Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nữ Tu Sĩ - Denis Diderot

Nữ Tu Sĩ là một tác phẩm thuộc truyền thống văn học Pháp và châu Âu chống lại những sự hà lạm của nhà thờ. Từ lâu nhà thờ Thiên chúa giáo là dinh lũy của chế độ phong kiến phản động. Nhà vua chuyên chế, các giai cấp thống trị dùng nó làm một lợi khí đắc lực để mê hoặc và đàn áp sự phản kháng của nhân dân... Cuốn truyện cho ta thấy nhà tu kín quả thật là một địa ngục trần gian, ở đó hàng ngày diễn ra những cảnh tu nữ bị nhục hình, những cảnh điên loạn ghê sợ... Nhưng Nữ Tu Sĩ còn bao hàm một chủ đề tư tưởng khác: quyền lợi người phụ nữ trong xã hội. Xuydan không chỉ là một cô gái hiền lành, mộ đạo, cô còn là một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, một con người biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Bao nhiêu đe dọa, bao nhiêu nhục hình vẫn không làm cô ngã lòng. Hình ảnh Xuydan là hình ảnh những phụ nữ Pháp có nghị lực và can đảm, ngày mai đây sẽ cùng toàn dân xông vào phá ngục Baxti để giải phóng cho mình và giải phóng cho dân tộc. Cũng vì ý nghĩa cách mạng đó của tác phẩm mà Nữ Tu Sĩ, viết xong năm 1760, mãi đến năm 1796, sau cuộc cách mạng tư sản Pháp và sau khi nhà văn từ trần, mới được xuất bản. *** Denis Diderot (1713-1784) sinh ngày 5.10.1713 là nhà văn, nhà tư tưởng kiệt xuất, một trong những nhân vật khổng lồ, ưu tú nhất của phong trào Khai sáng ở Pháp thế kỷ XVIII. Sau khi xong bậc trung học, mặc dù cha ông muốn ông tìm việc làm, nhưng ông âm thầm theo học khoa Triết, Toán và cả Giải phẫu. Ra trường, ông tham gia làng báo và say mê viết lách. Năm 36 tuổi, ông cho ấn hành tập tiểu luận nhỏ “Lá thư về những người mù cho những người sáng đọc”. Tập tiểu luận này đã khiến ông vào tù 3 tháng do bị cho là đụng chạm đến nhà cầm quyền thời đó. Năm 1751, ông cùng với Jean le Rond d'Alembert chủ biên bộ “Bách khoa toàn thư” đầu tiên trên thế giới, giảng giải về khoa học, nghệ thuật và nghề nghiệp. Bên cạnh đó, ông viết nhiều vở kịch, tiểu thuyết cùng những bài biên khảo về nghệ thuật, xác định những quy tắc của thể loại kịch, sáng lập môn phê bình nghệ thuật. Làm việc cần cù song ông vẫn nghèo. Mến mộ ông, Nữ hoàng Catherine II của Nga đã chu cấp tiền bạc cho ông hàng năm. Năm 1773, ông sang Nga để tạ ơn Nữ hoàng và được mời làm Viện sĩ danh dự nước ngoài Viện Hàn lâm Khoa học St. Pertersbug. Trong các tác phẩm triết học: Lá thư về những người mù cho những người sáng đọc (1749), Những suy nghĩ giải thích giới tự nhiên (1754), Giấc mơ của d'Alembert (1769), Những nguyên tắc triết học của vật chất và vận động (1770), Diderot đã chống lại chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Trong tác phẩm "Người cháu họ của Rameau" viết khoảng năm 1762, ông nêu ra những luận điểm của phép biện chứng. Trong văn học, Diderot đấu tranh cho chủ nghĩa hiện thực với tiểu thuyết "Jacquies - kẻ theo thuyết định mệnh và ông chủ của anh ta"(1773) và truyện ngắn "Nữ tu sĩ" (1760), mà ông đã tiến hành đồng thời trong các tác phẩm phê bình nghệ thuật tạo hình "Các phòng triển lãm" (1759-1781) và sân khấu "Nghịch lý về diễn viên" (1773-1778). Ông mất ngày 31-7-1784 tại Paris, Pháp. Ngoài các tác phẩm triết học, văn chương, ông còn là người biên soạn chính của công trình Bách khoa toàn thư đồ sộ mà giá trị của nó đến nay vẫn còn phát huy tác dụng. *** Nữ tu sĩ là một tác phẩm thuộc truyền thống văn học Pháp và châu Âu chống lại những sự hà lạm của nhà thờ. Đã từ lâu nhà thờ Thiên chúa giáo là dinh lũy của chế độ phong kiến phản động. Nhà vua chuyên chế, các giai cấp thống trị dùng nó làm một lợi khí đắc lực để mê hoặc và đàn áp sự phản kháng của nhân dân. Chúng lập một mạng lưới nhà thờ dày đặc khắp thành thị và nông thôn nước Pháp. Có thể nói bóng đen của nhà thờ ngả xuống hầu hết ruộng đất của nước Pháp. Bên cạnh chính quyền vốn đã hà khắc của chế độ quân chủ chuyên chế để cai trị nhân dân về mặt pháp lý, lại có thêm thẩm quyền của tôn giáo để áp bức nhân dân về mặt linh hồn. Hầu hết những việc ma chay, cưới hỏi của nhân dân đều do nhà thờ quyết định. Để kìm hãm nhân dân trong ngu tối, nhà thờ tích cực hoạt động ngăn trở sự phát triển của khoa học, của triết học duy vật, nói tóm lại, của tiến bộ xã hội. Vì vậy mà từ trước đến nay, những nhà tư tưởng, những văn nghệ sĩ tiền tiến của các thời đại đều đã lên tiếng phản đối những học thuyết ngu dân của nhà thờ. Từ thời Phục hưng, Boccaccio, nhà văn Ý, trong các truyện của mình, cũng như viết hài kịch Pháp Molière ở thế kỷ XVIII, trong các vở Trường học làm vợ, Tartuffe, Don Juan đều đã vạch trần tính chất giả nhân giả nghĩa và những sự tàn bạo của nhà thờ. Viết Nữ tu sĩ, Diderot đã tiếp tục truyền thống chống những sự hà lạm của nhà thờ trong văn học Pháp và châu Âu. Qua sự mô tả cuộc đời của cô gái Suzanne ở các tu viện, ông lên án sự cuồng tín của tôn giáo, cuộc sống khổ hạnh cùng tất cả những biện pháp thô bạo được áp dụng trong nhà tu nhằm đàn áp lý trí, hủy hoại nhân cách con người. Đồng thời ông gián tiếp lên án chế độ đương thời đã làm chỗ dựa cho những hoạt động tôn giáo phản động như vậy. Cuốn truyện cho ta thấy nhà tu kín quả là địa ngục trần gian, ở đó hàng ngày diễn ra những cảnh tu nữ bị nhục hình, những cảnh điên loạn ghê rợn. Những kẻ được sủng ái thì hành hạ kẻ khác, những người bị ruồng bỏ thì trở thành nạn nhân của mọi sự hành hạ. Diderot cho ta thấy do một sự giáo dục khổ hạnh trái với tự nhiên, con người không còn giữ được bản chất tốt đẹp của mình, đúng như lời bà nhất Moni đã có lần nói với Suzanne: “Con ạ! Trong tất cả những người ở xung quanh chúng ta, những người rất mực ngoan ngoãn, trong trắng, dịu dàng, hầu như không có một người nào, phải, không có một người nào mà mẹ không thể làm cho họ trở thành con thú dữ”. Nhưng Nữ tu sĩ còn bao hàm một chủ đề tư tưởng khác: quyền lợi người phụ nữ trong xã hội. Diderot, cũng như các nhà Bách khoa khác, trong khi đấu tranh cho tự do, cho sự giải phóng của con người, đã nhiều lần lên tiếng bênh vực quyền lợi và địa vị của phụ nữ. Suzanne không chỉ là một cô gái hiền lành, mộ đạo, cô còn là một tâm hồn thiết tha yêu sự sống, một con người biết đấu tranh cho hạnh phúc của mình. Bao nhiêu đe dọa, bao nhiêu nhục hình vẫn không làm cô ngã lòng. Cô đã chiến thắng những tư tưởng bi quan, đầu hàng, và đã tìm mọi cách thoát ra khỏi tu viện hắc ám, tuy cuộc sống trước mắt còn dành cho cô sự hãi hùng. Hình ảnh Suzanne là hình ảnh người phụ nữ Pháp có nghị lực và can đảm, ngày mai đây sẽ cùng toàn dân xông vào phá ngục Bastille để giải phóng cho mình và giải phóng cho dân tộc. Cũng vì ý nghĩa cách mạng đó của tác phẩm mà Nữ tu sĩ, viết xong năm 1760, mãi đến năm 1796, sau cuộc cách mạng tư sản Pháp và sau khi nhà văn từ trần, mới được xuất bản. Truyện này được viết theo thể loại triết lý, một thể loại được sử dụng rộng rãi ở thế kỷ XVIII. Nhằm mục đích phổ biến rộng rãi các tư tưởng chính trị, triết học đến quảng đại quần chúng, các nhà văn Ánh sáng đã dùng những loại truyện này để làm cho người đọc dễ tiếp thụ những quan điểm của mình. Chúng ta đều biết Voltaire rất sở trường về loại văn này và đã để lại nhiều kiệt tác như Candide, Người chất phác… Các truyện khác của Diderot như Người cháu của Rameau, Jacques, anh chàng định mệnh chủ nghĩa đều là những truyện triết lý. Nhân vật Suzanne làm ta nghĩ đến hình ảnh những “con người tự nhiên” mà ta thường thấy trong nền văn học thế kỷ XVIII. Đó là những con người trong trắng, ngây thơ, chưa hề bị những ảnh hưởng xấu xa của các quan hệ tư sản làm hư hỏng. Suzanne không phải là một người vô thần, trái lại, cô hết lòng kính Chúa, mộ đạo. Nhưng lương tri sáng suốt của “con người tự nhiên” không thể chấp nhận những tội ác hàng ngày diễn ra trong tu viện, những nghi lễ vô lý người ta bày ra ở đấy để mê hoặc các nữ tu sĩ đáng thương Suzanne, do những điều chứng kiến ở tu viện, đã nhìn nhận được những lừa bịp trắng trợn của những kẻ mạo danh Chúa để làm những điều bỉ ổi. Đây là điểm là cho Nữ tu sĩ khác với truyện triết lý của nhiều nhà văn khác. Thường thường trong các truyện triết lý, nhà văn quan tâm đến sự minh họa tư tưởng của mình hơn là mô tả tâm lý nhân vật. Ngược lại, Suzanne có một đời sống nội tâm khá tế nhị, phong phú. Với một ngòi bút mang nhiều tính chất hiện thực sâu sắc, Diderot mô tả một cách tỉ mỉ những diễn biến phức tạp trong tâm hồn Suzanne. Từ lòng tin Chúa ngây thơ, Suzanne đã dần dần đi tới chỗ hoài nghi, và từ đó đến chỗ phản kháng, phẫn nộ; cô gái hiền lành quen sống nhẫn nhục trong gia đình mà ở đó cô bị khinh bỉ đã dần dần trở nên một người dám nổi loạn chống áp bức, chống giả dối, chống thành kiến, chống tàn bạo. Ngoài Suzanne, các nhân vật như bà nhất và các tu nữ khác, cùng với những cơn điên loạn của họ, cũng đều có một đời sống tâm lý rõ rệt. Mời các bạn đón đọc Nữ Tu Sĩ của tác giả Denis Diderot.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Sói
Tên eBook: Mowgli - Người Sói (full prc, pdf, epub) Tác giả: Rudyard Kipling Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Ấn Độ Dịch giả: Hoàng Hưng Nhà xuất bản: NXB Trẻ Năm xuất bản: 1999 Số trang: 250 Số quyển / 1 bộ: 1 Hình thức bìa: Bìa mềm Tạo prc: santseiya  Nguồn: vietkiem.com, thuvien-ebook.com  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: RUDYARD KIPLING, tên đấy đủ là Joseph Rudyard Kipling, sinh ngày 30 tháng 12 năm 1865 tại thành phố Bombay, Ấn Độ, trong một gia đình trí thức người Anh. Năm lên sáu tuổi, cậu được đưa về Anh học, tuổi thơ của cậu nhìn chung là bất hạnh. Kipling trở lại Ấn Độ năm 1882, làm nghề báo. Ông đi đó đi đây, khắp Ấn Độ, rồi sang Mỹ, sang châu Phi, nhờ đó mà tích luỹ nhiều vốn sống cho các trang viết của mình sau này.     Kipling nổi tiếng trước hết là một nhà thơ. Sau khi Lord Tennyson qua đời vào năm 1892, có thể nói Kipling đã chiếm vị trí số một trong lòng công chúng yêu thơ nước Anh. Ông cũng là người viết truyện ngắn và tiểu thuyết lừng danh. Bạn đọc trẻ khắp năm châu thì yêu quí Kipling qua những tác phẩm viết cho lứa tuổi của họ: Những Thuỷ Thủ Dũng Cảm (1890), Sách Rừng (quyển 1 năm 1894, quyển 2 năm 1895), Kim (1901). Ông được trao giải Nobel văn chương năm 1907.     Từ năm 1901, Rudyard Kipling định cư ở Anh và qua đời ngày 18 tháng 1 năm 1936 tại London.     Hai quyển Sách Rừng có thể coi là tập hợp những câu chuyện thú vị, hấp dẫn bậc nhất về đời sống hoang dã trong văn chương nhân loại từ trước tới nay, mà nhân vật chính là một chú bé được bầy sói nuôi và huấn luyện giữa rừng xanh, trở thành chúa tể của rừng. Mowgli - Người Sói là bản dịch tiếng Việt hai quyển Sách Rừng, bám sát bản gốc, chỉ lược bỏ một số bài thơ quá dài chen giữa các câu chuyện. Bản dịch đã được đông đảo bạn đọc tán thưởng qua hai lần in năm 1987, 1988 của Nhà Xuất Bản Trẻ. Bản in lần thứ 3 này đã được dịch giả sửa chữa một số chỗ.     NXB Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc.
Những Đứa Trẻ Bị Bỏ Rơi Trong Tủ Gửi Đồ
Tên eBook: Những Đứa Trẻ Bị Bỏ Rơi Trong Tủ Gửi Đồ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Ryu Murakami  Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Nhật bản  Người dịch: Trần thị chung Toàn, Nguyễn thị hạnh Vân  Giá bìa: 88,000 VNĐ  Số trang: 519  Ngày Xuất Bản: 04-2010  Nhà Xuất Bản: NXB Lao Động   Nguồn + Tạo prc: Hoa Quân Tử - fb.com/nhut.huynhminh.129 Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com  Giới thiệu: Ryu Murakami, một trong những nhà văn nổi bật của xu hướng: Một nền văn học không ranh giới. Ông sinh năm 1952, văn tài sớm được khẳng định giữa những năm 70, qua tác phẩm "Màu xanh trong suốt", đoạt giải Akutagawa 1976. Tiếp theo là các tác phẩm "Những đứa bé bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" (1980), Khách sạn Raffles (1989)... Với tác phẩm "69", ảnh hưởng phong cách Mark Twain, ông viết về lớp trẻ trong một trường Trung học tỉnh lẻ, đã đứng lên phản đối sự hiện diện của một căn cứ quân sự Mỹ. Còn đời sống Mỹ hóa trong đô thị, chúng ta sẽ thấy rõ qua "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" (Coin Lockers Babies). "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" - đó là Kaku và Hashi, hai đứa trẻ bị mẹ chúng bỏ rơi trong ngăn cho thuê gửi đồ tạm, cũng là hai trong số rất ít ỏi còn sống sót vào thời gian đó. Sự trưởng thành của hai đứa luôn gắn với cuộc sống đầy phức tạp, biến động của nước Nhật, vào thời kỳ cuộc sống Mỹ hóa mạnh mẽ. Hai đứa trẻ luôn bị ám ảnh, tra vấn về nguồn cội, về sự tồn tại phi lý của chúng, về người mẹ nào đã đang tâm bỏ rơi chúng, bỏ chúng đến chết... và chúng chỉ may mắn vượt qua tay thần chết có khi chỉ nhờ sự đánh hơi ngẫu nhiên từ một chú chó ! Hình như một nhân vật của Nhà văn Hermann Hesse nói lời này: ''Không có Mẹ người ta không sống được, không có Mẹ người ta không chết được", có lẽ đúng với trường hợp Kaku và Hashi. Chúng lớn lên với một trái tim thương tổn, tật nguyền, từ đó cơn lốc của cuộc sống Mỹ hóa đã lôi cuốn chúng đến những tình cảnh khủng khiếp và nghiệt ngã nhất, số phận, lần nữa như chơi trò tai ác, tiếp tục ám ảnh chúng với chất Dature (một loại chất độc ảnh hưởng thần kinh, một loại thuốc gây hưng phấn lạ lùng, biến con người nhiễm nó trở thành một sinh vật mới mang hình hài con người, và muốn hủy diệt tất thảy). Và cuộc đời những "đứa con căm thù" này, thoát được tay Thần chết nhưng lại phải sống trong Địa ngục trần gian. Chỉ với một góc, bên lề Tokyo Thiên đường diễm lệ, một Khu Chợ đen nhớp nhúa, thác loạn, đã thấy thấp thoáng những tầng địa ngục đang đầy ải, bòn rút con người, từng giây phút, từng ngày, biến họ thành những hình nhân, những bóng ma ! Sẽ thật ngạc nhiên, nếu những Kaku, Hashi...còn sót lại một chút gì được gọi là ký ức tốt đẹp. Với tài năng dẫn kể lôi cuốn, cùng những quan sát tinh tế, sự am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực đời sống, Ryu Murakami đã khảm một bức tranh hết sức kỳ công, biến ảo của Địa ngục trần gian. Bức tranh có tính nhân loại. Một lời cảnh báo về sự hủy hoại nhân tính. Liệu con người có thể ngoảnh mặt, làm ngơ ? Trân trọng giới thiệu "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ", một tác phẩm văn học đặc sắc của nhà văn Ryu Murakami cùng bạn đọc.
Em sẽ đến cùng cơn mưa - Takuji Ichikawa
  AudioBook Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa   Văn học Nhật đem đến cho độc giả cảm giác bình yên, lãng mạn khi đắm mình trong những tác phẩm tinh tế, chìm trong câu chữ nhẹ nhàng nhưng đầy trầm tư, ám ảnh. Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa cũng vậy. Không nhiều màu sắc, không nhiều kịch tính, dữ dội mà chỉ với một gam màu trầm buồn, một khung cảnh ảm đạm ngày mưa, một cốt truyện nhẹ nhàng, Ichikawa Takuji đã vẽ nên được một bức tranh tình yêu tuyệt diệu. Ở tác phẩm không có sự đối lập, hoặc giả có đi chăng nữa thì cũng hết sức nhạt nhòa, chỉ có sự hài hòa được đề cao (đặc trưng của văn phong Nhật). Sự hài hòa không chỉ ở vòng xoay giữa Takumi, Mio và Yuji mà còn lan ra cả những mối quan hệ khác với thầy Nombre,và chú chó Pooh, với cả thiên nhiên cùng mùa mưa ẩm ướt. Nét u huyền phảng phất suốt tác phẩm gây cho người đọc những cảm xúc không thể diễn tả, có một cái gì đó không chắc chắn, không rõ ràng vẫn đang tồn tại đâu đó. Ta không thấy sự đau khổ đến tột cùng của Takumi khi Mio qua đời, không thấy niềm hạnh phúc mãnh liệt của anh khi bỗng nhiên nàng quay lại, ta chỉ thấy một sự nhẹ nhàng lan tỏa trong tình yêu đó - phẳng lặng nhưng tràn ngập ở khắp nơi. Vậy mới biết, tình yêu có rất nhiều cung bậc, không phải cứ cuồng nhiệt nhiều, đau đớn nhiều đã là yêu nhau nhiều, mà có khi chỉ cần nhẹ nhàng, êm dịu như tình yêu của Takumi và Mio là đã đủ chạm đến thiên đường hạnh phúc. Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa được viết với lời văn trong sáng, ngắn gọn và đôi chút ngộ nghĩnh sẽ đem đến sự thú vị và ấm áp khi “nhấm nháp” những trang sách, có thể trong một ngày mưa nhẹ nhàng. *** “Hôm nay là lần đầu tiên chúng mình gặp nhau với đôi giầy có cổ và có gót. Cũng phải nói thêm, hôm nay cũng là lần đầu tiên anh thấy em mặc chiếc váy liền màu đỏ sẫm. Lần đầu tiên anh thấy em tô son. Lần đầu tiên anh thấy mái tóc em đung đưa mỗi lần em nghiêng đầu, lần đầu tiên anh cảm thấy bồn chồn không yên khi nói chuyện với em. Tất cả đều là lần đầu tiên, đến nỗi mà khó tìm được một thứ không phải lần đầu tiên.’’ --------- "Anh cũng hiểu, tuy chỉ mang máng, rằng ngay cả giai đoạn hôn thôi cũng cần phải có thời gian. Anh không vội, hơn nữa, em là người sẽ sống cùng anh cả đời nên vẫn còn khối thời gian. Ít ra thì chúng mình đã mất ba năm mới hẹn hò nhau lần đầu, kể từ sau lần nói chuyện đầu tiên. Cho nên, muốn tiến tới được giai đoạn hôn thì cũng phải mất thêm ba năm nữa. Anh đã nghĩ vậy. Trong lần trò chuyện năm tiếng này, chúng mình đã tiến gần đến đoạn hôn nhau. (Không biết lúc hôn, cái răng khểnh của em có bị vướng không?) Anh đã nghĩ thế lúc nhìn vào môi em. Trời tối, chúng mình phải về. Giờ nhìn lại có thể nói lần hẹn hò này là bước mở đầu cho giai đoạn tiếp theo, nhưng thú thật với em là khi ấy, anh không đủ tự tin để nghĩ vậy. Nhiệm vụ trước mắt của anh là phải hẹn được em cho lần sau chứ không phải nghĩ tới chuyện hôn hay cưới em." (trích "Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa", Ichikawa Takuji, Mộc Miên dịch)   Về Tác Giả: Takuji Ichikawa sinh ngày 7 tháng 10 năm 1962 tại Tokyo. Ông tốt nghiệp trường đại học Dokkyo. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của ông, Separation, xuất bản năm 2002. Cuốn Em Sẽ Đến Cùng Cơn Mưa (xuất bản tại Nhật với tên Ima Ainiyukimasu) in lần đầu năm 2003, là một trong những tiểu thuyết thành công nhất Nhật Bản, được chuyển thể thành truyện tranh, kịch, phim truyền hình ở Nhật và điện ảnh tại Mỹ. Lời Khen Tặng Dành Cho Tác Phẩm: “Một câu chuyện tình tinh tế và ngọt ngào đến nỗi ngay cả cái chết rình rập cũng đem lại những an ủi dịu dàng.” - Le Monde “Vừa phi thực vừa chân thực, một câu chuyện ngọt dịu về sự trường tồn của tình yêu.” - Reading-reviewing.com “Hành trình khám phá, một lần nữa, về tình yêu đã mất.” - Goodreads.com “Kết hợp hài hòa giữa những điều có và không thể, một câu chuyện bình dị dành cho bất kỳ ai.” - Amazon.com Mời các bạn đón đọc Em sẽ đến cùng cơn mưa của tác giả Takuji Ichikawa.