Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bước Tới Thảnh Thơi (Thích Nhất Hạnh)

Mục lục

Lời nói đầu. 8

Thi kệ thực tập chánh niệm.. 10

Thức Dậy... 10

Quơ Dép. 10 Tìm mua: Bước Tới Thảnh Thơi TiKi Lazada Shopee

Xuống Giường... 10

Bật Đèn... 11

Xếp Mền. 11

Mở Cửa Sổ... 11

Vặn Nước.. 11

Đánh Răng... 11

Súc Miệng. 12

Rửa Mặt.. 12

Vào Nhà Cầu.. 12

Đi Tiểu. 12

Rửa Tay.. 12

Tắm... 13

Cạo Tóc... 13

Rửa Chân.. 13

Soi Gương. 13

Mặc Áo... 13

Mặc Áo Nhật Bình.. 14

Khoác Áo Ca Sa. 14

Lên Xuống Cầu Thang. 14

Kệ Chuông (1)... 14

Kệ Chuông (2)... 14

Kệ Chuông (3)... 15

Nghe Chuông (1). 15

Nghe Chuông (2). 15

Nghe Chuông (3). 15

Xếp Giày Dép. 16

Vào Thiền Đường... 16

Đốt Lò.. 16

Đốt Nến.. 16

Quán Tưởng Trước Khi Lễ Bụt.. 16

Xưng Tán Bụt. 17

Xưng Tán Pháp. 17

Xưng Tán Tăng.. 17

Ngồi Thiền Sáng.. 18

Ngồi Thiền Tối.. 18

Ngồi Xuống. 18

Điều Thân. 18

Điều Chỉnh Hơi Thở.. 19

Thở (1). 19

Thở (2). 19

Thở (3). 20

Ngồi Thiền (1)... 20

Ngồi Thiền (2)... 20

Tê Chân Đổi Cách Ngồi.. 21

Thiền Hành.. 21

Chắp Tay Chào. 21

Nâng Bình Bát (1). 21

Nâng Bình Bát (2). 21

Nâng Bát Không... 22

Nâng Bát Đầy. 22

Chú Nguyện... 22

Xuất Sanh.. 22

Quán Niệm Trước Khi Ăn. 22

Trước Khi Ăn.. 23

Bốn Đũa Đầu.. 23

Ăn Cơm (1).. 23

Ăn Cơm (2).. 24

Nhìn Bát Cơm Đã Sạch Thức Ăn.. 24

Nâng Chén Trà Lên... 24

Rửa Bát (1)... 24

Rửa Bát (2)... 24

Rửa Bát (3)... 25

Quét Tước. 25

Quét Lá (1)... 25

Quét Lá (2)... 25

Tưới Cây Trong Chậu.. 25

Dọn Thiền Đường... 25

Cắt Hoa.. 26

Cắm Hoa... 26

Thay Nước Bình Hoa... 26

Tắm Bụt.. 26

Chùi Cầu Tiêu... 26

Đổ Rác (1).. 26

Đổ Rác (2).. 27

Làm Vườn. 27

Trồng Cây. 27

Nhổ Cỏ (1). 27

Nhổ Cỏ (2). 27

Nhổ Cỏ (3). 28

Nhổ Cỏ (4). 28

Tưới Cây (1). 28

Tưới Cây (2). 28

Tưới Cây (3). 28

Lặt Rau... 29

Mở Máy Vi Tính... 29

Nhấc Điện Thoại.. 29

Gắn Dây An Toàn... 29

Chít Khăn.. 29

Đi Xe Đạp.. 30

Trước Khi Rồ Máy Xe... 30

Giận (1)... 30

Giận (2)... 30

Giận (3)... 30

Nhìn Bàn Tay. 31

Khâu Áo. 31

Kệ Vô Thường... 31

Mười giới Sadi. 32

Giới thứ nhất là bảo vệ sinh mạng.. 32

Giới thứ hai là tôn trọng quyền tư hữu... 32

Giới thứ ba là bảo vệ tiết hạnh... 33

Giới thứ tư là thực tập chánh ngữ và lắng nghe... 33

Giới thứ năm là bảo vệ và nuôi dưỡng thân tâm, không sử dụng rượu, các chất ma túy và tiêu thụ những sản phẩm có độc tố... 34

Giới thứ sáu là không sử dụng mỹ phẩm và đồ trang sức. 34

Giới thứ bảy là không vướng mắc vào các lối tiêu khiển trần tục. 35

Giới thứ tám là không sống đời sống vật chất sang trọng và xa hoa.. 36

Giới thứ chín là không ăn mặn và không ăn ngoài những bữa ăn của đại chúng.. 36

Giới thứ mười là không tích lũy tiền bạc và của cải... 36

Các thiên uy nghi.. 38

Chương 1 - Tôn kính Thầy và các vị có hạ lạp cao... 38

Chương 2 - Hầu Thầy... 39

Chương 3 - Đi theo Thầy... 42

Chương 4 - Tiếp nhận lời dạy của Thầy.. 43

Chương 5 - Nương tựa y chỉ sư. 43

Chương 6 - Nương tựa tăng thân. 44

Chương 7 - Sinh hoạt với chúng... 46

Chương 8 - Làm việc với tăng thân. 47

Chương 9 - Bảo vệ sinh môi. 50

Chương 10 - Đi, Đứng, Nằm và Ngồi... 52

Chương 11 - Vào chùa, tháp, chánh điện, thiền đường. 53

Chương 12 - Lễ lạy, tụng kinh... 54

Chương 13 - Ngồi thiền.. 55

Chương 14 - Đi thiền. 57

Chương 15 - Nghe pháp thoại... 58

Chương 16 - Học kinh và đọc sách.. 59

Chương 17 - Y, bát, tọa cụ và vật dùng cá nhân. 60

Chương 18 - Ăn cơm. 61

Chương 19 - Vào nhà tắm.. 63

Chương 20 - Vào cầu tiêu.. 63

Chương 21 - Giặt áo, phơi áo.. 64

Chương 22 - Ở trong phòng, ngủ nghỉ. 64

Chương 23- Thân Thứ Hai... 66

Chương 24 - Thỉnh chuông và nghe chuông... 67

Chương 25 - Dự pháp đàm... 68

Chương 26 - Dự thiền trà... 69

Chương 27 - Bẽ gãy thế tam giác. 70

Chương 28 - Đối trị cơn giận... 71

Chương 29- Nghe và nói điện thoại... 73

Chương 30 - Sử dụng máy vi tính... 73

Chương 31 - Làm việc trong bếp.. 74

Chương 32 - Đi ra ngoài.. 75

Chương 33 - Lái xe, đi xe hoặc đi bộ.. 76

Chương 34 - Tiếp xử với người cư sĩ. 78

Chương 35 - Đến nhà đàn việt... 79

Chương 36 - Hướng dẫn các khóa tu. 80

Chương 37 - Du phương cầu học. 81

Chương 38 - Thể dục thể thao. 82

Chương 39 - Thiền Buông Thư và thanh lọc cơ thể. 83

Chương 40 - Làm mới.. 84

Chương 41 - Soi sáng. 87

Lời cảnh giác và khích lệ của thiền sư Quy Sơn. 89

Ý thức Vô thường... 89

Tránh lề thói hưởng thụ.. 89

Giới là căn bản... 90

Sơ tâm cần nuôi dưỡng... 90

Phải nên liệu trước. 91

Nỗ lực tinh tiến. 92

Gần gũi bạn lành.. 93

Khẩn thiết dụng tâm. 93

Trai giới tinh chuyên. 94

Nuôi hoài bão lớn... 95

Nắm quyền tự chủ.. 95

Cùng đi với nhau. 96

Nói với người xuất gia trẻ... 98

Tâm thương yêu... 98

Môi trường tốt. 100

Sự nghiệp giác ngộ.. 102

Hạnh phúc bây giờ.. 105

Kiến thức không phải là tuệ giác... 106

Tu cho mọi người.. 108

Hạnh phúc và chánh niệm. 110

Sơ tâm là hảo tâm. 112

Viết thêm cho người xuất gia trẻ. 115

Những khó khăn... 115

Con đường thoát... 116

Ăn cơm có canh.. 118

Gia tài của Bụt. 119

Bạn đồng hành của bồ tát... 121

Phẩm vật hiến tặng.. 122

Tay trong tay... 124

Nguồn gốc và nội dung sách Bước Tới Thảnh Thơi. 126

Nghi thức tụng 10 Giới.. 132

1- Dâng Hương.. 132

2- Tán Dương.. 132

3- Lạy Bụt và Bồ Tát... 133

4- Trì Tụng. 133

5- Tác Pháp Yết Ma.. 136

6- Khai Thị. 137

7- Niệm Bụt... 141

8- Quy Nguyện... 141

9- Quay Về Nương Tựa. 143

10- Hồi Hướng... 143Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Thích Nhất Hạnh":Bốn Mươi Ba Công Án Của Trần Thái TôngAm Mây NgủAn Lạc Từng Bước ChânAn Trú Trong Hiện TạiBàn Tay Cũng Là HoaBồ Tát Tại Gia Bồ Tát Xuất GiaBước Tới Thảnh ThơiBụt Là Hình Hài - Bụt Là Tâm ThứcChỉ Nam Thiền Tập Dành Cho Người TrẻCho Đất Nước Đi LênCho Đất Nước Mở RaCon Đã Có Đường ĐiCon Đường Chuyển HóaCon Sư Tử Vàng Của Thầy Pháp TạngCửa Tùng Đôi Cánh GàiĐạo Bụt Nguyên ChấtĐạo Phật Áp Dụng Vào Đời Sống Hàng NgàyĐạo Phật Của Tuổi TrẻĐạo Phật Đi Vào Cuộc ĐờiĐạo Phật Hiện Đại HóaĐạo Phật Ngày NayĐạo Phật Qua Nhận Thức MớiĐể Có Một Tương LaiĐể Hiểu Đạo PhậtĐường Xưa Mây TrắngDuy Biểu HọcGiậnGiới Tiếp Hiện Chú GiảiHạnh Phúc Mộng Và ThựcHiệu Lực Cầu NguyệnHoa Sen Trong Biển LửaHơi Thở Nuôi Dưỡng Và Trị LiệuHướng Đi Của Đạo Bụt Cho Hòa Bình Và Môi SinhHương Vị Của Đất - Văn Lang Dị SửIm Lặng Sấm Sét - Kinh Người Bắt RắnKhông Diệt Không Sinh Đừng Sợ HãiKinh Kim Cang - Gươm Báu Cắt Đứt Phiền NãoKinh Người Áo TrắngKinh Pháp ẤnKinh Quán Niệm Hơi ThởNẻo Vào Thiền HọcNẻo Về Của ÝNghi Thức Tụng Niệm Đại ToànNgười Vô SựNhật Tụng Thiền MônNói Với Tuổi 20Phép Lạ Của Sự Tỉnh ThứcQuan Âm Hương TíchQuan Âm Thị KínhQuyền Lực Đích ThựcSám Pháp Địa XúcSen Búp Từng Cành HéSen Nở Trời Phương NgoạiSống Chung An LạcThiền - Chất Liệu Nuôi Dưỡng Trị Liệu Và Chuyển HóaThiền Hành Yếu ChỉThiền Sư Tăng HộiThiền Tập Cho Người Bận RộnThiết Lập Tịnh ĐộThơ Từng Ôm Và Mặt Trời Từng HạtThương Yêu Theo Phương Pháp Bụt DạyTiếp Xúc Với Sự SốngTình NgườiTố Thiều LanTrái Tim Của BụtTrái Tim Của Hiểu BiếtTrái Tim Của Trúc Lâm Đại SĩTrái Tim Mặt TrờiTruyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người TrẻTừng Bước Nở Hoa SenTùng Bưởi HồngTuổi Trẻ, Tình Yêu, Lý TưởngTương Lai Thiền Học Việt NamTương Lai Văn Hóa Việt NamTýƯớc Hẹn Với Sự SốngVương Quốc Của Những Người KhùngBông Hồng Cài ÁoThả Một Bè LauNhững Con Đường Đưa Về Núi ThứuThiền Sư Khương Tăng HộiTâm Tình Với Đất Mẹ

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bước Tới Thảnh Thơi PDF của tác giả Thích Nhất Hạnh nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

10 bài giảng về Thiền Vipassana [pdf]
“Khi con cái quấy khóc, vòi vĩnh, quấy nhiễu, bố mẹ thường vứt cho con chiếc điện thoại. Chiếc điện thoại thần kỳ chứa đựng cả thế giới trong đó, đủ màu sắc để trẻ chơi cho yên thân - yên thân trẻ và yên thân cả người làm bố làm mẹ. Bố mẹ lại không biết, như vậy là mình đã tự tay giết chết con mình. Đầu tiên là con mắt trẻ bị hư. Điều thứ nhì là cái não trẻ luôn luôn kích động. Khi mà đứa bé thích quá, thì lập tức não cũng như các bộ phận sẽ tiết ra hóa chất điều khiển toàn thân và ý của trẻ. Một trong những chất đó là Adrenaline tiết ra từ tuyến thượng thận, nó làm cho toàn thân rung lên, sướng lắm, khoái lắm, nhưng mà đó là CHẤT ĐỘC. Sự tích lũy của cái độc tố đó lâu ngày nó giết đứa trẻ, giết cái mắt nó mờ đi, giết cái trí nó ngu đần đi, và giết toàn cơ thể nó bị bệnh”. Trích bài 9 – Nhân quảNhiều người sẽ đặt câu hỏi, câu chuyện được trích ấy thì liên quan gì đến thiền? Có đấy, câu chuyện ấy là thí dụ rõ rệt nhất cho luật nhân quả, nhân A mà lại chứng quả B - người làm bố làm mẹ tưởng như đã cho con thứ tốt nhất nhưng lại sinh ra hậu quả khôn lường. Luật nhân quả thì liên quan gì đến thiền? Lại có đấy, vì nếu ngồi thiền mà không tin luật nhân quả thì chẳng có thành tựu gì hết, cũng chỉ là diễn thêm một vở tuồng mà thôi.Thưa các bạn,Vũ trụ vận hành có logic, và mỗi thực thể chúng ta cũng vậy, buộc phải phù hợp với logic của vũ trụ. Giả sử bạn không tin vào nhân quả, thì hãy tin vào điều đó. Khi các bạn thiền, nếu không hiểu rõ sự vận hành có tính quy luật ấy, thì tất cả chỉ mông lung như một trò đùa và bạn không thể tới cái đích cần tới. Chính vì lý do đó mà không ít người đã đặt câu hỏi ngơ ngác rằng: tôi đã thiền 4 năm mà sao không thấy gì khác cả? Thiền tuệ Vipassana là cuốn sách tập hợp 10 bài giảng về thiền Vipassana do tỳ kheo Thích Minh Tâm giảng  tại Tuệ Tâm Thiền Thư Quán vào Mùa An Cư năm 2019. Chúng tôi đã đánh máy lại, biên tập, in thành sách với mong muốn cuốn sách này có thể đến được với nhiều người, giúp cộng đồng nhận diện rõ thiền là gì, thiền thế nào cho được lợi lạc. Thiền chẳng thể giúp các bạn chứng thánh; nhưng chắc chắn thiền đúng sẽ mang đến cho các bạn sự hạnh phúc ngay trong cuộc sống hiện tại này.Nếu bạn có duyên cầm cuốn sách này trên tay, hãy đừng vội phản ứng với vài “liều thuốc đắng” trong từng bài giảng. Hãy biết nhặt nhạnh, thử nghiệm, trải nghiệm, chậm thôi, từ từ trải nghiệm. Chẳng có bài học nào quý giá bằng chính sự trải nghiệm của bản thân mỗi người!Nhóm hoằng pháp Tuệ Tâm, bao gồm:Ban biên tập: Nghiêm Lê – Vân AnhGhi hình và thu âm: Minh Điền, Song ThuĐánh máy: Phạm Thị Thanh Duyên,Võ Lê Trung, Đoàn Nhật Tân, Trịnh Thế Lữ, Nguyễn Khánh Hòa và nhóm công ty Ngàn ThôngXin kính báo!Thành kính tri ân Giảng Sư Thích Minh Tâm, vị thầy đã tận tụy giảng dạy Phật Pháp và Thiền cho hàng Phật tử chúng con tu tập.
Angkor (Đế Thiên Đế Thích) - Lê Hương
ANGKOR là tiếng gọi chung cho vùng đất trong tỉnh Siem Reap, lãnh thổ Cao-Miên, nơi có những đền đài xây toàn bằng đá nguyên khối chồng chất lên nhau, tạo thành một kỳ quan trên hoàn vũ. Vào đầu thế kỷ thứ 20, người Việt Nam sang đất bạn du-lịch hay cư ngụ đều có viếng thăm hoặc nghe nói đến kỳ công của các đăng Tiên-Vương Cao-Miện, mà không hiều vì sao lại gọi bằng danh từ Việt: ĐỂ-THIÊN ĐẾ THÍCH. Trải qua hàng trăm năm, đồng bào ta quen dùng tên này hơn là tên thật.Angkor gốc là tiếng Phạn; Nagara nghĩa là kinh đô. Vùng Angkor xưa kia là nơi Vua Cao-Miên đóng đỏ một thời gian dài từ thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 15 mới dơi lần xuống phía Nam. Trong vùng có hai ngôi đền lớn nhất mang tên ANGKOR THOM và ANGKOR WATH. Angkor Thom nghĩa là Kinh đô lớn, nơi nhà Vua cất Hoàng cung, Kim loan điện. Angkor Wath, hay Vat, nghĩa là Kinh đô chùa (?) là một ngôi đền vĩ đại và đẹp hơn tất cả đền đài, được nhà Vua xây cất sau cùng trước khi thiên đô. 
Áo Nghĩa Thư [pdf]
Uống nước uống tận nguồn.Một công trình khảo cứu dù tinh vi đến đâu cũng không thể nào thay thế được kinh văn cội gốc. Giỏi lắm chỉ là một bộ xương khổ so với con người sống thật co linh hồn long lanh trong ảnh mắt và tỏa ra trong hơi thở. Ấy là chưa kể những công trình phản bội, làm sai nghĩa chiếm đến chín mươi phần trăm số sách khảo cứu. Xin kể một thí dụ. Trước khi đọc những mảnh tàn văn của Parmenide, triết gia vĩ đại phải Eléc, tôi đã tìm hiểu qua những bộ triết sử và nghiên cứu của những học giả Tây phương đã thừa hưởng công trình vài chục thế kỷ. Đến khi bắt đầu đọc, tôi đi từ sửng sốt này đến sửng sốt khác vì mọi sách khảo cứu mà tôi được biết đều phản bội, lật ngược lại chủ ý sâu xa của Parménide, của phái Elée, một triết phải không để lại nhiều sách vở nhưng được coi là một trong những trường phải lớn của tư duy Hy Lạp, của thế giới Tây phương. Thời gian tôi dùng để đọc dăm trang khảo cứu là một vài giờ, còn đọc thẳng vào vài trang bản văn là mười lăm đêm, mỗi đêm 4 tiếng đồng hồ, tức là 60 giờ. Đỏ là một chuỗi hàm số liên tiếp mà người đọc phải tự giải, nhưng giải xong thì thấy cả núi sách khảo cứu dầu đúng cũng không đi vào chiều sâu, vào cải thần, ấy thế mà lại giải sai.Nếu Parménide với triết phái Elée, được người Tây phương khảo sát nhiều thế kỷ vì tự coi là thừa kế triết học Hy Lạp, mà còn bị phản bội như thể thì những triết thư Ấn Độ như Upanishads được khảo sát ra san, ta có thể suy đoán được.Người Việt ta vài ngàn năm quen với một dòng của triết đạo Ấn Độ là Phật giáo, nhưng về những dòng khác thì mới bắt đầu từ vài chục năm nay. Cho đến bảy giờ những bộ căn bản nhất như Upanishads cũng chỉ được trích dẫn vài câu đã trở thành sảo ngữ trong vài cuốn khảo cứu. Đã đến lúc uống nước uống tận nguồn. Bởi thế cho nên chúng tôi lựa chọn ba bộ tiêu biểu được đạo sư có uy tín người Ấn Độ là Shri Aurobindo vừa thừa hưởng được truyền thống, vừa có căn bản triết học Tây phương để bình giải, trình bày cho chúng ta thời bấy giờ hiểu nổi.Ấn Độ có ba dòng lớn về triết học là: Bà-la- môn giáo, Kỳ-na giáo, Phật giáo. Trong lòng Bà la-môn giáo lại có sáu phải mà quan trọng nhất là hai phải. Số luận tức là Samkhya, Vệ Đàn-Đà tức Védanta nghĩa là Viên thành Vệ Đà.Gạt ra ngoài vấn đề so sánh giá trị nội tại của hai phải này, mà chỉ nói quan niệm của đa số người Ấn cũng như học giả thế giới thì Vệ Đàn Đà được coi như tiêu biểu cho tư tưởng Ấn Độ, là cái phần tinh túy nhất mà văn hóa Ấn Độ cung hiến cho nhân loại. Đó là tư tưởng nhất nguyên coi vũ trụ, nhân loại, Thượng đế chỉ là một, chỉ có một Đại Ngã, Đại Hồn. Bởi thế cho nên Upanishads nhắc đến Thượng để hay đáng Chủ Tề thì ta chở nền lẫn với nhất thần giáo mà chỉ coi là một lối nói tạm để bị vượt ngay trong một bộ sách như phép giải toán lập số khử số để đi đến đáp số cuối cùng. Nó là nhất nguyên luận mà người Tây phương gọi là phiếm thần giáo, Phật giáo Đại thừa gọi là nhất như thuyết. Vedanta với Đại thừa cùng một dòng tư tưởng, đó là điều hiển nhiên tuyệt đối.Kinh điển nòng cốt của Vedanta là những bộ Upanishads. Chúng tôi dịch là Áo Nghĩa Thư với danh từ thông dụng từ lâu của những nhà Phật học nhưng giá trị của nó không ở dưới những bộ được gọi là kinh thư như tử thư so với Ngũ Kinh. Là vì bên Ấn Độ, những bộ được gọi là Sutras, vẫn được dịch là kinh, chưa hẳn giá trị hơn những bộ không được gọi là Sutras. Bởi thế những bộ như Vedas tôn quí bậc nhất mà không gọi là sūtras. Và người ta đã có lý khi dịch kinh Vệ Đà. Vậy Áo Nghĩa Thư hay Áo Nghĩa Kinh cũng vậy.Những bộ này được xếp sau những bộ Vệ Đà nên được coi là Liễu Kết Vệ Đà hay Viện Thành Vệ Đà với hai nghĩa đen và bóng: Nó được coi là rút tỉa tinh hoa của Vệ Đà, đào sâu mở rộng cái trực giác thần diệu nhất giữa nhiều trực giác ở Vệ Đà phong phủ như cái mỏ. Đó là trực giác về nhất nguyên luận hay nhất như thuyếtNhững bộ Áo Nghĩa Thư thật nhiều, khởi từ trước hay ngang thời Phật Thích Ca đến cuối Trung cổ, nhưng những bộ căn bản được coi là có mười hai, mà ba bộ sau đây ở trong số đó. Những tác giả thường vô danh, những vị được nhắc đến ở bộ này bộ nọ là những bậc truyền miệng được người ta ghi lại thêm bớt mà có vị chỉ là nhân vật huyền thoại.Những bộ này thường được coi là thần kỳ bí hiểm, những bản dịch nhiều khi khác nhau đến mực đưa ra những nghĩa không liên quan gì với nhau. Nên chúng tôi lựa chọn những bộ do đạo sư người Ấn dịch ra Anh ngữ, hơn hẳn những bản dịch của những học giả Tây phương mà tôi có để đối chiếu. Bản dịch từ Anh ngữ ra Pháp ngữ v hai bộ Isha và Mundaka do ông Jean Herbert đã được đạo sư Aurobindo hiệu chính, còn bản dịch Kena do ông Jean Herbert cộng tác với hai bạn là Cunulle Rao và René Daumal tuy không được đạo sự hiệu chính nhưng chắc chắn dùng tin cậy để tôi dịch lại ra tiếng Việt vì ông Jean Herbert đã cả đời hiến mình cho việc dịch, khảo và truyền bá triết đạo Ấn Độ, có tiếp xúc với nhiều bậc thầy Ấn hiện sống.Chỉ xin có đôi lời về lối dịch của chúng tôi.chữ Tat, Phạn ngữ, được dịch sang Pháp ngữ là chữ Cela, Cái y để ám chỉ Chân Thể mà người nghe được coi là đã ngầm hiểu. Người Việt tu đã quen từ lâu với tiếng Chân Như nên chúng tôi dịch là Chân Như. Đó là trong cuốn Isha nhưng sang cuốn Kena thì tài phải dịch sát là Cái Ấy vì Chân Thể trong cuốn này được coi như là một nghi vấn, một ẩn số đối với chủ thần, mãi đến cùng mới nhận ra.Soham, tiếng Phạn, dịch sát ra Pháp ngữ là Je Suis Lui – chúng tôi dịch: Ta là Chân Như cũng vì lẽ trên.Tattvam asi: - Tu es Cela – chúng tôi dịch: Ngươi là Chân Như cũng vì lẽ trên.Chữ Étre thường được dịch là Hữu Thế mà theo Parménide, cổ triết gia Hy Lạp người đã xây dựng toàn bộ học thuyết trên ý niệm này, thì thuộc tỉnh lớn nhất của Hữu Thế là hằng hữu, bất sinh bất diệt, vậy chúng tôi dịch là Hằng Hữu để phân biệt với être thường không viết hoa dịch là hữu thể.Chữ Existence có hai nghĩa chính là thực hữu hay hiện hữu và sinh tồn, chúng tôi dịch thành hữu tồn, tuy cũng có khi là sinh diệt, khi là sinh hóa, khi là sáng hóa, vừa theo tinh thần triết học Ấn Độ vừa uốn theo sắc thái, nhịp độ tư tưởng rất biến hóa linh động của Aurobindo.Chữ Dissolution thường được dịch là hòa tan hay tiêu diệt chúng tôi dịch là tiêu nhập theo tinh thần ở dây.Chữ Jeu có nhiều nghĩa, mà kể ba là trò chơi, sự vận dụng, sự xếp đặt xảo diệu, chúng tôi dịch, là trò diệu hóa hay diệu hóa lực theo hệ thống tư tưởng của Aurobindo vẫn gọi bằng tiếng Phạn là Lila thay cho Mâyân tức Huyễn Hóa.Egoisme thường được dịch là vị kỷ, vị ngã, nhưng tư tưởng Ấn Độ còn suốt nguồn gốc vị ngã là chấp ngã vậy chúng tôi dịch là ngã chấp. Mental theo nghĩa của Tây triết là tâm trí và Mentalité là tâm tính, nhưng ở đây theo Ấn triết phải dịch là phàm thức và thức tỉnh đối với siêu thức tuy đôi chỗ có thể dịch đại khái là tâm thức hay thức và tâm tính.Đó chỉ là một vài trong số nhiều thí dụ về lối dịch của chúng tôi không thể hoàn toàn y theo những tự điển hiện hành, nhưng có lẽ độc giả cũng thừa thông cảm.Ngoài ra cũng nhắc đến một danh từ thường dùng đến là Phạm Thể dịch từ tiếng Phạn, Brahman. Theo quan niệm Ấn Độ thị Brahma là thần linh tối cao đã sinh ra vũ trụ, mà Brahman là bản thể của Brahmô cũng như chư thần, cũng như chúng ta cũng như vũ trụ theo lẽ nhất nguyên, vậy nếu Brahmà đã được dịch từ mấy ngàn xưa là Phạm Thiện thì bây giờ chúng tôi dich Brahman là Phạm Thể.Về cú pháp, nhiều chỗ mông lung, hàm súc vì huyền diệu mà ông Jean Herbert cùng các bạn phải vượt khuôn khổ của Pháp ngữ, vốn nổi tiếng là minh bạch, khúc chiết, để phản ảnh với những câu như buông lơi, lỏng lẻo nên phải đọc kỹ bình giải mới quyết nghĩa được. Xem kinh văn, nếu thấy những chỗ bí hiểm thì độc giả không nên khổ công tìm hiểu mà cứ tạm để đó, tiến đến phần bình giải sẽ vỡ ra.Đọc thẳng một bộ như thế này, quí vị sẽ thâm nhập hơn là loanh quanh mãi ở vành ngoài với những bộ khảo cứu có công dụng giúp ta bước đầu với những ý niệm đại khái như bộ xương khô so với người sống thực.THẠCH TRUNG GIA 
Bái Đính - Ngàn năm tâm linh và huyền thoại [pdf]
Trong đời sống con người, ngoài mặt hiện hữu còn có mặt "phi hiện hữu" mà người ta gọi là tâm linh. Đời sống cá nhân cũng như cộng đồng (gia đình, làng, xã, quốc gia, dân tộc...) cũng như vậy. Mặt hiện hữu có thể nhận thức được bằng trực quan, cảm giác, có thể định tính, định lượng được cụ thể. Mặt tâm linh là những cái trừu tượng, mông lung, huyền bí, thiêng liêng nhưng không thể thiếu được trong đời sống. Từ ngàn xưa, khi triết học duy vật chưa có và ngay cả thời đại ngày nay điện tử, tin học và công nghệ thông tin bùng nổ, khoa học kỹ thuật phát triển đạt được những thành tựu phi thường, con người đã bay vào vũ trụ, lên sao Kim, sao Hoa thì mặt tâm linh cũng không thể thiếu, nếu như không nói nó là "thăng hoa" ở những biểu hiện vô cùng phong phú, đa dạng khác nhau. Cái cột chặt con người trong cộng đồng làng xã, quốc gia không chỉ có quan hệ hiện hữu ở lãnh thổ, biên giới, chủ quyền, trong đó có chủ quyền kinh tế - xã hội, mà còn nhiều quan hệ khác rất thiêng liêng. Đó là thế giới tâm linh với những biểu tượng, thần tượng, thánh tượng. những kỳ vọng vươn tới chân - thiện - mỹ. Đã đến lúc người ta thức nhận ra rằng, đời sống tâm linh là nền tung vững chắc nhất của mối quan hệ cộng đồng làng xã và rộng lớn hơn là của ca đất nước. Thế giới tâm linh là thế giới của cõi thiêng.