi nhân vật đều độc đáo, phát triển lôgích và đậm nét. D'Artagnan suốt hai chục năm ròng chỉ là một anh trung úy ngự lâm bị lãng quên, bạc đãi, vẫn là con người vừa trung hậu, tận tâm, vừa thực tế sắc sảo, bằng tài trí và mưu lược của mình nổi bật lên như một ngôi sao sáng mà bao kẻ quyền cao chức trọng khó bề sánh kịp. Arthos mà lòng nhân ái và cao thượng đã thành truyền thuyết suốt đời, không màng danh lợi, không quản hy sinh, đến mức cứu cả kẻ tử thù và suýt mất mạng vì nó. Tuy nhiên mối tình bất ngờ và ngắn ngủi với bà Công Tước cải trang trên đường đi trốn, mang tính người hơn và tình phụ tử với đứa con chung - Tử Tước De Bragelonne - đã giải thoát anh khỏi nỗi thất vọng nặng nề của mối tình đầu thuở hoa niên bị đầu độc. Aramis, con người khi là lính ngự lâm thì luôn luôn mơ ước được khoác áo Tu Viện Trưởng, nhưng khi đã trở thành Tu Viện Trưởng lại mang tính ngự lâm hơn bao giờ hết, vẫn thể hiện đúng bản chất nhất quán của mình và tự anh đã vạch trần những mặt trái nực cười của các tu viện và giáo chức. Vẫn đáng yêu với tính huênh hoang chất phác nhưng bộc tuệch và chân thành của mình, chàng hộ pháp Porthos là một nét tương phản đặc sắc bổ sung cho hình tượng các chàng ngự lâm quân. Mordount, đứa con trai sống sót của Milady, bước vào truyện với chí báo thù cho mẹ quyết liệt và dai dẳng như chính Milady hiện thân, là một bóng ma, một định mệnh luôn luôn đeo đẳng, ám ảnh, hãm hại các chàng ngự lâm quân và trở thành một đối tượng ghê gớm gây nên biết bao tai họa, biết bao tình huống gay go khốc liệt cho những địch thủ của mình, mang đầy kịch tính xuyên suốt cả cuốn truyện. Những sự biến cách mạng ở Pháp và Anh thời bấy giờ thường sơ lược và khô khan trên các trang sử ký đã sống dậy dưới ngòi bút tài tình của A. Dumas, với những quang cảnh, những con người, những tình tiết sinh động, linh hoạt, sôi nổi của những cuộc nổi dậy, những cuộc chinh chiến, những cuộc đấu tranh phức tạp, một mặt phơi bày tính chất phản động, xảo quyệt và ngoan cố của giai cấp thống tri, mặt khác làm nổi bật khí thế dũng mãnh, hào hùng, hình ảnh cao đep của quần chúng cách mạng, nó như những cơn bão táp đầu tiên trong lịch sử làm rung chuyển nền móng của các ngai vàng và của mọi chế độ bóc lột. Rất thú vị là giống như trong nhiều tác phẩm của Victo Hugo, những cơn bão táp ấy làm thức dậy và lôi cuốn theo cả vào làn sóng cách mạng những tầng lớp “cặn bã” của xã hội, “những thằng nhóc Paris” đáng yêu và những đội quân hành khất bí hiểm và kỳ lạ. Đọc “Hai Mươi Năm Sau” chúng ta càng yêu mến các chàng ngự lâm và bùi ngùi cho số phận của họ, số phận của những con người. Cuộc đời của họ rồi sẽ ra sao? Họ vẫn gắn bó với lịch sử, sẽ sống với lịch sử, và cuốn hút chúng ta trong tập truyện cuối cùng “Tử Tước De Bragelonne”. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Dumas nức tiếng là người thay nhân tình như thay áo. Quả thật, ông cưới vợ chỉ một lần, gia đình này tan vỡ rất nhanh. Ông dan díu với 25 người đàn bà, có nhiều con hoang, mỗi con của một mẹ. Chỉ 3 con được công khai, trong đó con trai, cũng tên Alexandre Dumas, thường được gọi Alexandre Dumas con, trở nên một nhà văn lừng danh. Con gái thứ hai thì cuộc đời lỡ làng, con gái út - mà mẹ cô trẻ hơn Dumas đến gần 40 tuổi - thì chết cô đơn năm 1936 ở một làng quê trong nghèo khổ và không được ai biết đến là con gái cưng của một trong những vĩ nhân của nước Pháp. Mãi gần đây, người ta mới vỡ lẽ rằng Dumas đến với nhiều phụ nữ là do thương họ. Ông đồng thời chu cấp tiền nong đầy đủ cho vài người. Alexandre Dumas Dumas là người hết sức quý trọng tình bạn. Trừ Balzac và Musset, các nhà văn cùng thời đều chơi với ông, thân nhất là Victor Hugo, người đã đánh giá chính xác vai trò của ông ngay khi ông qua đời. Hugo viết: “Trong thế kỷ này, không ai được dân chúng yêu mến sâu rộng và thắm thiết bằng Alexandre Dumas. Các thành công của ông đều tầm cỡ hơn thành công nói chung nhiều. Đó là những đại thắng lợi. Đó là những ngọn đèn pha”. Ông cũng là người đại lượng, năm 1831, do ghen tức với thành công của vở Antony của ông, Hugo cho người viết báo chê bai. Hai người giận nhau. Song năm 1834, ông chủ động giảng hòa. Để hoàn toàn chủ động trong hoạt động sân khấu, ông bỏ ra một món tiền lớn để xây dựng Nhà Hát Kịch Lịch Sử của riêng ông. Khán giả rất nồng nhiệt, song không bù đắp nổi chi phí bỏ ra, nên cuối cùng nhà hát đóng cửa. Từ năm 1848, ông đã ra tờ báo đầu tiên. Sau đó, ông còn ra nhiều tờ báo nữa. Nhưng do quản lý kém, bị kiểm duyệt gây khó dễ, các tờ báo ấy tồn tại không bền, và ngốn của ông rất nhiều công sức và tiền bạc. Ông cũng hai lần ứng cử vào Nghị Viện đều thất bại, ứng cử vào Hội Quốc Ước thì chỉ được 261 phiếu, trong khi các đối thủ được 220.000, rồi phải sang Bỉ lưu vong năm 1851, sau cuộc đảo chính của Napoléon III. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) Mời các bạn đón đọc Hai Mươi Năm Sau của tác giả Alexandre Dumas.