Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Sự Thật

Lowen Ashleigh là một nhà văn. Vì khó khăn tài chính nên cô buộc phải nhận một công việc khác thường. Jeremy Crawford, chồng của nhà văn nổi tiếng Verity Crawford, thuê Lowen viết tiếp những tập còn lại trong bộ sách của vợ anh mà vì lý do sức khoẻ cô không thể hoàn thành. Lowen đến nhà Crawford để tìm kiếm thông tin viết sách. Cô tình cờ phát hiện quyển tự truyện của Verity. Đó là những thú nhận khủng khiếp, bao gồm sự thật cái chết của con gái Verity. Lowen quyết định giấu Jeremy quyển tự truyện. Nhưng khi tình cảm Lowen dành cho Jeremy ngày càng sâu đậm, cô nhận ra nếu anh biết về quyển tự truyện sẽ chỉ có lợi cho cô. Dù Jeremy có tận tâm với người vợ tàn tật thế nào đi nữa, sự thật kinh hoàng sẽ khiến anh không thể tiếp tục yêu vợ mình. Một quyển sách kinh dị lãng mạn của Colleen Hoover, tác giả bán chạy số 1 New York Times . *** Nghe có vẻ lạ lùng đối với chúng ta khi nhân vật chính của một câu chuyện được yêu cầu cho một số nhiệm vụ chắc chắn khiến anh ta choáng ngợp. Nó xảy ra với các sĩ quan cảnh sát thông thường chịu trách nhiệm truy đuổi ông trùm của một mafia lớn, hoặc, như trong trường hợp này khi một nhà văn không mấy thành công được giao hoàn thành một số tiểu thuyết của một tác giả khác đã biến mất. Sự nghi ngờ trong những trường hợp này là phổ biến. Nhưng tại sao không đổi, khi khám phá ra điều gì dẫn nhân vật chính đến trung tâm của một cơn bão nghi ngờ, chicha bình tĩnh, luôn thu hút chúng ta bằng cùng một từ tính, với điện tích đó thông báo những cơn gió mạnh và những cảm xúc mãnh liệt không kém ... Lowen Ashleigh, một tác giả đang trên bờ vực phá sản, nhận được một khoản hoa hồng thay đổi cuộc đời: Jeremy, chồng mới của Verity Crawford, một trong những tác giả quan trọng nhất hiện nay, thuê cô ấy hoàn thành loạt sách trong đó tác phẩm của anh ấy là phụ nữ. trước khi bị một tai nạn nghiêm trọng khiến cô hôn mê. Lowen định cư tại biệt thự của cặp vợ chồng đã kết hôn để anh ta có thể làm việc với các ghi chú mà Verity đang làm, hy vọng tìm đủ tài liệu để bắt đầu nhiệm vụ của mình, nhưng điều anh ta không mong đợi phát hiện ra trong văn phòng hỗn loạn là một cuốn tự truyện của Verity chính cô ấy., được giấu kín để nó không bao giờ lộ ra ngoài. *** Colleen Hoover là nữ tác giả được xếp vào hàng có sách bán chạy nhất của New York Times. Năm 2012, bà xuất bản series truyện đầu tiên gồm ba cuốn Slammed, Point of Retreat và This girl. Năm 2013, bà xuất bản series thứ hai bao gồm Hopeless, Losing Hope và Finding Cinderella. Các tiểu thuyết của bà đều viết về những câu chuyện tình yêu đầy đam mê nhưng cũng chứa nhiều uẩn khúc, với một văn phong lãng mạn, tràn đầy thấu cảm và yêu thương. Trong số đó, tiểu thuyết Lạc mất & Hy vọng (Hopeless) gây ấn tượng mạnh với độc giả hơn cả. Cuốn sách đã dẫn đầu bảng xếp hạng của New York Times trong một thời gian dài, trở thành tiểu thuyết dành cho lứa tuổi trưởng thành hay nhất năm 2013. *** Tôi nghe thấy tiếng hộp sọ vỡ cái bốp trước khi máu anh ta bắn vào người tôi. Tôi khiếp sợ quay ngược lại về vỉa hè. Chân tôi vấp vào lề đường suýt ngã nên tôi vội nắm lấy cột biển báo cấm đỗ xe để giữ thăng bằng. Mới vài giây trước anh ta còn đứng trước mặt tôi. Chúng tôi lẫn trong đám đông chờ đèn hiệu đi bộ bật sáng, rồi anh ta bước xuống đường quá sớm ngay khi chiếc xe tải lao đến. Tôi nhào tới trước định ngăn anh ta lại nhưng không kịp nữa. Tôi nhắm tịt mắt lại trước khi đầu anh ta nằm gọn dưới lốp xe, nhưng âm thanh như nút chai rượu sâm banh bật ra vang lên rõ mồn một. Anh ta nhìn điện thoại của mình mà không nhìn đường, có lẽ đó là thói quen tệ hại nhưng chưa từng gây ra sự cố nào trước đó. Chết vì một thói quen. Mọi người đều hoảng hốt. Tài xế xe tải ngay lập tức nhảy ra khỏi xe và quỳ xuống bên nạn nhân, nhiều người chạy đến giúp đỡ. Tôi vội lùi khỏi đám đông. Không cần nhìn cũng biết anh ta không thể qua khỏi. Bây giờ một chiếc xe tang là cần thiết chứ không phải xe cứu thương. Tôi muốn tránh xa hiện trường vụ tai nạn, nhưng đèn đi bộ đã bật sáng và mọi người bắt đầu đổ sang đường. Một số người thậm chí vẫn dán mắt vào điện thoại di động khi đi ngang qua nạn nhân. Tôi đành đứng lại chờ đường bớt đông. Tôi liếc về phía đó, cẩn thận tránh nhìn thẳng vào nạn nhân. Người tài xế đang gọi điện thoại di động, ba bốn người xúm quanh, một số người dùng điện thoại quay lại cảnh khủng khiếp. Nếu ở Virginia nơi tôi sống trước đây, người ta sẽ hoảng loạn la hét, nhiều phóng viên sẽ có mặt sau vài phút. Nhưng ở Manhattan, việc một người đi bộ bị xe đâm xảy ra thường xuyên. Chỉ là giao thông bị ùn tắc trong phút chốc. Sự thờ ơ vô cảm là lý do tôi chuyển đến thành phố này mười năm trước. Tôi muốn sống ở một thành phố bận rộn đông đúc. Không ai chú ý đến tôi. Ở đây tôi vô hình, không bị soi mói đời tư. Tôi yêu thành phố này vì điều đó. “Cô có bị thương không?” Tôi ngước lên nhìn, một người đàn ông chỉ vào tay tôi và áo tôi đầy quan tâm. Anh không phải là một người New York vô cảm. Có lẽ anh từ nơi khác đến. “Cô có bị thương không ?” Người lạ lặp lại. Tôi nhận ra tay tôi dính máu. “Không. Không phải máu của tôi. Tôi đứng gần anh ta khi…”. Tôi lắp bắp, rùng mình vì nhớ lại cái chết khủng khiếp. Tôi luôn cố cứng rắn như mặt đường bê tông dưới chân, nhưng không phải là gỗ đá vô tri vô giác. Những gì vừa chứng kiến khiến bụng tôi xoắn lại và muốn nôn oẹ. Tôi đưa tay bụm miệng nhưng bỏ ra ngay khi cảm thấy có gì đó dính trên môi. Máu. Áo tôi cũng vậy, rất nhiều máu không phải của tôi. Tôi kéo áo ra để nó khỏi dính vào người. Tôi muốn xoa trán, véo mũi để khỏi chết ngất, nhưng sợ lại chạm phải máu. Tôi ngước nhìn người đàn ông. “Mặt tôi có dính máu không?” Tôi hỏi anh. Anh mím môi nhìn con đường chúng tôi đang đứng và chỉ một quán cà phê. “Chắc ở đó có phòng vệ sinh”, anh đẩy lưng tôi đi về hướng đó. Tòa nhà Pantem Press, nơi tôi muốn đến, đã rất gần. Chỉ cách mười lăm, hai mươi feet. Tôi tự hỏi người đàn ông vừa chết đã gần đến nơi anh ta cần đến chưa? Anh giữ cửa cho tôi bước vào quán cà phê. Một người nữ phục vụ tay bưng cà phê định len vào thì chợt nhìn thấy áo tôi. Cô ta vội tránh ra nhường đường. Tôi đi đến phòng vệ sinh nữ nhưng cửa bị khóa. Thấy vậy anh đẩy cửa phòng vệ sinh nam cho tôi đi vào sau anh. Anh không khóa cửa, đi thẳng đến bồn rửa và mở nước. Tôi nhìn vào gương và phần nào nhẹ nhõm vì tình hình không đến nỗi tệ như tôi tưởng. Vài vệt máu trên má đã khô, trên lông mày chỉ dính một chút. Hầu như máu bắn hết vào áo. Anh đưa khăn giấy ướt cho tôi lau mặt. Mùi máu tanh nồng khiến tôi nín thở và lại buồn nôn. Tôi muốn cởi áo ra. Ngay lập tức. Sau khi mở nút áo cởi áo để dưới vòi nước chảy, tôi cầm miếng khăn ướt khác anh đưa cho lau máu dính trên ngực. Anh đi ra cửa, nhưng không phải để cho tôi sự riêng tư với chiếc áo ngực kém hấp dẫn nhất mà để khóa cửa lại. Tôi căng thẳng theo dõi anh qua chiếc gương treo trước bồn rửa. Có tiếng gõ cửa. “Tôi ra ngay”, anh nói. Tôi nhẹ nhõm hẳn, ít ra ai đó bên ngoài sẽ nghe thấy nếu tôi hét lên. Tôi kỳ cọ cổ và ngực, tiếp theo là lau tóc, hết bên này đến bên kia cho đến khi không còn một dấu vết nào. “Đây”, anh mở chiếc nút cuối cùng chiếc áo trắng anh đang mặc. “Cô mặc vào đi”. Chiếc áo khoác đang treo trên tay nắm cửa, chiếc áo sơ mi đưa đã cho tôi, trên người anh chỉ còn độc một chiếc áo lót màu trắng. Anh to cao hơn tôi nhiều, tôi sẽ bị nuốt chửng trong chiếc áo này mất. Tôi không muốn mặc nó đến cuộc hẹn chút nào, nhưng không có lựa chọn nào khác. Tôi cầm nó, lấy thêm vài chiếc khăn giấy lau khô người, sau đó mặc vào và cài nút. Trông chẳng ra làm sao, nhưng không phải lỗi tại tôi. Tôi ném chiếc áo dính máu vào thùng rác rồi chống tay lên bồn rửa nhìn mình trong gương. Đôi mắt tôi mệt mỏi, trống rỗng. Tôi lấy tay chà sát hai má để da bớt tái nhưng vô ích. Trông tôi như một xác chết. Tôi xoay người lại. Anh nhét cà vạt vào túi áo vét. “Tôi không biết cô đã bình tĩnh lại hay vẫn còn sốc”. Tôi không sốc nhưng cũng không bình tĩnh. “Tôi không biết nữa”, tôi thừa nhận. “Anh thì sao?” “Tôi không sao”, anh nói. “Tôi còn chứng kiến nhiều việc tệ hơn nhiều”. Không biết anh có nhìn thấy đầu người đàn ông bị nghiền nát dưới bánh xe tải không. Có lẽ anh đúng là dân New York. Hoặc anh làm ở bệnh viện. “Anh có phải là bác sĩ không?” Anh lắc đầu. “Trước đây tôi làm bất động sản”. Anh bước đến gần, phủi thứ gì đó trên vai áo tôi. Áo của anh. Màu mắt anh tiệp với màu chiếc cà vạt, màu lục nhạt. Anh rất đẹp trai, nhưng tôi có cảm giác anh chán ghét vẻ ngoài của mình. Anh không muốn bị chú ý. Anh muốn vô hình, giống như tôi. Nhiều người đến New York để thể hiện mình. Vài người như chúng tôi đến đây để không ai chú ý đến mình. “Cô tên gì?” anh hỏi. “Lowen”. Anh sững lại vài giây khi nghe tên tôi. “Jeremy”, anh đi đến bồn rửa. Tôi không nén nổi tò mò. Anh đã gặp việc gì mà khủng khiếp hơn cả vụ tai nạn? Vì sao ánh mắt anh thăm thẳm vẻ buồn bã cô độc? “Chuyện gì xảy ra với anh vậy?” Tôi hỏi. Anh nhìn tôi trong gương. “Ý cô là sao?” “Anh nói đã chứng kiến nhiều việc khủng khiếp. Là chuyện gì?” Anh tắt nước, lau khô tay, rồi quay lại nhìn tôi. “Cô thực sự muốn biết?” Tôi gật đầu. Anh ném chiếc khăn giấy vào thùng rác, đút tay vào túi quần, ánh mắt đanh lại. “Tôi đã vớt xác con gái tám tuổi dưới hồ lên cách đây năm tháng”. Tôi hít mạnh và bụm miệng. “Tôi rất tiếc”, tôi thì thầm. Vì con gái anh. Vì đã hỏi anh. “Cô thì sao?” Anh dựa vào bồn rửa chờ đợi câu chuyện của tôi. Có người chia sẻ để bi kịch của bạn bớt bi thảm. Khi bạn trải qua những việc tồi tệ nhất, bạn muốn gặp những người cùng hoàn cảnh, những người gặp chuyện buồn và bạn sẽ cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi đằng hắng. Bi kịch của tôi không ghê gớm như của anh. Tôi nghĩ lại mọi việc đã xảy đến với mình và cảm thấy chút ngại ngùng vì nó khá tầm thường. “Mẹ tôi mới mất tuần trước”. Anh không tỏ thái độ gì, chắc anh đã dự đoán nhiều hơn thế. “Vì sao bà mất?” “Ung thư. Bà đến ở với tôi từ năm ngoái. Hôm nay là ngày đầu tiên tôi ra khỏi nhà sau khi mẹ tôi mất”. Chúng tôi nhìn nhau một lúc. Tôi chưa từng nói chuyện của mình với một người hoàn toàn xa lạ. Tôi ngại ngùng muốn kết thúc câu chuyện. Nhưng tôi không biết nói gì và đành im lặng. Anh nhìn vào gương hất vài sợi tóc đen vào nếp. “Tôi có một cuộc hẹn phải đi bây giờ. Cô chắc là cô ổn chứ?” Anh quan sát tôi qua gương. “Tôi ổn.” “Ổn?” Anh quay sang tôi, lặp lại câu hỏi. “Tôi sẽ không sao”, tôi nhắc lại. “Cảm ơn anh đã giúp đỡ.” Tôi bỗng muốn thấy anh cười. Nụ cười của anh như thế nào nhỉ? Nhưng anh chỉ nhún vai “Tốt”. Anh mở khóa cửa cho tôi bước ra, nhưng tôi không vội đi như thể tôi chưa sẵn sàng đối mặt với thế giới ngoài kia. Tôi muốn nói gì đó để cảm ơn hoặc tìm một cái cớ gặp lại anh. Mời anh đi cà phê nhân tiện trả lại áo cho anh có được không nhỉ? Trát tim tôi bồi hồi rung động trước anh – một người lạ tốt bụng. Đột nhiên mắt tôi bắt gặp chiếc nhẫn cưới anh đeo trên tay trái. Tôi hấp tấp ra khỏi quán cà phê hòa vào đám đông trên đường. Xe cứu thương đã đến, giao thông bị chặn ở cả hai hướng. Tôi cần quay lại hiện trường vụ tai nạn để cho lời khai. Ở đó đã có một đám đông những người chứng kiến vụ việc. Tôi tường thuật vụ tai nạn và cho họ thông tin liên lạc của tôi. Tôi ngoái nhìn quán cà phê. Jeremy đang bước ra khỏi quán, tay cầm ly cà phê băng qua đường. Chắc anh không còn nghĩ đến tôi mà nghĩ về vợ anh và những gì phải nói với cô ấy khi về nhà mà không có chiếc áo. Tôi rút điện thoại ra khỏi túi xem giờ. Còn mười lăm phút nữa mới đến giờ hẹn với Corey và nhà xuất bản Pantem Press. Tay tôi vẫn còn run và người lạ không còn ở đây để giúp tôi nữa. Chắc cà phê sẽ có tác dụng, hoặc morphine, nhưng chúng đã bị dọn sạch sau khi mẹ tôi mất. Ước gì tôi cất lại một ít. Mời các bạn đón đọc Sự Thật của tác giả Colleen Hoover & iusach (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Forrest Gump (Tiếng Việt)
Tiểu thuyết Forrest Gump của Winston Groom in năm 1986 thoạt tiên không phải là cuốn sách ăn khách cho đến khi bộ phim chuyển thể ra đời năm 1994 với ngôi sao Tom Hanks. Theo một thống kê, trước khi có bộ phim này thì cuốn sách đã được bán 30.000 bản, và khi Forrest Gump qua mặt rất nhiều bộ phim xuất sắc cùng năm để giành giải Oscar phim hay nhất, đã có 1,7 triệu bản sách được bán trên khắp thế giới. Còn bộ phim đã xếp thứ tư trong các bộ phim có doanh thu lớn nhất mọi thời đại cho đến thời điểm đó. Năm 2011, Thư viện Quốc hội Mỹ đã chọn Forrest Gump vào danh sách bảo tồn của Cơ quan Lưu trữ Phim ảnh Quốc gia vì "có ý nghĩa về mặt văn hóa, lịch sử và mỹ học."  Winston Groom là một cựu binh thời chiến tranh ở Việt Nam, sau khi trở về, ông làm phóng viên và chuyển sang viết tiểu thuyết năm 32 tuổi và đã gặt hái được nhiều thành công. Cuốn tiểu thuyết Conversations with the Enemy (1982). [Trò chuyện với kẻ thù] với chủ đề cựu chiến binh Chiến tranh Việt Nam đã lọt vào chung kết giải Pulitzer năm 1983. Năm 1985, Groom quay về Mobile và bắt đầu viết Forrest Gump. Cuốn sách đã trở thành dấu mốc cho sự nghiệp sáng tác của ông. Nhân vật Forrest Gump đã được Groom xây dựng như một người "tự kỷ bác học'", đã có những thay đổi khi được chuyển thể trên màn ảnh Hollywood. Sự khác biệt ở hình tượng Forrest Gump giữa truyện và phim dường như là nhà văn chủ ý xây dựng một nhân vật phản anh hùng, trong khi các nhà làm phim Hollywood thực hiện theo hướng ngược lại, người hùng kiểu mới có kết cục thành công có màu sắc Giấc mơ Mỹ. Truyện và phim đều đã gây nên những cuộc tranh luận về khía cạnh chính trị và tính biểu tượng của nhân vật Gump cũng như mối quan hệ với xã hội của chàng ngốc có chỉ số IQ (chỉ số thông minh) chỉ có 75 nhưng đã đi khắp nơi và gặp đủ loại người. Cuộc phiêu lưu của Forrest Gump suốt ba thập niên bao trùm lịch sử sau thế chiến II đã vẽ nên chân dung một nước Mỹ: Gump đã gặp 2 tổng thống Mỹ, lên tàu vũ trụ, đóng phim ở Hollywood, sang Trung Quốc và tham chiến ở Việt Nam mà không hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì.  Forrest Gump đề cập vấn đề muôn thuở của kiếp nhân sinh: chúng ta từ đâu tới, chúng ta làm gì và chúng ta đi về đâu? Thừa hưởng cái tên của ông tướng thời nội chiến đẻ ra phong trào phân biệt chủng tộc Klu Klux Klan,Forrest Gump sinh ra với chỉ số thông minh của "thằng đần" nhưng mẹ cậu bé luôn đấu tranh cho con mình có được nền giáo dục công bằng nhất. Người mẹ tuyệt vời này luôn dạy con khi cậu bé bị chúng bạn trêu chọc "con không có gì khác biệt hết". Và hễ ai cật vấn "sao mày ngu vậy?" thì Gump có câu trả lời mẹ dặn: "Người ta chỉ ngu khi làm trò ngu".  Bằng giọng văn hài hước, châm biếm, gây cười nhưng cũng để lại dư vị cay đắng, những trang sách dẫn dụ người đọc đi vào thế giới nội tâm với cái nhìn ngây thơ mà không hề giản đơn của một kẻ đần. Cuộc phiêu lưu dị thường mà Gump đã trải qua, vẽ nên chân dung nước Mỹ sau thế chiến II - một đế quốc đã phát động cuộc chiến phi nghĩa với Việt Nam và phải trả giá.  Đó là sự mất mát niềm tin của thế hệ trẻ, hàng nghìn người chết, các cuộc biểu tình. Forrest Gump tham gia cuộc chiến mà không hề hiểu mình chiến đấu vì lẽ gì, “sao chuyện này lại xảy ra?”. Sáng lên trên cảnh nền tăm tối, hỗn loạn đó là ước mơ về hạnh phúc, về hòa bình qua hình ảnh một chiếc thuyền câu tôm, một đầm nuôi tôm.  Mỗi số phận trong tác phẩm là một câu trả lời về sự tồn tại, tin ở các giáo lý, luật lệ, mệnh lệnh hay chính mình. Trên lộ trình đưa ra các đáp án, tác phẩm cũng kịp lấy ngay những câu chuyện thời cuộc để nói về "chúng ta làm gì" của những thanh niên Mỹ khi phải tham chiến. Người bạn Bubba trước khi chết trên chiến trường Việt Nam đã đau xót hỏi Gump: "Tại sao chuyện này lại xảy ra?". Cuộc chiến tranh ở Việt Nam trên phim được khắc họa đậm nét hơn so với tiểu thuyết phần nào cho thấy cuộc chiến hằn dấu ấn đậm nét trong truyền thông nước Mỹ, đến mức nhà làm phim đã gạt bớt các chuyện phiêu lưu khác như bay vào vũ trụ, đóng phim, đấu vật, tranh cử nghị viện... trong truyện để dành đất cho Gump và các bạn của chàng ta đối diện câu hỏi "đi về đâu?". Ðây chính là sự khác biệt lớn giữa phim và truyện khi nhà văn để nhân vật tiếp tục phiêu lưu.  Các nhân vật của phim có vẻ hành động logic với hiện thực hơn nhưng cũng buông xuôi theo thời hơn. Phim vừa có vẻ khẳng định thắng lợi của triết lý Tin Lành Max Weber (Gump phải đổ máu, mất mát và lao động cật lực để giàu có), vừa có màu sắc hư vô (cuộc đời như một hộp kẹo, bạn không thể biết mình sẽ chọn được cái nào). Truyện làm rõ hơn tinh thần không thúc thủ trước hoàn cảnh của Gump và bè bạn của chàng ta, hết keo này đến keo khác khiến người đọc phải mê say và nghĩ "ờ, cuộc đời này quả không đến nỗi tồi để sống".  Cả phim và truyện đều giữ một hình ảnh Forrest Gump khờ nhưng nhân hậu, luôn đối xử tốt với mọi người xung quanh mà không toan tính. Bút pháp cường điệu hài hước của hai tác phẩm đã khiến chàng khờ Gump không còn là thằng ngốc - nạn nhân kiểu nhân vật của Dostoyevsky, mà là người còn lại sau rốt để thanh thản kể câu chuyện đời mình, đầy nụ cười và niềm phấn khích bất tận. Mời các bạn đón đọc Forrest Gump của tác giả Winston Groom & Ngọc Trà (dịch).
Phi Trường Tập 2
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 2 của tác giả Arthur Hailey.
Phi Trường Tập 1
Thông qua câu chuyện hồi hộp về quá trình nghi ngờ, điều tra phát hiện, và tìm cách ngăn chặn một vụ âm mưu cho nổ một chuyến máy bay hành khách quốc tế đông người ngay trên không. Arthur Hailey muốn cung cấp cho bạn đọc những hiểu biết tương đối tường tận và lý thú về hoạt động của một sân bay dân dụng vào loại lớn và hiện đại nhất nước Mỹ, sân bay quốc tế Lincoln, với lưu lượng máy bay lên xuống trung bình 30 giây một chiếc. Qua đó, tác giả muốn nói đến những vấn đề xã hội đang đặt ra hiện nay cho nước Mỹ: đó là những mâu thuẫn và bất công không thể tránh khỏi trong cuộc chạy đua theo tiến bộ khoa học kỹ thuật không phải vì hạnh phúc con người, mà trước hết vì lợi nhuận, đẩy con người đi đến chỗ có những hành động mù quáng điên rồ, tìm lối thoát trước cảnh ngộ bế tắc bằng cách tự giết mình và giết oan nhiều người vô tội khác. *** Arthur Hailey (người Anh có quốc tịch Canada) (1920 - 2004) là tác giả của mười một cuốn best-sellers, trong đó có "Bản tin chiều" đã được dựng thành phim. Ông có 11 tiểu thuyết bán rất chạy được in ở 40 quốc gia với 170 triệu bản. Hailey được coi là người trường vốn trong sự nghiệp sáng tác. Những cuốn truyện ông viết đã vượt khỏi quê hương, được xuất bản trên 40 nước với hơn 170 triệu bản. Điểm nổi bật trong tác phẩm của ông là những nhân vật có xuất xứ rất tầm thường nhưng khi bị đẩy vào hoàn cảnh bi hùng đã vượt lên thành một số phận khác.  Sinh ngày 5/4/1920, Hailey sớm phải bỏ học ở tuổi mười bốn, bởi cha mẹ không đủ tiền chu cấp ăn học cho con trai. Sau đó, chàng trai Arthur trở thành phi công trong quân chủng Hoàng gia Anh trong đại chiến 2. Năm 1947, nhà văn tương lai rời bỏ xứ sở sương mù đến Canada và nhập quốc tịch tại đây. Thời gian đầu nơi đất khách, Hailey phải kiếm sống như một nhân viên tiếp thị cho nhà máy sản xuất máy kéo. Được một thời gian thì việc viết lách đã cám dỗ Hailey. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông là The Final Diagnosis, xuất bản năm 1959, kể về một bác sĩ chẳng may gây ra cái chết với một bé sơ sinh.  Mải mê với những con chữ trong một thập kỷ, rồi ông trở về công việc kinh doanh, chỉ ngồi vào bàn viết như một thú vui. Bà vợ của Hailey cho biết, nhà văn rất khiêm tốn và giản dị, nhưng ông có một niềm hân hoan đặc biệt khi đọc những bức thư của độc giả tán dương tác phẩm mình. Hậu duệ của ông dự định sẽ tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ ông vào tháng giêng theo đúng nguyện ước của người quá cố. Mười bốn tuổi đã nghỉ học vì cha mẹ không đủ tiền cho ông đi học tiếp, Arthur Hailey tham gia thế chiến thứ 2 với tư cách là phi công trong không lực hoàng gia Anh và trở thành nhà văn khi xuất bản tác phẩm đầu tay The final diagnoisis vào năm 1959.  Arthur Hailey có cách viết tiểu thuyết rất hấp dẫn, mô tả những người bình thường trong hoàn cảnh bất thường. Năm 2001 ông nói với hãng tin AP: "Tôi không thật sự tạo ra ai cả. Tôi chỉ lấy từ đời thật". Một số tác phẩm của ông đã được ra tiếng Việt như Phi trường, Bản tin chiều, Trong khách sạn... Mời các bạn đón đọc Phi Trường Tập 1 của tác giả Arthur Hailey.
Chuộc Tội
Vương Hải Yến (dịch) Truyện hấp dẫn, bố cục thực sự lạ lẫm với việc tập hợp các các đoạn "hồi ký". _NQK Emily, Sae, Maki, Akiko, Yuka – năm cô bé cùng nhau đến trường chơi bóng chuyền song chỉ có bốn về được nhà, với tư cách là bốn nhân chứng của một vụ giết người tàn nhẫn gây chấn động. Nhưng trở về an toàn không có nghĩa là bình an sống tiếp. Trước bốn lời khai như một: “không nhớ rõ mặt hung thủ”, người mẹ mất con gái đã phẫn nộ gieo vào đầu bốn cô bé lời nguyền rủa độc địa – bước ngoặt lái bốn số phận mới chớm thành hình vào bốn ngã rẽ bất hạnh khác nhau: “Hãy tìm ra hung thủ trước khi quá thời hạn khởi tố. Nếu không làm được điều đó, hãy tìm ra cách chuộc tội khiến tao có thể chấp nhận. Còn nếu không làm được một trong hai điều trên tao sẽ trả thù chúng mày.” “Căng thẳng từng chữ, đồng thời cũng lay động từng dòng… Minato đã khéo léo viết nên một câu chuyện ớn lạnh của bi kịch, tội lỗi và sự chuộc tội.”       - Publishers Weekly *** Kanae Minato là một nhà văn Nhật Bản về viễn tưởng và phim kinh dị. Cô là thành viên của các nhà văn bí ẩn của Nhật Bản và Câu lạc bộ nhà văn bí ẩn Honkaku của Nhật Bản. Tác phẩm: Thú Tội Những Đứa Trẻ Bị Mắc Kẹt Chuộc Tội Tất Cả Vì N Vòng Đu Quay Đêm ,,, *** Gửi cô Asako, Cảm ơn cô vì hôm trước đã tới dự đám cưới của cháu. Suốt buổi lễ, cháu đã luôn lo rằng khi nhìn những người họ hàng cháu rồng rắn kéo nhau từ thị trấn thôn quê đó lên, cô sẽ nhớ lại sự việc khi ấy để rồi cảm thấy không thoải mái. Bởi đám người đó chẳng hề nhận ra cử chỉ và hành động của mình thiếu tế nhị tới chừng nào. Không khí trong lành. Lần đầu tiên cháu nhận ra rằng, ngoại trừ điều đó, thị trấn ấy chẳng còn gì đáng kể là vào khoảng bảy năm trước, khi cháu tốt nghiệp cấp ba và lên Tokyo theo học trường đại học nữ sinh. Bốn năm trời cháu sống trong ký túc xá của trường. Lúc cháu nói với bố mẹ rằng mình muốn lên Tokyo học đại học, bố mẹ cháu đều đồng thanh phản đối. Lỡ con bị kẻ xấu lừa, bắt làm công việc bán thân thì phải làm sao? Rồi bị lôi kéo vào con đường nghiện ngập thì phải làm thế nào? Bố mẹ biết làm gì nếu con bị người ta sát hại? Một người sinh trưởng nơi đô thành như cô Asako đọc đến đây chắc sẽ phì cười mà nghĩ, rốt cuộc bố mẹ cháu nghe thông tin ở đâu mà lại có những lo lắng kỳ cục như vậy nhỉ. Cháu đã mang chương trình yêu thích của bố mẹ ra mà cãi lại, rằng, “Đấy là tại bố mẹ xem chương trình Hai tư giờ ở đô thị lớn nhiều quá đó thôi”, dù thực ra cháu cũng nhiều lần tưởng tượng tới những chuyện đáng sợ như thế rồi. Dẫu vậy, cháu vẫn rất khát khao được lên Tokyo học. “Trên Tokyo có gì hay đâu? Ngành mà con muốn theo học, mấy trường đại học trong tỉnh mình cũng có. Nếu là các trường đó, thì tuy không thể đi về trong ngày, nhưng giá nhà trọ rẻ, gặp chuyện gì cũng có thể về nhà ngay được. Như vậy cả con và bố mẹ đều an tâm.” Bố cháu đã thuyết phục cháu như vậy. “Sao bố mẹ có thể an tâm được? Không phải bố mẹ chính là những người hiểu rõ nhất, rằng khoảng tám năm trở lại đây, con đã sống trong sợ hãi ở thị trấn này như thế nào hay sao?” Thấy cháu nói vậy, bố mẹ không phản đối nữa. Nhưng bố mẹ cháu ra một điều kiện là, khi lên đó thay vì sống một mình ở phòng trọ hay căn hộ chung cư, cháu phải vào sống trong ký túc xá dành cho sinh viên. Cháu không có ý kiến gì về việc đó. Tokyo trong lần đầu tiên cháu tới thăm giống như một thế giới khác. Bên trong nhà ga nơi cháu bước từ tàu điện cao tốc xuống nhìn đâu cũng thấy toàn người với người, đến mức cháu nghĩ số người bên trong nhà ga này có khi còn nhiều hơn cả dân số của thị trấn quê cháu nữa. Điều làm cháu ngạc nhiên hơn nữa là, dù có nhiều người đến vậy, nhưng mọi người vẫn có thể đi lại bình thường mà không hề đụng vào nhau. Ngay cả cháu lúc đó dù đi loạng quạng do mải nhìn bảng hướng dẫn điện tử để lên tàu điện ngầm mà vẫn không đụng phải ai, vẫn có thể suôn sẻ tới được nơi mình muốn tới. Lên được tàu điện ngầm rồi, lại có một chuyện khiến cháu ngạc nhiên hơn nữa. Đó là, những người quanh cháu dù có vẻ đều đi cùng ai đó, nhưng hầu như không ai nói chuyện với ai cả. Thỉnh thoảng cháu có nghe thấy tiếng cười hay tiếng nói chuyện lớn, nhưng đa phần những âm thanh đó đều do người ngoại quốc gây ra. Cho đến hết cấp hai cháu vẫn đi bộ đi học, lên cấp ba thì đi xe đạp nên cho tới lúc đó một năm cháu chỉ đi tàu điện vài lần, ví như những lần tới các trung tâm mua sắm ở thị trấn khác cùng gia đình hay bạn bè. Và trong khoảng một tiếng trên tàu điện trước khi tới nơi ấy, cháu và mọi người trò chuyện không dứt. Chúng mình mua gì bây giờ nhỉ. À tháng sau có một cái sinh nhật đấy, hay mình mua sẵn quà luôn cho tiện. Trưa nay mọi người muốn ăn ở McDonald’s hay KFC?… Cháu tuyệt nhiên không nghĩ mình làm như vậy là thiếu ý thức. Bởi tiếng nói cười vang lên ở khắp mọi nơi trên tàu, và không ai cau mày khó chịu vì chuyện đó cả, nên cháu đã nghĩ cư xử như thế khi ở trên tàu là bình thường. Đột nhiên cháu nghĩ, phải chăng người Tokyo không nhìn thấy những người xung quanh mình? Phải chăng họ không quan tâm gì đến người khác. Miễn là bản thân không thấy phiền, thì người bên cạnh muốn làm gì cũng được? Phải chăng họ không muốn biết tiêu đề cuốn sách mà người ngồi ở ghế đối diện đang đọc? Phải chăng họ không buồn để ý dẫu cho người đứng trước mặt họ có mang một cái túi xách hàng hiệu cao cấp đến đâu? Lúc nhận ra thì cháu đã đang rơi nước mắt rồi. Nhìn một con bé quê mùa với cái túi hành lý lớn đang khóc, hẳn mọi người sẽ hiểu lầm cháu nhớ nhà nên mới vậy. Hơi xấu hổ, cháu vừa quệt nước mắt vừa nhìn quanh, nhưng chẳng có người nào đang nhìn cháu cả. Cháu cảm động vì nơi đây tuyệt vời hơn cả trong tưởng tượng của mình. Lý do cháu muốn đến Tokyo không phải là vì nơi đây có nhiều cửa hàng tráng lệ, hay nhiều chỗ để đi chơi. Cháu chỉ muốn hòa vào đám đông những người không biết về quá khứ của cháu, để xóa đi hình ảnh của mình. Nói chính xác hơn, cháu muốn trốn khỏi đôi mắt của kẻ sát nhân trong vụ án mà cháu là nhân chứng giờ này vẫn đang ung dung ngoài kia. Cháu ở phòng ký túc bốn người. Mọi người đều là dân tỉnh lẻ, ngày đầu tiên tới ở mọi người tự giới thiệu bản thân và thi nhau khoe về những điều đáng tự hào của quê hương mình. Nào là quê họ có món mì Udon ngon, có suối nước nóng, rồi nhà gần nhà tuyển thủ bóng chày nổi tiếng… Ba người còn lại tuy nói là dân tỉnh lẻ, nhưng tên thành phố, thị trấn quê họ thì cháu đều đã nghe qua. Cháu có nói ra tên thị trấn quê cháu, nhưng cả ba người đều không biết nó nằm ở tỉnh nào. Họ hỏi nơi ấy là nơi như thế nào, cháu trả lời, không khí ở đó rất trong lành. Cháu nghĩ nếu là cô Asako, hẳn cô sẽ hiểu rằng, chẳng phải vì nơi đó không có gì đáng tự hào nên cháu mới miễn cưỡng nói một câu chung chung như vậy. Sinh ra và lớn lên ở thị trấn đó, hằng ngày cháu đều hít thở không khí nơi ấy như một lẽ đương nhiên. Cháu nhận ra không khí nơi đó thật trong lành, vào một ngày khi cháu mới lên lớp bốn, mùa xuân năm vụ án đó xảy ra. Trong giờ học môn xã hội, thầy Sawada giáo viên chủ nhiệm đã nói thế này: “Các em đang sống ở vùng quê có khí hậu trong lành nhất Nhật Bản. Các em có biết tại sao thầy có thể nói như vậy không? Những máy móc chính xác được dùng trong các bệnh viện và phòng nghiên cứu phải được chế tạo ở môi trường mà không khí không lẫn bụi bẩn. Vì thế, nhà máy sản xuất những máy móc ấy cũng phải được xây dựng ở nơi có không khí trong lành. Và trong năm nay, nhà máy mới của công ty chế tạo máy Adachi đã được xây dựng ngay tại thị trấn này. Việc nhà máy của công ty sản xuất thiết bị chính xác hàng đầu Nhật Bản được xây dựng ở nơi này chứng tỏ nơi đây đã được chọn là nơi có không khí trong lành nhất Nhật Bản. Các em hãy tự hào vì mình đang được sống trên một vùng đất tuyệt vời như thế nhé.” Sau buổi học, chúng cháu đã hỏi Emily xem điều thầy giáo nói có đúng không. “Tớ cũng từng nghe bố tớ nói như thế.” Mời bạn đón đọc Chuộc Tội của tác giả Minato Kanae.