Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đoạn Đầu Đài - Tchinguiz Aitmatov

Tiểu thuyết gia Kyrgyz - người khiến cả thế giới biết đến đất nước Trung Á nhỏ bé, lắm núi nhiều đồi của mình qua những tác phẩm về cuộc sống thường nhật dưới thời Xô viết. Aitmatov bắt đầu nổi tiếng từ năm 1958 với cuốn tiểu thuyết Jamilya. Lấy bối cảnh Thế chiến II, tác phẩm là câu chuyện về một phụ nữ trẻ người Kyrgyz dám bỏ chồng để chạy theo một cựu quân nhân. Jamilya từng làm dấy lên những cuộc tranh luận tại cộng đồng Hồi giáo cũng như ở các nước tồn tại nam quyền về việc liệu một phụ nữ có nên bỏ chồng vì một người đàn ông khác. Tuy nhiên, nhà thơ Pháp nổi tiếng Louis Aragon ca ngợi, Jamilya là “thiên tình sử hay nhất mọi thời đại”. Trong những sáng tác khác, Aitmatov miêu tả cuộc sống con người dưới thời Xô viết. Ông đặc biệt chú trọng đến những thân phận từng bước bị biến thành nô lệ, bị nô dịch hóa. Aitmatov là nhà văn quyết liệt bảo vệ sự tồn tại và phát triển độc lập của nền văn hóa và ngôn ngữ ở những quốc gia không nói tiếng Nga trong khối Xô viết. Trong cuốn Một ngày dài hơn thế kỷ, nhà văn xây dựng một nhân vật giết chết mẹ mình vì không còn nhớ ra bà. Nhiều sáng tác của Aitmatov đã được dựng thành phim. Trong đó Người thầy đầu tiên - bộ phim dựa trên cuốn tiểu thuyết cùng tên của ông, dưới bàn tay của đạo diễn Nga nổi tiếng Andrei Konchalovski - đã trở thành một tác phẩm điện ảnh lay động lòng người tại nhiều quốc gia trên thế giới. Sau năm 1991, tiểu thuyết của Aitmatov được dịch và phổ biến rộng rãi tại phương Tây. Nhà văn có thêm hàng triệu độc giả, đặc biệt là tại Đức. Là một trong số hiếm hoi những người Kyrgyz có danh tiếng vượt ra khỏi biên giới quốc gia 5 triệu dân của mình, Aitmatov là nhân vật có ảnh hưởng đặc biệt trong đời sống chính trị Kyrgyzstan. Sự ủng hộ của nhà văn dành cho Askar Akayev đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Akayev trở thành Tổng thống Kyrgyzstan nhiệm kỳ 1990-2005. Chingiz Torekulovich Aitmatov sinh ngày 12/12/1928 tại làng Sheker, vùng tây bắc Kyrgyzstan. Năm 1935, gia đình ông chuyển đến Matxcơva, Nga. 3 năm sau, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Trong văn nghiệp của mình, Aitmatov từng đoạt giải thưởng Lênin (1963) và 3 giải thưởng Nhà nước (1968, 1977, 1983). Tuy đoạt rất nhiều giải thưởng và những vinh quang văn học nhưng trước sau, Aitmatov, theo đánh giá của nhà văn Nga Viktor Yerofeyev, vẫn là một con người “trung thực, khiêm nhường và liêm khiết”. *** Khi Chinghiz 10 tuổi, Torekul Aitmatov - bố của nhà văn - bị đưa đi cải tạo rồi xử tử. 60 năm sau, thi thể ông mới được tìm thấy trong một ngôi mộ tập thể ở miền Bắc Kyrgyzstan. Tấn bi kịch cá nhân này đã hắt dấu vào rất nhiều tác phẩm của Aitmatov. Đoạn đầu đài là một tiểu thuyết như thế. Sáng tác ra đời năm 1986 này là cuốn sách được đọc nhiều nhất trong thời kỳ cải tổ kinh tế tại Nga. Tiểu thuyết Đoạn đầu đài là tác phẩm lớn cuối cùng, cũng là tác phẩm tổng kết kinh nghiệm sáng tạo nghệ thuật của Aitmatov. Đoạn đầu đài chứa đựng những nét đặc biệt trong tư duy sáng tạo của nhà văn. Nổi bật lên trong tác phẩm là kiểu tư duy huyền thoại, kiểu cốt truyện huyền thoại tạo nên tính chất đa nghĩa, mơ hồ cho tác phẩm. Thực ra, cốt truyện huyền thoại, kiểu tư duy huyền thoại, sự đậm đặc yếu tố huyền thoại đã thể hiện ngay trong những tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ của ông trước đó như ở Cánh đồng mẹ, Con chó khoang chạy ven bờ biển, Vĩnh biệt Gunxarư, Và một ngày dài hơn thế kỉ. Tuy nhiên, ở Đoạn đầu đài, có sự hội tụ, tập trung cao không chỉ của tài năng và kinh nghiệm sáng tạo, mà còn của tư tưởng, trí tuệ của nhà văn. Vấn đề huyền thoại, do đó, cũng được kết tinh lại trong cuốn tiểu thuyết này. *** Sau một ngày ấm áp ngắn ngủi, nhẹ nhàng như hơi thở trẻ em, thời tiết trên những sườn núi quay về phía mặt trời chẳng mấy chốc đã thay đổi lúc nào không biết. Gió bắt đầu nổi lên từ các tảng băng trôi và bóng tối sớm sủa, dày đặc, thấm sâu vào khắp nơi, đã bắt đầu len lỏi vào các khe hẻm, đem theo màu xám lạnh lẽo của đêm tuyết sắp đến. Tuyết thật nhiều khắp xung quanh, trên suốt dãy núi vùng ven hồ Ixức-Cun, ngọn núi nào cũng phủ đầy những tuyết. Mới hai ngày trước đây, một trận bão tuyết đã tràn qua những nơi này chẳng khác gì một đám cháy bỗng bùng lên dữ dội do sự đỏng đảnh của những lực lượng thiên nhiên muốn gì làm nấy. Quang cảnh diễn ra thật khủng khiếp. Núi non biến mất, bầu trời biến mất, toàn bộ thế giới nhìn thấy được trước đây cũng biến mất trong cảnh bão tuyết mù mịt. Sau đó mọi vật lặng đi và trời trở nên quang đãng. Từ khi ấy, cùng với trận bão tuyết đã dịu đi, những ngọn núi bị các khối tuyết khổng lồ làm tê liệt, đứng sừng sững trong không khí tĩnh mịch lạnh cóng, tê buốt và tách khỏi mọi vật trên đời. Chỉ có tiếng ầm ầm của chiếc máy bay lên thẳng cỡ lớn là vang lên diết dóng mỗi lúc một to, mỗi lúc một mạnh. Vào giờ phút hoàng hôn ấy, chiếc máy bay lên thẳng này bay lần theo lũng sâu Udun-Sát về phía đèo Ala-Mônguy phủ kín băng, bị những đám mây xoắn ốc che mờ mờ như khói tỏa trên chốn trời cao lộng gió. Tiếng ầm ầm mỗi phút một vang to hơn cứ lớn lên, cứ tiến lại gần, và cuối cùng thì vang lên đầy đắc thắng. Nó đã hoàn toàn chế ngự được khoảng không và vang động mãnh liệt, đầy uy lực, bên trên những dãy núi, những đỉnh cao, những khối băng cao tít mà không một thứ gì với tới nổi, ngoài âm thanh và ánh sáng. Được tăng cường thêm bởi vô số tiếng vọng nối tiếp nhau giữa các núi đó và các khe hẻm, tiếng ầm ầm trên đầu ấy cứ tràn đến mãi với một sức mạnh ghê gớm, dữ dội, hình như chỉ một chút nữa thôi là sẽ xảy ra một cái gì đó khủng khiếp như lúc động đất. Vào một thời điểm kịch liệt nào đó quả có xảy ra như vậy thật. Tại một sườn dốc đá dựng đứng phơi mình ra trước gió và nằm trên hướng bay của chiếc máy bay lên thẳng kia, một khối đá không lớn lắm bị sóng âm thanh mãnh liệt làm lung lay, trượt đi và bỗng dừng sững lại như dòng máu đang chảy chợt đông lại bởi những câu phù chú. Nhưng nền đất không chắc chắn chỉ cần cái hích đó thôi là đủ. Một vài tảng đá nặng trịch rời khỏi triền dốc, lăn xuống dưới, mỗi lúc một chạy tứ tung, cuốn theo sỏi đá, làm bụi bay mù lên, và khi đến chân dốc thì băng như đạn pháo qua những bụi craxnôtan và hoàng liên gai, đã xuyên thẳng các đống tuyết, lan đến tận hang sói của một gia đình sói xám nằm ở đây, dưới chân núi đá, trong khe hẻm ẩn sau các bụi cây rậm rạp, cạnh một con suối nhỏ ấm áp nay đã đóng băng tới một nửa. Con sói cái Acbara nhảy phắt sang bên để tránh sỏi đá lăn từ trên xuống và tuyết rơi lả tả, rồi lùi vào bóng tối của khe, co mình lại như lò xo, dựng bờm lên và nhìn phía trước bằng cặp mắt sáng quắc, đỏ rực một cách man rợ trong bóng tối mờ mờ, sẵn sàng giao chiến vào bất kì lúc nào. Nhưng nỗi lo sợ của nó là thừa. Ngoài kia, ngoài thảo nguyên lồ lộ thì đáng sợ thật, khi chẳng biết trốn đâu cho thoát chiếc máy bay lên thẳng cứ bám riết lấy mà săn đuổi, mà theo sát gót, với tiếng cánh quạt rú rít làm inh tai nhức óc, với những loạt đạt tiểu liên làm kinh hoàng; khi trên khắp thế giới không có một cách gì tránh nổi chiếc máy bay lên thẳng; khi không có một khe hẻm nào có thể giấu đi chiếc đầu sói hoảng loạn – mặt đất đâu có chịu nứt ra để tạo nơi trú ẩn cho những kẻ bị săn đuổi. Còn trong núi thì khác. Ở đây bao giờ cũng có thể chạy trốn, bao giờ cũng tìm được chỗ ẩn náu để chờ cho mối đe dọa qua đi. Ở đây, chiếc máy bay lên thẳng không đáng sợ, núi non mới đáng sợ cho máy bay lên thẳng. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi là phi lý, nhất là nỗi sợ hãi đã quen thuộc, đã nếm trải. Khi chiếc máy bay lên thẳng lại gần, con sói kêu lên ăng ẳng, thu tròn lại, rụt đầu vào, vậy mà thần kinh của nó vẫn không chịu nổi, vẫn như bị đứt phựt. Nó rú lên dữ dội, bị nỗi sợ hãi bất lực, mù quáng xâm chiếm lấy, nó quằn quại bò sát bụng ra cửa hang, răng lập cập va vào nhau đầy giận dữ và tuyệt vọng, sẵn sàng giao chiến ngay tại đây, dường như hy vọng là sẽ tống cổ được con quái vật bằng sắt đang bay ầm ầm bên trên khe hẻm, con quái vật mà khi xuất hiện đã làm sỏi đá cũng phải lăn rào rào từ trên xuống như khi động đất.. Nghe thấy tiếng gào rú kinh hoàng của Acbara, con sói đực là Tastrainar thò đầu vào hang. Tastrainar nghĩa là ‘máy nghiền đá’, biệt danh đó là do những người chăn cừu địa phương đặt cho nó vì nó có đôi hàm cực khỏe. Từ khi vợ nó trở nên nặng nề, nó phần lớn không ở trong hang mà ở một nơi hẻo lánh giữa các bụi cây. Nhưng nay nó bò vào chỗ sói vợ nằm và gừ gừ dịu dàng như muốn lấy thân mình che chở cho vợ khỏi cơn nguy hiểm. Nép vào sói chồng mỗi lúc một sát hơn, con sói cái vẫn tiếp tục kêu ăng ẳng, ai oán kêu gọi hoặc là ông Trời bất công, hoặc là một kẻ nào đó không biết là ai, hoặc là số phận bất hạnh của mình. Toàn thân nó còn run rẩy một hồi lâu nữa. Nó không thể tự chủ lại được ngay cả khi chiếc máy bay lên thẳng đã biến mất sau băng hà Ala-Mônguy đồ sộ và tiếng ầm ầm đã tắt hẳn sau các đám mây dày. Và trong không khí lặng lẽ đột nhiên tràn ngập vùng núi non này, một không khí vắng lặng tựa như sụp đổ của cảnh tịch mịch trong vũ trụ, con sói cái bỗng cảm thấy rõ hơn trong bụng nó. Hiện tượng tương tự cũng đã xả ra trong thời kì đầu cuộc đời săn bắt của Acbara, khi nó nhảy xổ ra giết chết một con thỏ cái lớn. Trong bụng con thỏ cái này, nó cũng cảm thấy những cựa quậy như vậy của những sinh vật vô hình nào đó mà mắt không thấy được. Điều lạ lùng ấy khiến con sói cái non trẻ và hiếu kỳ vừa ngạc nhiên lại vừa tò mò. Nó kinh ngạc dỏng tai lên, ngờ vực nhìn con mồi đã chết. Và nó thấy kỳ lạ và khó hiểu đến nỗi thậm chí, nó định đùa nghịch với những sinh vật vô hình kia, hệt như mèo chơi trò vờn nghịch với con chuột đã dở sống dở chết. Giờ đây, chính nó cũng cảm thấy trong bụng mình một thứ gì đó nằng nặng và sống động hệt như thế. Đó là dấu hiệu của những sinh vật sẽ chào đời khoảng gần hai tuần nữa, nếu các hoàn cảnh trùng hợp một cách thuận lợi. Nhưng hiện nay thì những con vật non nớt chưa ra đời ấy vẫn gắn bó khăng khít với lòng mẹ, vẫn là một phần của cơ thể sói mẹ, và bởi vậy, trong tiềm thức mơ hồ đang hình thành của chúng, chúng cũng trải qua cơn kinh hoàng và tuyệt vọng như chính sói mẹ. Đó là sự tiếp xúc gián tiếp đầu tiên của chúng với thế giới bên ngoài, với hiện thực thù nghịch đang chờ đợi chúng. Do đó, chúng bắt đầu cựa quậy trong bụng mẹ để đáp lại những nỗi đau khổ của mẹ chúng. Chúng cũng cảm thấy khiếp sợ và sự khiếp sợ này là do máu mẹ truyền sang chúng. Trong cặp sói này thì Acbara quyết định mọi việc. Nó có quyền đề xướng các cuộc săn bắt, còn Tastrainar là kẻ thừa hành trung thành, tin cậy, thực thi không mệt mỏi và không điều kiện mọi ý muốn của sói vợ. Mối quan hệ đó không bao giờ bị vi phạm. Chỉ có một lần đã xảy ra một trường hợp bất ngờ, lạ lùng, khi sói đực biến mất tới tận rạng sáng và trở về với mùi lạ của một con sói cái khác, thứ mùi ghê tởm của thời kỳ động đực trơ trẽn luôn khêu gợi và vẫy gọi con đực từ một nơi cách xa hàng chục dặm. Thứ mùi đó khiến Acbara giận điên lên. Nó lập tức xua đuổi sói chồng đi và bất ngờ cắm phập răng nanh sâu vào vai sói chồng, buộc sói chồng phải đi khập khiễng mấy ngày liền để trừng phạt. Nó không cho sói chồng lại gần và dù con sói đực ngốc nghếch kia có tru lên thế nào chăng nữa cũng không một lần đáp lại, không một lần chịu dung hòa, dường như Tastrainar không còn là chồng nó nữa, không còn tồn tại đối với nó nữa. Nếu như Tastrainar lại dám mon men đến gần để mua chuộc và lấy lòng nó thì chắc hẳn nó sẽ đọ sức thật sự. Không phải ngẫu nhiên mà nó là cái đầu, còn Tastrainar chỉ là tay chân trong cặp sói xám từ nơi khác đến này. Cái ngày xáo động khủng khiếp với con sói cái Acbara đang tàn dần như vậy. Do bản năng không thể tiêu diệt nổi của tình mẹ, nó không lo lắng cho bản thân nó bao nhiêu mà chủ yếu là lo lắng cho đàn con sắp sửa ra đời tại hang này. Cũng chính vì đàn con tương lai ấy, hai vợ chồng nó đã mất công tìm kiếm và xây dựng ở đây, trong khe sâu dưới vòm ngọn núi đá um tùm cây cối và phủ đầy những cây đổ cùng sỏi đá tràn xuống, một tổ ấm của gia đình sói để có chỗ sinh nở và trú ẩn. Mới một năm trước đây, vùng này không hề hay biết gì về loại sói bờm xám. Một lần chúng có xuất hiện, nhưng chúng vẫn tiếp tục sống biệt lập. Lúc đầu, giống sói đến từ nơi khác đến này tránh va chạm với giống sói địa phương, chúng lang thang phần lớn là tại các khu vực trung lập của các lãnh địa do giống sói địa phương cai quản. Chúng sống vất vưởng, kiếm gì ăn nấy, và trong khi tìm mồi, chúng thậm chí lấn ra các cánh đồng, tới những vùng đất thấp có người ở, nhưng vẫn không chịu quan hệ với các bầy sói trong vùng. Tính cách quá độc lập của con sói cái mắt xanh Acbara không cho phép nó gia nhập các bầy khác để rơi vào tình trạng phụ thuộc. Hơn nữa, Acbara và Tastrainar lại từ những nơi khác đến đây. Đối với con mắt giàu kinh nghiệm thì ngay cả về vẻ ngoài chúng cũng khác với giống sói địa phương. Trước hết là lớp lông cổ rậm rạp khuôn chặt lấy hai vai tựa như chiếc áo choàng lộng lẫy màu xám bạc, chạy suốt từ dưới ngực cho đến u vai. Lớp lông này của chúng thì sáng màu, đặc trưng cho lũ sói vùng thảo nguyên. Cả về tầm vóc cũng vậy, giống sói Ăcgiala, tức là giống sói bờm xám, bao giờ cũng to lớn hơn giống sói bình thường ở cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun. Còn nếu như một người nào đó trông thấy con sói Acbara ở gần thì nhất định phải sửng sốt trước đôi mắt xanh trong veo của nó – một trường hợp hiếm hoi và có thể độc đáo duy nhất. Nó được những người chăn cừu địa phương đặt cho biệt danh là Acđalư, có nghĩa là ‘u vai trắng’, nhưng chẳng bao lâu sau, do những qui luật biến đổi của ngôn ngữ, nó biến thành Abarư rồi Acbara, có nghĩa là ‘vĩ đại’, tuy nhiên không một ai biết rằng trong việc đó có dấu hiệu của thiên mệnh. Giờ đây, sau khi Acbara đã yên tâm ít nhiều và sưởi ấm bên thân hình to lớn của Tastrainar, nó cảm thấy biết ơn sói chồng vì đã chia sẻ nỗi sợ hãi của nó và do đó đã khiến nó thấy tự tin trở lại, vì vậy nó không cưỡng lại những cử chỉ vuốt ve kiên nhẫn của sói chồng. Hơn nữa, để đáp lại những cử chỉ ấy, nó hai lần liếm vào môi sói chồng và trong khi cố chế ngự nỗi kinh hoàng vẫn còn thỉnh thoảng vẫn làm nó run bần bật, nó hướng mọi ý nghĩ vào bản thân. Nó lắng nghe lũ sói nhỏ trong thai động đậy một cách khó hiểu và lo ngại. Nó bằng lòng với những gì hiện có. Nó bằng lòng với cả hang sói, cả với mùa đông giá lạnh trong núi, cả với ban đêm rét cóng đang từ từ đến gần. Khi lắng nghe những biến chuyển xảy ra ngoai ý muốn trong phần bụng đã sống động của nó, con sói cái Acbara cảm thấy xúc động. Tim nó đập nhanh hơn và tràn dâng lên lòng dũng cảm, tràn dâng mối quyết tâm nhất định sẽ bảo vệ, sẽ che chở những sinh vật nhỏ nhoi mà nó đang ấp ủ trong bụng. Giờ đây, nó sẽ không do dự giao chiến với bất kỳ kẻ nào. Trong người nó, bản năng duy trì nòi giống – một bản năng vĩ đại của tự nhiên – bắt đầu lên tiếng. Và ngay lúc đó, một cảm giác thương mến trào lên trong lòng nó như một làn sóng ấm nóng, nó cảm thấy nhu cầu được vuốt ve, được sưởi ấm những đứa con tương lai, truyền cho chúng dòng sữa của mình y hệt như chúng đã nằm bên cạnh. Đó chính là mối tiên cảm hạnh phúc. Nó lim dim mắt, rên rỉ vì sung sướng, vì chờ đợi sữa dồn lên hai hàng vú phồng căng đến mức đỏ lên. Nó mệt mỏi và chậm rãi duỗi thẳng người ra trong chừng mực khuôn khổ hang cho phép. Cảm thấy đã yên tâm hẳn, nó lại định đến cạnh con sói chồng Tastrainar bờm xám của nó. Tastrainar lực lưỡng, bộ lông ấm áp, đàn hồi và rộng. Tuy luôn luôn cau có, Tastrainar cũng thấy được những gì mà con sói cái sắp làm mẹ này đang cảm thấy. Trực giác giúp nó hiểu được những gì đang diễn ra trong bụng sói vợ, và có lẽ nó cũng xúc động. Vểnh một bên tai, Tastrainar hơi ngửng cái đầu nặng nề và kềnh càng lên. Trong ánh mờ tối của đôi đồng tử lạnh lẽo giữa cặp mắt đen thẫm trũng sâu vào trong, có thoáng lướt qua một vết đen nào đó, một linh cảm dễ chịu mơ hồ nào đó. Nó dè dặt kêu gừ gừ, khịt khịt mũi và rên ư ử, biểu lộ tâm trạng hồ hởi của mình, tỏ ý sẵn sàng phục tùng không điều kiện con sói vợ mắt xanh và che chở cho vợ. Rồi nó bắt đầu ân cần và âu yếm đưa cái lưỡi to ẩm ướt và ấm áp liếm đầu sói vợ. Acbara yêu thích lưỡi sói chồng vào những lúc sói chồng vuốt ve âu yếm nó, người run lên vì nôn nóng, lưỡi nóng bừng vì máu hừng hực dồn lên, trở nên chắc nịch, lanh lẹn và mạnh mẽ như rắn. Vào những lúc ấy, nó hết sức thích thú tuy lúc đầu cố làm ra vẻ bình thản, thờ ơ. Nó cũng thích thú như vậy cả vào những giờ phút êm đềm hạnh phúc sau khi ăn uống no nê, khi lưỡi sói chồng vừa mềm mại vừa ẩm ướt vuốt ve nó. Người phán xét cao nhất là thời gian. Dần dần, hai con sói bờm xám từ nơi khác đến đã có thể tự bảo vệ mình. Trong vô số những cuộc giao chiến dữ dội, chúng đã giành được phần đất trên cao nguyên vùng ven hồ Ixức-Cun và giờ đây chúng đã trở thành chủ nhân. Lũ sói địa phương không còn dám xâm phạm vào lãnh địa của chúng nữa. Có thể nói rằng, vậy là cuộc sống của những con sói bờm xám mới xuất hiện đã ổn định thành công trên đất Ixức-Cun. Nhưng trước đó là cả một giai đoạn lịch sử. Nếu như thú vật có thể nhớ lại quá khứ thì Acbara – một con sói rất sáng ý và cảm nhận tinh tế – sẽ lại nếm trải tất cả những gì mà đôi khi nó chợt nhớ lại, chua xót đến mức chảy nước mắt và rền rĩ vì đau đớn. Trong thế giới đã mất ấy, trong đồng cỏ Môiuncumư mênh mông xa xôi ấy, đã từng diễn ra một cuộc sống đầy những chuyến săn mồi rộng lớn với việc đuổi bắt liên miên những bầy sơn dương Môiuncumư bao la. Từ thời cổ đại, giống sơn dương Xaigắc đã sinh sống trên những vùng thảo nguyên lúc nào cũng rậm rạp loại cây muối đen chịu được tiết trời khô khốc ấy, và trong số những loài móng kép thì chúng thuộc loài lâu đời nhất, lâu đời như chính thời gian vậy. Những bầy súc vật mũi khoằm này chạy không biết mệt,. Lỗ mũi to tướng của chúng dồn không khí qua phổi với một mức độ mãnh liệt hệt như cá voi dồn những dòng nước đại dương qua bộ lược răng, và do đó chúng được trời phú cho khả năng chạy liên tục suốt từ sáng đến tối. Khi chúng bắt đầu chạy vì bị kẻ thù vĩnh viễn và lúc nào cũng bám riết lấy chúng là chó sói săn đuổi; khi một bầy này kinh hoàng khiến bầy bên cạnh, đôi khi cả bầy thứ ba thứ tư nữa, cũng kinh hoàng theo; khi cuộc chạy trốn đồng loạt này lôi cuốn cả những bầy lớn nhỏ khác gặp trên đường chạy; khi chúng lướt vun vút trên thảo nguyên Môiuncumư, qua các gò đồi, các bình nguyên và các bãi cát, chẳng khác gì cơn đại hồng thủy đổ sụp xuống trái đất… thì mặt đất tựa như chạy ngược về phía sau và kêu rào rào như khi mưa đá vào lúc mùa hè. Không khí lúc đó tràn ngập hơi thở quay cuồng của chuyển động, tràn ngập bụi đá và những tia lửa bắn tóe ra từ dưới móng, tràn ngập mùi mồ hôi của bầy súc vật – mùi đua tranh điên cuồng không phải giành lấy cái sống mà là giành lấy cái chết. Và lũ sói chạy tản ra, bám sát gót, cố xua bầy xaigắc vào những ổ mai phục, nơi nằm chờ chúng giữa những bụi cây muối đen là những con sói lão luyện, ranh năng nhọn hoắt, sẵn sàng từ chỗ mai phục nhảy phắt lên gáy con mồi đang lao vùn vụt, ngã lộn nhào cùng với nó, cắn đứt cổ làm máu phụt ra lênh láng rồi lại lao vào cuộc săn đuổi. Nhưng lũ Xaigắc không hiểu sao thường nhận ra những nơi sói mai phục và kịp né tránh những nơi ấy. Và cuộc săn đuối lại bắt đầu một vòng mới với tốc độ và mức dữ dội còn lớn hơn nữa. Tất cả những con thú ấy, cả những con bị săn đuổi và những con săn đuổi – một mắt xích của quá trình tồn tại nghiệt ngã – đều dốc hết sức vào cuộc chạy thi, khiến máu dường như sôi lên chẳng khác gì trong cơn hấp hối, để sống và để sống sót. Và có lẽ chỉ Chúa Trời mới có thể dừng cả hai bầy thú lại, bởi vì đây là chuyện sống chết của những con vật khao khát sống khỏe mạnh. Những con sói nào không chịu đựng nổi tốc độ điên cuồng như vậy và những con sói nào không phải sinh ra để ganh đua trong cuộc đấu tranh sinh tồn – trong cuộc chạy đua sinh tồn – đều ngã lăn ra và trút hơi thở cuối cùng trong lớp bụi bốc lên của cuộc săn đuổi đang cuốn xa dần như cơn bão. Nếu chúng còn sống chăng nữa thì chúng cũng phải bỏ đến những miền khác, nơi chúng tha hồ hoành hành giữa những bầy cừu hiền lành, hiền lành đến mức thậm chí không tìm cách chạy trốn nữa. Nhưng quả thật, những nơi ấy có mối nguy hiểm riêng. Mối nguy hiểm đáng sợ nhất trong số tất cả những mối nguy hiểm có thể xảy ra ở đấy: bên cạnh đàn cừu là những con người, những kẻ vừa là Chúa Trời vừa là nô lệ của bầy cừu, những kẻ muốn sống nhưng lại không cho loài khác sống, đặc biệt là những ai không phụ thuộc vào họ và thích được tự do. Con người! Con người! Họ thật ghê gớm như Chúa Trời vậy! Họ cũng săn bắt lũ xaigắc của đồng cỏ Môiuncumư mênh mông. Trước kia, họ xuất hiện trên mình ngựa, mặc quần áo da thú, trang bị bằng cung tên. Sau này họ xuất hiện với những khẩu súng nổ vang, vừa hò hét vừa phi ngựa hết nơi này đến nơi nọ, – còn lũ xaigắc thì chạy nườm nượp hết phía này đến phía khác – tha hồ mà lùng chúng trong những cánh rừng cây muối đen. Nhưng rồi, đến lúc những con-người-Chúa-Trời ấy bắt đầu tổ chức những cuộc săn lùng bằng xe ôtô nhằm làm cho chúng phải kiệt sức vì mệt mỏi, hệt như lũ sói vẫn làm, lũ xaigắc quỵ ngã và họ vừa ngồi trên xe vừa bắn giết. Tiếp đấy, họ sử dụng máy bay lên thẳng. Lúc đầu, họ từ trên trời quan sát các bầy xaigắc trên thảo nguyên rồi bao vây chúng trong những toạ độ đã định sẵn. Những tay xạ thủ dưới mặt đất thì phóng vun vút khắp những vùng đất bằng với tốc độ một trăm kilômet giờ hoặc hơn thế nữa để lũ xaigắc không kịp ẩn nấp. Máy bay lên thẳng thì từ trên cao hiệu chỉnh mục tiêu và hướng săn đuổi. Ôtô, máy bay lên thẳng, súng trường cao tốc… – và thế là cuộc sống ở đồng cỏ Môiuncumư bị lộn nhào hết lên. Con sói cái Acbara mắt xanh còn chưa thay lông và con sói chồng tương lai nó là Tastrainar mới nhỉnh hơn nó một chút, thì chúng đã đến lúc phải làm quen với những cuộc săn đuổi lớn. Lúc đầu, chúng không theo kịp, chúng xé xác những con sơn dương đã gục ngã và giết chết những con nào chưa chết hẳn. Nhưng dần dần, về sức lực và sức chịu đựng chúng đã trội hơn nhiều con sói từng trải, nhất là những con sói đang về già. Nếu như mọi việc đều diễn ra theo qui luật tự nhiên thì chỉ ít lâu nữa là chúng sẽ đứng đầu cả bầy sói. Nhưng tình hình lại ngoặt theo chiều hướng khác… Năm này không giống năm khác. Vào mùa xuân năm đó, các bầy xaigắc sinh đẻ đặc biệt nhiều, không ít con cái còn sinh đôi nữa, bởi vì mùa thu trước, trong thời gian săn đuổi, lớp cỏ khô đã hơi lên xanh lại sau một vài trận mưa tầm tã vào lúc tiết trời ấm áp. Thức ăn thừa thãi, do đó tỉ lệ sinh đẻ tăng lên. Trong thời gian sinh đẻ, lũ xaigắc ngay từ đầu xuân đã đi đến những vùng cát lớn không có tuyết ở mãi sâu trong đồng cỏ Môiuncumư, nơi chó sói không dễ dàng tới được. Mà săn đuổi lũ Xaigắc trên các cồn cát là một việc vô vọng. Trên các cồn cát thì chó sói không thể đuổi kịp lũ xaigắc được. Để bù lại, chó sói thường sống no đủ vào mùa thu và mùa đông. Khi việc di cư theo mùa của động vật khiến những vùng nửa sa mạc và thảo nguyên đầy ắp những bầy xaigắc đông vô kể, đó là lúc Chúa hậu đãi loài sói. Còn về mùa hè, đặc biệt vào thời tiết nóng nực, chó sói thường không ưa động chạm đến xaigắc bởi vì đã có đủ một loại con mồi khác, dễ săn đuổi hơn, là ngân thử. Vô số ngân thử lang thang khắp thảo nguyên để bù đắp lại những gì chúng đã trượt mất vào thời kỳ ngủ đông. Trong mùa hè, chúng phải kịp làm tất cả những gì mà các thú vật khác đã làm trong một năm trời. Chính vì thế mà chúng hối hả xục xạo khắp nơi, không thèm để ý đến nguy hiểm. Vậy tại sao lại không săn bắt kia chứ – bởi vì cái gì cũng có giờ phút của nó, mà về mùa đông thì không thể săn bắt kia mà, chúng không hề xuất hiện. Lại còn các loại thú nhỏ và chim chóc – đặc biệt là gà gô – dùng làm thức ăn cho sói vào những tháng hè. Nhưng việc kiếm ăn chủ yếu – những cuộc săn đuổi rộng lớn lũ xaigắc – là vào mùa thu và kéo dài từ mùa thu cho đến tận cuối đông. Lại một lần nữa là cái gì cũng có giờ phút của nó, trong đó thể hiện một sự hợp lý riêng, do thiên nhiên ban cho, của vòng quay cuộc đời trong đồng cỏ. Chỉ thiên tai và con người mới có thể phá vỡ quá trình tự lâu đời này của tình hình ở Môiuncumư.   Mời các bạn đón đọc Đoạn Đầu Đài của tác giả Tchinguiz Aitmatov,

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Đến Từ Mariupol
Trong bức ghép hình mang tên châu Âu thế kỷ 20, có một mảnh sử rời không ai muốn nhắc. Một mảnh sử rời chính người trong cuộc cũng muốn xóa đi. Đó là là lịch sử của hơn năm triệu lao động cưỡng bức người Đông Âu trong Thế chiến II. Thân phận của họ trở thành một vết nhơ mà quốc gia nào cũng muốn chối bỏ. Cố quốc coi họ là kẻ phản bội, cúi đầu đi làm nô lệ cho kẻ thù. Nước Đức, quốc gia trở nên hùng mạnh một phần nhờ mồ hôi và máu của “đám công nhân Miền Đông,” chỉ coi họ là những con vật người, sinh ra để bị bóc lột sức lao động đến hơi thở cuối cùng, trong điều kiện không hơn gì trại tập trung. Người đến từ Mariupol là khúc bi ca về một cuộc chiến nhỏ đã bị nhấn chìm trong cuộc chiến lớn: cuộc chiến giành lấy sự sống và đòi lại quyền được làm người. *** Câu chuyện hấp dẫn bởi tác giả Natascha Wodin như kéo độc giả cùng tham gia một cuộc thám hiểm trong thế giới Internet, cùng lần mò với bà từ những đầu mối mong manh về người mẹ của nhân vật xưng tôi Natalia Nikolajevna. Mẹ của bà, người phụ nữ Ukraina, một nạn nhân chiến tranh bị dồn đuổi đến Đức, bị cưỡng bức lao động và sống một cuộc đời lưu lạc. 11 năm sau Thế chiến 2, bị "bỏ quên" tại vùng đất thuộc Tây Đức, sống trong một khu vực dành cho những người lưu vong đầy cô độc, người mẹ ấy đã gieo mình xuống sông Regnitz ở tuổi 36 chẳng để lại gì ngoài cái tên Jevgenia Jakovlevna Ivashtschenko, đến từ vùng Mariupol. Nhân vật tôi đã lần lại gốc tích của mẹ mình khi thử gõ tên bà trên Internet mà chính bà cũng nghĩ rằng “gõ cho vui vậy thôi”. Sau đó tình cờ, bà được một người đàn ông chuyên kết nối các hồ sơ sau chiến tranh của vùng Mariupol nơi mẹ bà ra đi, có tên Konstantin, giúp đỡ. “Trong trí nhớ tôi, mẹ chỉ thấp thoáng như một cái bóng, như một cảm giác mơ hồ thì đúng hơn là một kỉ niệm”. Nhưng qua từng trang sách, sự mơ hồ ấy dần được hiện hình, dù ngoài họ tên mẹ, bà chẳng biết gì thêm về người sinh ra mình. Vùng đất Mariupol trong những biến động thăng trầm của lịch sử đã được tái hiện trong kí ức của từng nhân vật thân nhân mà Natalia Nikolajevna tìm thấy trong quá trình lần về nguồn cội. Câu chuyện cứ nở ra dần, mở ra dần, từ chỗ tưởng như vô vọng, bằng một cách kì diệu đã từ từ sáng rõ. Dòng họ Jakovlevitsch Ivashtschenko khi xưa tan tác với những số phận bị cơn địa chấn long trời trước Thế chiến trong cơn vặn mình từ chế độ quân chủ đi lên Chủ nghĩa xã hội đánh bật đi muôn nơi, trải dài khắp dải đất Xô viết rộng lớn, đến những đất nước xa xôi, và đặc biệt là trong lòng nước Đức, kẻ thù trong chiến tranh với Liên Xô, đất nước thuộc phe phát xít bị thua sau Thế chiến. Câu chuyện bắt đầu từ những năm nội chiến trên lãnh thổ Liên bang Xô Viết, cụ thể tại đất nước Ukraine với những thế hệ trước của người mẹ nhân vật. Trong những đối cực chính trị, những xoay chiều đổi thế tại thị trấn nhỏ Mariupol khiến các giá trị, những đúng sai lộn nhào, và mỗi phận người như gió bụi, có những thân phận rơi vào cảnh lạc lõng giữa hai chiến tuyến, ở tình thế này có thể đang là người may mắn, nhưng ngay sau đó, khi chính trị đổi ngôi thì lập tức lại thành những tội phạm chiến tranh, kẻ thù của dân tộc phải xử tử hoặc lưu đày. Tiếp đó những nhân vật bị cuốn vào Thế chiến 2. Một trong những nhánh rẽ của dòng xoáy ấy với một số người là lựa chọn lưu vong cay đắng nơi đất khách quê người, như mẹ của Natalia Nikolajevna. Theo hành trình tìm kiếm của nhân vật tôi, mỗi mảnh vụn thân phận của dòng họ năm xưa văng đến những phương trời mang theo những kí ức của chung, của riêng. Người bác Sergey là nghệ sĩ phục vụ trong Hồng quân Liên Xô, bác Lidia làm giáo viên, từng bị kết án trong một vụ án chính trị. Con cái của họ mỗi người đã tiếp nhận và "thừa kế" những di chứng của thế hệ trước. Sau cuộc chiến, họ như những miệng núi lửa đã ngưng hoạt động, trên bề mặt lạnh lùng sần sẹo là những kí ức bị kẹp chì bởi lí do chính trị: “Hồi ấy, cũng như cả hàng chục năm về sau, có họ hàng với một người như mẹ tôi là rất nguy hiểm, với một người rất có thể đã tình nguyện để bị bắt lùa sang Đức, hoặt chí ít cũng đã không tìm cách trốn, thậm chí cùng đường còn phải tự sát - như Stalin vẫn đòi hỏi những người ái quốc chân chính phải tự hi sinh như thế - để dứt khoát không sang Đức làm nô dịch cho quân thù. Hồi ấy, người ta tránh không cho con cái mình biết đến những bà con thân thích bị liệt vào hạng phản quốc như mẹ tôi, bởi vì, ai mà muốn con cái mình mang vạ vào thân chứ”. Bởi thế mà những kí ức về những người thân như cha mẹ của  Natalia Nikolajevna thường bị chôn kín hoặc đứt gẫy với các thế hệ sau. Phần lớn trong số họ cho đến thời điểm câu chuyện được dựng lại đã mang những bí mật về thế giới bên kia. Bảy mươi năm sau Thế chiến thứ 2, những nạn nhân chiến tranh đã lùi dần vào dĩ vãng, những người thuộc thế hệ thứ hai cũng đã đi đến những ngày cuối cùng của cuộc đời, nhưng những tổn thương thì dường như vẫn âm ỉ cháy đâu đó trong mỗi gia đình, mỗi phận người. Họ đã ở lại như những nhân chứng cuối cùng, ghi lại những tiểu biên bản, bổ sung vào bộ dữ liệu khổng lồ về chiến tranh bằng những số phận con người. Người mẹ của nhân vật Natalia Nikolajevna, người đã buộc phải li hương đầy cay đắng, chắc hẳn đã nghĩ về nơi cội rễ với những ám ảnh kinh hoàng, và dù cuộc chiến tranh thế giới đã kết thúc cũng không có nghĩa là sự lưu lạc dừng lại, bởi bà không còn có thể cũng như không có lí do để quay về, như sự ngộ ra bi kịch thê thảm của mẹ mình của nhân vật tôi, cũng là tác giả: “Cuộc đời của một kẻ lạ trên đất Đức có lẽ không có gì là mới mẻ đối với mẹ tôi, mà đúng ra, chỉ là sự kéo dài thêm kiếp đời bà từng nếm trải mà thôi. Hóa ra, tự bao giở bao giờ đến nay tôi đã hiểu sai về mẹ tôi. Mẹ vốn không phải là người bị bẩy rễ khỏi quê hương, mà ngay từ đầu bà đã là kẻ vô quê hương, không gốc nguồn, không cội rễ, một kẻ tha hương ngay từ lúc mới mở mắt chào đời”. Bìa sách đề thể loại là tiểu thuyết, nhưng câu chuyện và những bức ảnh các nhân vật sau đề mục bắt đầu mỗi phần đều cho thấy đó là một câu chuyện có thật. Một tiểu thuyết phi hư cấu thành công, như con đường mà một nữ tác giả khác cũng thuộc Liên bang Xô viết trước đây, Liên bang Nga sau này, Svetlana Alexievich, người Belarus, đã đi và giành được vinh quang văn chương với giải Nobel 2015, tác giả của Chiến tranh không có một gương mặt phụ nữ, Những nhân chứng cuối cùng. Ở Natascha Wodin, bà đã đi xa hơn Svetlana Alexievich khi đã xử lí tư liệu một cách nhuần nhuyễn trong một câu chuyện miên viễn trải dài trong một không gian rộng lớn, thời gian kéo dài gần cả trăm năm. Điều thú vị là song song với tư liệu, tác giả đã để nhân vật thả trí tưởng đi xa nhất trong những hình dung, dự đoán về mẹ, tự vẽ ra, tự suy đoán, đưa ra những giả thuyết về cuộc đời của mẹ mình cùng những người thân của bà, mà những giả thuyết, suy đoán, những tình huống ấy chắc hẳn có thể đúng với nhân vật, hoặc đúng với bất kì một phận người nào trong cơn lốc xoáy của chiến tranh trong số hàng triệu công nhân miền Đông trên đất Đức.  Cuốn tiểu thuyết tư liệu pha trộn yếu tố trinh thám này đã khiến độc giả hồi hộp cùng tác giả lần theo cây phả hệ của gia tộc bên ngoại của nhân vật tôi với những kịch tính nhẹ nhàng. Tưởng như vô tăm tích bởi sự lưu lạc theo dòng cuốn tàn khốc của chiến tranh, thế nhưng sự bám víu theo những thông tin mơ hồ trong tiện ích công nghệ của thời đại, khi mà mọi thứ được hòa mạng Internet, câu chuyện được bóc tách, hé lộ từng lớp trên một lối đi chênh vênh giữa khoa học và tâm linh, giữa lí trí và tình cảm, giữa sự mù mờ và sáng rõ. Chiến tranh không ở phía những người ra trận cũng tàn khốc và làm biến dạng biết bao cuộc đời, bẻ lái biết bao số phận. Natascha Wodin đã trả được món nợ quá khứ của mẹ bà, chạm vào trái tim của người đọc với sự đồng cảm sâu sắc. Giống như bác Lidia của bà, người đã vượt qua tất cả những cực hình nơi nhà lao, sự cưỡng bức, hãm hiếp, những hình phạt lao động khổ sai nơi rừng thiêng nước độc, đã vẫn sống, sống để làm nhân chứng cho những gì đã trải qua. Năm mươi năm sau, khi đã ở tuổi tám mươi, bà Lidia đã viết lại những gì đã trải dưới dạng hồi kí vào hai tập vở. Để rồi như một dự báo, nó tưởng như đã bị chôn vùi, quên lãng thì người cháu từ nước Đức sau khi tìm kiếm, chắp nối các mối quan hệ rời rã phập phù đã lần ra manh mối, có được chúng để dựng lại câu chuyện về một góc tối tăm của Đế chế Nga trước đây trong cơn vặn mình lịch sử với những vinh quang và đớn đau của một dân tộc vĩ đại. Với giọng văn nữ tinh tế cùng thái độ khách quan với lịch sử, có thể nói Natascha Wondin đã bay lượn đầy cảm xúc trên nền tư liệu, dung hòa giữa lí trí và tình cảm để gọi hồn cuộc chiến, gọi tên những khuất lấp lịch sử. Có lẽ đây là lí do khiến các nhà phê bình và những người tổ chức hội sách Leipzig tại Đức đã coi cuốn sách này là "một cuốn tiểu sử có những yếu tố của sự hư cấu nghệ thuật". Đọc Người đến từ Mariupol thấy rằng, điều tệ hại nhất của chiến tranh là nó đã bóp chết tâm hồn con người một cách vĩnh viễn. Hoá ra cuộc chiến ấy, sau gần tám mươi năm vẫn còn những sợi dây kết nối đâu đó ở những người của hôm nay, mơ hồ hay hiện hữu là do cách mà mỗi người ứng xử với nó mà thôi. “Nhiều năm nay rồi, tôi bỏ công cố tìm một cuốn sách nào đó viết về những công nhân dạo xưa từng bị cưỡng bức lao động, tức là cố tìm cho ra một tiếng nói văn học về họ để bấu víu dựa dẫm, nhưng đều vô ích. Nạn nhân sống sót từ các trại tập trung trở về đã viết nên hàng loạt các tác phẩm văn chương mang tầm quốc tế, sách họ viết về nạn diệt chủng đối với người Do Thái xếp đầy các thư viện, thế nhưng, những công nhân không phải Do Thái hồi đó bị bắt đi cưỡng bức lao động lại im lặng, chẳng ai viết lách gì”, đó là một đoạn tự sự của nhân vật Natalia Nikolajevna trong tác phẩm và có lẽ cũng là của tác giả. Phải chăng đó cũng là lí do mà Người đến từ Mariupol khi ra đời đã được đánh giá cao tại Đức. Cuốn sách đã giành được một số giải văn chương tại đất nước này như Giải thưởng văn học Alfred Döblin, Giải thưởng Hội chợ sách quốc tế tại Leipzig (CHLB Đức) năm 2017. *** Được giới thiệu là cuốn sách về thân phận 5 triệu người Đông Âu bị biến thành lao động cưỡng bức ở nước Đức trong Chiến tranh thế giới thứ II nhưng mảng truyện hấp dẫn hơn, bi thương hơn, chiếm nhiều trang sách hơn lại là viết về họ dưới một thể chế toàn trị. Là lao động cưỡng bức, họ bị phát xít bóc lột, tra tấn, tàn sát, sự ghê rợn cả thế giới đều biết từ lâu. Nhưng ngay trong và sau chiến tranh, họ bị cố quốc coi là kẻ phản bội, hợp tác với quân thù. Rồi sau chiến tranh, phải cư trú ngay trong lòng nước Đức thua trận, họ còn bị người Đức bản địa kỳ thị, tẩy chay, bức hại, vì bị coi là thuộc phía kẻ thù gây ra thảm họa. Nhưng cuộc sống ngục tù trần gian còn xảy ra trước cả khi họ bị lừa phỉnh trở thành người lao động, phải rời bỏ quê hương để sang nước Đức phát xít. Một lịch sử đau thương được gỡ dần ra ở Ukraine, trải dài từ sau cách mạng, sang nội chiến ở Liên Xô, cho đến khi bị phát xít Đức bao vây trong Chiến tranh thế giới thứ II. Như đã nói, đây là mảng truyện lôi cuốn nhất, được đào xới sâu sắc nhất và lay động tâm can nhất. Đọc Người đến từ Mariupol, người ta cùng lúc nhớ đến hai tác giả đoạt giải Nobel văn chương. Đặt bên Aleksandr Solzhenitsyn (Nobel 1970), câu chuyện của Người đến từ Mariupol sâu đậm hơn và gây chấn động hơn nỗi trần ai ở quần đảo Gulag. Đặt bên những thiên phóng sự của Svetlana Alexievich (Nobel 2015, Chiến tranh không có một gương mặt phụ nữ, Những nhân chứng cuối cùng), vốn là những bản gỡ băng phỏng vấn được sắp xếp có hàm ý, thì khả năng tổng hợp và chọn lọc tư liệu của Natascha Wodin gây ấn tượng hơn. Tác giả thể hiện một phương pháp điều tra báo chí rất tinh xảo và chính xác, đồng thời bộc lộ trí tưởng tượng phong phú trên nền tư liệu. Câu chuyện của đại gia đình, từ ông bà cha mẹ, chú bác cô dì cho đến những người em, đứa cháu, chỉ từ tư liệu mà được trí tưởng tượng của tác giả tái hiện và bóc gỡ đến tận cùng. Phương pháp điều tra, trí tưởng tượng cộng với nhập thân hết mình vào nhân vật là những yếu tố nổi bật ở tác giả, khiến người đọc có lúc say mê đến mức thấy mình có thể đồng nhất và rung cảm với những số phận trong sách. Tác phẩm đã tạo ra một sự kiện văn chương ở CHLB Đức, đoạt giải thưởng của Hội chợ sách quốc tế Leipzig năm 2017 và Giải thưởng văn học Alfred Döblin… Hồ Anh Thái *** Nữ nhà văn Natascha Wodin sinh ra tại Fürth, bang Bayern CHLB Đức, trong một gia đình hai vợ chồng người Ukraine (thuộc Liên bang Xô viết trước đây) bị bắt sang Đức quốc xã làm nhân công lao động cưỡng bức năm 1944. Một năm sau, năm 1945 - cũng là năm kết thúc Thế chiến thứ 2 - Natascha Wodin được sinh ra. Bà lớn lên trong các trại dành cho người di cư trước khi chuyển vào ở nội trú tại một trường nữ sinh trực thuộc Giáo hội Thiên chúa giáo cho đến khi trưởng thành. Bà sinh sống và làm việc tại Đức. Sau khi tốt nghiệp trường chuyên ngữ, bà chuyển sang viết văn và biên dịch. Người đến từ Mariupol xuất bản bởi Nxb Hội Nhà văn, Tao Đàn phát hành, tác phẩm do Hoàng Đăng Lãnh dịch.   Mời các bạn mượn đọc sách Người Đến Từ Mariupol của tác giả Natascha Wodin & Hoàng Đăng Lãnh (dịch).
Hoa Tím Ngày Xưa
Trong lúc mầm mống Chủ nghĩa Quốc xã đang rình rập toàn cõi châu Âu, nhà văn Christopher Isherwood được một hãng phim thuê viết kịch bản cho Hoa Tím Ngày Xưa, một bộ phim lấy bối cảnh ở Áo với cốt truyện phù phiếm, kệch cỡm, tương phản đầy mỉa mai với tình hình chính trị gắt gao lúc bấy giờ. Qua giọng kể dí dỏm, lạnh lùng và nhãn quan sâu sắc của Isherwood, tiểu thuyết Hoa Tím Ngày Xưa đã chua chát khắc họa thứ nghệ thuật lừa dối mị dân, đưa vào trọng tâm cuộc giằng co giữa sự xảo quyệt của trò chơi thương mại và người làm nghệ thuật chân chính. *** Hoa tím ngày xưa hay Prater Violet là một cuốn tiểu thuyết được xuất bản vào năm 1945 của tác giả Isherwood, người đã viết A Single Man (được dựng thành phim) và Vĩnh biệt Berlin (cuốn này tôi cũng đã mua nhưng chưa có thời gian đọc). Tôi chọn đọc cuốn này vì thấy nó khá mỏng, và cái tên nghe cũng khá là… sến nữa. Thế nhưng giá trị của nó thì không thể dùng một chữ “sến” để hình dung. Câu chuyện về Hoa tím ngày xưa được kể bằng ngôi thứ nhất, nhân vật có tên là Christopher Isherwood nên người đọc cảm giác như đây chính là cuốn tự truyện của ông về giai đoạn làm công việc viết kịch bản cho phim điện ảnh ở Hollywood, ở đó ông trút ra những tâm sự về cuộc đời, về nghệ thuật, sự thương mại hoá và thậm chí cả chính trị, dưới góc nhìn của một người nghệ sĩ. Đầu tiên phải nói một chút về tiêu đề, vì sao Prater Violet lại dịch là Hoa Tím Ngày Xưa. Prater là tên của một công viên giải trí nổi tiếng tại Vienna, nếu dịch thô thì sẽ là Hoa Violet ở công viên Prater. Đây là tên của bộ phim mà Isherwood cùng nhân vật Bergmann - vị đạo diễn người Áo gốc Do Thái phải cùng nhau tham gia sản xuất. Nội dung của bộ phim là một cô gái bán hoa tình cờ gặp một anh Hoàng tử trong công viên, khi chàng ta giả trang thành một sinh viên, hai người yêu nhau cho đến khi anh Hoàng tử tiết lộ thân phận thật sự và phải rời khỏi cô gái vì biến cố Hoàng Gia. Nói chung là một phim diễm tình sến sẩm (đúng như cái tên Hoa Tím Ngày Xưa) và với một đạo diễn, một nhà văn lao động nghiêm túc vì nghệ thuật chân chính thì cái phim này quả là quá đỗi vớ vẩn.  Trong một diễn biến khác, quân đội Hitler tấn công vào nước Áo, chiến tranh đe doạ sự an toàn của gia đình Bergmann khiến ông không cách nào tập trung vào bộ phim. Thậm chí, chính nó đã khơi nên cơn giận dữ và cảm xúc bị kìm nén bấy lâu bên trong người nghệ sĩ, khiễn ông trút cơn phẫn nộ lên chính tác phẩm, lên những cộng sự của mình và còn đòi rời khỏi đoàn làm phim. Trong cơn bộc phát, ông đã thốt lên rằng: “Bộ phim! Tôi ị vào bộ phim đó! Thứ bẩn thỉu vô tâm! Thứ trá nguỵ tồi tàn! Làm một bộ phim như vậy vào lúc thế này dứt khoát là điều vô tâm. Nó là tội ác. Nó dứt khoát là thứ trợ lực cho đám Dollfuss, và Starhemberg, và Fey cùng thảy mọi băng đảng của chúng. Nó che đậy nỗi nhức nhối dơ bẩn của bệnh giang mai bằng những chiếc là hồng, bằng những cánh hoa violet nguỵ thiện phản động. Nó dối trá và tuyên bố rằng con sông Danube xinh đẹp có màu lam, khi mà nước sông đã đỏ một màu máu… “ Và khi một tay phóng viên dám cả gan phỏng vấn ông, hỏi rằng ông nghĩ gì về nước Áo nhằm giật tít bán báo (chiêu trò của truyền thông mọi thời đại) thì ông đã mắng hắn xa xả, một lần nữa bộc lộ những lo lắng, giận dữ và cay nghiệt (thử tưởng tượng Hà Nội vừa bị Mỹ dội bom, mà có một ai đó phỏng vấn một ông người Việt ở Mỹ xem ông ta cảm thấy thế nào). Ở những đoạn này, Isherwood đã cho thấy một sự quan sát tinh tế, rất chân thật và có phần chua chát về sự thờ ơ của con người. Nếu biến loạn không diễn ra ở đất nước của bạn, thì mọi thứ chỉ nằm ở mục tin tức (thậm chí là giải trí, nếu nó có một tí dính dáng đến phim ảnh, nghệ thuật). Nhưng ở nơi xa đó, máu đã đổ, những con người bằng xương bằng thịt đã ngã xuống. Ta có thể làm ngơ chỉ vì nó không diễn ra ngay trước mắt ta. Tuy nhiên, bằng một cách nào đó, Bergmann và Isherwood, hai người vẫn tiếp tục hoàn thành bộ phim với toàn bộ tâm huyết. Và đó là cách mà ngành công nghiệp giải trí vận hành. Ai đó phải làm việc gì đó, dẫu bên ngoài kia đang có chuyện gì xảy ra, bởi rốt cuộc thì bạn không thể thay đổi thế giới. Bạn được sinh ra để làm tốt công việc của mình. Nó đã chọn bạn. Bạn cũng chọn gắn đời mình với nó. Ở những trang cuối của cuốn sách, Isherwood đã đặt ra một câu hỏi - điều then chốt mà chúng ta vẫn luôn đi kiếm tìm câu trả lời trong cuộc đời: Điều gì khiến chúng ta tiếp tục sống tiếp? Bạn thử nghĩ xem, những lần chúng ta cảm thấy quá sức mệt mỏi với cuộc đời này, áp lực, thất bại, tuyệt vọng… gì cũng được, đủ cả, điều gì đã ngăn bạn không tự sát? Có phải là một việc gì đó còn dang dở? Bố mẹ bỗng dưng gọi điện chẳng hạn. Ai đó nhắn đến deadline rồi nộp bài đi. Sắp đến ngày nhận lương. Những cơ hội còn bỏ ngỏ. Thực tế hơn, bỗng dưng đói bụng. Quá sợ hãi trước cái chết. Đấy, tóm lại có thể không muốn sống nhưng cũng không đủ can đảm để chết. Chúng ta không có một lý do nào đủ chính đáng cho sự chết cả. Nếu chẳng may (hoặc rất may), tình yêu bỗng dưng xuất hiện, vậy thì càng chẳng thể tự dưng lăn ra chết được nữa. Hoá ra lý do để sống rất đơn giản. Người ta đã và vẫn sẽ sống cùng với những nỗi sợ hãi, những lần tuyệt vọng, những lần phát điên phát rồ, phát chán ngán với những gì đang diễn ra trong đời mình, ngay trước mắt mình. Nhưng nó lại cũng là thứ định nghĩa nên cái “Tôi”. Bạn sẽ là ai nếu không có những nỗi sợ hãi đó, nhưng lần cô đơn đó?  Kết cục thì ông thú nhận rằng mình không bao giờ xem bộ phim đó, bộ phim do chính ông viết kịch bản lời thoại. Ở một góc độ nào đó, người nghệ sĩ, những tay mộng mơ nghiêm túc chân chính vẫn có những lúc chối bỏ chính đứa con tinh thần của mình. Bạn sẽ hiểu cảm giác này khi bạn phải làm một điều gì đó, đơn thuần là do sếp hoặc khách hàng yêu cầu thế, chứ bản thân thì thấy sai sai, thậm chí ghét cay ghét đắng. Cuộc đời nó lại trái ngang như vậy đấy. Ấy là tâm sự của tác giả Christopher Isherwood trong cuốn sách Hoa tím ngày xưa. Có vài chi tiết trong cuốn sách này tôi không thực sự hiểu, có lẽ do kiến thức về lịch sử còn hạn hẹp. Nhưng tóm lại thì đây cũng là một trải nghiệm đọc thú vị. Nó không lắt léo rồi trơn tuột như những cuốn trinh thám hay những cuốn tiểu thuyết diễm tình. Nó cũng không quá triết lý nặng nề. Nó hết sức vừa phải cả về tầm vóc lẫn giá trị, và hơn cả là nó thích hợp với người đọc là tôi đây, kể cả khi chỉ bắt được một vài dòng lưu vào bộ nhớ lâu lâu lôi ra suy nghiệm. *** Hoa Tím Ngày Xưa có lẽ là cuốn sách mỏng nhất mình đọc trong dạo gần đây, đâu đấy tầm 170 trang đổ lại bao gồm cả lời dẫn. Và nếu có lý do để Isherwood viết nó ngắn như vậy, thì có lẽ là vì đây không phải cuốn sách để đọc một lần. Vẫn là một Isherwood mình thích cực kì với câu chuyện về những nhân vật đặc biệt trong một bối cảnh chung đặc biệt – khoảng thời gian bức bối ngay trước Thế chiến II. Không giống như Người Chuyển Tàu với sự căng thẳng trực tiếp ở Berlin, Hoa Tím Ngày Xưa dùng các nhân vật để diễn đạt gián tiếp bầu không khí ấy ở giữa lòng London. London năm 1934, Christopher Isherwood nhận lời viết thoại cho bộ phim Hoa Tím Ngày Xưa (tên gốc là Prater Violet). Nhờ đó được gặp và làm việc với đạo diễn người Áo - Fiedrich Bergmann. Hai người cùng nhận lời mời của hãng phim Bulldog, viết kịch bản cho một bộ phim với ý tưởng mà ông chủ Chatsworth đưa ra. Khoảng thời gian ấy đã biến họ từ hai kẻ trái tính thành hai người bạn thân thiết không thể tách rời. Bergmann mở ra cho Isherwood cách nhìn mới trong nghệ thuật điện ảnh, còn Isherwood giúp ông phần nào nối kết với cuộc sống ở nước Anh.  Bộ phim họ làm lấy bối cảnh ở Vienna, cốt truyện là một cô gái bán hoa vô tình yêu phải một chàng Thái tử cải trang dân thường. Nghe thì có vẻ chỉ là một bộ phim tình cảm, nhưng nhìn theo tình hình chung thì lại không ổn tí nào. Đó là “một bộ phim lấy bối cảnh ở Áo với cốt truyện phù phiếm, kệch cỡm, tương phản đầy mỉa mai với tình hình chính trị gắt gao lúc bấy giờ”. Đặc biệt là quá trình quay chụp còn rơi vào khoảng thời gian căng thẳng diễn ra trong châu Âu lục địa. Bergmann đâm cáu kỉnh với sự thờ ơ của những con người London, nhất là khi tình hình từ Berlin đến Vienna trở nên bất ổn. “Anh thấy đó, tôi thấy cái ô của hắn cực kì biểu tượng. Đó là cái tính trọng thị của người Anh, nó nghĩ thế này: Mình có các truyền thống của mình, và chúng sẽ bảo vệ mình. Không thứ gì khó ưa, không thứ gì thiếu phong nhã lại có thể xảy ra bên trong khu vực riêng của mình. Cái ô đáng kính này chính là cây đũa thần của gã người Anh đó, là thứ hắn sẽ cầm ve vẩy cho Hitler mất dạng khỏi cõi đời. Khi Hitler thô lỗ từ chối không chịu biến mất, gã Anh đó sẽ mở ô ra và nói: Rốt cuộc, mình quan tâm gì một cơn mưa. Nhưng cơn mưa này sẽ là một cơn mưa bom và máu. Chiếc ô đó không phải thứ chống bom.” Bergmann là một nhân vật được mô tả là “có khuôn mặt của một tình cảnh chính trị, một thời đại... một khuôn mặt của Trung Âu”. Và đúng cái tính cách ông cũng như thế, nó có đủ sự rối ren và phức tạp của Châu Âu. Bergmann tinh tế trong điện ảnh, theo đuổi sự hoàn hảo trong điện ảnh, là một đạo diễn tài năng nhưng ngoài ra thì ông cộc tính, thích phô trương, dễ nổi nóng, đôi khi lại rất nhạy cảm. Ông lạc lõng giữa London với những kẻ mà ông cảm thấy là trịch thượng và không biết đồng cảm với nỗi đau nơi quê nhà ông đang gánh chịu. Nhưng ông vẫn luôn cố gắng làm tốt nhất công việc chuyên môn của mình, với ít nhiều nhờ có sự đồng hành của Isherwood. Hoa Tím Ngày Xưa là một cuốn tiểu thuyết ngắn được phân tích với rất nhiều tầng nghĩa bên trong. Từ phân tích về tính nhạy cảm, đến cuộc điều nghiên về sự tận hiến và đến cả những thứ xa hơn như mối quan hệ giữa con người với xã hội hay giữa con người với chính mình. Thực ra lúc đọc thì mình không để ý nhiều như thế, vì mình đọc dưới góc nhìn trải nghiệm thôi chứ không phải nhà phê bình. Chỉ sau khi đọc hết và quay lại đọc phần lời dẫn phân tích ở đầu sách thì mình mới ngạc nhiên vì hóa ra câu chuyện này có nhiều ẩn ý như thế. Ở khía cạnh dễ thấy nhất thì Hoa Tím Ngày Xưa là một cuốn sách viết về những người cống hiến hết mình vì nghệ thuật. Và mình thực sự rất thích tinh thần trách nhiệm được thể hiện xuyên suốt cuốn sách này. Họ theo đuổi nghệ thuật mà cụ thể là ở mảng điện ảnh theo từng cách rất riêng. Từ người tạo nên cốt lõi của bộ phim như Bergmann đến người thợ cắt phim, người dựng cảnh, hay cả những diễn viên. Dẫu có lúc họ vẫn bảo đây là một bộ phim ngu ngốc thì nó vẫn là đứa con tinh thần mà họ cố gắng hết mình vì nó. Cụ thể như khi Bergmann tức giận vì sự dối trá sau lưng mình nhưng ông vẫn không dứt khoát buông bỏ bộ phim. Vì cho dù nó ra sao thì nó cũng là tác phẩm do chính bàn tay ông nhào nặn. Tất nhiên vẫn còn nhiều khía cạnh khác trong Hoa Tím Ngày Xưa nhưng có lẽ bạn nên tự trải nghiệm để hiểu rõ hơn về nó. Một câu chuyện ngắn được kể với mạch thời gian vài tháng, có lúc nhanh có lúc chậm hẳn sẽ không làm bạn buồn chán đâu. Chỉ cần một buổi để bạn ngốn hết những ngày vật lộn của Bergmann và Isherwood. Và bạn sẽ thấy cách những thước phim ra đời, từ bộ phim về cô gái bán hoa violet đến một bộ phim lớn đang diễn ra trên cả châu Âu. Đánh giá cá nhân: 4/5 Hoàng Linh Mời các bạn mượn đọc sách Hoa Tím Ngày Xưa - Christopher Isherwood & Đoàn Duy (dịch).
Du Khách Bất Đắc Dĩ
Macon Leary thường xuyên du hý khắp châu Âu và nước Mỹ để viết sách cẩm nang du lịch. Với nhiều người, đó hẳn là công việc trong mơ. Tuy nhiên tất cả những gì Macon khuyên độc giả của anh lại nhằm mục đích: Làm thế nào để có được cảm giác như ở nhà trong mỗi chuyến đi. Bởi vì anh là một du khách bất đắc dĩ. Trên đường đời cũng vậy. Macon luôn luôn bình lặng đón nhận những đổi thay của cuộc sống, dù đó là niềm vui nho nhỏ hay mất mát lớn lao. Nhịp điệu đều đặn ngày thường đã trở thành sự yên ủi bất tận với anh. Cho đến một ngày kia, trong rạo rực của khu phố nghèo dưới nắng đầu xuân, giữa đống quần áo cũ quăng bừa bộn, nơi gian bếp ấm áp đượm mùi cà phê và bánh nướng của một người phụ nữ đầy sức sống, lần đầu tiên anh đưa ra một quyết định lớn cho cuộc đời của chính mình... Du khách bất đắc dĩ là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Mỹ nổi tiếng Anne Tyler, được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Anne Tyler sinh ngày 25 tháng Mười năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota. Mười chín tuổi bà tốt nghiệp Đại học Duke, và hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngành Nga học tại Đại học Columbia (New York). Bà làm công việc thủ thư và sưu tầm danh mục một thời gian rồi chuyển tới Maryland. Năm 1963, Tyler kết hôn với Taghi Mohammad Modarressi, nhà tâm thần học đồng thời là tiểu thuyết gia người gốc Iran. Họ có hai con gái. Năm 1997, Modarressi qua đời. Tyler vẫn tiếp tục sống tại Baltimore (Maryland), vùng đất đã trở thành bối cảnh cho hầu hết tác phẩm của bà. Sự nghiệp văn học của Anne Tyler có nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên bà là người khiêm tốn, không khoa trương. Bà không tổ chức các chuyến đi tuyên truyền sách, không phỏng vấn trực tiếp mà chỉ trả lời email, cũng không xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Cuốn tiểu thuyết thứ chín với nhan đề Dinner at the Homesick Restaurant, tác phẩm bản thân bà hài lòng nhất, đã lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1983. Cuốn tiểu thuyết thứ mười một của bà, Breathing Lessons, đã giành được giảithưởng Pulitzer năm 1989. The Accident Tourist (Du khách bất đắc dĩ) cũng là một cuốn sách hết sức thành công của Anne Tyler, tác phẩm được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim vào năm 1988 với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Họ đã nghĩ sẽ ở lại bãi biển một tuần, nhưng chẳng ai cảm thấy hứng thú gì nên quyết định quay về sớm. Macon lái xe. Sarah ngồi ghế bên cạnh anh, đầu tựa vào của xe. Những mảng trời đầy mây lấp ló sau những lọn tóc nâu rối tung của cô. Macon mặc một bộ vest mùa hè chỉn chu, bộ anh vẫn thường mặc mỗi khi đi du lịch - anh luôn cho rằng so với đồ jean thì bộ này phù hợp cho du lịch hơn nhiều. Quần jean thì cứng, đường may thô mà lại có nhiều đinh rivê. Sarah mặc chiếc đầm hở vai bằng vải bông - loại thường mặc khi dạo biển. Trông họ giống như đi nghỉ về từ hai nơi hoàn toàn khác nhau. Sarah có làn da rám nắng, còn Macon thì không. Anh có dáng người cao lớn, đôi mắt màu xám, nước da trắng xanh, tóc hoe vàng được cắt tỉa gọn gàng. Và làn da anh mỏng đến độ rất dễ bắt nắng. Anh hầu như chẳng bao giờ bước chân ra ngoài vào buổi trưa. Xe vừa chạy lên đường cao tốc thì bầu trời chợt tối sầm lại và dăm ba hạt mưa khổng lồ quất lộp bộp vào kính chắn gió. Sarah ngồi bật dậy, “Mong sao trời không mưa.” Macon bảo, “Mưa ít ít thì chả sao.” Sarah trở lại tư thế cũ, nhưng mắt dán vào con đường trước mặt. Ấy là một buổi sáng thứ Năm. Trên đường không có nhiều xe cộ. Họ vượt qua một chiếc xe tải nhỏ không mui, rồi một chiếc xe tải cỡ lớn trên thùng chi chít miếng nhãn dính lòe loẹt nhưng cũng khá bắt mắt. Mưa quất vào kính chắn gió mỗi lúc một dày hơn, dữ dội hơn. Macon bật cần gạt nước. cần gạt nước đưa qua đưa lại với âm thanh đều đều soàn soạt soàn soạt và mưa đã bắt đầu tí tách xuống mui xe. Thi thoảng một cơn gió mạnh ào tới. Mưa ập xuống rạp cả những vạt cỏ úa dài hai bên đường. Mưa xiên thẳng xuống các bến thuyền, những trại gỗ, các cửa hàng nội thất giảm giá, mọi thư trông tối sầm mù mịt như thể mưa đã đến từ lâu lắm rồi. “Thấy đường chứ anh?” Sarah lên tiếng. Macon bảo, “Hẳn rồi, có gì đâu.” Xe họ đang ở ngay sau một xe moóc vói hai bánh sau xé nước mưa trên đường thành những vạt nước hình vòng cung. Macon đánh tay lái sang trái và vượt. Một màn nước dày đặc táp thẳng vào hông phải xe họ, rồi chiếc xe moóc tụt lại phía sau. Sarah bấu chặt một tay vào bảng đồng hồ xe. “Thật không hiểu anh làm thế nào thấy đường mà lái như vậy,” cô nói. “Có lẽ em nên đeo kính của em vào.” “Anh có thể nhìn đường nếu đeo kính của em hả?” “Không phải anh, em ấy,” Macon nói. “Em cứ để ý kính chắn gió thay vì nhìn đường.” Sarah tiếp tục bấu lấy bảng đồng hồ xe. Khuôn mặt cô khoáng đạt và trầm mặc khiến người ta có cảm giác cô đang điềm tĩnh, nhưng nếu nhìn gần một chút có thể thấy nét căng thẳng ánh lên nơi khóe mắt cô. Chiếc xe quây lấy họ như một căn phòng. Hơi thở họ phả ra làm mờ cả các cửa kính. Mới đây điều hòa chạy và đến giờ vẫn còn quanh quất chút hơi lạnh phả ra từ máy, thoáng cái không khí trong xe đã chuyển sang ngột ngạt khó chịu kèm theo mùi ẩm mốc. Xe phóng nhanh qua một đường hầm. Ngay lập tức không còn cảm thấy mưa nữa. Sarah chực thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô chưa kịp thở phào thì tiếng mưa đã lại đập liên hồi lên mui xe. Cô ngoái nhìn khắc khoải về phía đường hầm. Macon tiếp tục nhấn ga về phía trước, tay đặt lơi trên vô lăng. “Anh có thấy cậu bé với chiếc mô tô không?” Sarah lên tiếng. Cô phải nói thật to, cố át đi cái âm thanh ầm ĩ dai dẳng ở bên ngoài. “Cậu bé nào?” “Cái cậu dựng xe bên dưới đường hầm ấy.” “Thật khùng điên mới đi mô tô vào lúc thời tiết như thế này,” Macon nói. “Mà chẳng cứ gì hôm nay, thật điên khùng mới đi mô tô. Em cứ hay để ý những thứ vặt vãnh.” “Ta có thể làm vậy mà,” Sarah bảo. “Dừng xe lại đợi mưa tạnh rồi hãy đi anh à.” “Sarah, nếu cảm thấy chúng mình sẽ gặp nguy hiểm dù chỉ một chút thôi, anh đã tấp vào vệ đường lâu rồi.” “Ồ, em không biết là anh đã có ý như thế đấy." Họ chạy ngang qua một cánh đồng, ở đây mưa dường như nặng hạt hơn, từng mảng từng mảng nước lớn ập xuống oằn những thân ngô, ngập cả những rãnh đất. Vô số vạt mưa khổng lồ tiếp tục quất thẳng vào tấm kính chắn gió. Macon chuyển cần gạt sang tốc độ nhanh hơn. Em không biết anh thật sự để ý nhiều đến điều đó,” Sarah bảo. “Phải chứ?” “Để ý?” “Có một ngày em đã nói với anh, em bảo, ‘Macon, Ethan đã bỏ chúng ta mà đi, thế nên có đôi khi em tự hỏi cuộc sống này còn ý nghĩa gì nữa không.’ Anh có nhớ đã trả lời ra sao không?” “À, anh chưa thể nhớ ngay được.” “Anh đã nói, ‘Em yêu, nói thật, dường như với anh chưa bao giờ có nhiều ý nghĩa để bắt đầu.’ Chính xác lời anh nói đấy.” “Ừm...” “Và anh thậm chí cũng không biết điều đó có gì không ổn.” “Không, chắc là anh không biết.” Xe chạy ngang qua một hàng dài ô tô đậu ngay bên đường, cửa kính mờ đục, mưa rơi trên mặt kính trơn bóng nảy lên những đốm nước trắng lóa. Có một chiếc xe hơi nghiêng như thể sắp đổ xuống dòng bùn đục ngầu bị khuấy tung đang chảy trong rãnh. Macon vẫn duy trì vận tốc cũ. “Chẳng bao giờ anh làm cho em cảm thấy được an ủi,” Sarah nói. “Em yêu, anh đang cố làm điều ấy mà.” “Anh chỉ sống theo cách anh từng sống trước đây. Công việc hàng ngày tầm thường, những lề lối, những thói quen nhàm chán, ngày nào cũng thế. Chẳng có chút gì khiến em có cảm giác được an ủi.” Chứ em nghĩ anh không cần được an ủi sao?” Macon hỏi. "Đâu phải một mình em, Sarah. Anh không hiểu sao em cứ cho rằng nỗi mất mát ấy chỉ có riêng em chịu.” “À, đôi lúc em nghĩ thế thật.” Họ im lặng một hồi. Một vũng nước rộng, có vẻ như thế, ở ngay giữa đường dội nước ngược lên gầm khiến xe đảo sang bên phải. Macon ghìm phanh, rồi chạy tiếp. “Cơn mưa này, chẳng hạn,” Sarah nói. “Anh biết nó khiến em hoảng sợ. Đợi một chút thì có hại gì cơ chứ? Lẽ ra anh nên tỏ ra quan tâm đến cảm giác của em. Lẽ ra anh nên nói với em rằng, có anh ở đây, bên cạnh em lúc này, chẳng còn gì phải lo lắng nữa.” Macon chăm chú nhìn qua kính chắn gió, nước mưa chảy thành dòng trên kính khiến nó trông như cẩm thạch. Anh lên tiếng, “Sarah, anh biết cách. Em biết là anh lái đúng lề lối mà.” “Dẹp anh và những cái cách chết tiệt của anh đi!” “Thêm nữa,” anh tiếp, “nếu em không tìm thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống, anh chẳng thể hiểu nổi tại sao một cơn mưa lớn lại khiến em căng thẳng.” Sarah ngồi thụp xuống ghế. “Nhìn kìa!” anh nói. “Một cái nhà lưu động đã bị hất tung qua bãi đậu xe moóc kìa.” “Macon, em muốn ly hôn,” Sarah lên tiếng. Macon đạp phanh và liếc nhanh sang cô. Cái gì? Chiếc xe loạng choạng. Anh lại phải hướng mắt về phía trước. “Anh đã nói gì chứ? anh hỏi. “Em nói vậy là có ý gì?” “Chỉ là em không thể sống cùng anh được nữa.” Macon tiếp tục dõi mắt về con đường phía trước, nhưng mũi anh dường như buốt hơn và nhợt hơn, như thể toàn bộ da mặt anh bị kéo căng. Anh hắng giọng, “Em yêu. Nghe này. Một năm qua thật khó khăn. Chúng mình đã phải trải qua một quãng thời gian đầy khó khăn. Ai mất con cũng thấy như vậy; ai cũng nói như thế; ai cũng cho rằng chuyện đó khiến vợ chồng sống trong căng thẳng...” “Em muốn tìm chỗ ở riêng cho em ngay khi mình về đến nhà,” Sarah nói với anh. “Chỗ ở riêng cho em,” Macon lặp lại lời vợ, nhưng giọng anh quá nhẹ, mà mưa ngoài trời đập vào mui xe thì quá ầm ĩ, nên giống như anh chỉ mấp máy môi. “À, được. Nếu em thật sự muốn vậy.” “Anh có thể giữ lại ngôi nhà ấy. Anh không bao giờ thích chuyển đi mà.” Vì một lý do nào đó, đây chính là điều rốt cuộc khiến Sarah thấy sụp đổ. Cô vội quay đi. Macon bật đèn xi nhan bên phải lên. Anh rẽ vào ga Taxeco, đỗ lại bên dưới mái hiên, tắt máy. Anh xoa xoa lòng bàn tay vào hai đầu gối. Sarah dúi mình vào một góc ghế xe. Âm thanh duy nhất còn nghe thấy được là tiếng mưa rơi vỗ lên mái hiên ở phía xa bên trên đầu họ. Mời các bạn mượn đọc sách Du Khách Bất Đắc Dĩ của tác giả Anne Tyler & Dạ Thảo (dịch).
Tuần Đêm
Ít ai biết được rằng ở Matxcơva, trong vẻ huy hoàng lộng lẫy của thành phố này, kể cả vào ban đêm, lại có biết bao chuyện kỳ lạ xảy ra, phía trên mặt đất và sau một tầng thế giới khác nữa thường được bóng u minh bao phủ. Tuần Đêm - tiểu thuyết giả tưởng, pha một chút kinh dị lại mang rất nhiều yếu tố của trinh thám hình sự, đưa người đọc lạc vào thế giới của những-người-khác mà Lukianenko đã vẽ nên bằng trí tưởng tượng tuyệt vời của mình qua một loạt những cuộc phiêu lưu trong không gian lạ, để bạn nhìn thấy chính mình trong cái gọi là cuộc chiến giữa Thiện và - Ác, cảm nhận nỗi hoang mang khi đứng giữa lằn ranh mong manh của Ánh sáng và Bóng tối. Cuốn sách có triết lý lạnh lùng, lại được viết bằng ngòi bút sắc sảo của một nhà văn từng là bác sĩ tâm thần: cái Thiện, cái Ác trong thế giới này thậm chí đã nương vào nhau mà song song tồn tại, cái Thiện có thể thắng nhưng không thể triệt tiêu cái Ác, những con người của cái Thiện đôi khi cũng cần đến những thủ đoạn không được trong sạch lắm để giành phần thắng – để làm việc thiện, đôi lúc cũng phạm tội ác! *** Đầu năm 2010, tạp chí Expert đã công bố danh sách 10 nhà văn Nga đương đại nổi tiếng nhất theo bình chọn của tạp chí và độc giả. Sergey Lukianenko đứng thứ năm, được Expert đánh giá là “nhà văn vừa giữ được những giá trị truyền thống của văn học Nga, lại là một trong những tác giả thời thượng hiếm hoi của Nga theo đuổi thành công thể loại giả tưởng”. Sergey Lukianenko (bìa phải) trong một buổi chuẩn bị ra mắt phim Tuần đêm tại Saint Petersburg - Ảnh: barros.rusf.ru Ông được công nhận là nhà văn có tác phẩm được điện ảnh hóa nhiều và nhanh nhất từ trước đến nay. Ba cuốn sách của ông đã được chuyển thể thành phim (Tuần đêm, Tuần ngày và Hôm nay, mẹ ạ). Trong tương lai gần người ta đang chuẩn bị khai thác thêm một vài kịch bản phim nữa và đưa ra những phiên bản game online Tuần đêm ngày càng phức tạp, hoàn thiện. Vì sao có khi tội ác không bị trừng trị? Với nhân vật chính là Anton Gordetsky, một công dân bình thường của thủ đô nước Nga, câu chuyện Tuần đêm xoay quanh cuộc sống của anh ta giữa những nhân vật kỳ bí: ma cà rồng, người sói, những phù thủy tà giáo, minh giáo nhiều phép thuật, những con người biết biến hình vào những tầng lớp hiện thực được gọi là những tầng U Minh, công lực càng cao càng xuống được sâu hơn, nơi thế giới không còn màu sắc nhưng lại có những phép biến ảo kỳ lạ làm thay đổi hành vi đời sống... Thế nhưng, sức hấp dẫn của Tuần đêm quyết không phải ở những pha gay cấn, kinh dị hay huyền ảo ma quái (chất này so với phim Mỹ thì chưa “đủ đô”!), mà ở chỗ Tuần đêm đưa ra một cách lý giải thế giới độc đáo, bất ngờ không kém phần thuyết phục. Chẳng hạn, những bất hạnh, buồn khổ của con người do chính con người tạo ra cho nhau, bằng những lời nguyền rủa hoặc được thốt lên một cách độc địa, hoặc âm thầm tàn hại người ta. Hiện thân của những lời tàn ác ấy là những chiếc phễu đen xoay chầm chậm trên đầu... Từ đó mà xảy ra chiến tranh, thiên tai và những điều tồi tệ khác... Rồi những quầng sáng trên đầu mỗi người mà chỉ những người khác mới nhìn thấy được, chính là một dạng “chứng minh thư” trong đời, vừa làm nên khác biệt của con người trong đám đông, lại cho một hình dung rõ nét về bản chất và số phận của người. Đọc Tuần đêm, bạn đọc sẽ có cho mình lời đáp của một loạt câu hỏi: Vì sao đôi khi tội ác không bị trừng trị? Vì sao trong nhiều trường hợp, người ta không thể tùy tiện làm điều thiện mà tất cả đều phải tuân theo những nguyên tắc khắc nghiệt của một bản đại giao ước giữa ánh sáng và bóng tối? Hai thế lực tưởng chừng đối lập nhau hoàn toàn về lợi ích lại có thể đi đến những thỏa hiệp gì để giữ gìn sự cân bằng của thế giới? Cái ác được cấp “giấy phép” dưới hình thức nào và ai cầm cân nảy mực để những môn đồ thiện - ác hành động theo giao ước đã được đặt ra? Ngọn nguồn của lòng hận thù, sự lãnh đạm và cả tình yêu... - những vấn đề gần gũi của cuộc sống lẫn những biến động to lớn của lịch sử được tác giả Sergey Lukianenko bình thản cắt nghĩa bằng giọng văn khá trầm tĩnh, không chạy theo tốc độ, nhưng với cách cắt đặt lớp lang khéo léo không lộ ý, nhà văn từng là bác sĩ tâm thần này đã luôn khiến người đọc chấn động khi những câu chuyện nhỏ của Tuần đêm khép lại trang cuối cùng. Điều thú vị ở truyện kỳ ảo của Sergey Lukianenko chính là tính logic chặt chẽ trong thế giới tưởng chừng không có thật, nhưng lại được lý giải một cách khoa học, dễ chấp nhận về cả lý và tình. Tác giả khiến ta hiểu rằng tiểu thuyết kỳ ảo không phải là thể loại khoa học viễn tưởng với những tưởng tượng táo bạo về tương lai có thể một lúc nào đó sẽ trở thành sự thật. Ở đây, thế giới được giải mã thông qua diễn biến tâm lý nhân vật. Những triết lý về cuộc sống của những người khác góp phần làm sáng tỏ cách sắp đặt thế giới ngày càng đảo điên của những người thường. Sergey Lukianenko, sinh năm 1968, là một trong những cây bút ăn khách và có sức viết hàng đầu của nền văn học đương đại Nga thế kỷ 20-21, tác giả của một loạt tiểu thuyết, truyện vừa và kịch bản điện ảnh thể loại giả tưởng. Bắt đầu từ truyện ngắn đầu tay Hành vi xấu (1988), cho đến nay trung bình mỗi năm Lukianenko cho ra đời hai cuốn tiểu thuyết và đều được đón nhận nồng nhiệt. Ngoài cuốn Tuần đêm, Lukianenko đã từng đến với bạn đọc Việt Nam qua Mê cung ảnh (NXB Lao Động, Phương Hoài dịch) cách đây năm năm. Là bác sĩ tâm thần, những tiểu thuyết kỳ ảo của ông đặc biệt có tác động mạnh đến cảm nhận tâm lý của người đọc. Ông là “hot blogger” với trang blog nổi tiếng “doctor-livsy”, nhưng trang blog này đã phải đóng cửa sau một entry “nhạy cảm” về nước Mỹ và những vấn đề xung quanh chuyện người nước ngoài nhận con nuôi người Nga. *** Thang cuốn bò một cách chậm chạp, thẳng căng. Ga cũ rồi mà, biết làm sao. Ngược lại, gió thả sức thổi cuộn lên trong đường ống bê tông, vò rối tóc người, kéo xếch mũ áo khoác, luồn dưới khăn quàng và đẩy người xuống phía dưới. Gió không muốn Egor đi lên. Gió đòi người quay bước. Lạ thật - tuồng như chung quanh không một ai nhận ra sự hiện diện của gió cả. Bấy giờ ở đây cũng chẳng có mấy người - nhà ga về nửa đêm đã vắng. Dăm người đi ngược chiều, còn cùng phần thang với Egor hầu như chẳng có ai: một người đứng trước, hai hay ba người phía sau. Hết. Nếu không tính đến một nhân vật nữa - là gió! Egor đút tay vào túi, ngả người về phía sau. Khoảng hai phút từ lúc mới bước ra khỏi tàu, cái cảm giác có ánh mắt người lạ không rời cậu. Không hiểu sao hoàn toàn không phải cảm giác hãi sợ, mà nó phê phê, cảm giác, nhoi nhói lên như mũi tiêm. Ở đầu thang cuốn, nơi bắt đầu thang lên, có một người đàn ông mặc đồng phục. Không phải công an, mà là quân nhân. Tiếp đó là một phụ nữ đi cùng bé con ngái ngủ, bám vào tay mẹ. Nữa là một thanh niên trẻ, mặc áo khoác màu cam sặc sỡ, đeo tai nghe. Có vẻ như anh ta cũng ngủ trên đường. Không có gì đáng ngờ cả. Kể cả đối với một cậu bé đương về nhà vào giờ quá muộn. Một lần nữa, Egor lại nhìn lên trên - thấy một chú công an dựa người vào thanh vịn sáng loáng, rầu rĩ soi giữa đám hành khách xem có con mồi dễ vồ nào không. Chẳng có gì đáng sợ. Gió xô Egor lần cuối và lặng đi - dường như đã cam chịu, đã hiểu rằng gắng đấu sức cũng hoài công. Cậu bé lại nhìn về sau rồi bắt đầu chạy theo những bậc thang đang cuốn nhàu đi dưới chân. Lẽ ra phải rảo bước lên mới đúng. Không hiểu tại sao lại phải thế. Một lần nữa cậu lại bị chích nhói vào người, một cách vô lý và bất an, luồng khí lạnh lướt ngang qua cổ. Vẫn là gió. Egor co giò phóng qua cánh cửa mở hé, và cái lạnh sắc ngọt ào vào cậu với một sức mạnh mới. Mái tóc hãy còn ẩm sau khi đi bơi - cái máy sấy lại hỏng - lập tức đông đá. Egor kéo sụp cái mũ áo khoác xuống thấp hơn, chạy một mạch ngang qua mấy sạp hàng, hụp ngay xuống đường ngầm. Trên mặt đất, người đông hơn nhiều, nhưng nỗi lo ngại không hết được. Thậm chí cậu còn ngoái lại, chân vẫn không chậm bước - nhưng không ai theo dõi cậu cả. Người phụ nữ đi với con đang hướng về phía bến tàu điện, thanh niên đeo tai nghe dừng lại bên những ki-ôt, ngắm nghía hàng chai lọ, đồng chí quân nhân thì vẫn chưa bước ra khỏi metro. Cậu bé đi dọc đường ngầm, càng lúc càng rảo chân và rảo chân hơn nữa. Có tiếng nhạc từ đâu đó vang lên - khe khẽ, khó nghe, nhưng dễ chịu kỳ lạ. Giọng thanh thanh của ống tiêu, tiếng lao xao của dây đàn ghi-ta, âm rung lanh lảnh của bộ đàn gõ. Tiếng nhạc mời gọi, tiếng nhạc giục giã. Egor tránh nhóm người đi ngược chiều, đuổi kịp một người đàn ông vui nhộn say liêng biêng, lê bước chậm chạp. Mọi suy nghĩ tuồng như bay hết ra khỏi đầu, cậu đã gần như chạy. Tiếng nhạc đang gọi. Giờ trong nhạc đã có lời quện vào… dẫu còn lơ mơ chưa rõ tiếng, quá khẽ, nhưng lại gọi mời đến thế. Egor nhảy ra khỏi đường ngầm, dừng lại một giây nuốt một ngụm khí lạnh. Vừa lúc chiếc xe điện bánh hơi cũng lướt đến bến. Nó đợi vài giây, các cửa lên xuống mở toang, rồi khép lại, rời bến. Egor lờ đờ nhìn theo dấu chiếc xe - tiếng nhạc càng lúc càng vang lên to hơn, tràn ngập cả thế giới, từ cái khách sạn cao tầng hình bán nguyệt cho đến “cái hộp có chân” thấp thoáng không xa - nhà của cậu. Tiếng nhạc rủ cậu đi bộ. Dọc theo đại lộ được chiếu sáng rỡ, nơi tận giờ này vẫn có không ít người đi lại. Chỉ cần độ năm phút để đến chân cầu thang. Còn để đến với tiếng nhạc lại cần ít phút hơn. Egor cũng kịp đi được quãng trăm mét cho đến lúc tòa nhà khách sạn thôi không che gió cho cậu được nữa. Luồng băng giá quật vào mặt, gần như át hẳn tiếng nhạc mời gọi. Cậu lắc lư người, dần dừng lại. Trạng thái mông lung ma mị tan biến, song cái cảm giác về ánh mắt người lạ lại trở về - lần này thì cảm giác ấy còn quyện chặt với nỗi hãi hùng. Cậu ngoảnh lại - thêm một chiếc xe điện bánh hơi đang trờ về bến. Và trong ánh sáng của đèn đường thấp thoáng bóng áo màu cam sặc sỡ. Gã thanh niên đã đi lên cùng cậu trên thang cuốn, giờ theo sát gót. Mắt vẫn cứ khép hờ, nhưng gã đột nhiên đi nhanh và gắng sức hơn - như thể nhìn thấy Egor. Cậu bé bỏ chạy. Tiếng nhạc lại vang lên với sức ngân mới, xuyên thủng màn gió. Cậu đã có thể phân biệt được lời hát… cậu có thể, nhưng không muốn. Bây giờ chuẩn nhất là đi dọc theo đại lộ, ngang qua những cửa hiệu đóng cửa nhưng sáng đèn, đi sát những khách bộ hành đêm muộn, để lộ mình ra trong ánh đèn những chiếc ôtô đang phóng trên đường. Nhưng Egor lại rẽ vào một cái ngách cổng. Tiếng nhạc gọi cậu đến đó. Ở đây gần như tối hoàn toàn - chỉ có ở bên tường hai bóng đen lay động. Egor nhìn thấy chúng như nhìn qua màn sương mù, như thể chúng được chiếu hắt lên bởi một thứ ánh sáng xanh lè chết chóc. Một thanh niên và một thiếu nữ, còn trẻ, mặc rất mỏng, cứ như ngoài trời không phải âm hai mươi độ vậy. Tiếng nhạc lại dội lên lần cuối - chói óc và đắc thắng. Rồi im bặt. Egor có cảm giác toàn thân mềm nhũn. Người cậu ướt đẫm mồ hôi, chân đứng không vững, chỉ muốn ngồi bệt xuống vỉa hè trơn chuội vì phủ một lớp bùn đóng đá. - Trông ngon đấy… - đứa con gái khẽ nói. Cô ta có gương mặt thanh mảnh, má hóp, nước da tai tái. Mỗi đôi mắt là có vẻ sống động - đen, to và cuốn hút. - Để lại tí chút chứ… - gã thanh niên bảo. Mỉm cười. Hai người giống nhau như hai anh em ruột - không phải giống ở nét mặt mà ở một thứ gì đó khó nắm bắt, cùng chung cho cả hai, bao trùm lên họ từ bên trên, như thể một tấm voan bụi mờ ảo. - Để cho anh á? - Trong một thoáng, cô nàng rời mắt khỏi Egor. Trạng thái đờ đẫn hơi hẫng đi, song nỗi sợ hãi lại ập đến. Cậu bé mở miệng - nhưng bắt gặp ánh mắt của gã kia, và không thể nào kêu lên được. Cậu như bị quấn chặt bằng một tấm cao su lạnh. - Ừ. Giữ nó đi! Đứa con gái phì cười giễu cợt. Chuyển ánh nhìn sang Egor, chúm môi lại như đang hôn gió. Ả cất giọng khẽ phát ra những từ giờ đã thành quen thuộc - những lời từng quện vào tiếng nhạc gọi mời. - Lại đây… lại đây với ta… Egor đứng như trời trồng. Không đủ sức chạy nữa, dù cậu đang sợ phát khiếp, tiếng thét trong cổ vụn vỡ và nghẹn tắc. Cậu chỉ có thể đứng sững yên một chỗ. Một người đàn bà dắt hai con bec-giê to khỏe đi ngang qua ngách cổng. Chầm chậm, gò bước, như thể cử động dưới nước, như thể đang hiện đến trong một giấc mơ hãi hùng. Egor liếc thấy hai con chó vùng vằng, cố sấn đến phía ngách cổng - và trong lòng cậu bùng lên hy vọng mãnh liệt. Hai con chó gầm gừ, nhưng có vẻ không tự tin sao đó, vừa căm giận vừa hoảng sợ. Người đàn bà dừng lại một thoáng, nghi ngờ nhìn khe cổng. Egor bắt được ánh nhìn của bà ta - ánh nhìn của người không nhìn thấy gì, dường như xuyên qua một khoảng trống. - Đi thôi! - bà ta kéo dây xích, và lũ chó nhanh nhảu lùi về phía chân bà. Gã trai cười khẽ. Người đàn bà bước dấn lên, và đi khuất. - Thằng oắt kia, anh nhìn kìa, nó không đi! - đứa con gái nhõng nhẽo kêu lên - Nó đứng yên kìa! - Mạnh hơn lên, - gã trai nói ngắn gọn. Cau có - Học cách đi. - Lại đây! Lại đây với ta! - đứa con gái nói giọng căng thẳng. Egor đứng cách cô ta độ hai mét, nhưng có vẻ như cô nàng rất cần thấy cậu tự đi qua khoảng cách ấy. Rồi Egor hiểu ra rằng mình không còn sức chống cự nữa. Ánh mắt cô gái giữ nguyên, dính chặt vào sợi dây trói cao su vô hình, lời cô ta kêu gọi, và cậu bé chẳng thể nào điều khiển nổi mình. Biết là không nên bước - nhưng vẫn bước. Cô gái mỉm cười - hàm răng trắng đều sáng lóe lên. Nói: - Tháo khăn quàng ra. Cậu đã không còn cưỡng lại nổi. Đôi tay run rẩy gỡ chiếc mũ áo khoác, giằng chiếc khăn mà không tháo vòng cuốn. Bước đến trước đôi mắt đen đang gọi. Có điều gì đó xảy ra với gương mặt đứa con gái. Hàm dưới trễ ra, răng nghiến trèo trẹo. Những chiếc răng nanh dài, đã không còn là răng người nữa, sáng lóa. Egor bước thêm bước nữa. Mời các bạn mượn đọc sách Tuần Đêm của tác giả Sergey Lukianenko & Thụy Anh (dịch).