Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cha, Con Và Những Thước Phim - David Gilmour

Người cha đã nhìn thấy mình thuở nhỏ trong hình bóng của Jesse Gilmour - cậu con trai đang ở cùng vợ cũ. Ông băn khoăn "Jesse cần phải làm một cái gì đó, nhưng chính xác là phải làm gì? Tôi có thể cho nó làm việc gì mà không động chạm đến những thất bại ở trường học? Nó không thích đọc và cực ghét thể thao. Jesse thích điều gì? Nó rất thích xem phim. Ngay cả tôi cũng thích." Và quyết định cuối cùng đã được đưa ra: "Con không cần phải làm việc, cũng không cần phải trả tiền thuê nhà. Hàng ngày con có thể ngủ tới năm giờ chiều cũng được. Nhưng không được hút thuốc... Bố muốn mỗi tuần, con sẽ cùng bố xem ba bộ phim. Bố sẽ là người lựa chọn phim. Đây là kiến thức duy nhất con sẽ phải học." Quyết định này được đưa ra bởi ông nghĩ "đây một cách tốt nhất để đi sâu vào những bộ phim nghệ thuật của Châu Âu, tôi biết những bộ phim này sẽ khiến nó không chán khi nó học được cách để xem chúng. Điều đó cũng giống như một sự biến tấu trong việc học ngữ pháp thông thường". Liệu đó có phải là một quyết định liều lĩnh, sai lầm của một người cha - người đang quyết định số phận cuộc đời con trai mình? Cuốn sách The film club là câu chuyện có thật diễn ra trong ba năm của tác giả David Gilmour và con trai ông - hai thành viên duy nhất của câu lạc bộ phim sinh hoạt hàng tuần tại ngôi nhà nhỏ của mẹ Jesses. Những bộ phim được chiếu trong câu lạc bộ này do David chọn bằng kinh nghiệp của một nhà phê bình tài năng và lém lỉnh. Mỗi bộ phim được chiếu, ông tóm tắt nội dung, giới thiệu về tác giả, các diễn viên, giải thích từ việc làm phim, các cảnh quay cho đến những việc ở hậu trường. Tham gia câu lạc bộ của hai cha con Gilmour, độc giả sẽ như được xem tận mắt những bộ phim kinh điển: Crimes and Misdemeanors (Trọng tôi và khinh tội) (1989), Basic Instinct (Bản năng gốc) (1992), Giant (Người khổng lồ) (1956), Notorious (Khét tiếng) (1946), The Shinning (Ngôi nhà ma) (1980), Around the world (Vòng quanh thế giới) (1956), Last Tango in Paris (Bản tango cuối cùng ở Paris) (1972)... Những bộ phim hiện lên thật sống động, hấp dẫn qua lời kể của David - một nhà phê bình phim kinh nghiệm và hóm hỉnh. Những buổi sinh hoạt của câu lạc bộ kì lạ này, không chỉ đơn thuần là những kiến thức về điện ảnh, mà đó là thời gian David quan sát cậu con trai đang tuổi dậy thì, suy nghĩ những việc cần làm cho Jesse và đôi khi đó là khoảng thời gian hai cha con tâm sự về tất cả những mối quan tâm của Jesse: Tương lai, bạn gái, thuốc lá, rượu, ma túy, công việc.... "Khi con đi học ở trường, con phải lo lắng về việc bị điểm kém và gặp rắc rối. Bây giờ, con không phải đến trường nữa, con lo lắng rằng, có thể con đã hủy hoại cuộc đời mình"... Hi vọng, lo lắng, thất vọng, giận dữ, hoài nghi, mừng vui... tất cả những cảm xúc đó được trải nghiệm qua từng bộ phim và từng trải nghiệm thực tế của Jesse. Mỗi bộ phim là một câu chuyện, một thông điệp mà các đạo diện, diễn viên và ekíp thực hiện gửi gắm. Qua những thước phim ấy, David đã dạy con cách sống bằng một phương pháp đặc biệt. Ông đã biết cách để Jesse tự quyết định cuộc đời của chính mình. Jesse đã vào đời từ những thước phim... *** Những lời khen tặng dành cho cuốn sách:   "Một cuốn hồi kí thông thái." - USA Today "Nhẹ nhàng... một bức chân dung tuyệt đẹp, không tô vẽ về những người cha và những cậu con trai - có những điều không theo qui tắc, có những rạn vỡ, tổn thương và có cả tình yêu thương." - Newsweek "[Cuốn sách] kể lại chi tiết về mối quan hệ giữa cha và con, gần gũi và gắn bó đến mức khiến nhiều bậc cha mẹ có con ở lứa tuổi thiếu niên phải ganh tỵ." - San Joe Mercury News "Chân thành... khiến tôi không chỉ một lần xúc động và bật khóc." - Douglas McGrath, Chuyên mục điểm sách của New York Times *** Và rồi một điều kỳ diệu đã xảy ra(nhưng không phải một bất ngờ) Chloe, kẻ đam mê danh vọng ngất trời, dường như đã suy nghĩ lại. Morgan, theo lời đồn, thì đã được giải quyết nhanh gọn. Feelers bị đuổi ra ngoài. Đứa bạn thân nhất của Chloe “ngẫu nhiên” gặp Jesse tại một buổi tiệc, rồi bảo với cu cậu rằng Chloe “thực sự, thực sự nhớ nó.” Sắc thái hồng hào, tôi cho là thế, đã trở lại trên gương mặt thằng bé, thậm chí còn có cả sự khác biệt trong cách đi đứng và cái vẻ huênh hoang thì dù đã cố, vẫn không tài nào che giấu nổi. Jesse chơi cho tôi nghe một ca khúc, rồi thêm một bài hát khác nữa. Nhóm Nostalgia Đồi Bại hóa ra, ý chúng ám chỉ trong ngành công nghiệp giải trí, trở lại trong thời kỳ ăn khách. Chúng biểu diễn ở một quán bar trên phố Queen. Còn tôi thì rơi vào tình trạng bị đày ải. Ý thức rằng mối quan tâm của nó với chương trình xem phim Buried Treasures (Những kho báu bị lãng quên) đang nguội lạnh dần, tôi đã có tầm nhìn xa hơn. Cần có thứ gì đó để viết lách lúc này vì dường như thằng nhóc đang có khuynh hướng đi theo con đường đó. Nhưng hoạt động này đã có rồi, rõ ràng như việc trên mặt tôi có mũi ấy: Hai cha con đã lập một chương trình về các bộ phim có kịch bản được viết hay không chịu nổi. Chúng tôi nghiên cứu bộ phim Manhattan (năm 1979) của Woody Allen. Xem phim Pulp Fiction (năm 1994) để làm rõ sự tương phản giữa việc viết vui và viết thật. Pulp Fiction là một bộ phim vô cùng thú vị, với lời thoại long lanh tráng lệ nhưng không có khoảnh khắc có tính người thực sự nào trong đó. Tôi đã nhắc mình kể cho Jesse nghe câu chuyện về nhân vật Chekhov đi xem vở kịch The Dolh Hordse của Ibsen trong một rạp hát ở Moscow, suốt buổi diễn, anh ta quay sang một người bạn và thì thầm: “Nghe này, Isben không phải một nhà biên kịch... ông ta chẳng hiểu gì về cuộc sống cả. Trong cuộc sống thực, mọi thứ đơn giản không giống như thế này.” Mời các bạn đón đọc Cha, Con Và Những Thước Phim của tác giả David Gilmour.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Âm Điệu Bóng Đêm
Trong suốt sự nghiệp viết lách nổi tiếng của mình, Julie Garwood đã làm say mê độc giả với những nhân vật hấp dẫn, táo bạo và bùng nổ với cuộc sống. Giờ đây, tiểu thuyết gia nổi tiếng Julie Garwood đã trở về với câu chuyện tình lãng mạn lịch sử, một câu chuyện ly kỳ về tình yêu, giết người, phiêu lưu và bí ẩn chống lại khung cảnh ám ảnh của Scotland thời trung cổ. Đối với Công chúa Gabrielle của St. Biel, Scotland là vùng đất của những khung cảnh tuyệt đẹp, những thủ lĩnh hoang dã, những ánh mắt xảo quyệt, và những bóng tối dốc đứng, skullduggery, phản bội, và giờ là giết người. Được tôn vinh bởi vẻ đẹp tinh tế của mình, con gái của một trong những nam tước có ảnh hưởng nhất nước Anh, Gabrielle cũng là một con bài mặc cả hoàn hảo cho một vị vua cần hòa bình ở vùng núi cao: Vua John đã sắp xếp cuộc hôn nhân của Gabrielle đến một người phụ nữ tốt bụng và hiền lành. Nhưng cuộc hôn nhân này sẽ không bao giờ diễn ra. Mọi thứ thay đổi trong một đợt tự do cuối cùng khi cô và những người bảo vệ của mình bắt gặp một cảnh tàn ác không thể tưởng tượng được. Với một phát bắn từ cây cung và mũi tên của mình, Gabrielle lấy mạng, cứu mạng và bắt đầu một cuộc chiến.Trong vài ngày, vùng núi cao rực lửa một trận chiến hoàng gia bùng lên giữa kẻ thù cũ và mới. Đến Scotland để kết hôn, thay vào đó, Gabrielle bị vướng vào mưu đồ ở vùng cao. Đối với hai nhà quý tộc tàn bạo, việc đánh giá thấp sự dũng cảm và năng lực của Gabrielle có thể sẽ dẫn đến cái chết, nhưng nhờ có một bí mật mà Gabrielle sở hữu , Colm MacHugh - người đàn ông đáng sợ nhất ở Scotland, đã tìm ra một nguyên nhân mới cho sự can đảm. Một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn đi sâu vào trái tim của những cảm xúc, niềm đam mê bất khuất của tình yêu, thù hận và sự trả thù. “Âm điệu bóng đêm” là món quà tuyệt vời từ Julie Garwood và một thành tựu đáng nể trong sự nghiệp tuyệt vời của cô. *** Mưa lắm rồi vào cái năm mà những cơn giông bão dữ dội tràn vào từ biển khơi, đám chiến binh đầu tiên từ vùng đất xa xôi băng đồi vượt núi và đặt chân lên bờ biển của chúng ta. Với vũ khí bằng thép đeo trước ngực và bộ giáp được đánh bóng sáng lấp lánh tựa như mảnh kính vỡ dưới ánh mặt trời ban trưa, chúng tuần hành khắp những nơi mà mắt có thể nhìn thấy được. Chúng không cần hỏi han cũng chẳng hề quan tâm rằng mình đang xâm lược. Nói cách khác, chúng đang thi hành nhiệm vụ và chẳng gì có thể ngáng đường chúng. Băng qua đồng bằng của chúng ta, chúng chiếm đoạt ngựa và thức ăn, dẫm đạp lên hoa màu, cướp phụ nữ và giết rất nhiều những trai tráng khỏe mạnh. Chúng hủy diệt tất cả những nơi chúng đi qua… tất cả đều nhân danh Đức Chúa Trời. Chúng tự gọi mình là đội quân Thập Tự Chinh. Chúng cực kỳ tin tưởng rằng sứ mệnh của mình vô cùng thiêng liêng và tốt đẹp vì Đức Giáo Hoàng, người đã ban phước lành và ra lệnh cho chúng thực hiện cuộc hành trình đến phía bên kia của thế giới, đã nói với chúng như thế. Chúng phải trừng phạt những kẻ ngoại đạo và buộc họ phải tôn thờ Đức Chúa Trời và tín ngưỡng của chúng. Nếu những người ngoại đạo từ chối, những binh lính kia sẽ giết họ bằng thanh kiếm thiêng liêng được ban phước của mình. Vượt qua những ngọn núi của chúng ta là con đường duy nhất để đội quân Thập Tự Chinh tiến hành sứ mệnh của chúng, thế là chúng đi thành từng đoàn và khi chúng đặt chân đến bến cảng ở bên kia dãy núi, chúng đánh cắp tàu của chúng ta để giương buồm vượt đại dương đến nơi mà chúng cần đến. Đất nước nhỏ bé của chúng ta được gọi là Monchanceux, được cai trị bởi đức vua Grenier nhân từ. Ngài là người yêu quê hương và muốn bảo vệ nó. Chúng ta chẳng phải đất nước giàu có gì, nhưng chúng ta hài lòng với nó. Thế là đủ. Khi lũ xâm lược cướp bóc của chúng ta, đức vua rất phẫn nộ, nhưng ngài không để cho cơn giận dữ sai khiến. Vì ngài là một đấng minh quân, đức vua Grenier đã đưa ra một giải pháp. Ngài buộc tốp lính xâm lược tiếp theo phải trả phí khi vượt núi. Đường núi chật hẹp, nên có thể dễ dàng phòng thủ. Binh lính của chúng ta được trang bị để chống lại cái lạnh, tuyết và những cơn gió cắt thịt về đêm. Họ có thể bảo vệ rặng núi suốt hàng tháng trời và mùa đông sẽ đến rất nhanh. Kẻ dẫn đầu đoàn xâm lược vì chính nghĩa kia cảm thấy bị xúc phạm khi phải trả phí cho thứ gì đó. Hắn và binh lính của mình đang thực hiện một nhiệm vụ cao cả. Hắn dọa sẽ giết hết tất cả những người dân của Monchanceux, kể cả phụ nữ và trẻ em, nếu bọn chúng bị cản đường. Liệu đức vua Grenier và thần dân của mình có nhận ơn huệ của Giáo hội, hay họ chọn làm những kẻ ngoại đạo ngáng đường của Chúa? Câu trả lời sẽ quyết định số phận của họ. Ngay thời điểm mấu chốt ấy đức vua nhân từ và thông minh của chúng ta đã tiếp nhận tín ngưỡng. Ngài nói với kẻ dẫn đầu đội quân rằng ngài và tất cả thần dân của mình đều thuộc về Chúa và ngài sẽ chứng minh điều đó bằng bất cứ giá nào. Sau đó, Ngài cho gọi tất cả người dân của Monchanceux tập hợp trước ban công của cung điện. Kẻ cầm đầu đoàn quân Thập Tự Chinh đứng ngay sau ngài. “Kể từ giờ trở đi đất nước của chúng ta sẽ mang tên St. Biel, nhân danh vị thánh đỡ đầu của gia tộc ta. Người sẽ phù hộ cho những người vô tội,” đức vua Grenier tuyên bố. “Chúng ta sẽ dựng tượng thánh St. Biel và vẽ tranh của Người trước cửa thánh đường để bất cứ ai đặt chân đến với bờ biển của chúng ta đều sẽ thấy được sự tốt đẹp của Người, chúng ta sẽ cống nạp cho Đức Giáo Hoàng để tỏ lòng thành kính và sự phục tùng của chúng ta. Số lệ phí mà ta thu được sẽ dùng để cống nạp.” Kẻ cầm đầu đám ngoại xâm nhận ra rằng mình đang trong tình thế khó xử. Nếu hắn từ chối trả phí – bằng vàng, đương nhiên, đức vua sẽ không chấp nhận thứ gì khác – vậy khác nào hắn từ chối việc cho phép nhà vua cống nạp cho Đức Giáo Hoàng? Và nếu Đức Giáo Hoàng biết được hắn đã từ chối, Giáo Hoàng sẽ làm gì? Khai trừ hắn? Xử tử hắn? Sau một đêm dài suy ngẫm và quát tháo không ngừng, kẻ cầm đầu đoàn quân đã quyết định trả phí. Đó là một sự kiện trọng đại, một tiền lệ đã được đặt ra kể từ thời khắc đó, bất cứ quân Thập Tự Chinh nào muốn đi qua lãnh thổ của chúng ta đều phải trả phí mà không có bất cứ thắc mắc nào. Đức vua của chúng ta đã giữ đúng lời hứa. Ngài đã nung chảy vàng và làm chúng thành những đồng tiền nhỏ, trên mỗi đồng tiền đều có hình thánh St. Biel, với vầng hào quang trên đầu. Kho bạc hoàng gia phải mở rộng để làm phòng chứa những đồng tiền vàng, một con tàu được chuẩn bị cho chuyến hành trình dâng chúng đến tay Đức Giáo Hoàng. Một ngày trọng đại, những chiếc rương thật nặng được chất xuống hầm tàu, đám đông dân chúng tụ tập tại bến cảng để nhìn chuyến tàu khởi hành đến Rome. Ngay sau cái ngày lịch sử ấy, những tin đồn bắt đầu lan truyền. Chẳng ai có thể chắc chắn mình đã thật sự nhìn thấy số vàng hay ước lượng được bao nhiêu vàng đã được chuyển đi. Vài sứ thần tuyên bố rằng chỉ một khoản rất nhỏ đến được tay Giáo hoàng. Những lời bàn tán về tài sản khổng lồ của đức vua chúng ta dâng lên rồi hạ xuống như những đợt thủy triều vỗ vào bờ của chúng ta. Cuối cùng, một con đường ngắn hơn để đến vùng đất Thánh được tìm ra, đội quân Thập Tự Chinh không còn đi qua đất nước của chúng ta nữa. Chúng ta vô cùng biết ơn sự vắng mặt này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn không được yên bình. Cứ cách vài năm lại có người đến để tìm kiếm số vàng trong truyền thuyết. Một vị bá tước từ Anh quốc tìm đến vì đức vua của ông ta đã nghe được tin đồn, nhưng sau khi người trị vì của chúng ta cho phép ông ta thực hiện một cuộc tìm kiếm toàn diện trong cung điện và các căn cứ, vị bá tước nói với ngài rằng ông ta sẽ trở về Anh quốc với tin tức: không có kho báu nào được tìm thấy. Bởi đức vua Grenier quá hiếu khách, vị bá tước đã lên tiếng cảnh báo ngài rằng hoàng tử John của Anh quốc đang có ý định xâm lược St. Biel. Hoàng tử John, vị bá tước giải thích, muốn thống trị thế giới và đang nóng lòng được kế thừa chiếc vương miện của Anh quốc. Vị bá tước kia tin chắc rằng St. Biel sẽ sớm trở thành một thuộc địa khác của Anh quốc mà thôi. Cuộc xâm lược đến vào một năm sau đó. Khi St. Biel chính thức thuộc về Anh quốc, cuộc tìm kiếm số vàng bị giấu lại được tiếp tục. Những người tham gia cuộc truy lùng thề rằng không có một viên đá nào chưa bị lật lên. Nếu thật sự từng có kho báu nào đó, thì nó đã biến mất. Mời bạn đón đọc Âm Điệu Bóng Đêm của tác giả Julie Garwood.
Bức Tranh Dorian Gray
Không chỉ là một kiệt tác văn chương gây nhiều tranh cãi khi mới xuất bản, “Bức tranh Dorian Gray” còn là cuốn tiểu thuyết duy nhất của Oscar Wilde. Lấy bối cảnh diễn ra vào thời Victoria ở nước Anh, Dorian Gray có vẻ ngoài cuốn hút, đã truyền cảm hứng cho Basil vẽ chân dung của anh. Đó là một bức chân dung kì lạ, nó thay Dorian Gray già đi, thậm chí khi Dorian Gray trở nên tệ bạc, xấu xa, bức tranh cũng trở nên tệ hại theo. Cứ thế Dorian Gray giữ được vẻ ngoài suốt gần hai mươi năm, nhưng liệu giữ được vẻ ngoài hào hoa bất biến theo thời gian có thật sự là may mắn? Trút hết sự suy đồi của mình vào một bức tranh liệu có làm cho Dorian Gray hạnh phúc, hay đó lại chính là khởi đầu cho những bất hạnh ngấm ngầm bao phủ cuộc đời anh ta? *** Trong lịch sử văn chương nhân loại có những cuốn sách được viết ra quá sớm so với thời đại của chúng, nên dường như vì thế mà chúng phải chịu trắc trở ngay từ những ngày mới chào đời. Ví dụ điển hình là Lolita của Vladimir Nabokov: Bị cấm ở nhiều nơi, không thể in ở Mỹ, nơi nó được sáng tác xong vào năm 1953, và phải xuất bản lần đầu ở Pháp vào năm 1955. Tuy nhiên, như đã biết, sau đó Lolita nhanh chóng trở thành một tác phẩm bán chạy hàng đầu của văn chương tiếng Anh, luôn được xếp hạng đầu trong các cuộc bình chọn, và đưa tác giả của nó trở thành một trong các nhà văn vĩ đại nhất nhân loại. Trước đó hơn nửa thế kỷ, vào năm 1891, cũng từng có một kiệt tác văn chương chịu số phận gập ghềnh không kém, là Bức tranh Dorian Gray (The picture of Dorian Gray) của Oscar Wilde, nhà văn vĩ đại người Ai Len. Sau khi xuất hiện lần đầu vào tháng Bảy năm 1890 trên tạp chí Lippincott's Monthly Magazine, mặc dù đã bị kiểm duyệt và bỏ đi khoảng năm trăm từ, nhưng cuốn sách này vẫn chịu phản ứng dữ dội từ giới phê bình văn chương Anh quốc, do đụng đến các vấn đề chưa được xã hội chấp nhận vào thời điểm ấy. Phiên bản sách giấy của Bức tranh Dorian Gray được Oscar Wilde chỉnh sửa, bổ sung, viết thêm phần Lời tựa rất nổi tiếng, và cho nhà xuất bản Ward, Lock and Company in vào năm 1891. Như vậy, tác phẩm này có hai phiên bản: một là bản 1890 với 13 chương và khoảng năm trăm từ bị kiểm duyệt, hai là bản 1891 với 20 chương và được in thành sách. Ngoài ra, năm 2011, Harvard University Press đã in lại bản 1890 với 13 chương nguyên vẹn không bị bỏ từ nào như Oscar Wilde viết từ đầu. Bản dịch tiếng Việt này được làm theo bản 1891 của Ward, Lock and Company. Mặc dù cuốn sách hiện nay đã nổi tiếng, được dựng thành phim và kịch, thậm chí Dorian Gray đã thành một thuật ngữ chỉ một hội chứng thời đại, nhưng tác giả của nó lại không được chứng kiến sự thành công của đứa con tinh thần của mình. Tác giả Bức tranh Dorian Gray phải chịu số phận bi thảm hơn nhiều so với tác giả Lolita, ông sống những ngày tháng cuối đời trong cô độc và nghèo khổ. Ngày 30 tháng Mười một năm 1900, ông qua đời vì bệnh viêm não tại Paris, khi mới 46 tuổi. Cuốn sách đã đem lại cho Oscar Wilde nhiều bi kịch, biến ông trở thành nhân vật bị xã hội căm ghét, và không khó nhận ra sự phản kháng của ông trong phần Lời tựa khi tái bản nó, với những tuyên ngôn đầy ẩn ý như: “Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi.” Hoặc: “Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động.” Tuy nhiên, thời gian là hòn đá thử vàng với nghệ thuật, không phải cái gì lấp lánh leng keng cũng chịu đựng được sự phán xét tàn nhẫn của thời gian. Năm nào cũng có vô số cuốn tiểu thuyết được viết ra, được ca ngợi bởi các nhà phê bình cũng như báo chí, thậm chí được các giải thưởng lớn nhưng không mấy cuốn còn lại được sau vài chục năm. Và trong các cuốn sách trụ vững với thời gian ấy thì, cũng như Lolita, Bức tranh Dorian Gray đã được đánh giá như một trong các kiệt tác văn chương quan trọng nhất của nhân loại. Tình yêu đồng giới mà nó đề cập đến đã được chấp nhận rộng rãi trên thế giới, mặc dù cũng chưa thể nói là đã được coi là bình thường tại một số nước nhất định. Tuy nhiên, chủ đề này chỉ là một điểm nhấn trong Bức tranh Dorian Gray, và ngay cả mô-típ bán linh hồn cho quỷ dữ cũng không phải là mới, mà chính kỹ thuật viết tuyệt đẹp đã đem lại sự thành công cho tác phẩm này. Vốn nổi tiếng như một tác giả của những câu văn hài hước, sâu sắc và đôi khi rất cay độc, Oscar Wilde đã đưa câu chuyện tưởng chừng rất khó viết cho tao nhã ấy thành một tiểu thuyết cực kỳ hấp dẫn không chỉ về số phận một nhân vật riêng lẻ, mà về bi kịch chung của thân phận con người. Ba nhân vật quan trọng nhất trong cuốn sách: Henry Wotton, Dorian Gray, Basil Hallward, theo Oscar Wilde, là ba phản thân của tác giả, là những hình ảnh mà thế gian nhìn nhận về ông; chính ông muốn mình sẽ trở thành, có thể, ở một thời đại khác; và ông nghĩ là của chính ông. Thực ra cũng không ai biết ai trong ba nhân vật trên đây có nhiều tính Oscar Wilde hơn cả, vì không phải lúc nào con người cũng nhìn nhận được chính xác về mình, dẫu người đó có là một thiên tài chăng nữa. Người viết những dòng này vốn hâm mộ Oscar Wilde từ khi còn là một cậu bé, và không thể phủ nhận rằng đã bị nhiều câu văn của ông ảnh hưởng phần nào đến cách tư duy, nên việc dịch Bức tranh Dorian Gray, tiểu thuyết duy nhất của ông, vừa là một chuyến trở về thế giới của bậc thầy, vừa là một nghĩa vụ cá nhân: Đưa kiệt tác này đến với tiếng Việt một cách hoàn hảo nhất, bằng tất cả những gì mà khả năng và thời gian cho phép. Ba tháng dịch Bức tranh Dorian Gray đã đem lại cho người dịch nó những kỷ niệm khó quên, không chỉ trong mà còn ngoài cuốn sách. Có những chương dài và vô cùng phức tạp vì liên quan đến những kiến thức văn hóa và lịch sử cổ xưa của châu Âu, có nhiều câu văn đẹp đến mức không thể bỏ đi tiếp khi chưa thấy bản dịch thỏa mãn được chính người dịch, có những lúc mệt mỏi với sự đen tối không đáy của tâm hồn con người, có những lúc bật cười với sự hài hước đặc biệt của Oscar Wilde, có những lúc xao lòng với nỗi đau đằng sau một nụ cười nào đó, nhưng, trên tất cả, là niềm hạnh phúc vì đã, cùng với thần tượng của mình, tạo ra được một thứ tuyệt đối vô ích, chỉ vì mê nó đến cùng cực. Thiên Lương *** Nghệ sỹ là người tạo ra cái đẹp. Biểu lộ nghệ thuật và che giấu nghệ sỹ là mục đích của nghệ thuật. Nhà phê bình là người có thể tái hiện qua phong cách khác hoặc chất liệu khác các ấn tượng của mình về cái đẹp. Hình thái phê bình cao nhất cũng như thấp nhất là một dạng tự truyện. Những ai thấy nghĩa xấu trong cái đẹp là đã đồi bại song không nhờ thế mà khả ái hơn. Đó là tội trọng. Nhưng ai thấy nghĩa đẹp trong cái đẹp thì đã biết tu dưỡng. Với những kẻ này thì vẫn còn hy vọng. Họ là những kẻ được chọn lựa, những kẻ thấy cái đẹp chỉ đơn giản là đẹp mà thôi. Không có những thứ như sách đạo đức và sách vô đạo đức. Sách được viết hay, hoặc viết dở. Chỉ vậy thôi. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa hiện thực là cơn thịnh nộ của Caliban khi thấy mặt mình trong gương. Sự căm ghét của thế kỷ mười chín với chủ nghĩa lãng mạn là cơn thịnh nộ của Caliban khi không thấy mặt mình trong gương. Cuộc đời đạo đức của con người tạo thành một phần chủ đề của nghệ sỹ, nhưng đạo đức nghệ thuật cốt ở sự sử dụng thành thạo một công cụ không hoàn hảo. Không nghệ sỹ nào muốn làm sáng tỏ điều gì. Ngay cả những điều đúng đắn cũng có thể bị làm sáng tỏ. Không nghệ sỹ nào có sự đồng cảm với luân thường đạo lý. Sự đồng cảm với luân thường đạo lý ở nghệ sỹ là một phong cách riêng tư không thể dung thứ. Không nghệ sỹ nào từng bệnh hoạn. Nghệ sỹ có thể diễn tả mọi điều. Tư tưởng và ngôn ngữ là các công cụ nghệ thuật của nghệ sỹ. Sự đồi bại và đức hạnh là các chất liệu của nghệ sỹ cho nghệ thuật. Từ quan điểm hình thái học, mẫu mực mọi nghệ thuật là nghệ thuật của nhạc sỹ. Từ quan điểm cảm xúc, ngón nghề của nghệ sỹ là mẫu mực. Mọi nghệ thuật đồng thời là bề mặt và biểu tượng. Những ai đi xuống dưới bề mặt đều làm liều. Những ai đọc biểu tượng đều làm liều. Chính khán giả, chứ không phải cuộc sống, mới là cái mà nghệ thuật thật sự phản chiếu. Sự đa dạng quan điểm về một tác phẩm nghệ thuật cho thấy rằng tác phẩm ấy là mới mẻ, phức tạp và sinh động. Khi các nhà phê bình bất đồng, nghệ sỹ thống nhất với chính mình. Ta có thể tha thứ cho kẻ tạo ra một thứ hữu ích chừng nào y còn chưa mê nó. Lý do duy nhất để bào chữa cho việc tạo ra một thứ vô ích là người ta mê nó đến cùng cực. Mọi nghệ thuật đều tuyệt đối vô ích. Oscar Wilde *** Oscar Wilde, tên đầy đủ: Oscar Fingal O'Flahertie Wills Wilde, sinh ngày 16.10.1854. Oscar Wilde là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch và phê bình nổi tiếng của Ireland. Năm 1871, ông học tại Trinity College (Dublin), sau đó học tại Magdalen College (Oxford, 1874-1878). Ở đây ông đã gặp và chịu ảnh hưởng của nhà văn, nhà phê bình Walter Pater (1839-1894) và ủng hộ phong trào ”nghệ thuật vị nghệ thuật". Ông cũng chính là người khởi xướng việc giảng dạy phong trào nghệ thuật này. Năm 1878, Oscar Wilde nhận giải Newdigate của Oxford cho bài thơ Ravenna. Năm 1884, Wilde kết hôn và cùng gia đình định cư tại Chelsea (London), tiếp tục viết và làm việc cho các tạp chí như Pall Mall Gazette và biên tập viên của Women's world (1887 – 1889). Ông xuất bản sách truyện cổ tích đầu tiên năm 1888 với tác phẩm The Happy Prince and Other Stories (Hoàng tử hạnh phúc và những câu chuyện khác). Ông sáng tác nhiều và thành công với lối viết tự nhiên, trong sáng. Ông cũng thành công với quyển tiểu thuyết duy nhất The Picture of Dorian Gray (1891). Sở trường của ông là biên kịch và với giọng văn trào phúng, châm biếm cùng với cách chơi chữ hóm hỉnh, ông đã sản xuất các phim hài như Lady Windermere's Fan (1892), An Ideal Husband (1895) và The importance of being earnest(1895), Salomé (1896). Năm 1895, Wilde bị buộc tội "có lối sống không đứng đắn” đối với hành vi “tình dục đồng giới” với 02 năm lao động khổ sai. Sau khi ra tù vào tháng 5/1897, ông đã dành phần đời còn lại của mình ở châu Âu, xuất bản "The Ballad of Reading Gaol" trong năm 1898. Ông qua đời tại Paris vào ngày 30 Tháng 11 năm 1900 vì bệnh viêm màng não. Các tác phẩm đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam Hoàng Tử Hạnh Phúc Và Những Truyện Khác - Oscar Wilde Chân Dung Của Dorian Gray - Oscar Wilde Gã Khổng Lồ Ích Kỷ - Oscar Wilde Tội Ác Của Huân Tước Arthur Savile Và Các Truyện Ngắn Khác ... Mời các bạn đón đọc Bức Tranh Dorian Gray của tác giả Oscar Wilde & Thiên Lương (dịch).
John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - Edgar Rice Burroughs
John Carter là một cựu binh trong cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ. Một ngày tình cờ anh bị hút vào Hỏa tinh, và nó đã khởi đầu cho cuộc phiêu lưu ly kỳ của anh trong suốt hơn hai mươi năm dài. Trải qua bao nhiêu phen vào sinh ra tử và vô số cuộc chiến, bằng lòng quả cảm, thủy chung và những đức tính rất “người” của một cư dân Trái đất, John Carter không những đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc mà còn góp phần lớn vào công cuộc đem lại hòa bình, thịnh vượng và tình yêu thương cho hành tinh vốn khô cằn và đang hấp hối này. Những thủ pháp miêu tả và cách xây dựng nội dung, tình tiết, cao trào của Burroughs đúng là của một bậc thầy, khiến độc giả không bao giờ chán và thậm chí không muốn dừng mạch đọc, dù đang theo dõi một cuộc đấu nghẹt thở hay đang lắng lòng với cảnh tự tình của hai con người yêu nhau. Ngoài ra, một trong những điểm đặc sắc của bộ truyện là tư tưởng mang tính tiên phong của Burroughs. Ngay từ đầu thế kỷ XX, ông đã có một tầm nhìn sâu sắc về môi trường, trong đó một Hỏa tinh đã từng trù phú trở nên khô khan cằn cỗi và các chủng tộc buộc phải lấy chiến tranh làm một phương tiện để trung hòa giữa dân số và nguồn tài nguyên thực phẩm hiếm hoi. Bên cạnh đó, những ý tưởng mang đầy tính sáng tạo của ông về các công nghệ trên Hỏa tinh thật sự là những yếu tố hấp dẫn và thú vị, đặc biệt của một tác giả sống trước năm 1950. Bộ Barsoom xuất bản tại Việt Nam gồm có:   - John Carter Và Công Chúa Hỏa Tinh     - John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - ... *** Lưỡi dao đã hạ xuống ngực ai? Dejah Thoris? Thuvia? Và cả ba cô gái đó có còn sống sót hay không, sau một năm Hoả tinh dài dằng dặc bị nhốt trong căn phòng kín, chưa kể tới cơn hỏa hoạn thiêu rụi ngôi đền Issus? *** Tác giả: Edgar Rice Burroughs (01/09/1875 - 19/03/1950) là một tác giả người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm về người rừng Tarzan và những cuộc thám hiểm của anh hùng John Carter trên Hỏa tinh. Ông từng theo học tại Philips Academy Andover và Học viện quân sự Michigan. Từ 1897 đến 1911, Burroughs đã không thành công trong nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Chicago và Idaho. Năm 1911, Burroughs ổn định gia đình tại Chicago và bắt đầu sáng tác. Sáng tác đầu tay của ông Under the Moons of Mars đã gây tiếng vang lớn. Thành công này đã thôi thúc ông tập trung vào con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Năm 1912, tập truyện đầu tiên trong bộ truyện 25 quyển về Tarzan đã ra đời: Truyện Tarzan (Tarzan of the Apes) đã được dịch ra hơn 56 ngôn ngữ và đã trở thành đề tài hấp dẫn cho điện ảnh, các chương trình phát thanh. Ngoài Tarzan, Burroughs còn là tác giả của hơn 68 đầu sách. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Burroughs là phóng viên thường trú cho “The Los Angeles Times” và là phóng viên thường trú cao tuổi nhất (66 tuổi) có mặt tại Nam Thái Bình Dương. Mời các bạn đón đọc John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh của tác giả Edgar Rice Burroughs
John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - Edgar Rice Burroughs
John Carter là một cựu binh trong cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ. Một ngày tình cờ anh bị hút vào Hỏa tinh, và nó đã khởi đầu cho cuộc phiêu lưu ly kỳ của anh trong suốt hơn hai mươi năm dài. Trải qua bao nhiêu phen vào sinh ra tử và vô số cuộc chiến, bằng lòng quả cảm, thủy chung và những đức tính rất “người” của một cư dân Trái đất, John Carter không những đã xây dựng cho mình một gia đình hạnh phúc mà còn góp phần lớn vào công cuộc đem lại hòa bình, thịnh vượng và tình yêu thương cho hành tinh vốn khô cằn và đang hấp hối này. Những thủ pháp miêu tả và cách xây dựng nội dung, tình tiết, cao trào của Burroughs đúng là của một bậc thầy, khiến độc giả không bao giờ chán và thậm chí không muốn dừng mạch đọc, dù đang theo dõi một cuộc đấu nghẹt thở hay đang lắng lòng với cảnh tự tình của hai con người yêu nhau. Ngoài ra, một trong những điểm đặc sắc của bộ truyện là tư tưởng mang tính tiên phong của Burroughs. Ngay từ đầu thế kỷ XX, ông đã có một tầm nhìn sâu sắc về môi trường, trong đó một Hỏa tinh đã từng trù phú trở nên khô khan cằn cỗi và các chủng tộc buộc phải lấy chiến tranh làm một phương tiện để trung hòa giữa dân số và nguồn tài nguyên thực phẩm hiếm hoi. Bên cạnh đó, những ý tưởng mang đầy tính sáng tạo của ông về các công nghệ trên Hỏa tinh thật sự là những yếu tố hấp dẫn và thú vị, đặc biệt của một tác giả sống trước năm 1950. Bộ Barsoom xuất bản tại Việt Nam gồm có:   - John Carter Và Công Chúa Hỏa Tinh     - John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh - John Carter Và Thống Soái Hỏa Tinh - ... *** Đại úy John Carter có quay trở lại Hỏa tinh? Công chúa Dejah Thoris, quả trứng con của hai người, và tất cả các cư dân sao Hỏa khác liệu có còn sống sót không sau sự cố ở nhà máy sản xuất khí quyển? Và trong chuyến trở lại Hỏa tinh này, John Carter sẽ trải qua những cuộc phiêu lưu kỳ thú nào khác nữa? *** Tác giả: Edgar Rice Burroughs (01/09/1875 - 19/03/1950) là một tác giả người Mỹ, nổi tiếng với những tác phẩm về người rừng Tarzan và những cuộc thám hiểm của anh hùng John Carter trên Hỏa tinh. Ông từng theo học tại Philips Academy Andover và Học viện quân sự Michigan. Từ 1897 đến 1911, Burroughs đã không thành công trong nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Chicago và Idaho. Năm 1911, Burroughs ổn định gia đình tại Chicago và bắt đầu sáng tác. Sáng tác đầu tay của ông Under the Moons of Mars đã gây tiếng vang lớn. Thành công này đã thôi thúc ông tập trung vào con đường trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Năm 1912, tập truyện đầu tiên trong bộ truyện 25 quyển về Tarzan đã ra đời: Truyện Tarzan (Tarzan of the Apes) đã được dịch ra hơn 56 ngôn ngữ và đã trở thành đề tài hấp dẫn cho điện ảnh, các chương trình phát thanh. Ngoài Tarzan, Burroughs còn là tác giả của hơn 68 đầu sách. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Burroughs là phóng viên thường trú cho “The Los Angeles Times” và là phóng viên thường trú cao tuổi nhất (66 tuổi) có mặt tại Nam Thái Bình Dương. Mời các bạn đón đọc John Carter Và Linh Thần Hỏa Tinh của tác giả Edgar Rice Burroughs