Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chiến Tranh Và Chiến Tranh

Trong phòng lưu trữ tỉnh lẻ heo hút, cách Budapest trăm hai mươi cây số, Dr. Korin György tình cờ phát hiện một cảo bản huyền bí không nhan đề, không niên đại, tác giả vô danh. Bốn người đàn ông trong cảo bản, xuất hiện ở những bước ngoặt khác nhau của lịch sử thế giới, lúc ở Creta, lúc ở Venice, lúc ở Köln, luôn phải trốn chạy khỏi chiến tranh thảm khốc, khỏi sự tàn phá. Và rất lâu sau, trong một khoảnh khắc tăm tối bất chợt vào sinh nhật lần thứ bốn mươi tư, Korin cảm thấy chính mình cũng cần trốn chạy, như các nhân vật trong tập cảo bản kỳ lạ liên tục trượt về phía trước, và cuốn gã vào mê lộ của nó. Gã bán hết gia sản, đến New York, để kết thúc cuộc đời cũ, và thực hiện giấc mơ đưa cảo bản quý giá vào cõi vĩnh hằng...  Chiến tranh và chiến tranh – tiểu thuyết lồng trong tiểu thuyết, thể hiện cái nhìn u tối về thực tại bạo tàn trong vẻ đẹp bí ẩn và bi thảm, nhưng đầy sức thôi miên, khiến độc giả nhập thân sâu sắc vào cuộc xê dịch ác mộng của nhân vật đi tìm ý nghĩa của thế giới và chính đời mình. Chiến tranh và chiến tranh đã góp phần khẳng định vị trí của Krasznahorkai László như một tên tuổi lớn đặc biệt đáng chú ý, một ngôi sao sáng khác lạ trên bầu trời văn học đương đại Hungary và thế giới. *** Tôi không còn quan tâm đến việc mình sẽ chết, Korin nói, rồi sau một lúc lâu im lặng, gã chỉ khu mỏ ngập nước ở gần đó: Kia là những con thiên nga? 2. Bảy đứa trẻ vây lấy gã giữa cây cầu đi bộ vắt qua đường sắt, thành nửa vòng tròn, chúng ngồi xổm, gần như ép gã sát vào lan can, đúng như nửa tiếng trước, khi chúng tấn công gã để trấn lột, đúng như thế, chỉ có điều lúc này không đứa nào còn muốn tấn công hay trấn lột gã, bởi rõ ràng như diễn biến bất ngờ đã cho thấy, có thể tấn công và trấn lột hạng người như gã, nhưng chẳng bõ, vì có lẽ đúng là gã không có thứ gì thật, còn cái mà gã có, đó là một gánh nặng không thể nhìn thấy, và vì vậy - tại một điểm nhất định của màn độc thoại hấp tấp, rối tinh rối mù, nhưng đối với chúng “thực chất chán mớ đời” của Korin - điều đó đã ngã ngũ, hơn nữa gần đúng vào thời điểm gã bắt đầu nói về sự mất trí của gã, chúng không đứng dậy và bỏ gã ở đó như một kẻ điên, mà chúng cứ yên vị như cũ, nửa vòng tròn, ngồi xổm, bất động, vì trời đang tối dần, vì bóng tối đang buông xuống trong sự yên tĩnh của buổi hoàng hôn trên khung cảnh công nghiệp khiến chúng câm lặng, và vì cái trạng thái câm lặng, không động đậy này diễn đạt một cách sâu sắc nhất sự tập trung của chúng, Korin đã bơi ra ngoài sự chú ý ấy, mục tiêu còn lại chỉ là những đường ray ở phía dưới. 3. Không ai yêu cầu gã nói, chúng muốn gã đưa tiền cho chúng, nhưng gã không đưa, mà bảo gã không có tiền, rồi gã nói, lúc đầu còn lắp ba lắp bắp, sau trơn tru hơn, cuối cùng không dừng lại được, gã cứ nói, và có thể thấy rõ gã nói vì sợ những cặp mắt của bảy thằng nhóc, hay như sau này gã tự nhận: vì gã sợ thắt ruột, và, gã nói nếu nỗi sợ hãi bắt đầu bóp nghẹt ruột gan, thì gã nhất thiết phải nói, thậm chí vì nỗi sợ hãi không qua đi, vì không thể biết chúng có vũ khí hay không, càng lúc gã càng bị lôi cuốn vào câu chuyện, nghĩa là mỗi lúc gã càng thêm sa đà vào việc phải kể hết cho chúng nghe, kể tất cho một ai đó, bởi từ khi - và vào giây phút cuối cùng! - gã bí mật bắt đầu “chuyến đi vĩ đại”, như gã gọi, gã chưa trò chuyện với ai, một lời cũng không, gã nghĩ điều đó quá nguy hiểm, hơn nữa cũng chẳng có ai để nói, vì trên đường gã không gặp một ai khả dĩ có thể coi là vô hại, hoặc người gã không cần phải dè chừng, nên biết rằng đối với gã không có ai đủ vô hại, và gã phải coi chừng tất cả mọi người, và gã, gã đã nói lúc đầu, gã thấy mọi người đều là người hoặc trực tiếp, hoặc đứng đằng sau, nhưng có quan hệ với những kẻ đang săn lùng gã, có mối liên hệ không thể nghi ngờ gần hay xa nào đó với những kẻ biết về hầu như mọi bước đi của gã, chỉ có điều gã nhanh chân hơn, sau này gã kể, bao giờ gã cũng nhanh hơn “ít nhất là nửa ngày đường” so với chúng, tuy nhiên những thắng lợi của gã về thời điểm và vị trí có một cái giá: không được nói với ai một lời, chỉ đến giờ mới nói do sợ hãi, bởi vì chỉ dưới áp lực tự nhiên của nỗi sợ hãi gã mới đánh liều đi vào những đoạn quan trọng nhất của cuộc đời gã, đánh liều tiến càng lúc càng sâu hơn, gã kể các chi tiết càng lúc càng cá nhân hơn, càng lúc càng máu thịt hơn, lấy lòng mua chuộc để bọn chúng đứng về phía gã, để đơn giản là gột rửa xu hướng tấn công khỏi bọn tấn công gã, và để thuyết phục cả bảy đứa: ở đây một người nào đó không chỉ đầu hàng, mà bằng sự đầu hàng này gã đã vượt lên trước bọn tấn công gã. 4. Có mùi hắc ín trong không khí, mùi hắc ín gây buồn nôn, nồng nặc khắp nơi, và ngay cả gió mạnh cũng chẳng giúp được gì trong chuyện này, vì gió đã thấm vào xương tủy chúng, nó chỉ cuốn cái mùi kia lên và xoay tròn, chứ không thay đổi được, vì cả vùng này, suốt mấy cây số, và chủ yếu là ở đây, giữa giao lộ của các đường ray từ phía Đông và tẽ ra ngay lập tức như chiếc quạt nan, và ga hàng Rákos nhìn thấy ở phía sau chúng, không khí đầy cái mùi này, mùi hắc ín, cái mùi khó có thể nói là được cấu thành từ mùi than khói lắng đọng xuống, mùi của hàng trăm ngàn đoàn tàu sầm sập lao qua, của những thanh tà vẹt bẩn thỉu, của đá dăm và những đường ray và tất cả những thứ gì gì nữa, nhưng rõ ràng không chỉ những thứ đó, mà còn thứ khác, bí ẩn hơn, khó tả hoặc không thể gọi bằng tên nữa, trong đó chắc có cả số lượng khổng lồ sự hoang vắng của con người mà hàng trăm ngàn đoàn tàu đã chở qua đây, nhìn từ độ cao của chiếc cầu vượt... hàng triệu ý chí đã hợp thành sự vô đích đáng sợ, cũng như cả cái bóng ma lửng lơ của sự trơ trụi, hoang sơ, sự tù hãm công nghiệp ma quái đã đè nặng dần dần lên khu vực này trong hàng thập niên chắc đã nuôi dưỡng nó, và trong bối cảnh ấy, giờ đây Korin đang cố tìm chỗ đứng thích hợp, gã, kẻ ban đầu trong khi chạy trốn chỉ định sang phía bên kia - một cách kín đáo, nhanh, lặng lẽ - để đi về phía mà gã cho là trung tâm của thành phố, thế mà bây giờ, có thể nói gã phải tìm vị trí ổn định tại cái điểm gió lạnh này của thế giới, gã phải bám - lan can, vỉa hè, nhựa đường, kim loại - vào những tình tiết dĩ nhiên là ngẫu nhiên nhưng trong mắt gã có vẻ như quan trọng, và như vậy một chiếc cầu vượt, nằm phía trước ga tàu hàng Rákos vài trăm mét, từ một lát cắt không tồn tại của thế giới trở thành một lát cắt hiện hữu, trở thành một trong những cột mốc quan trọng đầu tiên của cuộc đời mới của gã, hay như sau này gã gọi là “cuộc chạy điên cuồng”, một chiếc cầu vượt, mà trên đó, nếu chúng không bắt gã dừng lại, thì gã đã mù quáng đi vội qua. 5. Sự việc bắt đầu bất chợt, không có khúc dạo đầu, không có sự linh cảm, chuẩn bị, diễn tập, đúng vào một khoảnh khắc đặc biệt của ngày sinh lần thứ bốn mươi tư, sự nhận thức đã giáng xuống đầu gã, và một cách đau đớn ngay lập tức, đúng như bảy đứa bọn chúng ập xuống gã ở đây lúc nãy, chỗ giữa cây cầu vượt, gã nói, cũng bất chợt và không thể dự báo trước đúng như vậy, gã ngồi trên bờ một con sông, nơi thỉnh thoảng gã vẫn ngồi, vì không muốn về căn hộ trống vắng đúng vào ngày sinh nhật mình, và đúng là bất chợt, nó giáng xuống gã, gã kể, lạy Chúa! gã không hiểu chút gì hết, ôi, ôi, ôi, gã chẳng có khái niệm về một điều gì, Jesus Maria, gã chẳng hiểu gì về thế giới, và sự việc thành hình trong gã như vậy khiến gã sợ, ở mức độ như thế của sự tầm thường, của sự ngây thơ chếnh choáng, nhưng đúng là thế, gã nói, gã bỗng thấy mình cực kỳ đần độn, ở tuổi bốn mươi tư, một cái bong bóng, rỗng, ngu ngốc, theo cái cách gã đã hiểu về thế giới suốt bốn mươi tư năm, trong khi, lúc đó gã nhận ra ở bên bờ sông, không những gã không hiểu, mà hoàn toàn chẳng hiểu một tí nào về tất cả, điều tồi tệ nhất là suốt bốn mươi tư năm gã tưởng rằng gã hiểu, trong khi gã chẳng hiểu gì hết, đó là điều tồi tệ nhất vào buổi tối sinh nhật ấy, một mình bên bờ sông, tồi tệ nhất, vì cùng với sự nhận thức này không đi kèm việc vậy thì từ nay gã đã hiểu, bởi thay vì cái cũ gã không nhận được hiểu biết mới, mà nhận được một sự rắc rối đáng sợ nào đó, nếu từ đây trở đi gã nghĩ về thế giới, mà dĩ nhiên buổi tối hôm ấy gã đã nghĩ về thế giới cực kỳ mãnh liệt, và gã đã hành hạ bản thân để cố hiểu, nhưng không xong, sự phức tạp chỉ mỗi lúc càng bùng nhùng hơn, đến nỗi gã có cảm giác sự phức tạp chính là ý nghĩa của cái thế giới mà gã đã hành hạ mình để cố hiểu, gã đang nghĩ đến đó, và gã không bỏ cuộc, khi vài ngày sau gã nhận ra đầu óc gã bắt đầu có vấn đề gì đó. 6. Dạo đó gã đã sống độc thân từ lâu, chính gã cũng ngồi xổm và tựa lưng vào hàng lan can trong làn gió tháng Mười một rú rít trên cây cầu vượt, gã kể cho bảy đứa trẻ nghe, độc thân, gã bảo, vì cuộc hôn nhân của gã đã tan vỡ từ trước bởi vụ Hermes[1] (và gã dùng tay ra hiệu là gã sẽ giải thích sau, đó là vụ gì), sau đó thì “gã đã đốt cháy mình trong một mối tình rất nồng nàn”, để rồi gã quyết định, không bao giờ, không bao giờ lại gần đàn bà nữa, điều đó dĩ nhiên không có nghĩa là sự cách ly hoàn toàn, vì bao giờ cũng có những người đàn bà trong một đêm khó khăn, Korin nhìn bọn trẻ, hơn nữa dù thực chất sống một mình, tất nhiên do công việc lưu trữ gã có quan hệ đồng nghiệp, do hàng xóm gã có quan hệ láng giềng, do đi lại ngoài phố gã có quan hệ đường phố, do mua bán và ngồi quán rượu gã có quan hệ mua bán và quan hệ quán xá với những người khác nhau, và cứ như vậy, cuối cùng bây giờ nghĩ lại, gã nói, gã ở gần nhiều người, dẫu chỉ là hiểu theo nghĩa hẹp nhất, khá nhiều người, cho tới khi cả những người này cũng xa lánh gã, đại khái kể từ lúc ở trong phòng lưu trữ, trên cầu thang, ngoài phố, ở nơi mua bán và quán rượu gã dần dần buộc phải kể rằng theo gã nghĩ gã sẽ mất trí, vì khi họ hiểu rằng không phải là bóng gió, gã nghĩ theo nghĩa gián tiếp, mà sự thật đúng như gã nói, nghĩa là từ cổ gã trở lên tới đầu, mà đầu với cổ gã vốn đã chẳng có quan hệ tốt đẹp, đáng tiếc, có lẽ gã sẽ mất trí, thế là, như thể chạy trốn khỏi một ngôi nhà cháy, họ lao ra tránh xa gã, và xung quanh gã mọi thứ biến mất rất nhanh, và gã đứng đó, như một ngôi nhà cháy, vì họ bắt đầu bằng việc tránh xa gã, không hỏi han gì gã trong phòng lưu trữ, rồi họ tiếp tục bằng việc không đáp lại lời chào của gã, không ăn cùng với gã một bàn, và cuối cùng, nếu nhìn thấy gã ngoài phố, thì họ chuyển sang vỉa hè bên kia, các cậu có hiểu không? Korin hỏi bảy đứa trẻ, nhìn thấy gã đi tới là họ tránh xa, điều này khiến gã đau đớn nhất, đau đớn hơn cả chuyện đã xảy ra với cái đốt sống cổ, bởi vì trong trạng thái như vậy gã cần nhất một sự cảm thông nào đó, gã nói, và có vẻ, điều này có thể thấy rõ trên mặt gã, như gã muốn tiếp tục kể tiếp sự việc tới những tình tiết nhỏ nhất, cũng như có thể thấy trên mặt lũ trẻ, rằng đối với chúng là vô ích, vì bảy đứa bọn chúng đằng nào cũng không đáp lại một điều gì, chúng không quan tâm gì hết, đặc biệt kể từ chỗ “lão già bắt đầu mất trí”, như sau này chúng kể cho những đứa khác, với chúng thế là đủ, chúng nói, chúng nhìn nhau, đứa lớn tuổi nhất gật đầu đồng ý với những đứa khác, đại loại có nghĩa là “cho qua, không bõ”, rồi chúng cứ im lặng ngồi xổm thế, và chúng nhìn điểm giao của những thanh ray, thỉnh thoảng, khi một đoàn tàu hàng lao qua dưới chân chúng, một đứa nào đó hỏi chúng sẽ ở đây bao lâu nữa, bao giờ cũng là đứa bé tóc vàng cạnh thằng lớn tuổi nhất nhìn đồng hồ, và nó chỉ nói rồi nó sẽ bảo nếu đến lúc, còn từ giờ đến khi đó hãy im mồm. 7. Nếu như Korin biết chúng đã đi đến quyết định, và đặc biệt là cái quyết định này, nếu như gã nhận thấy cái gật đầu, thì dĩ nhiên chẳng có điều gì đã xảy ra như nó đà xảy ra, nhưng gã không biết, vì gã không nhận ra, và có thể thấy là gã hiểu mọi việc theo cách khác hẳn so với bọn chúng, đối với gã tình hình - ngồi ở đây trong gió lạnh với lũ trẻ - mỗi lúc một căng thẳng hơn, chính là vì chẳng xảy ra chuyện gì, và không rõ ra được điều gì, hoặc thực chất chúng muốn gì, và liệu chúng có muốn điều gì chăng, gã phải tìm ra lời giải thích, sao chúng không buông tha gã, hay là sao chúng không bỏ mặc gã ở đó, nếu như gã đã thuyết phục được chúng rằng gã không có tiền, và tất cả đều vô ích, cần có lời giải thích, và gã đã tìm ra, chỉ tội đối với bảy đứa trẻ đó không phải là lời giải thích đúng, vì đối với gã, kẻ biết đích xác có bao nhiêu tiền được khâu trong vạt bên phải của chiếc áo khoác, thì sự bất động này, sự câm lặng này, cái sự chúng không làm gì hết này, và sự không xảy ra chuyện gì này, mỗi lúc lại có ý nghĩa lớn hơn và đáng sợ hơn, thay vì đối với gã mỗi lúc lại có ý nghĩa nhỏ hơn và an ủi hơn, vì vậy trong khi cứ mỗi nửa đầu của một khoảnh khắc gã chuẩn bị bật dậy và bỏ chạy, cho tới cuối nửa sau của các khoảnh khắc gã vẫn còn đó, như thể gã muốn đúng điều này, và gã nói, như người mới chỉ bắt đầu mọi chuyện, nghĩa là gã cùng lúc sẵn sàng chạy trốn và ở lại, nhưng quyết định thì gã luôn quyết định ở lại, tất nhiên vì sợ hãi, nhiều lần gã thông báo rằng gã rất thích thú: lọt vào cái vòng tròn tin cậy nhất, cuối cùng người ta đã nghe gã nói, ở đó gã có điều muốn nói, thậm chí gã có vô khối điều muốn nói, vì nếu gã nghĩ kỹ, gã nói, theo đúng nghĩa của ngôn từ thật ra gã cần kể vô khối chuyện, để sáng tỏ ra: thứ Tư, vào mấy giờ thì gã không biết, nhưng là cách đây ba hay bốn mươi tiếng, cuộc đời gã đã đảo lộn, khi gã hiểu mình phải thực hiện chuyến đi vĩ đại, khi gã hiểu ra rằng tất cả, từ Hermes đến sự cô đơn, đối với gã đều hướng về một phía, khi gã hiểu ra rằng thực chất gã đang trên đường đi, vì mọi thứ đã được sắp đặt sẵn và sụp đổ, nghĩa là trước gã mọi thứ đều được sắp đặt sẵn và sau gã mọi thứ đều sụp đổ, theo cách, Korin nói, vẫn hay xảy ra trong những “chuyến đi vĩ đại”. Mời các bạn đón đọc Chiến Tranh Và Chiến Tranh của tác giả Krasznahorkai László.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 4
Từ lá thư mà A Bội Trọng Ma Lữ để lại, nhóm Không Hải biết được một sự thật. Đó là, khi hoàng đế Huyền Tông buộc phải xử tử Dương quý phi, ngài đã làm theo mưu kế của đạo sĩ Hoàng Hạc, thực hiện phép thi giải đưa Quý phi vào trạng thái chết giả để đợi hồi sinh, nhưng thật không may, họ đã thất bại. Cùng lúc ấy, Bạch Long, đệ tử cũ của Hoàng Hạc xuất hiện. Bạch Long nguyền rủa hoàng đế Thuận Tông, tìm cách hủy diệt cả triều đại nhà Đường. Chỉ còn chút sức tàn, Huệ Quả của Thanh Long Tự phải đứng ra đấu với Bạch Long, cứu hoàng đế, giải nguy cho vương triều. Về tác giả: Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Bộ tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường từng được đạo diễn Trần Khải Ca của Trung Quốc chuyển thể thành phim điện ảnh Yêu miêu truyện năm 2017. Ngoài ra nhiều tác phẩm khác của ông cũng được chuyển thể thành phim. Năm 2001: Âm Dương Sư (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Sanada Hiroyuki, Ito Hideaki, Koizumi Kyoko, Năm 2003: Âm Dương Sư 2 (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Ito Hideaki, Nakai Kiichi, Fukada Kyoko, Năm 2007: Thanh gươm của hoàng đế (Toei sản xuất) Đạo diễn: Tsutsumi Yukihiko / Diễn viên: Abe Hiroshi, Hasegawa Kyoko, Miyato Kankuro, Năm 2016: Everest: Đỉnh núi của thần (Toho sản xuất) Đạo diễn: Hirayama Hideyuki / Diễn viên: Okada Junichi , Abe Hiroshi , Ono Machiko, Các tác phẩm tiêu biểu: Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường (4 tập) Âm Dương Sư Thợ săn quỷ Sư tử ăn trăng khuyết ***   CÁC NHÂN VẬT CHÍNH   Từ đời Đức Tông hoàng đế đến đời Thuận Tông hoàng đế: Không Hải (âm Nhật là Kukai): Vị tăng trẻ sang Đường tìm học Mật Quất Dật Thế (âm Nhật là Tachibana-no-Hayanari): Nho sinh Nhật Bản tới Trường An theo đoàn thuyền Khiển Đường sứ. Bạn thân Không Hải. Đan Ông: Vị đạo sĩ luôn giúp rập và thoắt ẩn thoắt hiện xung quanh Không Hải. Lưu Vân Tiêu: Chức dịch Trường An, bị yêu miêu ám trong nhà và cướp mất người vợ yêu. Từ Văn Cường: Chủ nhân của cánh đồng trồng bông, nơi xảy ra vụ án có tiếng thì thầm bí ẩn. Trương Ngạn Cao: Chức dịch Trường An, người quen của Từ Văn Cường. Đại Hầu: Gã hộ pháp sinh ra ở Thiên Trúc. Ngọc Liên: Kỹ nữ của Hồ Ngọc Lâu. Lệ Hương: Kỹ nữ của Nhã Phong Lâu. Mohammed: Thương nhân người Ba Tư, có ba cô con gái là Trisnai, Tursungri, Griteken. Huệ Quả: Vị hòa thượng của Thanh Long Tự. Phụng Minh: Tăng môn của Thanh Long Tự. Người Tây Tạng. An Tát Bảo: Người coi giữ đền thờ Hiên giáo. Bạch Lạc Thiên: Một thi nhân lớn về sau. Đang ấp ủ bản trường ca về mối tình của Đường Huyền Tông và Dương quý phi. Vương Thúc Văn: Tể tướng dưới thời Thuận Tông hoàng đế. Liễu Tông Nguyên: Kẻ thân cận của Vương Thúc Văn. Văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Hàn Dũ: Đồng liêu của Liễu Tông Nguyên. Cũng là một văn nhân tiêu biểu thời kỳ trung Đường. Tử Anh: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Xích: Bộ hạ của Liễu Tông Nguyên. Chu Minh Đức: Phương sĩ. Thủ hạ của Druj. Druj*: Karapan (một kiểu pháp sư ở Ba Tư). Đời Huyền Tông hoàng đế A Bội Trọng Ma Lữ (âm Nhật là Abe-no-Nakamaro): Sang Đường vào đời Huyền Tông, sống ở Đường đến hết đời. Tên Trung Quốc là Triều Hành. Lý Bạch: Thi nhân tiêu biểu đời Đường. Được Huyền Tông sủng ái, nhưng về sau thì thất sủng. Huyền Tông: Hoàng đế nhà Đường. Mê đắm thiếp yêu là Dương quý phi. Dương quý phi: Thiếp yêu của Huyền Tông. Nhận được tất cả sự sủng ái của Huyền Tông, song đã phải chịu cái chết thê thảm bởi Loạn An Sử. An Lộc Sơn: Tướng nhà Đường. Được Quý phi yêu mến và nhận làm con nuôi, nhưng về sau làm phản và đuổi bọn Huyền Tông chạy khỏi Trường An. Cao Lực Sĩ: Hoạn quan hầu cận của Huyền Tồng. Hoàng Hạc: Đạo sĩ người Hồ. Kẻ đã hiến một kế về việc xử tử Dương quý phi. Đan Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bạch Long: Đệ tử của Hoàng Hạc. Bất Không: Mật giáo tăng.   *** Câu chuyện của Bất Không Tam Tạng. Tôi sinh ra ở miền đất phía Bắc Thiên Trúc, có cha là Người Bà La Môn, mẹ là Người Khang Cư*. Tôi theo mẹ sang Đại Đường từ khi còn nhỏ. Chúng tôi vượt qua một vài quốc gia sa mạc, nhiều con sông và đến được đất nước này năm tôi lên mười tuổi. Tôi và mẹ ở lại Đôn Hoàng chừng ba tháng, lần đầu tiên tôi gặp Hoàng Hạc chính là ở Đôn Hoàng. Như ngài cũng biết, Đôn Hoàng là nơi giáp ranh giữa Đại Đường và nước Hồ, bóng dáng Người Hồ ở đây còn nhiều hơn cả Trường An. Ra chợ sẽ thấy bán rất nhiều món hàng của Hồ như thảm, bình lọ, quần áo. Bản thân là Người Thiên Trúc nên tôi cảm thấy tò mò với Người Đường và cảnh vật của nước Đường hơn là những món đồ mà Người Hồ buôn sang, nhưng tôi sẽ không nói kỹ về chuyện này. Ở chợ, ngoài hàng hóa còn có rất nhiều người diễn trò đường phố để kiếm tiền. Người nuốt lửa. Người nuốt kiếm. Người diễn trò ảo thuật. Người nhảy múa. Người bắt khỉ diễn trò để xin tiền. Người gảy nguyệt cầm năm dây và hát. Người Hồ có, người Đường có, chợ ở Đôn Hoàng là nơi kiếm tiền của những kẻ diễn trò đường phố ấy. Trong những kẻ diễn trò đường phố ấy có hai người: một chàng trai suýt soát ba mươi tuổi và một cô gái vừa qua tuổi hai mươi. Tôi ra chợ một mình và bắt gặp hai người ấy. Ban đầu tôi thấy có một đám đông hơn những chỗ khác, tò mò, tôi lách qua chân mọi người để lên phía trước thì thấy họ. Hai người đứng xây lưng về phía một cây hòe và quay mặt về phía đám đông. Có thể nhận ngay ra họ là người Hồ, nhờ màu mắt, màu da và sống mũi cao. Đó đều là những đặc trưng của người Hồ. Y phục trên mình, đôi giày cao cổ họ mang cũng là của người Hồ. Tôi nhớ rõ đến vậy là vì họ đang diễn một trò đáng sợ. Đầu tiên, chàng trai chào khán giả, cùng lúc đó cô gái đứng tựa lưng vào cây hòe. Thế rồi chàng trai lấy trong bọc áo ra mấy con dao găm. Tất cả là ba con. Chàng trai vừa mỉm cười vừa ném con dao găm đi bằng một động tác dứt khoát. Có nhiều tiếng thét lên từ đám đông đứng xem. Con dao găm rời khỏi tay chàng trai, cắm phập vào gốc cây ngay sát má trái của cô gái. Con dao găm tiếp theo cắm phập vào gốc cây ngay sát má phải của cô gái. Nếu chỉ trượt tay một li thôi thì con dao có thể sẽ cắm thẳng vào mặt cô gái. Khi diễn những trò như vậy, đa phần người diễn đều biểu lộ một nụ cười trên gương mặt, nhưng những nụ cười ấy thường chỉ là vẻ bề ngoài nên hầu hết đều gượng gạo. Tuy nhiên, nụ cười của chàng trai và cô gái này, thật không thể miêu tả nổi, như thể tỏ ra cực kỳ thích thú với việc họ đang làm. Trong tư thế bị kẹp bởi hai con dao găm bên hai má, cô gái cử động tay phải, lấy từ bọc áo ra một trái lê. Chắc hẳn lúc ấy ai cũng nghĩ rằng cô sẽ đặt nó lên đỉnh đầu. Phi con dao găm cho xuyên qua trái lê trên đỉnh đầu cô gái là một màn cao trào. Nhưng cô gái không đặt nó lên đỉnh đầu, mà xem kìa, cô ngậm nó ở trong miệng. Sau đó chàng trai cầm lấy lưỡi dao, chuẩn bị tư thế. Nghĩa là, anh ta sẽ phi con dao găm về phía quả lê trong miệng cô gái. Thật không thể tin được. Cứ cho là chệch sang hai bên thì không sao, nhưng nếu chệch lên trên hoặc xuống dưới, con dao sẽ găm vào mặt hoặc họng cô. Tay nghề của chàng trai thì như đã thể hiện, dẫu có lệch cũng chỉ lệch đi chút ít, chứ chắc chắn không thể chệch hẳn lên phần nửa trên mặt cô gái được. Vì vậy, trường hợp đáng sợ nhất là, mặc dù con dao trúng vào trái lê, nhưng nó lại xuyên qua trái lê vào thẳng cổ họng cô gái. Đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ những tiếng rú to từ trong đám đông đứng xem lúc chàng trai ném con dao đi. Chàng trai ra tay nhanh tới nỗi có thể nghe thấy tiếng xé gió, nhưng con dao lại không bay nhanh như động tác của cánh tay. Nó không bay thẳng, mà vẽ thành một đường cầu vồng trong không trung, lao chéo từ trên xuống và cắm phập vào quả lê trong miệng cô gái. Đám người đứng xem nhốn nháo hết cả lên. Kẻ thì hú hét, kẻ thì vỗ tay, kẻ thì tung tiền. Chứng kiến cảnh tượng ấy, tôi cũng thấy bội phần kinh ngạc. Hơn nữa, khi cô gái cầm lấy trái lê và đưa cho mọi người xem thì mũi dao chỉ thò mớm ra khỏi trái lê chút đỉnh, không đủ để gây thương tích cho vòm miệng cô. Cô gái rút con dao ra và ném trả chàng trai. Chàng trai bắt lấy con dao trong không trung, rồi lại đứng vào tư thế. Đám đông đứng xem đổ dồn ánh mắt về phía họ: tiếp theo là trò gì đây? Hành động của cô gái sau đó còn đáng kinh ngạc hơn nữa. Cô áp trái lê lên trán mình. Thật không thể tin nổi. Ở vị trí này, dù mũi dao trúng vào trái lê với một lực vừa phải như ban nãy thì cô gái cũng sẽ không tránh khỏi bị thương. Mũi dao dẫu chỉ xuyên qua chút đỉnh, song lần này không phải là trong khoang miệng rỗng, nên phần xuyên qua ấy có thể găm vào trán khiến cô bị thương, thậm chí còn giết chết cô. Sự nhốn nháo của đám đông lắng xuống một cách nhanh chóng. Như chỉ chờ có vậy, chàng trai liền ném con dao đi. Nhưng anh ta không làm động tác ra tay nhanh như ban nãy nữa, mà chỉ chu môi bật khẽ một tiếng gió lúc ném dao. Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 4 của tác giả Baku Yumemakura & Uyên Thiểm (dịch).
Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 3
Từ lá thư mà A Bội Trọng Ma Lữ để lại, nhóm Không Hải biết được một sự thật. Đó là, khi hoàng đế Huyền Tông buộc phải xử tử Dương quý phi, ngài đã làm theo mưu kế của đạo sĩ Hoàng Hạc, thực hiện phép thi giải đưa Quý phi vào trạng thái chết giả để đợi hồi sinh, nhưng thật không may, họ đã thất bại. Cùng lúc ấy, Bạch Long, đệ tử cũ của Hoàng Hạc xuất hiện. Bạch Long nguyền rủa hoàng đế Thuận Tông, tìm cách hủy diệt cả triều đại nhà Đường. Chỉ còn chút sức tàn, Huệ Quả của Thanh Long Tự phải đứng ra đấu với Bạch Long, cứu hoàng đế, giải nguy cho vương triều. Về tác giả: Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sinh năm 1951 tại Odawara, Kanagawa, là nhà văn phiêu lưu và khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Sau khi ra mắt văn đàn năm 1977, ông đã xuất bản nhiều tác phẩm nổi tiếng. Năm 1989 ông nhận được giải thưởng tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản cho tiểu thuyết Sư tử ăn trăng khuyết, tới năm 1998 thì được trao giải Shibata Renzaburou lần thứ 11 cho tác phẩm Đỉnh núi thánh. Ông là thành viên của câu lạc bộ các nhà văn viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng Nhật Bản. Bộ tiểu thuyết Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường từng được đạo diễn Trần Khải Ca của Trung Quốc chuyển thể thành phim điện ảnh Yêu miêu truyện năm 2017. Ngoài ra nhiều tác phẩm khác của ông cũng được chuyển thể thành phim. Năm 2001: Âm Dương Sư (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Sanada Hiroyuki, Ito Hideaki, Koizumi Kyoko, Năm 2003: Âm Dương Sư 2 (Toho sản xuất) Đạo diễn: Takita Yojiro / Diễn viên: Nomura Mansai, Ito Hideaki, Nakai Kiichi, Fukada Kyoko, Năm 2007: Thanh gươm của hoàng đế (Toei sản xuất) Đạo diễn: Tsutsumi Yukihiko / Diễn viên: Abe Hiroshi, Hasegawa Kyoko, Miyato Kankuro, Năm 2016: Everest: Đỉnh núi của thần (Toho sản xuất) Đạo diễn: Hirayama Hideyuki / Diễn viên: Okada Junichi , Abe Hiroshi , Ono Machiko, Các tác phẩm tiêu biểu: Sa môn Không Hải thết yến bầy quỷ Đại Đường (4 tập) Âm Dương Sư Thợ săn quỷ Sư tử ăn trăng khuyết *** Họ đang ở trong phòng Không Hải… mà không, đúng ra là ở giữa một bông mẫu đơn đỏ. Nhưng chính xác hơn cả thì họ đang ở trong huyễn thuật của Đan Ông. Không Hải ngồi trên một cánh hoa mẫu đơn khổng lồ, kích thước của nó dễ bằng cả cái nhà. Quất Dật Thế ngồi kế bên, ngay cạnh nhụy hoa màu vàng to bằng cả cái cây, phía đối diện là Đan Ông. Không Hải vừa mới đọc xong câu chuyện dài được kể trong bức thư của A Bội Trọng Ma Lữ gửi cho Lý Bạch. Cậu vừa lướt mắt theo những dòng chữ bằng tiếng Oa vừa đọc to lên bằng tiếng Đường. Đó là cách Không Hải đọc cho Đan Ông nghe. Một câu chuyện kỳ lạ về Huyền Tông hoàng đế và Dương quý phi. Dật Thế không tìm được lời nào để nói. Đan Ông cũng vậy, chỉ ngồi yên lặng và ngước lên nhìn trời. “Đan Ông, ngài đang khóc có phải không?” Giọng Không Hải cất lên. Đúng lúc đó… Đột nhiên sắc đỏ xung quanh lạt dần, tỉnh ra thì đã là phòng của Không Hải. Ngọn đèn rung rinh, chỉ có duy nhất một bông mẫu đơn màu đỏ nằm chỏng chơ giữa ba người như tàn dư của một giấc mơ. Đan Ông đang ngửa cổ lên trời bỗng cúi mặt xuống, lấy ngón tay phải chùi mắt. “Chao ôi, ta vừa được nghe lại một câu chuyện thân thuộc làm sao…” Rồi Đan Ông ngẩng mặt lên. “Ngài Đan Ông. Chàng trai Đan Long được nhắc đến trong bức thư của Triều Hành có phải chính là ngài không?” Không Hải hỏi. “Đúng vậy…” “Vậy tức là tất cả những điều viết ra trong đây đều là sự thật?” “Ừm.” Đan Ông gật đầu, rồi lẩm bẩm bằng một giọng trầm thấp. “Ta không biết ngài Triều Hành đã để lại một bức thư như thế này…” Quyển trục chứa nội dung bức thư vẫn đang nằm trong tay Không Hải. “Ngài Đan Ông đã biết tất cả những gì được viết trong bức thư này phải không?” “Ta biết. Cả những chuyện được viết ra lẫn những chuyện không được viết ra.” “Bao gồm tung tích của ba người đã cùng nhau biến mất là Đan Long, Bạch Long và Dương Ngọc Hoàn, rồi cả người tiếp theo biến mất là Hoàng Hạc, cũng như những gì xảy ra sau đó nữa, có phải không ạ?” “Phải.” “Tại sao tất cả lại biến mất?” Không Hải hỏi, nhưng Đan Ông chỉ im lặng. “Ngài Đan Ông…” Không Hải định nhắc lại câu hỏi, thì Đan Ông nhìn sang Không Hải, nói: “Không Hải à, đây là chuyện bí mật của bọn ta.” “Ngài vừa nói là bọn ta?” “Ta đã nói như thế.” “Trong đó gồm những ai?” “Đan Ông ta và Bạch Long, rồi đạo sĩ Hoàng Hạc và Dương Ngọc Hoàn. Hoặc có thể thêm vào số đó tên của Huyền Tông hoàng đế và Cao Lực Sĩ cũng chẳng sao. Thậm chí là cả Thanh Long Tự…” “Trời ạ.” “Nhờ bức thư này mà cuối cùng ta cũng đã ngộ ra một điều. Đây là câu chuyện về giấc mơ đã xảy ra năm mươi năm trước. Nhưng nó vẫn đang tiếp tục. Ta ngộ ra, đã đến lúc tự tay bọn ta phải tận diệt cái hạt giống mà bọn ta gieo xuống ngày nào. Than ôi, thật là…” Đan Ông thốt ra những lời ấy như thở dài, môi khẽ mỉm nụ cười. “Không Hải này, dù mấy năm hay mấy chục năm trôi qua, thì con người rốt cuộc vẫn chẳng thể chạy trốn khỏi những điều do mình gây ra phải không…” “…” “Có thể nói ta đã lẩn trốn trong mấy chục năm qua, nhưng cuối cùng, ta không thể lẩn trốn thêm được nữa.” Đan Ông nói như thể vừa nuốt vào một cục đắng. “Đã đến lúc chấm dứt giấc mơ này rồi, Bạch Long ơi…” Đan Ông tự nói với chính mình, chứ không phải với Không Hải, cũng không phải với Dật Thế. “Giấc mơ nào?” “Giấc mơ diệu vợi ấy…” Đan Ông ngẩng lên trời, lẩm bẩm như vậy, rồi đưa mắt nhìn lại Không Hải. “Ngài vừa nhắc đến cái tên Bạch Long…” “Không Hải à, chuyện này là chuyện riêng của ta, không thể nói ra ngoài được.” “Cái bóng người đêm ấy ở cánh đồng bông của Từ Văn Cường có phải là người quen của ngài Đan Ông?” “Ừm.” “Đó phải chăng cũng là chuyện riêng?” “Phải. Không Hải, ta sẽ kể cho ngươi chuyện đó để đáp lại việc ngươi đọc cho ta nghe bức văn.” “Chuyện đó?” “Chuyện về những bức tượng dõng chui ra từ ruộng bông.” “Ngài Đan Ông có nói rằng chính ngài đã chôn chúng phải không?” “Đúng, ta đã nói như vậy.” “Có phải là một số lượng dõng rất kín?” “Không.” Đan Ông lặng lẽ lắc đầu. “Chỉ là mấy con đã chui ra mà thôi. Những bức tượng dõng chui ra vốn không được chôn ở đó từ đầu, mà do bọn ta làm phỏng theo những bức đã chôn ở đó từ trước.” “Ngài nói sao…” “Hãy nghe đi đã, Không Hải…” Nói đoạn, Đan Ông bắt đầu kể lại toàn bộ câu chuyện về những bức tượng dõng ấy. Mời các bạn đón đọc Sa Môn Không Hải Thết Yến Bầy Quỷ Đại Đường Tập 3 của tác giả Baku Yumemakura & Uyên Thiểm (dịch).
Nhà Hàng Ở Tận Cùng Vũ Trụ
Bởi Trái Đất đã nổ tung, chúng ta hãy cứ tiếp tục lạc trôi trong Vũ Trụ cùng Bí kíp quá giang vào Ngân Hà và nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc: Arthur Dent người trái đất, Ford Prefect, bạn lâu năm kiêm biên tập viên kỳ cựu của Bí kíp; Zaphod Beeblebrox, cựu tổng thống Ngân Hà ba tay hai đầu; Tricia McMillan, cũng người trái đất; và Marvin, người máy hoang tưởng trầm uất. Và đích đến là đâu? Chính là địa điểm vừa để giải trí tận thế vừa ăn tối cực hot; nơi đồ ăn (thật sự) sẽ tự chúng lên tiếng mời bạn xơi... chúng. Nhưng liệu bọn họ có đến được nơi? Câu trả lời là: khó nói lắm. Song bạn hãy nhớ Bí kíp đã xóa luôn thời Tương lai Hoàn thành bởi cuốn sách đã khám phá ra rằng: Chẳng có tương lai nào hoàn thành cả! "Cái hài hước của cuốn sách vừa ngầu vừa đậm vẻ chán chường, nó không thẹn thùng mà thu hút ngay bất cứ ai thấy - cuộc đời quá ngắn để coi mọi chuyện là nghiêm túc." - Observer Colour Magazine *** TÁC GIẢ DOUGLAS ADAMS (1952 - 2001) Là nhà văn, nhà biên kịch người Anh. Tác phẩm nổi tiếng của ông, Bí kíp quá giang vào Ngân Hà, xuất phát điểm là vở hài kịch truyền thanh nhiều tập của BBC, sau đó được phát triển thành “bộ ba” tiểu thuyết gồm năm tập bán được tới hơn 15 triệu bản ngay từ lúc tác giả sinh thời, được chuyển thể thành phim truyền hình, kịch nói, truyện tranh, trò chơi điện tử và phim điện ảnh. Ông cũng tham gia viết 3 tập trong series phim truyền hình nổi tiếng Doctor Who. Bởi Trái Đất đã nổ tung, chúng ta hãy cứ tiếp tục lạc trôi trong Vũ Trụ cùng Bí kíp quá giang vào Ngân Hà và nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc: Arthur Dent người trái đất, Ford Prefect, bạn lâu năm kiêm biên tập viên kỳ cựu của Bí kíp; Zaphod Beeblebrox, cựu tổng thống Ngân Hà ba tay hai đầu; Tricia McMillan, cũng người Trái đất; và Marvin, người máy hoang tưởng trầm uất. Và đích đến là đâu? Chính là địa điểm vừa để giải trí tận thế vừa ăn tối cực hot; nơi đồ ăn (thật sự) sẽ tự chúng lên tiếng mời bạn xơi… chúng. Nhưng liệu bọn họ có đến được nơi? Câu trả lời là: khó nói lắm. Song bạn hãy nhớ Bí kíp đã xóa luôn thời Tương lai Hoàn thành bởi cuốn sách đã khám phá ra rằng: Chẳng có tương lai nào hoàn thành cả! “Douglas Adams quả là nhà văn châm biếm cực kỳ xuất sắc!” WASHINGTON POST BOOK WORLD “Hài hước và hài hước đủ đường.” DAILY TELEGRAPH “Cái hài hước của cuốn sách vừa ngầu vừa đậm vẻ chán chường, nó không thẹn thùng mà thu hút ngay bất cứ ai thấy cuộc đời quá ngắn để coi mọi chuyện là nghiêm túc.” OBSERVER COLOUR MAGAZINE *** Câu chuyện từ đầu đến giờ là thế này: Trước tiên, Vũ Trụ được tạo ra. Việc này đã khiến nhiều người tức điên và luôn bị coi là một nước đi sai lầm. Nhiều chủng tộc tin rằng Vũ Trụ được tạo ra bởi một vị thần nào đó, tuy nhiên người Jatravartid trên hành tinh Viltvodle VI lại tin rằng thực ra cả Vũ Trụ đã được hắt hơi ra khỏi lỗ mũi một đấng có tên là Arkleseizure Xanh Vĩ Đại. Người Jatravartid, vốn sống với nỗi sợ thường trực cái ngày mà họ gọi là Khăn Tay Trắng Giáng Trần, là những sinh vật nhỏ màu xanh lơ có hơn năm mươi cánh tay, và vì vậy họ là chủng tộc có một không hai trong lịch sử đã phát minh ra chai xịt khử mùi trước cả bánh xe. Tuy nhiên, Thuyết Arkleseizure Xanh Vĩ Đại không được đón nhận rộng rãi bên ngoài Viltvodle VI, và vì thế, bởi Vũ Trụ là một nơi thật khó hiểu, nên luôn luôn có người tìm kiếm những lời giải thích khác. Ví dụ, một giống sinh vật siêu thông minh xuyên chiều đã tạo ra một chiếc siêu máy tính khổng lồ có tên Nghĩ Sâu để tính toán một lần dứt điểm Câu Trả Lời dành cho Câu Hỏi Tối Thượng về Sự Sống, Vũ Trụ và Vạn Vật. Suốt bảy triệu rưỡi năm, Nghĩ Sâu đã đo đạc và tính toán, và cuối cùng tuyên bố câu trả lời chính là Bốn mươi hai - và vì thế đã phải lắp một cái máy tính khác còn to hơn để khám phá xem câu hỏi thực ra là gì. Và cái máy tính này, có tên là Trái Đất, to đến nỗi nó hay bị nhầm là một hành tinh - nhất là bởi những sinh vật giống vượn kỳ lạ đi vơ vẩn trên bề mặt của nó, không hề hay biết rằng mình chỉ là một phần trong một chương trình máy tính khổng lồ. Và điều này thật kỳ lạ, vì nếu không có chút thông tin khá là đơn giản và dễ thấy đó, thì tất cả những gì đã xảy ra trên Trái Đất sẽ không thể có nghĩa gì cả. Đáng buồn thay, đúng trước thời điểm đưa ra kết quả quan trọng, Trái Đất đã bất ngờ bị san phẳng bởi một đội Vog để lấy chỗ - là chúng bảo thế - cho một đường cao tốc xuyên không gian, vì vậy chẳng còn hy vọng gì để khám phá ra ý nghĩa sự sống nữa. Hay ít ra là cũng có vẻ như vậy. Hai trong số những sinh vật giống vượn kỳ lạ đó đã sống sót. Arthur Dent thoát thân trong tích tắc chót chét vì một người bạn cũ, Ford Prefect, hóa ra lại đến từ một hành tinh nhỏ đâu đó cận biên sao Betelgeuse chứ không phải từ Guildford như trước nay anh ta vẫn nói; và, quan trọng hơn, anh ta biết cách quá giang đĩa bay. Tricia McMillan - hay còn gọi là Trillian - đã nhảy khởi hành tinh sáu tháng trước đó cùng Zaphod Beeblebrox, khi ấy là Tổng Thống Ngân Hà. Hai kẻ sống sót. Họ là tất cả những gì còn lại của thí nghiệm vĩ đại nhất - nhằm khám phá ra Câu Hỏi Tối Thượng và Câu Trả Lời Tối Thượng về Sự Sống, Vũ Trụ và Vạn Vật. Và, chưa đầy nửa triệu cây số cách nơi phi thuyền của họ đang biếng nhác trôi qua không gian đen thẳm như mực, một con tàu Vog đang từ từ tiến về phía họ. Mời các bạn đón đọc Nhà Hàng Ở Tận Cùng Vũ Trụ của tác giả Douglas Adams & Lê Minh Đức (dịch).
Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3)
Ống nhòm hổ phách là phần thứ ba và cũng là phần cuối của bộ truyện VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI, một câu chuyện ba tập khởi đầu ở Bắc Cực Quang rồi nối tiếp bằng Con dao kì ảo. Tập cuối di chuyển giữa vài vũ trụ khác nhau. *** “Ví như giấc mơ tuyệt vời nhất, luôn đầy thuyết phục và cũng rất phức tạp, ngập tràn những ngạc nhiên, lo sợ và thích thú. Sức sáng tạo của Pullman dành cho nhân vật, cốt truyện và logic khiến người ta phải ghen tị với chất xám của ông.” - Telegraph “Những mạch truyện viễn tưởng, kinh dị và sự điên rồ khủng khiếp hoà lẫn với tài năng hiếm có đầy mê hoặc.” - The Times “Pullman là bậc thầy trong việc kết hợp tạo hình nhân vật hoàn hảo và xây dựng cốt truyện mạch lạc, duy trì một nhịp độ nhanh khi tạo các cảnh chồng nối lên nhau với áp lực khó cưỡng. Viên ngọc lấp lánh này sẽ khiến độc giả thuộc mọi lứa tuổi phải ngóng đợi hồi tiếp theo về những cuộc phiêu lưu của Lyra.” - Publishers Weekly “Một câu chuyện viễn tưởng đầy kinh ngạc, một bộ trinh thám nảy lửa và một sự phản ánh đáng suy ngẫm về tình trạng của loài người. Đây là một cuốn sách có thể được thưởng thức ở nhiều cấp độ.” - Guardian *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (His Dark Materials), cũng giống như Chúa tể của những chiếc nhẫn - tải eBook, Biên niên sử Narnia - tải eBook và Harry Potter - tải eBook, là một trong những bộ truyện giả tưởng Anh ngữ dành cho trẻ em đã được đánh giá cao của thời đại. Hai tập sau của truyện lần lượt là Kỳ Ảo Đao hay Thanh Gươm Huyền Bí (The Subtle Knife) và Hổ Phách Kính (The Amber Spyglass). Ánh Sáng Phương Bắc đã được hãng phim Hollywood New Line Cinema chuyển thể thành phim "The Golden Compass", đã khởi chiếu vào ngày 5 tháng 12 năm 2007 tại Anh (7 tháng 12 tại Mỹ và 26 tháng 12 tại Úc). Phim là sản phẩm có kinh phí cao nhất của hãng này kể từ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Ánh Sáng Phương Bắc miêu tả một vũ trụ giả tưởng, nơi mà có phù thủy bay, chiến binh gấu Bắc cực, linh hồn của con người trong dạng thú và một chế độ tăng lữ độc tài. Nhân vật chính của truyện là một bé gái mồ côi 11 tuổi tên Lyra Belacqua. Cô bé được nuôi nấng bởi một khoa học gia, Ngài Asriel. Ngài Asriel bị giáo hội bỏ tù vì nghiên cứu Bụi, một vật chất tối được cho là ẩn chứa đầy tội lỗi. Người bạn thân của Lyra là Roger bị bắt cóc bởi tổ chức Những Kẻ Nuốt Chửng (The Gobblers) và cô bé quyết định lên đường giải cứu bạn mình. Một người phụ nữ quyền lực tên Marisa Coulter đã đề nghị giúp Lyra. Trước khi đi, hiệu trưởng trường Jordan tặng cho cô bé Chân La Bàn (Alethiometer), một dụng cụ thần kỳ chỉ đến sự thật. Tuy nhiên, khi Lyra phát hiện ra bà Coulter là người xấu, cô bé chạy trốn, thoát khỏi sự truy đuổi và được một nhóm người Gypsy cưu mang. Họ tiết lộ Ngài Asriel và bà Coulter chính là cha mẹ ruột của cô bé. Lyra cùng họ vượt biển tiến về Bắc Cực, theo chỉ dẫn của Chân La Bàn. Trên đường, họ bị tấn công và Lyra bị bắt về Bolvangar, nơi giam giữ những đứa trẻ bị bắt cóc. Lyra dùng chiếc Chân La Bàn và trí thông minh của mình vượt ngục cùng những đứa trẻ khác. Chúng được phi hành gia Lee Scoresby, nữ hoàng ma thuật Serafina Pekkala và chiến binh gấu Iorek Byrnison cứu thoát. Sau đó, Lyra đi cứu Lord Asriel. Ông vừa thành công trong việc khám phá ra nguyên lý của Bụi và cầu nối với một vũ trụ song song. Truyện kết thúc khi linh thú của Roger bị té xuống vực, làm cậu bé chết theo. Lyra và Lord Asriel bước qua thế giới mới. *** VẬT CHẤT TỐI CỦA NGÀI (Philip Pullman) là series Fantasy kinh điển và đồ sộ đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá, trong đó có Huân chương Carnegie!! Tác phẩm kể về chuyến phiêu lưu giữa các thế giới song song của Lyra Belacqua và Will Parry – hai đứa trẻ tầm thường có số phận trói buộc với nhau bởi những thế lực vượt xa thế giới của chính mình. Chúng sẽ gặp các phù thuỷ và gấu mặc giáp, thiên thần sa ngã cùng loài quỷ ăn linh hồn. Và cuối cùng, số phận của tất cả những người đang sống - và những người đã chết - sẽ phụ thuộc vào chúng... *** Khi lũ thú săn mồi, Từ hang tối sâu thẳm, Nhìn cô hầu say giấc. William Blake Trong một thung lũng rợp bóng đỗ quyên, sát với đường băng vĩnh cửu, nơi dòng sông mang màu trắng đục do nước từ băng tan tung bọt và nơi bồ câu cùng khổng tước bay giữa những rặng thông bạt ngàn, lấp ló một hang động bị che khuất gần hết bởi vách núi cheo leo phía trên và đám lá cứng đờ nặng nề túm tụm bên dưới. Khu rừng tràn ngập âm thanh: dòng nước chảy giữa các khe đá, gió luồn qua đám lá kim trên những cành thông, côn trùng rả rích, thú có vú nhỏ sống trên cây gọi bạn, và chim chóc líu lo. Cứ chốc chốc, một đợt gió mạnh sẽ khiến các cành tuyết tùng hay linh sam cọ vào nhau rồi rền rĩ kêu như tiếng đàn cello. Đó là một nơi ánh nắng chan hòa , không bao giờ ngừng lung linh; những tia sáng màu vàng chanh chói lọi đâm xuyên xuống nền rừng giữa những vệt và mảng râm màu xanh nâu; ánh sáng đó cũng không bao giờ chịu đứng yên, không bao giờ ổn định, do sương mù trôi dạt thường xuyên lơ lửng giữa những ngọn cây, lọc toàn bộ ánh nắng thành bảy sắc cầu vồng long lanh như ngọc trai và quét lên mọi quả thông một lớp nước ẩm khiến chúng lấp lánh khi sương tan. Đôi khi, không khí ẩm trong những đám mây cô đọng lại thành các hạt bé tin hin nửa sương mù nửa mưa, chúng lơ lửng hạ xuống chứ không phải rơi, tạo ra tiếng lộp độp rất khẽ giữa hàng triệu chiếc lá nhọn. Bên cạnh dòng sông có một lối đi nhỏ dẫn từ một ngôi làng - chỉ đông hơn một tổ hợp nhà ở của những người chăn gia súc chút ít - dưới chân thung lũng, đến một ngôi đền hầu như đã hoang tàn gần phía đầu của dòng nước, một nơi có những ngọn cờ lụa bạc phếch tung bay trong luồng gió không ngừng thổi tới từ rặng núi cao, nơi bánh lúa mạch và trà khô được các dân làng ngoan đạo cúng tế. Một hiệu ứng kì lạ của ánh sáng, băng giá và hơi nước bao lấy đỉnh thung lũng bằng những dải cầu vồng không bao giờ tan. Hang động nằm phía trên lối đi một chút. Nhiều năm trước, một người sùng đạo đã sống ở đó, thiền định, nhịn ăn và cầu nguyện. Người ta tỏ lòng tôn kính với nơi này vì kí ức gắn với ông. Nó sâu khoảng mười mét, sàn khô: Hang ổ lí tưởng cho một con gấu hoặc một con sói, tuy vậy những sinh vật duy nhất sống trong đó nhiều năm trời lại là chim chóc và dơi. Nhưng hình hài đang co quắp bên trong lối vào, đôi mắt đen láo liên quan sát mọi hướng, đôi tai thính nhạy vểnh lên, lại chẳng phải là chim hay dơi. Ánh nắng phả mạnh xuống bộ lông vàng óng ả của nó, đôi tay khỉ xoay một quả thông hết hướng này lại sang hướng kia, bẻ gãy từng nhánh bằng những ngón tay thoăn thoắt rồi cào lấy quả hạch ngọt lịm bên trong. Đằng sau nó, ngay bên trong vạch nắng chiếu tới, Phu nhân Coulter đang đun nước trong một cái xoong nhỏ trên bếp dầu. Khi con linh thú khẽ rên lên cảnh báo, bà liền ngước nhìn. Bước theo lối mòn trong rừng là một cô gái nhỏ trong làng. Phu nhân Coulter biết cô là ai: Đã vài ngày rồi Ama luôn mang đồ ăn tới cho bà. Lúc mới đến, Phu nhân Coulter đã loan tin rộng rãi rằng bà là một người sùng đạo đang thực hiện thiền định và cầu nguyện, kèm theo lời thề không bao giờ nói chuyện với đàn ông. Ama là người duy nhất bà cho phép ghé qua. Tuy nhiên lần này cô bé không đi một mình. Cha cô đi cùng, đứng đợi cách đó không xa, trong lúc Ama trèo lên hang động. Ama tới cửa động rồi cúi chào. “Cha cử con đến cùng với lời cầu nguyện cho thiện chí của bà,” cô bé lên tiếng. “Chào cháu gái,” Phu nhân Coulter nói. Cô bé đặt cái bọc quấn trong vải cotton đã bạc màu mình đang ôm xuống chân của Phu nhân Coulter. Sau đó cô chìa ra một bó hoa nhỏ, khoảng một tá cỏ chân ngỗng được buộc lại bằng một dải cotton, rồi bắt đầu nói bằng giọng liến thoắng đầy căng thẳng. Phu nhân Coulter hiểu được chút ít thứ ngôn ngữ của những cư dân vùng núi này, nhưng không bao giờ để cho họ biết chút ít đó là ngần nào. Vì vậy bà mỉm cười ra hiệu cho cô mím môi lại, rồi quan sát linh thú của hai người. Con khỉ vàng đang chìa ra bàn tay đen đúa nhỏ xíu của mình, con linh thú bươm bướm của Ama liền rập rờn bay lại gần, gần nữa cho đến khi nó đậu lên ngón tay trỏ chai sạn. Con khỉ từ tốn nâng nó lên tai mình, Phu nhân Coulter lập tức cảm thấy một luồng thấu hiểu nhỏ xíu tuôn vào tâm trí mình, khiến cho những lời của cô bé trở nên rõ ràng. Dân làng lấy làm mừng khi một nữ sĩ sùng đạo như bà tìm chỗ ẩn trú trong hang động, nhưng người ta đồn thổi rằng bà có người đi cùng, một người về mặt nào đó rất nguy hiểm và hùng mạnh. Đó là điều khiến dân làng e sợ. Nhân vật còn lại này liệu là chủ nhân của Phu nhân Coulter, hay là bầy tôi của bà ta? Liệu bà ta có ác ý gì không? Bà ta đến đây với mục đích gì? Họ có định ở lâu không? Ama truyền tải những câu hỏi này cùng với vô vàn mối lo ngại. Một câu trả lời khác lạ nảy ra trong đầu Phu nhân Coulter khi sự thấu hiểu của con linh thú thấm vào bà. Bà có thể nói sự thật. Không phải tất cả, hẳn nhiên rồi, mà là một vài điều. Bà cảm thấy người khẽ run lên khoái trá trước ý tưởng đó, nhưng lại không để lộ ra trong giọng nói khi giải thích: “Phải, có một người đang ở cùng với ta. Nhưng không có gì phải sợ cả. Đó là con gái ta, nó đang chịu một lời nguyền khiến nó say ngủ. Chúng ta phải đến đây để trốn kẻ đã bỏ bùa con bé, trong lúc ta cố gắng chữa trị cho nó và bảo vệ nó khỏi nguy hiểm. Đến nhìn nó đi, nếu cháu muốn.” Ama đã dịu đi phần nào nhờ giọng nói nhẹ nhàng của Phu nhân Coulter, nhưng vẫn còn lo sợ một phần; nhắc đến kẻ bỏ bùa và lời nguyền lại càng khiến cô kinh hãi hơn. Nhưng con khỉ vàng lại đang ôm linh thú của cô hết mực dịu dàng, bên cạnh đó, bản thân cô cũng tò mò, vậy là cô theo chân Phu nhân Coulter vào trong động. Cha cô bé ở con đường bên dưới bước tới trước một bước, con linh thú quạ của ông vung cánh lên vài lần, nhưng ông vẫn giữ nguyên vị trí. Phu nhân Coulter thắp một ngọn nến vì ánh sáng đang yếu đi nhanh chóng, rồi dẫn Ama vào phía sau hang động. Đôi mắt của cô gái nhỏ long lanh trong bóng tối, hai bàn tay cô cùng cử động theo động tác lặp đi lặp lại của một ngón tay trên ngón cái, rồi lại một ngón tay trên ngón cái, để xua đi hiểm nguy hay khiến các linh hồn xấu xa bị rối loạn. “Cháu thấy không?” Phu nhân Coulter nói. “Con bé không làm hại được ai đâu. Không có gì phải sợ hãi cả.” Mời các bạn đón đọc Ống Nhòm Hổ Phách (Vật Chất Tối của Ngài #3) của tác giả Philip Pullman & Trang Rose (dịch).