Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngày Tâm Ta An, Sóng Gió Sẽ Tan

PHIỀN NÃO trong đời được gói gọn trong 12 chữ: “BUÔNG KHÔNG NỠ, NGHĨ KHÔNG THÔNG, NHÌN KHÔNG THẤU, QUÊN KHÔNG N­ỔI! “ Bởi vậy mà, biết bao sóng gió ngày ngày vẫn kéo đến bên ta. Chúng ta thường nhìn vào kẻ khác để so sánh, để dao động, để hơn thua, cũng có nghĩa ta đã tự đặt mình vào một cuộc đua khốc liệt. Có mệt mỏi không? Ừ Có! Khi đã mệt mỏi, đi qua những nông sâu chốn hồng trần, ta chỉ mong mỗi sớm thức giấc thấy lòng xanh như lá, bỏ lại những phù phiếm xa hoa, đón lấy niềm an lạc. Liệu ta có làm được không? Khó đấy, vì ta khao khát muốn được bình yên mà không nhận ra rằng: Ngày tâm ta an, sóng gió sẽ tan. Ta không thể đòi hỏi sự tự do từ bên ngoài trong khi thâm tâm chưa tự tại. Chỉ khi BUÔNG ĐƯỢC, NGHĨ THÔNG, NHÌN THẤU, QUÊN NỔI, ta mới thấy tâm mình bình an. Những trang sách bảo ta rằng: Cuộc đời này, như một đám mây, mỗi kẻ nhìn vào mà hình dung một hình dáng cho mình. Cuộc đời này, như một câu hỏi mở, mỗi kẻ đều có đáp án của riêng mình. Cuộc đời này, như một tách trà, mỗi kẻ sẽ có cách thưởng thức riêng. Cuộc sống chính là sự thảnh thơi, vui vẻ. Thay vì gồng mình lên cố gắng, hãy để mọi chuyện trở nên tự nhiên, thong dong. Nếu quá mệt mỏi, hãy ngồi xuống, thưởng một ngụm trà, ngắm một nhành hoa, an yên sống. Nếu lòng người quá rộng như hư không, thì hãy để tâm ta lắng lại. Cuốn sách chữa lành bán chạy nhất Trung Quốc năm 2017 nay đã được ra mắt bạn đọc Việt với tên gọi “Ngày tâm ta an, sóng gió sẽ tan”. Hy vọng cuốn sách là người đồng hành thân thiết với bạn trên hành trình đạt đến sự an vui từ nội tâm. Để ai có duyên đọc nó sẽ nhẹ nhàng đi qua nỗi mênh mông của kiếp người. *** Tác giả   Thẩm Gia Kha (Nhà văn nổi tiếng)   - Tác phẩm của anh được đăng trên các tờ báo và tạp chí quan trọng của Trung Quốc như Nhân Dân nhật báo, Quang Minh nhật báo, Báo Thanh niên Trung Quốc…, lọt vào các Top Sách bán chạy Top Sách hay của Trung Quốc. Anh là đệ tử Thiền tông tại gia, có chuyên mục Hỏi Đáp trên Chính Tín, chuyên mục Văn Hóa trên Sina, chuyên mục Bình luận điện ảnh trên Nam Phương Cuối Tuần. - Tản văn, tùy bút của anh ấm áp, mang tính chữa lành, sắc sảo nhưng không kém phần ôn hòa khoáng hậu, được hàng triệu độc giả trẻ yêu thích, được các hãng truyền thông lớn chuyển đăng rộng rãi, là bạn với nhiều độc giả trẻ.   Lý Lê (Nhà văn, nhiếp ảnh gia)   - Đệ tử Tam bảo nhà Phật, là người theo chủ nghĩa lạc quan, thích áo vải cơm chay, ưa trồng hoa, yêu cuộc sống đơn giản dễ chịu. - Cô đi khắp các nơi trong cả nước, để ý những cảnh đẹp của nhân gian, tin rằng cuộc sống cần một trái tim Thiền để phát hiện những điều tốt đẹp. - Cô nhiều lần giữ chức Chủ biên tạp chí Du Lịch, Chủ Nhiệm Biên tập tạp chí của Hiệp Hội Phật giáo tỉnh, từng sáng lập tạp chí về sống Thiền, chuyên mục Du Lịch, chuyên mục Ăn chay trên nhiều họa báo và tạp chí. *** Tu hành một cách vui vẻ và thông minh Tôi vốn không am hiểu về trà, nhưng tôi có một người bạn đặc biệt thích uống trà, cũng có sở trường phân biệt các loại trà. Cô giống như một bậc thầy, lấy được nước sạch từ miệng suối phun trên núi ở Giang Tây, mua được trà ngon từ làng trà ở Phúc Kiến, khó tránh ngứa nghề, thường mời chúng tôi họp mặt, lấy trà ngon ra khoản đãi, yêu cầu chúng tôi tỉ mỉ thưởng thức, chẳng khác nào hiến dâng báu vật. Nói thật, tôi vốn không hiểu một tí gì, song theo cô uống trà nhiều rồi, nhìn lá trà, ngắm màu nước, nếm vị ngửi hương, dần dần đã có chút hiểu biết. Sau khi uống trà gần hai năm, cô cho tôi biết, ban đầu chỉ dùng loại trà bình thường mời tôi, rồi mới từng bước cho tôi nếm trà ngon. Từ trà đỏ khẩu vị hơi thanh đạm đến trà đen, từ trà hoa đến Phổ Nhĩ lên men sâu, như vậy mới có thể phân rõ mùi vị tuyệt vời. Uống trà phải tiến dần theo trình tự, đạo lý này giống như ăn hoa quả, ăn quả quýt chua chua ngọt ngọt trước, ăn dưa hấu ngọt lịm sau. Cuối cùng tôi đã hiểu được nguyên nhân người xưa thèm một ngụm trà ngon. Trà ngon thượng hạng, phối hợp với nước tinh khiết, do một người sành trà pha, thật sự là hương thơm thanh thuần cứ quẩn quanh bên cánh mũi, vị ngọt êm dịu đọng lại mãi trong miệng y hệt giữa mùa hè đứng trước biển, lắng nghe tiếng gió ngân. Rồi sau đó, tôi thấy những bộ đồ trà mà cô dùng đều xinh xắn mới lạ, mỗi lần đãi khách đều khác nhau, bèn hỏi cô mua ở đâu, bao nhiêu tiền. Cô cười vang, đâu phải mua chứ! Khi đến thôn xóm cổ xưa sưu tầm tài liệu văn học dân gian, hoặc đến chùa trong núi dự thiền thất, trong lúc nhàn rỗi đi dạo một vòng, liền nhặt được rất nhiều mảnh sành sứ vỡ. Cô căn cứ hình dạng, có mảnh dùng làm miếng lót cốc, có mảnh dùng để đựng quà vặt, có mảnh dùng để đặt túi hương, còn có mảnh dùng để đựng hoa lá. Cô dạy tôi, đừng mua những bộ đồ trà trông có vẻ quý giá kia, vì đó đều là thứ hoa hòe mà không thực dụng. Uống trà là chuyện nhàn tản, dùng bộ đồ trà bình thường là đủ rồi, bản lĩnh trà đạo thật sự dựa vào việc bỏ thời gian luyện tập, đọc nhiều sách vở liên quan và thưởng thức thường xuyên. Một số loại trà trên thị trường được thổi phồng lên là có niên đại bao nhiêu, được gọi là quý hơn vàng. Đó đều là đánh lừa người ta thôi, bởi trà không như rượu, dù bảo quản ở nơi thông thoáng râm mát thế nào thì sinh mệnh cũng có hạn, để lâu năm sẽ sinh nấm mốc, không cần uống thoáng ngửi là ngửi ra. Còn có ấm trà bằng sắt đen của Nhật Bản từng thịnh hành một dạo, nhìn từ góc độ khoa học, rất dễ bị hòa vào những chất gỉ sét, không có lợi cho sức khỏe con người. Những lời này của cô khiến tôi nghe mà không nhịn được cười. Người bạn này của tôi chính là Lý Lê. Cô thật lòng yêu thích trà ngon và cảnh đẹp, tập thiền tu tâm một cách thực sự. Cô thích lễ bái tụng kinh, nghiên cứu sự vật thấu đáo. Cô thích làm rõ bản chất, không bị lừa gạt. Chúng ta theo đuổi niềm vui, trước tiên phải học cách trở nên thông minh hơn. Lau đi bụi bặm trong lòng, nhận thức bộ mặt vốn có của cuộc sống. Giống như cô vậy, thiền tâm thiền ý sống một đời. Xưa nay ý nghĩa tinh hoa của Thiền không phải là khuyên người ta không gắng sức làm một việc gì, mà nên cố gắng tự tỉnh ngộ, sống tốt cuộc đời của mình. Nếu chúng ta học được cách làm phép trừ một chút, khiến phiền não và dục vọng giảm bớt, thì kể cả ở chốn sâu thẳm hồng trần, thể xác và tinh thần vẫn thanh tịnh dễ chịu, yên vui với hiện tại. Thiền tâm không phải là ba phải, cũng không phải là nhút nhát yếu kém. Bồ tát cũng có khi hiền hòa, có lúc tức giận. Kỳ thực, bất kể nam nữ, có thể dịu dàng, có thể kiên cường, là sức hấp dẫn lớn, cũng là thiền ý chân chính. Không sợ chuyện, không nhát gan, nghênh đón khó khăn mà tiến lên, là sự lớn mạnh thật sự. Một con người càng để tâm đến cảm nhận của người khác thì càng hèn mọn, càng yếu thể. Thật ra, chỉ cần bạn muốn, bất cứ lúc nào bạn cũng có thể trở về thản nhiên, tìm thấy tia sáng của bình minh trong tăm tối, tự tin là chính mình. Khi bạn thay đổi lối suy nghĩ của mình, không bị trói buộc bởi ám ảnh kỳ thị giới tính, bối cảnh xuất thân, khởi điểm cuộc đời, thoát ra khỏi cái lồng của quan niệm, thế giới cũng thay đổi theo bạn. Một người có thể chung sống ôn hòa với nỗi cô đơn và chính mình, không còn lấy lòng người khác, thì cũng có thể sống đẹp, cũng có thể chung sống hòa hợp với người khác. Chúng ta tìm kiếm người bạn đời, là để được yêu người ấy, đó mới là bản tâm. Chúng ta có thể thật lòng thật dạ, tôn trọng đối phương, dịu dàng tự nhiên, không cần phải kiêu ngạo, cũng không cần phải xu nịnh. Khi bạn dịu dàng, tự nhiên sẽ có sức mạnh, mềm mại bao dung, nuôi dưỡng vạn vật như nước vậy. *** Lùi Bước Hóa Ra Là Tiến Tới Trong lúc không hay không biết, tiết trời đã ấm lên, núi non tràn trề hơi thở mùa xuân. Tôi và đồng nghiệp ngồi trong phòng tranh ở tầng hai gác Từ Vân chùa Hoàng Mai Tứ Tổ*, đợi pháp sư Minh Giám. Căn phòng cực kỳ yên tĩnh, chậu mai trắng lặng lẽ tỏa ra mùi thơm thoang thoảng, đậm nhạt vừa phải, đẹp đẽ đúng mực. Ngay lúc này, có người đẩy cửa bước vào. Thầy mặc chiếc áo sư bằng vải bố màu xám sẫm, vẻ mặt ung dung. Lúc này, thầy là nhà sư trong núi Minh Giám. Trước kia, pháp sư Minh Giám là tiên y nộ mã, thích uống rượu ca hát, tinh thông thư pháp, hội họa và khắc dấu, cũng có nghiên cứu qua về khúc nghệ* và hí kịch. Thầy còn là hiệp khách diễn cuồng không chịu gò bó, ngâm nga chậm bước*, một khi linh cảm sáng tác chợt đến thì cho dù hai giờ sáng cũng ngồi dậy vẽ tranh. Cuối cùng, thầy nhẹ nhàng buông xuống tất cả. Năm 2006, pháp sư Minh Giám xuống tóc xuất gia làm đệ tử của Hòa thượng Tịnh Tuệ, rời đô thị vào rừng núi ở ẩn. Hôm trước khi quyết định xuất gia, thầy cất công đến nhà cũ ở Thiên Tân của pháp sư Hoằng Nhất* để tưởng niệm, thề rằng mình nguyện học tập tinh thần từ bi “Độ chúng sinh nào tiếc xẻ tim gan” của đại sư. Trong tiếng chuông sớm trống chiều ngày lại qua ngày, thầy chống gậy đi giữa núi rừng, nhặt nhạnh lá rụng, chụp ảnh cây cối hoa lệ giữa thế giới băng tuyết, hoặc nằm trên bãi cỏ sau núi chăm chú quan sát cội mai già hoa nở hoa tàn. Trước khi xuất gia, thầy từng thích nét phóng khoáng tự nhiên đẹp đẽ của thư pháp Vương Hi Chi*, cũng rất tôn sùng vẻ cổ kính chất phác cứng cáp của thư pháp Phó Thanh Chủ*. Giờ đây, phong cách thư pháp của thầy đã phát sinh thay đổi vi diệu, dần dần rộng mở trong sáng, mùi trần tục ngày càng ít, mùi rừng núi ngày càng nhiều. Dưới núi Song Phong, bên cầu Linh Nhuận, pháp sư Minh Giám dùng bút mực ghi lại vẻ đẹp của trời đất, dùng thiền tâm cảm nhận mùi vị của trà trong, thăm khắp nghìn núi muôn sông, chẳng qua là: “Mải ngắm Hoàng Sơn cảnh đẹp tươi, Trở về bên giậu cúc dài rồi. Đình bên khe suối trông sơn cốc, Nấu trà, chấm mực, bỗng biếng lười.” Cuộc sống hiện nay đúng như pháp sư Minh Giám yêu thích: Đơn giản tự do, không làm bộ làm tịch. Mỗi người sống ở thành phố đều gánh chịu áp lực sinh tồn khắc nghiệt, lúc cảm thấy mệt mỏi và lo lắng cũng cần đến nơi xa hít thở không khí thông thoáng một chút, thoát khỏi cuộc sống phẳng lặng trật tự. Nhưng chúng ta không cần ngưỡng vọng cuộc sống của người khác. Bởi vì, thâm tâm mỗi người đều có một ngọn Linh Sơn, nơi đó: “Hoa đón xuân về khoe đỏ rực, Tùng cao mưa gội tán xanh om. Hoa thắm quả thơm chịu chít quanh năm, Linh thiêng phượng múa ôi tuyệt đẹp…”* Nơi đó không có lừa dối và tranh đấu mà giấu kín tâm tình chân thực nhất, dịu dàng nhất. Thay vì chỉ đứng bên vực nhìn ngó mà mong có cá, chi bằng về nhà dệt lưới. Cứ cách một quãng thời gian, tôi lại chọn một dịp cuối tuần mang theo bộ đồ trà, ngồi tàu cao tốc đi du lịch. Có lẽ đó là nơi cả nhà cư sĩ Bàng Uẩn* tự cày cấy giữa núi rừng vào sinh ra tử mà vẫn bình thản nói cười; có lẽ đó là chốn ngày xưa đại văn hào Tô Đông Pha ngâm thơ xướng họa với nhà sư; có lẽ đó là chỗ có thể cùng người nhà bạn bè uống chén thiền trà, nếm bát cháo trắng; có lẽ đó là điểm dừng bước ngẩng đầu là nhìn thấy ngay, tiếp đó một ý nghĩ thanh tịnh sẽ khiến ô nhiễm tự động rơi rớt cả; có lẽ đó là rừng sâu nơi cao tăng lớp lớp xuất hiện nên danh tiếng lan xa, khói xanh bảng lảng, tiếng tụng kinh rì rầm; có lẽ đó chỉ là một ngôi miếu cổ thanh nhàn ẩn giữa thôn quê chẳng ai hỏi tới. Khi đi đến nóng người, bèn ngồi dưới gốc thông thắp một cây hương ngải, nhấp vài ngụm trà trắng lâu năm, mọi thứ đều vừa khéo. Thật ra, từ mấy năm trước, Huệ - cô bạn tôi đã trở thành người được lợi của cuộc sống phép trừ*. Đã chăm sóc con gái, cô từ bỏ công việc Giám đốc Đầu tư ở công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, về nhà làm bà nội trợ. Nhằm giảm nhẹ áp lực kinh tế, cô bán đi căn nhà lớn ở khu thương mại trung tâm của thành phố, đổi căn hộ hai phòng ngủ ở khu trường học. Lúc chuyển nhà, cô bỏ một lần hết mười mấy thùng giấy đựng đồ linh tinh, lập tức thấy nhẹ cả người. Mời các bạn đón đọc Ngày Tâm Ta An, Sóng Gió Sẽ Tan của tác giả Thẩm Gia Kha & Lý Lê.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tổ Chức Gia Đình - Nguyễn Hiến Lê
Các cụ mất hồi đầu thế kỷ, bây giờ có sống lại mà đứng ở đường Lê Lợi tại Sài Gòn trong các giờ tan sở, chắc phải hoảng lên và la: - Có giặc cướp hay đám cháy nào thế này? Sao mà thiên hạ chạy tíu tít, vẻ mặt đăm đăm như vậy? Chỉ đứng độ năm phút, nhìn lớp sóng người qua lại, nghe tiếng chuông, tiếng còi, các cụ cũng đủ choáng váng và hồi hộp. Nếu các cụ lại sống chung với chúng ta một buổi sáng thôi, thấy chúng ta mới sáu giờ đã dậy tập thể dục, rửa mặt, tắm gội, hấp tấp bận quần áo, húp vội một ly sữa rồi bổ nhào ra ngoài phố, tới đầu đường, liệng một đồng bạc, giựt một số báo, leo lên ô-tô-buýt, tới 12 giờ rưỡi mới về, mặt bơ phờ, nuốt mấy miếng cơm rồi lăn ra ngủ, nếu các cụ thấy như vậy, thì các cụ tất mau mau từ biệt chúng ta để vào rừng ở, dầu chúng ta có đem hết thảy những tiện nghi, xảo diệu của khoa học để dụ dỗ, giữ các cụ ở lại, cũng luống công vô ích. Từ sau đại chiến thứ hai, đời sống chúng ta ồ ạt quá, gần như đời sống tại các kinh đô ở Âu Mỹ. Tám giờ sáng một ngày làm việc mà bạn thấy ai vơ vẩn ở bờ sông Sài Gòn, ngắm mây ngắm nước, tất bạn sẽ ngờ người đó muốn tìm chỗ trầm mình; gặp ai ung dung tản bộ, ngâm thơ trong một công viên, chắc bạn sẽ bĩu môi chê là “thi sĩ mơ mộng” nếu không nghĩ người đó mắc bệnh thần kinh, phải đưa vào nhà thương Biên Hoà. Chúng ta không còn quan niệm được thú nhàn của cổ nhân nữa. Mỗi ngày vẫn chỉ có 24 giờ mà công việc thì tăng lên biết bao nhiêu! Công việc tăng vì nhu cầu tăng. Ta không thể sống như Nhan Hồi với một giỏ cơm, một bầu nước; ta cũng không thể sống như một cụ đồ nho với vài manh áo kép và đơn. Nội khoản chi phí về sách báo của chúng ta đủ nuôi một gia đình hồi trước. Khi ta có thêm một nhu cầu, ta chẳng những mất thì giờ để thoả mãn nó, mà còn mất thì giờ kiếm tiền để có phương tiện thoả mãn nó nữa. Như nhu cầu hớt tóc chẳng hạn. Mỗi tuần hoặc nửa tháng ta phải bỏ ra nửa giờ để hớt tóc, lại phải làm việc thêm một chút để kiếm được 5-10 đồng trả công người thợ. Có khi một nhu cầu tạo ra ba bốn nhu cầu khác. Nhu cầu sẽ còn mỗi ngày một tăng thêm, không biết thế nào là cùng. Bạn thử tưởng tượng, như vậy đời chúng ta sẽ còn bận rộn biết bao nhiêu! Hiện nay, trong phần đông các gia đình, một người không còn kiếm tiền đủ để nuôi 5-6 người, có khi cả chục người như hồi xưa. Tại các châu thành lớn, nhiều gia đình chưa có con mà cả chồng lẫn vợ đã phải làm việc cực nhọc mới đủ ăn. Công việc nhà phải bỏ bê. Người nào có phước thì được mẹ già trông nom giùm. Mà kiếm được người ở bây giờ, không phải là việc dễ. Ông Tham ông Phán thời này đừng hy vọng gì nuôi một anh xe, một anh bếp, một vú già và một chị sen hoặc một anh bồi cho mỗi cô mỗi cậu nữa. Không ai ham cảnh “cơm thầy cơm cô” và trong xã hội, không thiếu gì công việc cho anh em lao động. Người ở đã khó kiếm lại khó giữ. Họ đã biết nhân phẩm, quyền lợi của họ: họ hiểu rằng về mặt pháp luật, họ bình đẳng với chủ nhân nên không chịu để chủ bóc lột, bắt làm việc quần quật từ sáng đến tối, tháng này qua tháng khác. Họ muốn nghỉ ngơi mỗi ngày vài giờ, mỗi tuần nửa ngày, mỗi năm dăm bảy ngày. Họ có lý và chỉ những kẻ lạc hậu mới không chịu cho họ những điều họ đòi hỏi ấy. Tóm lại, tình cảnh của phần đông các gia đình ở châu thành bây giờ như vầy: -     Công việc trong nhà rất nhiều. -     Thời giờ của người chủ thì ít. -     Mà người ở khó kiếm, không chịu làm nhiều giờ như hồi xưa. Có lẽ chẳng bao lâu nữa, người ở sẽ hiếm như ở Âu, Mỹ và những gia đình trung lưu chỉ còn cách mướn người chuyên môn mỗi ngày lại nhà làm một vài công việc nào đó trong một thời gian nhất định thôi 1. Trở lại thời trước đã không được mà than tiếc nó chỉ vô ích, nên ta phải kiếm cách thích nghi với thời đại. Thời đã mới, cách sống đã mới thì cách làm việc cũng phải mới. Ta phải biết tổ chức công việc trong nhà cũng như tổ chức công việc trong sở, trong hãng. Tình thế bắt buộc ta như vậy mà sự thế tất nhiên phải tới như vậy. Ở Mỹ, sau khi khoa học tổ chức đã được áp dụng trong kỹ nghệ, tức là có những người đem thực hành nó trong gia đình, mà người đầu tiên là ông F. Gilbreth. Sau ông, có bà Christiane Frederick, tác giả cuốn “Le Taylorisme chez soi”. Ở Pháp, ông H.L.Rumpf viết cuốn “L’organisation familiale” (Editions Drouin) cách đây 20 năm. Ngoài ra lại có những tạp chí như “Mamans, avec moins de fatigue” ... Tại nước nhà từ trước đã xuất bản nhiều cuốn về gia chánh, chỉ cách nấu ăn may vá... nhưng chưa có cuốn nào dạy cách tổ chức gia đình. Gần đây, trên tuần báo “Mới” trong mục “Kim chỉ nam của bà nội trợ”, bà Hoàng Thị Hạnh viết một loại bài về cách xếp đặt việc nhà, nhưng lời khuyên rời rạc, không thành một hệ thống và đọc xong, các bà nội trợ không học được tinh thần tổ chức. Mà chính tinh thần ấy mới là quan trọng hơn cả. Có nó, ta mới biết tổ chức trong mọi trường hợp và biến hoá cách làm việc cho hợp với hoàn cảnh. Thiếu nó, ta sẽ luýnh quýnh mỗi khi gặp một trường hợp không chỉ sẵn trong sách. Vì lẽ ấy, chúng tôi viết cuốn này để giảng rõ tinh thần đó, vạch những quy tắc quan trọng rồi dẫn nhiều ví dụ giúp độc giả biết cách thực hành. Tất nhiên là chúng tôi không dám múa rìu qua mắt thợ mà bàn cách luộc rau, kho cá, cắt áo thêu khăn... Chúng tôi không biết gì về những công việc đó. Chúng tôi chỉ chú trọng đến những phương pháp tiết kiệm thì giờ, tiền bạc và sức lực, mục đích là giúp cho bà nội trợ tổ chức gia đình sao cho mọi việc xong xuôi mà có thì giờ để nghỉ ngơi, tiêu khiển, chơi với trẻ hoặc học hỏi thêm, và may ra bớt được nhiều lo lắng về vấn đề tài chính chăng. Chúng tôi sẽ phải dùng ít nhiều danh từ còn lạ tai đối với phần đông độc giả mà chúng tôi sẽ ráng giảng giải một cách thông thường để những bà nội trợ nào ít học nhưng chịu suy nghĩ cũng có thế hiểu được. Sách chủ ý viết cho các bà nội trợ, nhưng chúng tôi tưởng các bạn trai đã lập gia đình cũng nên đọc nó. Phụ nữ có nhiều đức quý như lòng vị tha, đa cảm, đức kiên nhẫn, tự tin... nhưng thường theo trực giác mà không chịu luận lý, lại cố chấp, thiếu phương pháp. Vì vậy, nếu các ông chồng hiểu rõ những quy tắc trong cuốn này rồi giúp các bà vợ cùng nhau tổ chức việc nhà thì kết quả sẽ mau hơn và không khí trong gia đình cũng sẽ đầm ấm hơn. Chúng tôi vẫn biết đàn ông mà bàn về công việc nội trợ thì không khỏi mang cái tiếng việt vị. Nhưng chúng tôi nghĩ đã không dám lấn vào phạm vi gia chánh, tức may vá, nấu nướng, mà chỉ xét những quy tắc để tổ chức việc nhà, thì các bà các cô cũng không nỡ trách; nên chúng tôi không do dự chi nữa mà cho xuất bản cuốn này với mục đích duy nhất là giúp phụ nữ Việt Nam tập sống đời sống mới tức đời sống có tổ chức, tổ chức bản thân và tổ chức gia đình rồi sau cùng tổ chức xã hội. Long Xuyên ngày 15-2-1953 Mời các bạn đón đọc Tổ Chức Gia Đình của tác giả Nguyễn Hiến Lê.
Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.