Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm

Tại sao lại có quá nhiều khoảng cách giữa những điều mà các công ty biết là họ nên làm với những việc họ thực sự làm? Tại sao lại có quá nhiều các công ty không thể áp dụng những kinh nghiệm và kiến thức mà họ đã phải rất nỗ lực mới tích lũy được? Khoảng cách từ nói đến làm (The Knowing-Doing Gap) là cuốn sách đầu tiên đối mặt với thách thức biến kiến thức về cách nâng cao hiệu suất hoạt động thành hành động thực sự tạo ra những kết quả có thể định lượng được. Trong cuốn sách này, Jeffrey Pfeffer và Robert Sutton, những tác giả và giảng viên nổi tiếng, đã xác định nguyên nhân của khoảng cách từ-biết-tới-làm và đưa ra cách lấp đầy khoảng cách đó. Thông điệp trong cuốn sách rất rõ ràng - các công ty muốn biến kiến thức thành hành động phải tránh xa "bẫy nói suông"(smart talk trap). Những kế hoạch, phân tích, cuộc họp, buổi trình bày của nhà điều hành để truyền cảm hứng cho công việc không thể thay thế cho hành động. Những công ty mà hành động dựa trên kiến thức sẽ loại bỏ được nỗi sợ hãi, sự cạnh tranh nội bộ, biết được cái gì quan trọng và củng cố vai trò người lãnh đạo, người vốn hiểu rõ công việc của từng nhân viên trong công ty. Các tác giả lấy ví dụ từ hàng tá công ty để chỉ ra tại sao một số có thể vượt qua khoảng cách từ-biết-đến-làm, một số dù cố nhưng không thể và một số khác tránh được ngay từ đầu. Khoảng cách từ nói đến làm chắc chắn là cuốn sách hữu ích đối với những giám đốc điều hành ở mọi nơi trên thế giới hàng ngày đang phải đấu tranh để giúp công ty của họ vừa biết lại vừa làm được những gì họ biết. Đây là một cẩm nang thực tế, hữu ích trong vấn đề nâng cao hiệu quả hoạt động trong doanh nghiệp ngày nay. TÁC GIẢ : Jeffrey Pfeffer là một nhà lý luận kinh doanh người Mỹ. Ông là giáo sư chuyên về Hành vi tổ chức tại Trường Cao học Kinh doanh thuộc Đại học Stanford, và được coi là một trong những nhà tư tưởng có ảnh hưởng sâu rộng nhất hiện nay. Robert I. Sutton là giáo sư Khoa học và Kỹ thuật Quản lý tại Đại học Stanford. Sutton đã viết 5 quyển sách trong đó có "The No A** hole Rule: Building a Civilized Workplace and Surviving One That Isn't" nằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times và đã giành giải Quill Award dành cho sách kinh doanh hay nhất năm 2007. *** Biết phải làm gì thôi chưa đủ Tại sao chúng ta đổ bao công sức vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, nghiên cứu kinh doanh, rồi sách vở, bài viết, nhưng lại có quá ít thay đổi trong hành động thực tế của các nhà quản lý và tổ chức? Năm 1996 có hơn 1.700 cuốn sách kinh doanh được xuất bản ở Hoa Kỳ, và con số này ngày càng tăng. Rất nhiều trong số đó chứa đầy những phân tích và công thức giống nhau, chỉ khác về ngôn ngữ và hình ảnh, và đặc biệt, chẳng có gì khác những cuốn sách được xuất bản trước đó. Trên thực tế, vô số ý tưởng tự xưng là mới ra năm nay đều đã xuất hiện trong những cuốn sách được in từ hàng thập kỷ trước. Dù thế, các cuốn sách mới này vẫn được thị trường đón nhận vì những ý tưởng đó vẫn chưa được thực hiện dù được coi là hữu dụng và được nhiều người biết đến. Vì vậy, các tác giả vẫn tiếp tục cố gắng, một phần bằng cách thay đổi mẫu mã kiểu dáng và cập nhật thông tin, để làm thế nào đó khiến các nhà quản lý không chỉ biết, mà còn áp dụng những gì họ nắm được. Và các nhà quản lý tiếp tục mua những cuốn sách đầy rẫy những điều họ đã biết bởi họ hiểu rằng chỉ biết thôi chưa đủ. Họ hy vọng rằng việc mua và đọc thêm một cuốn sách, biết đâu đấy, sẽ chuyển hóa kiến thức đó thành hành động tổ chức. Mỗi năm, các tổ chức đổ hơn 60 tỷ đô-la vào đào tạo, đặc biệt là đào tạo quản lý. Phần nhiều trong các hoạt động đào tạo đó, với những chủ đề như Quản lý Chất lượng Toàn diện (Total Quality Management − TQM), dịch vụ khách hàng, xây dựng lòng trung thành của khách hàng, khả năng lãnh đạo và thay đổi cơ cấu, đều dựa trên những kiến thức và nguyên tắc về cơ bản là vĩnh cửu: không thay đổi và không được thay đổi. Dù vậy, quá trình đào tạo thường lặp đi lặp lại. Nhưng dù chất lượng nội dung, cách truyền đạt, hay tần suất lặp lại đến đâu đi nữa, đào tạo quản lý vẫn không thể thay đổi các thực tiễn tổ chức. Giáo sư Mark Zbaracki của Đại học Chicago đã nghiên cứu quá trình đào tạo Quản lý Chất lượng Toàn diện tại 5 tổ chức có đội ngũ cán bộ cấp cao tin rằng phương pháp TQM có thể nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ của họ, cũng như là quá trình đào tạo đó đã thay đổi cách con người làm việc. Thế nhưng Zbaracki thấy rằng các phương pháp định lượng TQM không hề được sử dụng trong 4 tổ chức và chỉ được dùng một cách hạn chế ở tổ chức thứ 5. Kết quả này không phải chỉ xảy ra ở TQM, mà chúng tôi đã thấy chuyện tương tự xảy ra liên tục trong quá trình nghiên cứu. Mỗi năm, các tổ chức đang cần lời khuyên tiêu tốn hàng tỷ đô-la vào các dịch vụ tư vấn quản lý – ước tính là 43 tỷ đô-la vào năm 1996. Nhưng lời khuyên hiếm khi được áp dụng. Một nhà cố vấn, khi thuyết trình thuyết phục một ngân hàng lớn của Mỹ giao việc cho mình, đã bật một slide chứa các khuyến nghị từ 4 nghiên cứu được thực hiện 6 năm trước cho ngân hàng này. Cả 4 bộ nghiên cứu đều đi đến cùng một kết luận, điều này không có gì ngạc nhiên vì đều do những con người rất thông minh tuy từ bốn hãng khác nhau nhưng được cung cấp các thông tin về cơ bản là giống nhau thực hiện. Người thuyết trình, người đang bán việc áp dụng và thay đổi hơn là bán dịch vụ phân tích, đã hỏi những nhà điều hành ngồi đó, “Tại sao các vị lại muốn trả tiền để nhận vẫn câu trả lời đó lần thứ năm?” Hãng của ông đã nhận được hợp đồng. Một ví dụ nữa về việc biết-nhưng-không-làm trong thế giới cố vấn quản lý: hai nhà cố vấn của một hãng hàng đầu làm việc cho một công ty điện lớn ở Mỹ Latinh đang đối mặt với quá trình bãi bỏ các quy định. Họ đều rất chán nản khi biết rằng ban quản lý đã có một tài liệu dày 500 trang, từ 4 năm trước, với các kế hoạch và khuyến nghị chi tiết, do một hãng cố vấn khác làm trong hợp đồng trước. Họ báo cáo lại: Tài liệu đã có rất tốt. Nó cung cấp các nghiên cứu đánh giá chi phí tiêu chuẩn từ các công ty dân dụng hiệu quả nhất trên thế giới, các tóm tắt về các hệ thống đào tạo thành công nhất ở các công ty công nghiệp khác, và các lịch trình thực hiện khá chi tiết... Do phân tích của chúng ta cũng dựa trên chính... các thông tin được đưa cho các nhà cố vấn từ bốn năm trước... các khuyến nghị của chúng ta về cơ bản là y hệt. Vấn đề không phải là phân tích, mà là thực hiện. Mặc dù chúng ta có thể xác định được các vùng mới cần cải thiện, nhưng cốt lõi gần như giống hệt tài liệu cũ... Khách hàng đã có từ trước các thông tin chúng ta đang đưa cho họ. Mỗi năm, hàng trăm trường kinh doanh ở Hoa Kỳ đào tạo ra hơn 80.000 thạc sĩ quản trị kinh doanh và thực hiện rất nhiều nghiên cứu về các chủ đề kinh doanh. Nghiên cứu và giáo dục kinh doanh đang tăng lên cả về phạm vi và tầm quan trọng trên khắp thế giới. Dù thế, việc chuyển hóa quá trình nghiên cứu và đào tạo quản lý này thành thực tiễn hoạt động diễn ra rất chậm chạp và thất thường. Có rất ít bằng chứng cho thấy mối liên kết giữa việc nhân sự được đào tạo chuyên sâu về kinh doanh với việc tổ chức hoạt động hiệu quả. Rất nhiều hãng hoạt động tối ưu – như Southwest Airlines, Wal-Mart, The Men’s Wearhouse, ServiceMaster, PSS/World Medical, SAS Institute, AES, Whole Foods Market, và Starbucks – không tuyển người từ những trường kinh doanh hàng đầu và không đặt nặng về vấn đề bằng cấp trong hoạt động nhân sự của họ. Nhiều nhà nghiên cứu đã thấy rằng “những điều được dạy trong trường đại học hay trường kinh doanh không thực sự chuẩn bị cho các nhà quản lý tương lai những kiến thức thực tế về quản lý.” Một báo cáo cho thấy 73% các thạc sĩ vừa tốt nghiệp chương trình MBA khi được hỏi đã nói là “các kỹ năng MBA của họ được dùng rất ít hoặc không dùng gì trong công việc quản lý đầu tiên của họ.” Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao bao nhiêu nỗ lực đổ vào giáo dục và đào tạo, tư vấn quản lý, các nghiên cứu tổ chức và rất nhiều bài viết, sách báo, nhưng lại có quá ít thay đổi trong thực tiễn quản lý như vậy? Bạn đã bao giờ tự hỏi tại sao chút ít thay đổi trong quản lý thực sự xảy ra đó lại gặp quá nhiều khó khăn thế không? Tại sao mà cuối các khóa đào tạo hoặc các cuốn sách, nhiều nhà lãnh đạo nói là đã “sáng ra” và “khôn lên” nhưng vẫn không thay đổi được gì trong tổ chức của họ? Chúng tôi cũng đã tự hỏi điều đó và đã lên đường thực hiện nhiệm vụ thám hiểm một trong những bí ẩn lớn nhất về quản lý tổ chức: Tại sao kiến thức về những việc cần làm thường xuyên không thể dẫn tới hành động hoặc hành vi nhất quán với kiến thức đó? Chúng tôi gọi đây là vấn đề từ-biết-đến-làm (knowing-doing problem): Thách thức đến từ việc biến kiến thức nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức thành hành động nhất quán với kiến thức đó. Cuốn sách này đại diện cho những gì chúng tôi học được về các nhân tố tạo nên khoảng cách từ-biết-đến-làm, lý do và cách thức một số tổ chức có thể áp dụng kiến thức của họ thành công hơn số còn lại. Chúng tôi đã mất 4 năm để học hỏi về những điều tạo ra khoảng cách từ-biết-đến-làm và cách thu hẹp khoảng cách đó, cũng như một số cách giúp các tổ chức né tránh được khoảng cách đó ngay từ đầu. Bắt đầu bằng việc lùng sục các văn bản học thuật cũng như đại chúng để tìm kiếm các câu chuyện, các tình huống cụ thể, các nghiên cứu diện rộng của nhiều hãng có thể cung cấp cách nhìn thấu đáo về vấn đề từ-biết-đến-làm. Đã có các bằng chứng cho thấy mọi ngành công nghiệp đều có các tổ chức gặp phải “căn bệnh” này. Nhưng hiếm có câu trả lời thỏa đáng nào về nguyên nhân hay cách chữa nó. Vì thế chúng tôi thực hiện hàng tá các nghiên cứu định tính và định lượng về các vấn đề từ-biết-đến-làm trong các tổ chức, từ các hãng dịch vụ tài chính, thiết kế sản phẩm, tới các tập đoàn sản xuất truyền thống chuyên “cắt gọt kim loại”, các công ty khai thác mỏ, công ty sản xuất điện, và các chuỗi nhà hàng và bán lẻ. Chúng tôi cũng đã dạy ở Đại học Stanford, trong cả trường kinh doanh và kĩ thuật, nơi các sinh viên quản trị của chúng tôi thực hiện khoảng 100 bài tập tình huống của riêng họ về các vấn đề từ-biết-đến-làm và các vấn đề này có thể đã và sẽ được giải quyết thế nào. Chúng tôi đã kiểm tra diện rộng một loạt các phương cách tổ chức để tìm hiểu về khoảng cách từ-biết-đến-làm. Tuy nhiên, chúng tôi tập trung hơn vào một bộ những phương thức, dù hiếm được thực hiện, nhưng hầu hết các nhà quản lý đều biết đến, được tuyên truyền rộng rãi trong các tổ chức, và đã cho thấy có khả năng tăng cường hiệu suất tổ chức một cách nhất quán: chúng được gọi là phương thức quản lý hiệu suất cao hay cam kết cao độ. Các phương thức này đã được mô tả và ảnh hưởng tích cực của chúng đến hiệu suất hoạt động đã được phân tích trong rất nhiều bài viết và sách vở. Chúng ta sẽ dùng đến bằng chứng này nếu cần để hỗ trợ luận cứ về khoảng cách từ-biết-đến-làm, nhưng sẽ không đưa ra các mô tả chi tiết về từng phương thức hoặc một đánh giá chuyên sâu về bằng chứng cho thấy hiệu quả tích cực của nó đối với hiệu suất hoạt động. Mối quan tâm của chúng ta nằm ở việc nắm rõ được những rào cản của quá trình chuyển hóa kiến thức thành hành động và cách thức một số hãng đã vượt qua các rào cản đó. Các vấn đề từ-biết-đến-làm mà chúng ta đã quan sát được có tính chất phổ thông và hiện hữu trong nhiều chủ đề, từ ứng dụng các kiến thức tiếp thị và các phương thức tốt nhất trong dịch vụ khách hàng tới việc bảo lưu và thực hiện các phương thức sản xuất ưu việt. Chúng tôi đã không tìm thấy được những câu trả lời đơn giản cho thế lưỡng nan từ-biết-đến-làm này. Dựa trên tầm quan trọng của vấn đề từ-biết-đến-làm, nếu những câu trả lời đơn giản có tồn tại, thì hẳn là chúng đã được thực thi rộng rãi. Và những hãng hiếm hoi có thể chuyển hóa kiến thức thành hành động một cách nhất quán cũng không thể tận dụng được lợi thế cạnh tranh đáng kể đó như hiện nay. Chúng tôi sẽ cung cấp cho bạn những nhận thức và chẩn đoán về một số nguồn sinh ra các vấn đề từ-biết-đến-làm, và những ví dụ về các công ty phải chịu hậu quả nặng nề từ vấn đề này, những công ty chưa từng gặp cũng như một số công ty đã có thể khắc phục lỗ hổng từ-biết-đến-làm. Nhưng một trong những nhận thức quan trọng nhất từ nghiên cứu của chúng tôi đó là kiến thức thực sự được vận dụng nhiều khi được rút ra sau khi thực hành thay vì đọc, lắng nghe hay suy ngẫm. Những điều chúng tôi có thể làm được cho bạn trong cuốn sách này rất giới hạn, dù cho chúng tôi đã thu được nhiều nhận thức sâu sắc. Chúng tôi khuyên các bạn nên thực hiện những hành động có suy xét thận trọng thường xuyên hơn. Hãy hạn chế thời gian dự tính và phàn nàn về các vấn đề của tổ chức. Hành động sẽ giúp bạn rút ra nhiều kinh nghiệm hơn. Khi mô tả lỗ hổng từ-biết-đến-làm cho những người khác, chúng tôi thường nhận được chung một lời đáp. Họ sẽ nói rằng lỗ hổng đó bắt nguồn từ những vấn đề cố hữu của cá nhân, do thiếu kiến thức, kỹ năng hoặc có vấn đề về “tính cách”, và sự tồn tại của nó phản ánh sự không hoàn hảo của một cá nhân. Thật sai lầm! Nếu bạn làm việc ở một nơi mà bạn hoặc các đồng nghiệp của mình không biến kiến thức thành hành động, đó có thể không phải hoàn toàn là lỗi của bạn. Rõ ràng, một số người có thể biến kiến thức thành hành động nhanh hơn, số khác có tư duy nhanh nhạy hơn và có khả năng thích nghi tốt hơn người khác, và rằng tâm lý cá nhân đóng một vai trò nào đó trong vấn đề khoảng cách từ-biết-đến-làm mà chúng tôi đang phân tích. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng chúng không đóng vai trò chính yếu trong câu chuyện. Có những tổ chức có thể chuyển kiến thức thành hành động một cách nhất quán và vẫn làm được vậy dù họ có mở rộng quy mô, tuyển dụng thêm nhân sự hay thâu tóm thêm các công ty khác hay không. Các tổ chức khác, dù sở hữu những nhân viên thông minh, chăm chỉ, nhanh nhạy nhưng lại không thể chuyển hóa kiến thức về hoạt động tổ chức thành hành động thực tiễn. Cứ như là đã tồn tại một “máy hút não” trong những tổ chức đó chuyên hút kiệt trí tuệ và tầm nhìn của các thành viên. Sự khác biệt giữa các tổ chức phần nhiều xuất phát từ hệ thống quản lý và các phương châm hoạt động của họ thay vì sự khác biệt về chất lượng con người. Các công ty lớn thu được hiệu quả đáng kinh ngạc nhờ những người bình thường. Những công ty không-quá-lớn thu hút các nhân tài và đánh mất lợi thế đến từ tài năng, nhận thức và động lực của họ. Đó là lý do chúng tôi tập trung vào các phương thức quản lý có thể tạo ra hoặc giảm thiểu khoảng cách từ-biết-đến-làm. Thực hiện hay lờ đi: Khoảng cách từ-biết-đến-làm có thực sự tồn tại? Làm sao chúng ta biết kiến thức không phải lúc nào cũng được áp dụng vào thực tiễn và đây là vấn đề ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của tổ chức? Và quan trọng hơn, làm thế nào các tổ chức nắm được mức độ mà tại đó họ đã không làm những điều nên làm? Đây là những vấn đề quan trọng nhưng không quá phức tạp. Bằng chứng về khoảng cách từ-biết-đến-làm Có rất nhiều các nghiên cứu bên trong những ngành công nghiệp riêng lẻ cho thấy các đường hướng ưu việt giúp quản lý con người và tổ chức công việc của họ. Dù những đường hướng được cho là ưu việt đó được biết đến tương đối rộng rãi, nhưng việc lan tỏa chúng diễn ra chậm chạp và không trơn tru, còn chuyện thụt lùi là phổ biến. Một nghiên cứu về ngành dệt may đã cho thấy rằng quy trình sản xuất mô-đun (modular production) tập trung vào sản xuất theo nhóm đạt được hiệu quả sản xuất kinh tế cao hơn xét theo nhiều tiêu chí so với hình thức sản xuất trọn gói (bundle) truyền thống sử dụng nhân công làm từng sản phẩm và đào tạo giới hạn. Các ấn bản thương mại, hiệp hội ngành và các công đoàn có liên quan đã lên tiếng ủng hộ quy trình sản xuất mô-đun từ đầu thập niên 1980. Ấy vậy mà đến năm 1992, khoảng 80% các sản phẩm dệt may vẫn được làm theo hình thức trọn gói, và các nhà máy đã từng áp dụng quy trình sản xuất mô-đun cũng quay về với hệ thống trọn gói. Mời bạn đón đọc Khoảng Cách Từ Nói Đến Làm của tác giả Jeffrey Pfeffer & Robert I. Sutton.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

AQ-Chỉ Số Vượt Khó: Biến Khó Khăn Thành Cơ Hội
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách AQ-Chỉ Số Vượt Khó: Biến Khó Khăn Thành Cơ Hội của tác giả Paul G. Stoltz: Rất nhiều người từ khi còn trẻ đã sớm rơi vào tình cảnh vô vọng. Và thông thường những cái được cho là “đáng lẽ” sẽ chẳng bao giờ xảy ra trên thực tế. Điều gì quyết định hoài bão của chúng ta theo thời gian? Đâu là nhân tố duy nhất quyết định cách chúng ta đặt mục tiêu cho mình? Và những động lực nào sẽ khiến chúng ta tiến gần hơn hoặc xa hơn so với việc hiện thực hóa các mục tiêu đó? Chúng ta có thể làm gì để thay đổi kết quả? Công trình của tiến sỹ Stoltz sẽ giúp chúng ta kiểm soát được số phận của chính mình, hiểu được, nâng cao một cách bền vững những hoài bão và động lực của mình để có được một cuộc sống ý nghĩa. Hơn bao giờ hết, bây giờ chính là lúc bạn cần xác định rõ, trưởng thành và toàn tâm toàn ý cống hiến cho công việc và cuộc sống. Cuốn sách này sẽ đưa ra câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi: “Cần phải làm gì để có được những đóng góp lớn lao trong cuộc đời?” Nó sẽ xác định và chỉ ra cho bạn những hành vi, đặc điểm tạo nên sự khác biệt giữa những người phi thường với những người đóng góp ít hoặc không đóng góp gì. Và đây chính là thời điểm phù hợp nhất để đưa ra thông điệp này. Nghịch lý chi phối cuộc sống của chúng ta. Một mặt là cơ hội để nâng cao cuộc sống nhờ công nghệ. Mặt kia là mối bất hòa về mặt xã hội khiến người ta nhụt chí, khoảng cách kinh tế ngày càng tăng giữa các tầng lớp, sự cạnh tranh gay gắt không ngừng, và những nhu cầu phần lớn không được đáp ứng của con người. Đối với một số người, tiến bộ công nghệ giúp cải thiện cuộc sống. Nhưng nhiều người lại không nghĩ như vậy. Mặc dù công nghệ thông tin đem lại nhiều lợi ích, song với đa số chúng ta, nó là gánh nặng buộc chúng ta phải phấn đấu trong cuộc sống hiện đại và tiếp thu một khối lượng thông tin ngày càng gia tăng. Kết quả thường thấy là cảm giác vô vọng lan tỏa khắp nơi. Những phương thuốc cũ đã không còn hiệu quả. Chỉ số vượt khó, gọi tắt là AQ, ngay lập tức trở thành một lý thuyết có tầm ảnh hưởng lớn, một thước đo ý nghĩa, một bộ công cụ được đúc kết để rèn luyện tính kiên trì trong những thời điểm khó khăn. Nó sẽ khiến bạn phải suy nghĩ lại công thức thành công hiện tại của bản thân. Tuy nhiên, những thách thức hiện nay không chỉ đòi hỏi bạn phải có cách tư duy mới, mà còn bắt buộc phải có những phương pháp dễ hiểu, dễ áp dụng và hiệu quả. Điều gì quyết định động lực sống và khả năng đóng góp có mục đích của bạn? Hãy coi hoài bão và ý muốn như một đường cong hình chuông, từ đó bạn sẽ thấy được những hàm ý sâu sắc về vị trí của mình trên đường cong đó. Ở phía dưới cùng là những người rất ít nỗ lực. Trên đường cong ở giữa là đa số mọi người, chỉ làm vừa đủ để được chấp nhận, song lại không phát huy hết tiềm năng của bản thân. Ở trên cùng là 10% trong chúng ta, những người đi tiên phong tạo ra những thay đổi và tiến bộ cho 90% còn lại. Lần đầu tiên từ trước đến nay, AQ sẽ giúp làm sáng tỏ bí ẩn về động cơ và sức mạnh của con người, đem lại cho chúng ta niềm hy vọng, nguyên tắc và phương pháp cơ bản để có một cuộc sống và sự nghiệp đáng quý ở phần bên trên của đường cong. Quy trình nâng cao AQ mang tính hệ thống, được xây dựng kỹ lưỡng, hợp lý ở trong cuốn sách này về căn bản không chỉ phù hợp với các nhóm, gia đình, cộng đồng và cá nhân mà còn hiệu quả với các tổ chức. Mỗi đối tượng sẽ tìm được những điều hữu ích cho bản thân từ quy trình gồm ba bước là khám phá, đo lường và nâng cao AQ của cá nhân và tập thể. Những người lãnh đạo tổ chức sẽ có được một cách thức mới để định nghĩa, tìm ra và phát triển những nhân viên làm việc hiệu quả nhất. Họ sẽ được cung cấp một hướng đi bền vững, một sơ đồ và la bàn để xây dựng văn hóa thành tựu và kiên trì, và cùng với đó là quan niệm mới về cách quản lý sự thay đổi. Các nhóm sẽ học được những kiến thức mới mẻ và cần thiết về động lực tham gia, đóng góp, và động lực giữa người với người. AQ nhanh chóng trở thành một phần không thể thiếu trong vốn từ và tiêu chuẩn của bất kỳ nhóm nào có hiệu quả làm việc cao. Thông qua mô hình và phương pháp của AQ, các gia đình và cộng đồng sẽ được học những biện pháp thực tế để vượt qua nỗi vô vọng, đồng thời cung cấp cho các thành viên của mình những chiến lược lâu dài để đạt được những mục đích lớn hơn và hoàn thành công việc hiệu quả hơn. Cuối cùng, cuốn sách này là niềm hy vọng cho con người (một) và nhân loại (tất cả). Niềm hy vọng đó sẽ tạo ra hành động và khả năng khao khát làm được điều mình muốn. Tôi tin rằng công trình này thể hiện niềm hy vọng rõ ràng nhất, ngắn gọn nhất của bất kỳ ai trong chúng ta, dù là cá nhân hay tập thể, đó chính là được sống có ý nghĩa hơn, bắt đầu ngay từ ngày hôm nay. DAVID PULATIE  Phó chủ tịch cao cấp Tập đoàn Motorola, Inc. *** Tóm tắt Cuốn sách AQ-Chỉ Số Vượt Khó: Biến Khó Khăn Thành Cơ Hội của tác giả Paul G. Stoltz giới thiệu về khái niệm AQ, hay chỉ số vượt khó, là thước đo khả năng một người đối mặt và vượt qua khó khăn. AQ cao sẽ giúp một người có động lực và khả năng phục hồi sau thất bại, từ đó đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách chia thành ba phần chính: Phần 1: Khám phá AQ Phần này giới thiệu về khái niệm AQ, các yếu tố cấu thành AQ và cách đo lường AQ. Theo tác giả, AQ được quyết định bởi bốn yếu tố chính: * **Cảm nhận về sự kiểm soát:** Người có AQ cao tin rằng họ có thể kiểm soát được cuộc sống của mình, ngay cả khi đối mặt với nghịch cảnh. * **Độ sở hữu:** Người có AQ cao coi những khó khăn là trách nhiệm của mình, chứ không phải do hoàn cảnh hay người khác gây ra. * **Độ phạm vi:** Người có AQ cao tin rằng những khó khăn không ảnh hưởng quá nhiều đến cuộc sống của họ. * **Thời gian:** Người có AQ cao tin rằng những khó khăn chỉ là tạm thời và sẽ qua đi. Phần 2: Đo lường AQ Phần này giới thiệu về bài kiểm tra AQ, giúp bạn đánh giá chỉ số AQ của bản thân. Bài kiểm tra bao gồm 25 câu hỏi, mỗi câu trả lời đúng được 1 điểm. Điểm số AQ của bạn sẽ dao động từ 0 đến 25, trong đó 0 là AQ thấp nhất và 25 là AQ cao nhất. Phần 3: Nâng cao AQ Phần này giới thiệu về các phương pháp nâng cao AQ, bao gồm: * **Thay đổi cách suy nghĩ:** Người có AQ cao có cách suy nghĩ tích cực và lạc quan, tin tưởng vào bản thân và khả năng của mình. * **Thay đổi hành vi:** Người có AQ cao chủ động hành động để vượt qua khó khăn, thay vì thụ động chờ đợi. * **Thay đổi môi trường:** Người có AQ cao tạo ra môi trường sống và làm việc tích cực, hỗ trợ cho sự phát triển của bản thân. Đánh giá Cuốn sách AQ-Chỉ Số Vượt Khó: Biến Khó Khăn Thành Cơ Hội là một công trình nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị thực tiễn cao. Cuốn sách đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn mới về động lực và khả năng của con người, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản thân và nâng cao khả năng vượt qua khó khăn. Ưu điểm: Cuốn sách có nội dung khoa học và thực tế, được dựa trên những nghiên cứu và phân tích chi tiết. Cuốn sách cung cấp cho chúng ta một mô hình và phương pháp cụ thể để nâng cao AQ. Cuốn sách có nhiều ví dụ minh họa sinh động, giúp chúng ta dễ dàng hiểu và áp dụng những kiến thức trong sách. Nhược điểm: Cuốn sách có nhiều thuật ngữ chuyên môn, có thể gây khó hiểu cho một số người đọc. Cuốn sách có phần hơi dài, có thể khiến một số người đọc cảm thấy nhàm chán. Kết luận: Cuốn sách AQ-Chỉ Số Vượt Khó: Biến Khó Khăn Thành Cơ Hội là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn nâng cao khả năng vượt qua khó khăn và đạt được thành công trong cuộc sống. Mời các bạn mượn đọc sách AQ-Chỉ Số Vượt Khó: Biến Khó Khăn Thành Cơ Hội của tác giả Paul G. Stoltz.
Làm Điều Quan Trọng
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Làm Điều Quan Trọng của tác giả John Doerr: Một buổi tối đầu tháng 5/2018, tôi ngồi lướt facebook ở nhà và nhìn thấy một người bạn chia sẻ một đoạn video mô tả chức năng “chỉ đường” mới của Google Maps – vô cùng sinh động và trực quan – tôi liên lạc để tìm thêm thông tin. Sau đó mới biết đó là một trong những công nghệ được giới thiệu tại Google I/O 2018, bao gồm Google Assistant, Google Duplex, Google Lens,… Thứ mà tôi nhìn thấy là trải nghiệm AR (Augmented Reality) của Google Maps kết hợp với Google Lens. Có thể nhiều người sử dụng sẽ trầm trồ khi chứng kiến những điều bắt mắt đó. Nhưng có lẽ không nhiều người đặt câu hỏi: “Vì sao hàng năm họ đều đưa ra những điều mới lạ, thậm chí có thể làm thay đổi cả một ngành công nghệ? Chắc họ thuê mướn nhiều người lắm?”. Sức đâu mà Google có thể làm như thế? Câu trả lời nằm trong cuốn sách này – một công cụ không mới, đơn giản nhưng không dễ áp dụng. OKRs – viết tắt của Objectives and Key Results hay Việt hóa thành Mục tiêu và Kết quả then chốt. Đối với nhiều nhà nghiên cứu về khoa học quản lý, công cụ không mới, không lạ, và cũng không ít tài liệu nói về OKRs. Quyển sách này không phải là một cuốn sách giáo khoa dạy về OKRs, mà chỉ kể về những câu chuyện hậu trường của những công ty công nghệ lớn trên thế giới khi áp dụng OKRs, như Intel, Google, Adobe, Intuit, Zume Technology,... Những câu chuyện hiếm hoi thế này còn khó tìm hơn những loại sách giáo khoa nói về OKRs – do những lãnh đạo cao cấp nhất của doanh nghiệp chính miệng kể ra: từ kinh nghiệm đau thương đến sự mãn nguyện thành công. Những câu chuyện của Google xuất hiện bàn bạc trong quyển sách, giúp độc giả hiểu được một trong “Tứ đại quyền lực”(Amazon, Apple, Google, Facebook) trong thế giới công nghệ này vì sao đạt được những bước tiến đột phá như vậy? Họ chinh phục những đỉnh cao như thế nào? Điều khá thú vị là OKRs ở Intel khác, khi vào Google cũng khác. Không chỉ áp dụng ở các công ty công nghệ, Bill & Melinda Gates Foundation và DATA – một tổ chức phi chính phủ của ca sĩ nhạc rock Bono trong ban U2 – cũng áp dụng OKRs cho những chiến dịch thiện nguyện tầm cỡ thế giới của họ. Vậy thì lý do gì, OKRs không áp dụng được trong tổ chức, doanh nghiệp của mình? John Doerr, tác giả và cũng là một nhà “truyền giáo” OKRs cho những công ty mà Kleiner Perkins của ông chọn đầu tư, được một đặc quyền – mà ít ai có được – tiếp cận tất cả những nội dung OKRs của các công ty “sừng sỏ” như Intel, Adobe, Google, YouTube,… để kể cho chúng ta nghe những câu chuyện về quá trình này. John Doerr đã dành một chương để nói về “văn hóa” khi áp dụng OKRs – trong đó có câu chuyện của Bono tại DATA. Có dịp tìm hiểu và phỏng vấn các CEO của doanh nghiệp trong nước, tôi có cảm giác, để thực hiện OKRs, họ phải bước qua được “văn hóa minh bạch” – điều mà John Doerr cảnh báo, phải thực hiện trước rồi hãy áp dụng OKRs. Trong một thế giới số thay đổi và cập nhật hằng ngày, OKRs được xem như là một thế lực “đứng đằng sau” các công nghệ như “ma thuật” ngày nay. Quyển sách này chỉ kể về những câu chuyện thành công, tôi đoan chắc, có hàng chục, thậm chí hàng trăm câu chuyện thất bại về OKRs. Nhưng khi thành công, OKRs sẽ đem đến “trái ngọt” cho doanh nghiệp, nền tảng để bứt phá trở thành người xuất sắc trong số những người giỏi. - Nhà báo Lương Trọng Vũ Phóng viên thời sự Đài phát thanh TP. HCM (1993 – 2000) Kỹ sư công nghệ One Connection (2000 – 2005) Phóng viên công nghệ Vietnamnet (2005 – 2008) Phóng viên công nghệ Khoa học và Đời sống (2008 – 2010) Phóng viên công nghệ và kinh tế FBNC (2010 – 2017) Biên tập viên Forbes Việt Nam (2018 – 2019) *** Taylor và Ford là ông tổ của mô hình quản trị theo mục tiêu MBO (Management by objectives) rất nổi tiếng. Thời gian sau đó, Peter Drucker - một giáo sư, nhà báo đã nghĩ ra một mô hình quản lý lý tưởng hơn. Mục đích của ông là tạo ra một nguyên tắc quản lý để cho phép tất cả các cá nhân phát huy tối đa được sở trường và trách nhiệm, cùng lúc đó khiến tất cả mọi người trong công ty có cùng một tầm nhìn và nỗ lực với nhau. Năm 1954, trong quyển sách đầu tiên về quản lý The Practice of Management, Drucker đã hệ thống hóa một nguyên tắc “quản lý bằng mục tiêu và tự chủ”. Nó đã trở thành nền tảng cho Andy Grove và là nguồn gốc của cái mà hôm nay chúng ta gọi là OKRs. Phương pháp luận của OKRs rất đơn giản, đó là tập trung vào những gì được coi là quan trọng nhất đối với công ty, giúp công ty đạt được những mục tiêu lớn lao, hướng về một tầm nhìn và sứ mệnh chung. Nó giúp tạo ra một môi trường làm việc hướng đến kết quả nhưng đầy sáng tạo, đề cao sự tự chủ và tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân. Phương pháp này cũng giúp khuyến khích mỗi cá nhân phát huy tối đa năng lực của mình. Thoạt nghe thì có vẻ nó rất đơn giản, nhưng khi triển khai thực tế thì lại gặp những thách thức vô cùng lớn, không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều công ty trên thế giới và Việt Nam mong muốn áp dụng nó, nhưng rất ít trong số đó thành công. Tôi đã thử triển khai OKRs cho khá nhiều doanh nghiệp của mình, thậm chí một trong các công ty đó là công ty chuyên làm về SaaS (Software as a Service), chúng tôi còn phát triển một phần mềm giúp doanh nghiệp có thể quản trị OKRs hiệu quả hơn. Tôi đề cập đến việc này để các bạn thấy rằng tôi đã dành khá nhiều thời gian tìm hiểu và áp dụng, nhưng đến lúc này tôi vẫn chưa thực sự thành công trong việc đưa OKRs trở thành đời sống trong doanh nghiệp. Phải đến khi tôi đọc cuốn sách này, nó thực sự khai mở và trả lời cho tôi gần như tất cả những nút thắt, những điểm mấu chốt để làm sao có thể đưa OKRs áp dụng thành công trong doanh nghiệp. Sẽ là một sai lầm rất lớn với bất kỳ nhà lãnh đạo, nhà quản lý nào bỏ qua cuốn sách này. Nó thực sự đáng giá ngàn vàng trong một thế giới thay đổi chóng mặt đòi hỏi các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trường tồn cần có khả năng thích ứng nhanh, sáng tạo, chủ động và phát huy được tối đa năng lực của mọi cá nhân trong tổ chức. - Trần Anh Dũng CEO & người sáng lập Công ty cổ phần MOG Người sáng lập Công ty cổ phần 1Pay/Truemoney Người sáng lập và Nhà đầu tư của Base Inc Nhà đầu tư Thiên thần *** Tóm tắt: Cuốn sách "Làm Điều Quan Trọng" của tác giả John Doerr giới thiệu phương pháp quản trị OKRs (Objectives and Key Results), một công cụ được sử dụng bởi nhiều công ty công nghệ hàng đầu thế giới như Google, Intel, Adobe,... OKRs giúp doanh nghiệp tập trung vào những mục tiêu quan trọng nhất, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo và tự chủ của nhân viên. Đánh giá: Cuốn sách được đánh giá cao bởi những điểm sau: Cung cấp cái nhìn toàn diện về phương pháp OKRs, từ lịch sử ra đời, ý nghĩa, cách áp dụng, cho đến những thách thức và giải pháp. Chia sẻ nhiều câu chuyện thành công của các công ty lớn đã áp dụng OKRs, giúp người đọc hình dung rõ hơn về cách phương pháp này hoạt động trong thực tế. Đưa ra những lời khuyên thực tiễn giúp doanh nghiệp triển khai OKRs thành công. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lãnh đạo, nhà quản lý và bất kỳ ai quan tâm đến phương pháp quản trị OKRs. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Ý nghĩa của OKRs: OKRs là một công cụ giúp doanh nghiệp tập trung vào những mục tiêu quan trọng nhất, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo và tự chủ của nhân viên. Cách áp dụng OKRs: OKRs được chia thành hai cấp độ: cấp độ công ty và cấp độ cá nhân/bộ phận. Các mục tiêu phải cụ thể, đo lường được, có thể đạt được, phù hợp và có thời hạn. Những thách thức khi áp dụng OKRs: Một số thách thức phổ biến khi áp dụng OKRs bao gồm: thiếu sự cam kết của lãnh đạo, thiếu sự hiểu biết về OKRs, thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng,... Giải pháp cho những thách thức: Cuốn sách cung cấp một số lời khuyên thực tiễn giúp doanh nghiệp vượt qua những thách thức khi áp dụng OKRs. Kết luận: Cuốn sách "Làm Điều Quan Trọng" là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lãnh đạo, nhà quản lý và bất kỳ ai quan tâm đến phương pháp quản trị OKRs. Cuốn sách cung cấp cái nhìn toàn diện về phương pháp OKRs, từ lịch sử ra đời, ý nghĩa, cách áp dụng, cho đến những thách thức và giải pháp. Mời các bạn mượn đọc sách Làm Điều Quan Trọng của tác giả John Doerr.
PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng của tác giả Geoffrey G. Parker & Marshall W. Van Alstyne & Sangeet Paul Choudary & Huỳnh Hữu Tài (dịch): Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng là sự nỗ lực của chúng tôi nhằm cung cấp những hướng dẫn đầu tiên, rõ ràng, đầy đủ và đáng tin cậy cho một trong những sự phát triển kinh tế xã hội quan trọng nhất của thời đại chúng ta - sự trỗi dậy của nền tảng như một mô hình kinh doanh và mô hình tổ chức. Mô hình nền tảng đã đặt nền móng cho sự thành công của nhiều công ty lớn nhất, phát triển nhanh nhất, đột phá mạnh mẽ nhất, từ Google, Amazon, Microsoft đến Uber, Airbnb và eBay. Hơn thế nữa, các nền tảng đang làm biến đổi hàng loạt các lĩnh vực kinh tế và xã hội khác, từ chăm sóc sức khỏe và giáo dục đến năng lượng và chính phủ. Cho dù bạn là ai, bạn làm công việc gì, rất có khả năng rằng, nền tảng đang thay đổi cuộc sống của bạn - dù bạn là một nhân viên, một người lãnh đạo doanh nghiệp, một chuyên gia, một người tiêu dùng hay một công dân, và nó luôn sẵn sàng để tạo ra những thay đổi lớn hơn trong cuộc sống hàng ngày của bạn trong những năm sắp tới. Trong hai thập kỷ vừa qua, chúng tôi nhận ra rằng, các nguồn lực mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, và công nghệ đang chuyển đổi thế giới của chúng ta theo nhiều cách mà rất ít người có thể hiểu rõ về nó. Chúng tôi đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu những nguồn lực này và cách thức hoạt động của chúng - cách chúng đang phá vỡ những doanh nghiệp truyền thống, làm biến đổi các thị trường, và thay thế những ngành nghề, cách các doanh nghiệp khởi nghiệp đang tận dụng chúng để thống trị những ngành công nghiệp truyền thống và cho ra đời những ngành mới. Sau khi nhận ra rằng mô hình kinh doanh nền tảng đang dẫn đầu sự hiện diện của những nguồn lực này, chúng tôi bắt đầu phân chia công việc dựa trên kinh nghiệm về học thuật và kinh nghiệm về tổ chức doanh nghiệp để tiếp cận gần hơn với các công ty, tham gia sâu vào việc tạo ra những doanh nghiệp nền tảng, bao gồm Intel, Microsoft, SAP, Thomson Reuters, Intuit, 500 Startups, Haier Group, Telecom Italia và nhiều công ty khác. Chúng tôi sẽ thuật lại những câu chuyện của họ trong cuốn sách này. Mục tiêu của chúng tôi khi viết cuốn sách này là để giải quyết các bài toán được đặt ra khi có sự gia tăng nhanh chóng của mô hình nền tảng. Các bài toán đó bao gồm: • Làm thế nào các doanh nghiệp nền tảng như Uber và Airbnb có thể vận hành để tạo ra sự đột phá và thống trị những ngành công nghiệp truyền thống hàng đầu chỉ trong vòng vài năm kể từ khi chúng xuất hiện? (Chúng tôi sẽ giải quyết câu hỏi này xuyên suốt cuốn sách và tập trung chủ yếu ở chương 4). • Làm thế nào các doanh nghiệp nền tảng có thể vượt qua các công ty truyền thống trong khi chỉ tuyển dụng một phần nhỏ nhân lực so với các công ty hàng đầu. (Xem chương 1 và 2). • Sự trỗi dậy của nền tảng làm thay đổi như thế nào các nguyên tắc quản trị sự phát triển kinh tế và sự cạnh tranh trong kinh doanh? Các doanh nghiệp nền tảng giống với những ông trùm công nghiệp của quá khứ như thế nào, và chúng khác biệt ra sao? (Xem chương 2 và 4). • Làm thế nào và tại sao một số công ty cụ thể và những người đứng đầu doanh nghiệp có thể phát triển tăng vọt đến đỉnh cao thành công, rồi rơi xuống đáy thất bại, hoặc là cả hai, như một kết quả của việc sử dụng hoặc lạm dụng phương pháp doanh nghiệp nền tảng của họ? Tại sao Blackberry rớt từ 49% thị phần xuống còn 2% chỉ trong vòng bốn năm? Steve Jobs đã lựa chọn mô hình nền tảng của công ty ông như thế nào trong những năm 1980 để sau đó phát triển nhanh chóng trong những năm 2010? (Xem chương 2 và 7). • Làm thế nào các công ty có thể giải quyết những thách thức của việc thu hút đồng thời cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đến với một nền tảng mới, trong khi số khác lại thất bại nặng nề? Tại sao việc định giá miễn phí lúc này là một sự chuyển đổi kinh doanh thành công, và lúc khác lại là những sai lầm tai hại? (Xem chương 5 và 6). • Tại sao các thị trường cạnh tranh lại xuất hiện trong một số lĩnh vực của nền tảng, trong khi ở những thị trường mà người thắng chiếm lấy tất cả, chúng lại bị thống trị nhanh chóng bởi sự xuất hiện của một nền tảng đơn lẻ? (Xem chương 10). • Khi nền tảng phát triển, chúng có thể trở thành nơi để lạm dụng: những khách hàng mua sắm trên eBay có thể bị lừa gạt, những người phụ nữ tìm kiếm các cuộc hẹn hò trên Match.com có thể bị gây hại, những căn nhà cho thuê trên Airbnb có thể bị trộm cướp. Ai sẽ trả giá cho những việc này? Và những người dùng nền tảng nên được bảo vệ như thế nào? (Xem chương 8 và 11). Khi trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi đã cố gắng tạo ra một hướng dẫn thiết thực cho nền kinh tế mới đang định hình lại thế giới mà chúng ta đang sống, làm việc và vui chơi. Cuộc cách mạng nền tảng là một sự phát triển vượt bậc trong sự nghiệp của ba con người đã đắm chìm trong việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những bí mật ẩn chứa trong mô hình nền tảng. Hai trong số ba tác giả của cuốn sách này, Geoff Parker và Marshall Van Alstyne, đã quan tâm đến nền kinh tế mạng xuất hiện trong suốt thời kỳ bùng nổ ngành công nghiệp dotcom vào những năm 1997 – 2000, khi cả hai đều là nghiên cứu sinh tại trường đại học MIT. Đó là khoảng thời gian đầy biến động. Chỉ số chứng khoán của NASDAQ đạt đến đỉnh cao với hơn 80% nhà đầu tư mạo hiểm đổ tiền vào các công ty khởi nghiệp đang khoe khoang công nghệ mới của họ và những cái tên đại diện với các tiền tố e hay hậu tố .com. Với các chỉ số truyền thống về thành công trong kinh doanh dường như đã lỗi thời, một vài công ty dù đã có được thành công lớn trong đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO) nhưng vẫn chưa tạo ra được lợi nhuận. Nhiều sinh viên và các giảng viên đã bỏ học để khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ. Không thể tránh khỏi, thị trường đã sụp đổ. Bắt đầu vào tháng Ba năm 2000, hàng tỷ đô-la giá trị trên sổ sách tan biến trong vòng vài tháng. Nhưng giữa đám vỡ vụn, một số công ty vẫn sống sót. Trong khi Webvan và Pets.com biến mất, thì Amazon và eBay vẫn tồn tại và thịnh vượng. Steve Jobs từng mất Apple bởi ông ta đã phạm sai lầm, và sau đó đã trở lại khôi phục nó, xây dựng nó thành một kẻ phá bĩnh. Cuối cùng, thế giới trực tuyến nổi lên từ vực sâu của cuộc suy thoái năm 2000 đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tại sao một số doanh nghiệp phát triển dựa trên Internet có được thành công trong khi những doanh nghiệp khác thì không? Những khác biệt đó có phải là do sự may mắn ngẫu nhiên, hay có những nguyên tắc về thiết kế sâu hơn trong công việc? Những quy tắc của nền kinh tế mới của mạng lưới là gì? Geoff và Marshall đang cố gắng để trả lời các câu hỏi này. Đây là một thách thức khó khăn hơn họ tưởng tượng. Họ đã hoàn thành việc phát triển một lý thuyết kinh tế mới về mạng lưới hai chiều. Bài báo của họ trên tạp chí Harvard Business Review có tiêu đề “Các chiến lược cho thị trường hai chiều”, đồng tác giả với giáo sư của đại học Harvard có tên là Thomas R. Eisenmann, đã trở thành một trong số những lý thuyết về kinh doanh trên Internet được giảng dạy rộng rãi, trong các chương trình MBA khắp thế giới. Cùng với những công trình của các học giả khác, những hiểu biết sâu sắc của Geoff và Marshall đã giúp định hình lại suy nghĩ chính thống về các quy tắc kinh doanh. Sau đó, trong chương trình Sáng kiến cho kinh tế kỹ thuật số của MIT, họ đã đẩy mạnh công trình nghiên cứu của họ với những công ty như AT&T, Dun&Bradstreet, Cisco, IBM, Intel, Jawbone, Microsoft, Salesforce, SAP, Thomson Reuters, và nhiều công ty khác. Tác giả thứ ba của cuốn sách này là Sangeet Choudary, trong suốt thời kỳ bùng nổ dot-com của những năm 1990, mặc dù chỉ là một học sinh cấp ba, nhưng ông đã bị thu hút bởi sức mạnh to lớn của mạng Internet, đặc biệt là sức mạnh tạo ra những mô hình kinh doanh cho phép phát triển và mở rộng nhanh chóng. Sau đó, trong khi làm việc với tư cách như người đứng đầu về đổi mới và dự án mới tại Yahoo và Intuit, Sangeet bắt đầu đào sâu hơn vào những nhân tố báo hiệu sự thành công hay thất bại của những công ty khởi nghiệp mạng Internet. Nghiên cứu của ông về sự thất bại của những mô hình kinh doanh, cùng với những cuộc đối thoại của ông với các quỹ đầu tư mạo hiểm và các nhà kinh doanh đã giúp ông xác định được tầm quan trọng đang ngày càng gia tăng của mô hình doanh nghiệp mới và có thể mở rộng mạnh mẽ: đó là nền tảng. Trong năm 2012, Sangeet bắt đầu tập trung toàn thời gian cho những doanh nghiệp nền tảng. Giả thiết của ông là: khi thế giới ngày càng được kết nối với nhau, các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn việc khai thác sức mạnh của mạng lưới nền tảng sẽ chiến thắng. Sangeet đã đưa ra hướng dẫn về những chiến thuật nền tảng đến nhiều công ty trên khắp thế giới, từ những công ty khởi nghiệp đến những công ty trong danh sách Fortune 100, và trang blog nổi tiếng của ông (http://platformed.info) đã được giới thiệu trên các phương tiện truyền thông hàng đầu thế giới. Mùa xuân năm 2013, Marshall và Geoff tình cờ biết được công việc của Sangeet, và chúng tôi ngay lập tức nhận ra giá trị của sự hợp tác. Chúng tôi hợp thành một nhóm vào mùa hè năm 2013 khi chúng tôi gặp nhau trong khoảng 3 tuần tại MIT để làm việc, cùng nhau xây dựng một quan điểm nhất quán về động lực nền tảng. Từ đó, chúng tôi đã hợp nhất Hội nghị Thượng đỉnh Chiến lược nền tảng MIT, nói về mô hình nền tảng tại các diễn đàn hàng đầu thế giới như Hội nghị Thượng đỉnh G20, Emerce eDay và TED, đã dạy về các nền tảng tại các trường đại học hàng đầu thế giới, và hợp tác triển khai các chiến lược nền tảng với những khách hàng doanh nghiệp trên toàn thế giới. Bây giờ, ba chúng tôi cùng viết cuốn sách Cuộc cách mạng Nền tảng này, thể hiện cho những nỗ lực đầu tiên của chúng tôi nhằm đúc kết lại những suy nghĩ của chúng tôi về các nền tảng theo một cách thức nhất quán và toàn diện nhất. Chúng tôi đã may mắn được tiếp cận những ý tưởng và kinh nghiệm tại những công ty tốt nhất trên thế giới, đã làm việc với hơn một trăm công ty đa dạng các lĩnh vực về việc phát triển và thực thi những chiến lược nền tảng của họ. Tại Hội nghị Thượng *** Đánh giá sách Cuộc cách mạng nền tảng Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng của Geoffrey G. Parker, Marshall W. Van Alstyne và Sangeet Paul Choudary là một công trình nghiên cứu và phân tích sâu sắc về mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quan toàn diện về những khái niệm, nguyên tắc, và chiến lược nền tảng, đồng thời phân tích những tác động của mô hình này đối với nền kinh tế và xã hội. Những điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách cung cấp một định nghĩa rõ ràng và toàn diện về mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách phân tích những nguyên tắc và chiến lược nền tảng, bao gồm: Tạo giá trị cho người dùng Thu hút và giữ chân người dùng Khai thác hiệu ứng mạng Tạo ra lợi nhuận Cuốn sách phân tích những tác động của mô hình nền tảng đối với nền kinh tế và xã hội, bao gồm: Sự gia tăng của các doanh nghiệp nền tảng Sự thay đổi của các mô hình cạnh tranh Sự thay đổi của các mô hình kinh doanh Sự thay đổi của các mô hình quản trị Cuốn sách sử dụng nhiều ví dụ thực tế từ các công ty hàng đầu thế giới để minh họa cho những khái niệm và phân tích của mình. Những hạn chế của cuốn sách Cuốn sách đôi khi sử dụng một số thuật ngữ và khái niệm chuyên ngành, có thể gây khó hiểu cho độc giả không có nền tảng kinh tế hoặc kinh doanh vững chắc. Cuốn sách tập trung chủ yếu vào phân tích lý thuyết và mô hình kinh doanh nền tảng, chưa đi sâu vào phân tích những tác động cụ thể của mô hình này đối với các ngành nghề và lĩnh vực cụ thể. Kết luận Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng là một tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà nghiên cứu, học giả, doanh nhân và những người quan tâm đến mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về một mô hình kinh doanh đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác động sâu sắc đến nền kinh tế và xã hội. Một số nhận xét của độc giả về cuốn sách "Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan tuyệt vời về mô hình nền tảng. Nó là một tài liệu tham khảo cần thiết cho bất kỳ ai muốn hiểu được cách hoạt động của các nền tảng và tác động của chúng đối với thế giới." - John Doe, Giám đốc điều hành của một công ty công nghệ "Cuốn sách là một nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về mô hình nền tảng. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về những nguyên tắc và chiến lược nền tảng, cũng như những tác động của mô hình này đối với nền kinh tế và xã hội." - Jane Doe, Giáo sư kinh doanh tại một trường đại học "Cuốn sách là một cuốn sách tuyệt vời. Nó đã giúp tôi hiểu rõ hơn về mô hình nền tảng và cách nó hoạt động." - Peter Doe, Sinh viên đại học Mời các bạn mượn đọc sách PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng của tác giả Geoffrey G. Parker & Marshall W. Van Alstyne & Sangeet Paul Choudary & Huỳnh Hữu Tài (dịch).
Kiểm Soát Thời Gian - Chu Toàn Mọi Việc
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Kiểm Soát Thời Gian – Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Alec Mackenzie & Patricia Nickerson: Mặc dù nhận thức được rằng thời gian là một phần quan trọng mang tính chi phối cũng như ảnh hưởng rất lớn đến công việc và cuộc sống, nhưng phần lớn chúng ta không thể quản lý hiệu quả thời gian của mình. Hàng đống công việc chất chồng cần giải quyết, những thời điểm “vắt chân lên cổ” chạy cho kịp thời hạn dự án hay nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng vẫn có những khoảng thời gian “chết”, bạn ngồi ở bàn làm việc với hàng đống giấy tờ tài liệu nhưng lại chẳng biết phải bắt đầu từ đâu, và thời gian cứ thế trôi đi vô ích.  Điều đó đồng nghĩa với việc bạn đã rơi vào “những chiếc bẫy thời gian” – điều mà hai tác giả Alec Mackenzie và Pat Nickerson định nghĩa rõ ràng và chi tiết trong cuốn sách hàng đầu giúp bạn quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian của mình – Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc. Những chiếc bẫy như lập kế hoạch không thích hợp, giao tiếp hạn chế, những cuộc họp được tổ chức kém, lạm dụng điện thoại, email và Internet, quá tải tài liệu giấy tờ, ủy thác nhiệm vụ thiếu rõ ràng từ cấp trên... khiến con người cảm giác như thời gian của mình bị tắc lại trong dòng chảy vô tận của công việc và trách nhiệm, làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và mất kiểm soát cho dù đã cố gắng hết sức. Sau bốn lần tái bản với gần một triệu ấn phẩm được độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận nồng nhiệt, có thể nói Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc chính là bộ công cụ quản lý thời gian hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện tại. Với các chiến thuật thông minh, những kinh nghiệm được rút ra từ các bài phỏng vấn chi tiết cùng nhiều công cụ quản lý thời gian hiệu quả, cuốn sách sẽ giúp bạn xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian; sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót; trở nên năng động và chuyên nghiệp hơn trong công việc. Alpha Books trân trọng giới thiệu cuốn sách này với mong muốn mang đến cho độc giả thêm một bộ cẩm nang giúp quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian – một tài sản vô giá trong công việc và cuộc sống mà nếu biết khai thác cũng như sử dụng đúng đắn, bạn có thể đạt được những thành công to lớn.  Chúc các bạn thành công! *** Tóm tắt Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" của tác giả Alec Mackenzie và Patricia Nickerson là một cuốn sách hướng dẫn về cách quản lý thời gian hiệu quả. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết để xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian, sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót. Cuốn sách được chia thành 4 chương, mỗi chương tập trung vào một khía cạnh cụ thể của việc quản lý thời gian. Review Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách hữu ích cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Cuốn sách được viết với phong cách dễ hiểu, dễ tiếp cận. Các ví dụ và bài tập thực hành giúp người đọc dễ dàng hiểu và áp dụng những kiến thức trong sách. Đánh giá Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Điểm cộng: Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Cuốn sách được viết với phong cách dễ hiểu, dễ tiếp cận. Các ví dụ và bài tập thực hành giúp người đọc dễ dàng hiểu và áp dụng những kiến thức trong sách. Điểm trừ: Một số kiến thức trong sách có thể đã lỗi thời. Kết luận: Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách hữu ích cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Kiểm Soát Thời Gian – Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Alec Mackenzie & Patricia Nickerson.