Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Một Buổi Chiều

Uyên ngồi thu gọn trên giường, cằm chống lên cánh tay tì trên cửa sổ, nhìn trời đang mưa. Trận mưa dai dẳng kéo dài suốt hai tiếng đồng hồ vẫn chưa chịu dứt hẳn! Ý định ra phố của Uyên đành hoãn lại vì cho dù trời có quang tạnh, Uyên cũng rất ngại ngùng khi phải đặt chân xuống những vũng nước trống chẳng có thẩm mỹ tí nào. Trận mưa đầu mùa đối với Uyên thật dễ thương vì dù sao nó cũng xa vắng Uyên bẵng đi hàng mấy tháng trời. Những buổi chiều thanh thản như hôm nay, Uyên thích ngồi thu mình ở một góc giường nhìn những giọt nước mưa trắng xóa rớt đều trên mặt đường tạo thành một âm thanh nghe ray rứt, nhức buốt tim gan. Mặt đường bóng loáng như vừa được tắm gội sạch sẽ. Chỉ có từ đầu con hẻm vào đây - đoạn đường khoảng mười lăm thước - là trông bẩn thỉu, lụt lội một cách thảm hại. Người dễ tính đến đâu đi chăng nữa cũng phải bực mình. Cũng may nhà Uyên chỉ cách mặt đường có mười lăm thước. Giá mà ở tít trong cùng hẻm thì thật không còn gì khổ bằng. Tiếng lội nước bì bõm của vài người trong hẻm đi ra khiến Uyên liên tưởng đến âm thanh quái đản của một cuốn phim kinh dị mà đã có một lần Uyên được xem. Trẻ con trong xóm bắt đầu túa ra nghịch ngợm trên vũng nước đục ngầu bẩn thỉu mà Uyên vẫn thường gọi đùa la "piscine công cộng". Thế giới hồn nhiên của tuổi ấu thơ! Chúng chưa có đủ trí khôn để ý thức được rằng thế nào là vệ sinh. Mùi cống rãnh xông lên làm Uyên khó chịu. Uyên đưa tay hất nhẹ những sợi tóc phủ xòa trước mặt ra đằng sau; thật vô tình, Uyên nhìn thấy vẻ đẹp của mình trong gương chiếc tủ dựng sát tường, ngay đầu giường Uyên. Uyên nổi tiếng là đẹp nhất trường. Chức "hoa khôi" mà bạn bè đặt cho Uyên quả không ngoa chút nào. Uyên sung sướng và thầm hãnh diện mỗi khi được ai ca tụng vẻ đẹp của mình. Mái tóc cắt ngắn hợp với khuôn mặt trái xoan, đôi mắt bồ câu tròn đen láy, sống mũi cao, đôi môi xinh xắn, đỏ mịn, tất cả hợp lại tạo cho Uyên một nét đẹp tự nhiên, lộng lẫy. Có thể nói rằng Uyên là một đứa con gái sung sướng nhất, hạnh phúc nhất trên đời. Vừa đẹp, vừa học giỏi lại được sinh ra trong một gia đình khá giả. Duy chỉ có một điều khiến Uyên buồn và cảm thấy mình chưa hoàn toàn hạnh phúc đó là Uyên không có anh chị em chi cả. Bố mẹ chỉ có độc nhất một mình Uyên vì thế Uyên được chiều chuộng hết mực, muốn gì được nấy. Nhưng tất cả đối với Uyên đều trở nên vô nghĩa. Uyên không ham thích bất cứ một thứ gì ngoài một ước muốn duy nhất: Uyên cũng có đông em như tất cả những đứa bạn cùng lớp. Ước muốn thật tầm thường nhưng đối với gia đình Uyên đó là cả một vấn đề. Bố mẹ Uyên khổ tâm không ít mỗi khi Uyên nhắc đến chuyện này. Nhưng biết làm sao hơn khi số trời đã định cho gia đình Uyên như vậy. Căn nhà không lấy gì làm to tát nhưng Uyên có cảm tưởng nó rộng lớn vô cùng. Nhất là những buổi như hôm nay. Bố Uyên thì ngày nào cũng như ngày nấy, đi làm từ sáng sớm và mãi đến chiều tối mới về. Hàng ngày chỉ có hai mẹ con ở nhà, nếu buồn, Uyên lân la đến gần mẹ, gợi hết chuyện này sang chuyện khác để căn nhà bớt lặng lẽ hơn. Thỉnh thoảng có một hôm mẹ đi vắng - như hôm nay chẳng hạn - Uyên không biết làm gì hơn là ngồi ủ rũ, nghe cô đơn về vây hãm. Mẹ Uyên có việc phải về nhà bác Uyên ở Bảo lộc từ sáng sớm. Hình như hôm nay là ngày giỗ bà ngoại Uyên thì phải. Còn lại một mình ở nhà, Uyên cảm thấy buồn và lo sợ phập phồng bởi cái không khí vắng vẻ trong nhà. Uyên định khoác áo thả bộ ra phố, đi chơi cho khuây khỏa, định bụng đến giờ tan sở Uyên mới trở về. Nhưng chưa kịp thực hành ý định thì trời đổ mưa như trút nước, Uyên đành ngồi bó gối trên giường nhìn trời vu vơ. Trời tạnh hẳn sau một trận mưa dài gần ba tiếng. Uyên nhìn đồng hồ: đã bốn giờ hơn. Thế là sắp hết một buổi chiều. Uyên uể oải đứng dậy, quơ chân tìm đôi dép dưới gầm giường, bước xuống nhà. Uyên đứng ở chân thang gác, phân vân không biết phải làm gì để giết nốt thì giờ còn lại. Cuối cùng Uyên bước trở ra phòng khách, ôm cây đàn guitar vào lòng, vừa đàn vừa hát những bản nhạc sinh hoạt của phong trào du ca. "Hy vọng đã vươn lên.trong màn đêm." Tiếng hát của Uyên hòa nhịp với tiếng đàn thật hùng hồn, lôi cuốn như đang thúc bách mọi người cùng vùng dậy khai phá, xây dựng lại quê hương đổ nát, điêu tàn. Uyên hát thật hăng say như chính Uyên đang châm những ngọn lửa soi đường trong lòng dân chúng. Uyên hát quên mệt như chính Uyên đang tham dự công tác của đoàn thanh niên sinh viên học sinh Nguồn sống. Trẻ con trong xóm nghe Uyên hát, ngưng đùa nghịch, bu quanh cửa sổ cất tiếng hát theo. Uyên vui lây với cái không khí nhộn nhịp bất ngờ đó. Tiếng đàn vừa dứt cùng lúc có tiếng gõ cửa, Uyên hỏi vọng ra: - Ai đó? - Ngy đây! Nghe tiếng đáp, Uyên mừng quýnh, quăng vội cây đàn trên lòng salon, chạy ra mở cửa cho Ngy. - Hèn gì trời mưa to! Ngy ngạc nhiên: - Hử? Uyên cười: - Hôm nay mày đến nhà tao thành thử trời mưa to quá. Ngy đập vào vai bạn: - Con quỉ! Làm gì mà nhộn thế? - Buồn quá lôi đàn ra gãy chơi!… Vào nhà đã nào. Ngy theo Uyên bước vào: - Tao tưởng mày đang sinh hoạt chứ! Uyên thu dọn báo chí trên bàn: - Ừ mà cũng đang sinh hoạt thật. - Sinh hoạt với ai? - Lũ trẻ con trong xóm. Ngy mỉm cười, ngó dáo dác: - Bác gái đâu rồi? - Mẹ tao có việc về Bảo lộc từ sáng sớm. - Hèn gì mà nhà cửa vắng quá. - Tao "hãi" nhất cái không khí này. Định đi chơi thì trời mưa. - Cũng may! - May cái gì? - Nhờ trời mưa to tao mới gặp mày! Cả hai cùng cười. Ngy là bạn cùng lớp thân nhất của Uyên. Bạn bè gọi Ngy là "cây gạo" vì Ngy rất siêng học, ít đi chơi; khi nào có việc gì cần lắm mới thấy Ngy xách xe ra đường. Trong lớp Ngy, Uyên và Diễm Hương là ba đứa học trò giỏi nhất nên được thầy cô cưng không thể tưởng. Chỉ còn không đầy một tháng nữa là đến hè. Năm nay không phải là năm thi nên trông các cô có vẻ thảnh thơi chứ không bận rộn, hồi hộp như các đàn chị. Sang năm Ngy và Uyên thi Tú Tài I nên cả hai đang dự định xin phép gia đình cho đi chơi một chuyến thật xa trong dịp hè này cho thỏa chí. Mùa hè này là cơ hội đi chơi lần cuối đối với Uyên vì kể từ năm tới, cả hai sẽ thi cử liên miên, không có năm nào là năm không phải thi cả. Uyên đang dự định rủ Ngy lên Đà lạt vì thành phố này vẫn có tiếng là đẹp, mộng mơ và là nơi dừng chân lý tưởng nhất của du khách. Thành phố Đà lạt không có gì xa lạ đối với Uyên nhưng Uyên vẫn thích đặt chân đến vì Uyên yêu nó kinh khủng và hình như nó có một sức lôi cuốn Uyên mà Uyên không thể cưỡng lại được. - Nghĩ gì đấy Uyên? - Tao đang nghĩ đến thành phố Đà lạt. - Mày sốt ruột lắm hả? - Ừ! Ba tuần nữa đâu có là bao mày nhỉ! - Thoáng cái đến ngay. - Mày xin phép hai bác chưa? - Rồi!… Mày định bao giờ đỉ - Khoảng đầu tháng bảy. - Lãnh thưởng xong chuẩn bị đi liền? - Ừ! À mà Ngy này! Mày nhắc tao mới nhớ. Hôm nào phát thưởng? - Mười tám tháng sáu. - Chắc chắn không? - Chắc! - Ai bảo mày thế? - Cô Nguyệt. - Mày đến nhà cô Nguyệt? - Ừ! - Có xem điểm cho tao không? - Khỏi nói. Tao đến cộng điểm dùm cô mà! Uyên nôn nóng: - Toàn niên tao hạng mấy? Ngy trêu Uyên: - Từ từ! Đi đâu mà gấp vậy? Uyên nhăn nhó: - Con quỉ! Nói mau đi. Tao đang hồi hộp gần chết đây này. Ngy hắng giọng: - Khoan! Tao chưa nói vì mày chưa làm tròn bổn phận. Uyên cáu sườn hỏi gắt: - Bổn phận gì? - Bổn phận tiếp khách. Uyên suy nghĩ khoảng nửa phút: - À, ừ quên mất! Xin lỗi nghe! Nói xong Uyên chạy vào nhà pha nước, một lát sau Uyên trở ra với hai ly sirop cam trên tay. Uyên hỏi: - Mãi nói chuyện tao quên mất. Mày đến tao có việc gì không? Ngy cầm thìa khoắng ly nước: - Thiện chí! Uyên chăm chú: - Nói đi! - Ở nhà cô Nguyệt về, ghé qua mày báo tin vui. - Tin gì? - Năm nay tao với mày lại đồng hạng. Uyên mừng quá, vỗ tay đôm đốp: - Hạng nhất hả? - Ừ! Uyên nhìn Ngy, ánh mắt thật vui: - Tao vui quá Ngy ơi! Ngy đáp: - Tao cũng vậy! Điều mà Uyên vẫn hằng trông đợi đã đến như ý muốn của Uyên. Nếu kết quả không đúng như lời Ngy nói thì không còn gì để mà buồn hơn. Chẳng những một mình Uyên buồn mà cả bố mẹ cũng buồn không ít, vì từ lâu bố mẹ vẫn hằng mong muốn Uyên phải là một đứa học trò giỏi nhất lớp, không thua một ai cả. Có những tháng Uyên đứng thứ hai - sau Ngy - đem phiếu điểm về trình bố mẹ ký, Uyên buồn và lo kinh khủng! Nhưng bố không mắng Uyên và cũng chẳng tỏ vẻ buồn phiền gì mà bố chỉ khuyến khích Uyên tháng sau nên cố gắng hơn tí nữa thôi. Những lần như vậy Uyên buồn lắm nhưng biết sao hơn khi sức học của Uyên chỉ đến ngần ấy trong khi Ngy cũng là một học trò xuất sắc, thông minh không kém gì Uyên. Tuy vậy, chưa bao giờ Uyên và Ngy tỏ vẻ ganh ghét lẫn nhau. Những tháng Uyên đứng nhất, Ngy cũng buồn vô cùng nhưng không phải vì thế mà tình bạn hai đứa sứt mẻ. Uyên có cảm tưởng hình như có đôi lúc Uyên đã nhường Ngy và ngược lại Ngy cũng vậy. Trong lớp, ai cũng nghĩ rằng Uyên và Ngy chỉ đối với nhau bằng một tình bạn giả tạo ngoài mặt chứ thật ra trong lòng cả hai đang ganh ghét lẫn nhau. Uyên cũng không buồn lên tiếng cãi chính bởi vì có nói chắc cũng chẳng ai tin, cứ im lặng là hơn hết. Chính Ngy cũng đã có lần nói cho Uyên nghe như vậy và cả hai tự nhủ "ai muốn nói gì thì nói, miễn mình đối xử với nhau thành thật và thương mến nhau thật lòng thì thôi". Chuông đồng hồ điểm sáu tiếng. Ngy uống cạn ly nước, đứng dậy: - Thôi! Tao về. Uyên giữ bạn: - Ở chơi tí nữa đã. - Không được! Tao xin phép mẹ tao đi đến 6:15 thôi. - Bây giờ mới có 6:00 giờ. - Ừ! Mới có 6 giờ! Mười lăm phút từ đây về nhà là vừa đúng. - Con khỉ! Uyên tiễn bạn ra cửa. Ngy đùa: - Trời mưa đến nhà mày tao có cảm tưởng như là đi vào con đường lên "thiên thai". Uyên cười: - Ừ! Chỉ có mỗi con hẻm là kém thẩm mỹ. Ngy tiếp: - Người đẹp thường hay ngự trị ở những xóm bùn lầy nước đọng như thế này. Uyên bẽn lẽn: - Tao mà đẹp khỉ gì? Ngy nguýt: - Thôi đi cô. Ngy đạp máy xe, trước khi đi còn quay lại nói một câu: - Mai nhớ cài thêm cái nơ trên đầu cho nó nổi nghe. - Để làm gì vậy? - Lãnh bảng danh dự mà! Uyên cười, nhìn theo bóng bạn cho đến khi chiếc xe mất hút ngoài đường cái. Sau khi khóa cửa cẩn thận, Uyên quay vào thu dọn ly tách và xuống bếp lo cơm nước buổi chiều. Hôm nay chỉ có hai bố con ở nhà, bố đề nghị dắt Uyên vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu nhưng Uyên từ chối vì Uyên muốn chính tay Uyên nấu cho bố ăn. Uyên để ý thấy bố thích ăn món canh chua cá lóc; vì thế hôm nay Uyên nhất định trổ tài nấu món này thật ngon để bố khen Uyên rối rít mới được. Lúi húi dưới bếp đến gần nửa tiếng, Uyên mới làm xong món cá, sau khi đặt nồi canh lên bếp, Uyên rửa tay sạch sẽ và bước trở lên nhà. Nhìn đồng hồ, Uyên giật mình thầm hỏi: "Sao hôm nay bố lại về trễ vậy kìa?" Thường thì mọi hôm bố về khoảng 6:20, hôm nào trễ lắm là 6:25. Bây giờ gần 7 giờ rồi mà vẫn chưa thấy bố về! "Hay là có chuyện gì?" Uyên vội vàng xua đuổi những ý nghĩ không hay ra khỏi đầu và mở TV xem để quên đi những nỗi lo sợ đang ám ảnh Uyên. Thời gian vẫn nặng nề trôi. Kim đồng hồ càng di chuyển thì nỗi lo sợ càng đến với Uyên thật dồn dập. Nóng lòng không chịu được, Uyên tắt TV ra đứng tựa cửa ngóng bố. Uyên sống trong sự hồi hộp đó đến hai mươi phút mới thấy bóng bố xuất hiện ở đầu hẻm. Uyên mừng muốn khóc nhưng niềm vui chợt tắt khi Uyên thấy khuôn mặt bố buồn thật buồn và Uyên linh cảm hình như có chuyện gì không may đến với bố. Trống ngực Uyên đập thình thịch, bố nhìn Uyên, Uyên nhìn bố. Tự dưng Uyên câm nín, không thể nói hoặc hỏi bố được một lời. Bố dìu Uyên vào nhà, đặt Uyên ngồi trong lòng salon rồi bố ngồi xuống cạnh Uyên. Bố vẫn lặng thinh, ôm đầu Uyên áp vào ngực bố; nước mắt Uyên ứa ra, không hiểu Uyên khóc vì lo sợ hay khóc vì sung sướng khi được bố vuốt ve, thương yêu!? Mãi đến mấy phút sau, Uyên mới mở miệng hỏi bố được một câu: - Có chuyện gì vậy bố? Bố không trả lời câu hỏi của Uyên mà bố chỉ kêu lên: - Con! Uyên giật mình, đôi mắt mở tròn nhìn bố: - Bố! Chuyện gì vậy bố? Sao bố buồn vậy bố? Uyên nhìn thấy đôi mắt bố đỏ ngầu như sắp khóc. Phải nuốt nước bọt đến đôi ba lần, bố mới nói lên tiếng, giọng nghẹn ngào: - Mẹ con, chết rồi! - Mẹ!? Uyên chỉ kịp hét lên một tiếng ngắn ngủi rồi ngất đi trong lòng bố. Mời các bạn đón đọc Từ Một Buổi Chiều của tác giả Nguyễn Sỹ Nguyên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Lược Sử Cái Chết
Rất nhiều xã hội Phi châu quan niệm rằng có ba thế giới: thế giới của những người còn sống trên mặt đất, thế giới của những người-chết-đang-sống và thế giới của những người chết. Nhiều người, sau khi lìa trần, vẫn chưa hoàn toàn chết vì họ vẫn sống trong ký ức của những người đang sống - họ có thể được tái tạo trong nghệ thuật, được nhắc đến trong các câu chuyện kể, hoặc đơn giản là sống trong tâm trí của một người nào đó. Sau khi người cuối cùng biết về người-chết-đang-sống đó chết đi, họ trở thành những người chết thực sự. Tất nhiên, sẽ có rất nhiều người chết vẫn còn lưu danh lại, nhưng họ cũng không còn là người-chết-đang-sống nữa. Lược sử cái chết là một câu chuyện huyễn tưởng không chỉ gây băn khoăn về ngày tận thế mà còn đặt ra những vẫn đề rất thực và những suy ngẫm rất sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ... - "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. - "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. - "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại" - Tucson Citizen. - "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong lịch sử cái chết, Brokmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Beacon Journal. - "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Pbserver. "Lung linh huyền ảo... Đánh động tâm thức." - The Seatle Times "Brockmeier có văn phong gây ấn tượng sâu sắc, cốt truyện vô cùng độc đáo, các mẩu chuyện trong sách có sức ám ảnh kéo dài phải đến nhiều tuần sau khi đọc xong tác phẩm." - Lexington Herald - Leader (Kentucky) "Một tác phẩm văn chương ngập tràn tưởng tượng... Hãy tưởng tượng một thành phố của những người đã chết. Hãy tưởng tượng một nhà khoa học còn sống bị mắc kẹt lại một mình ở Nam Cực và nhận ra cô có thể là một trong số ít những người còn sót lại trên Trái Đất sau một trận đại dịch. Và rồi hãy tưởng tượng một tiểu thuyết gia đủ sắc sảo để có thể xây một chiếc cầu nối hai thực tại hư cấu khó tưởng đó." - Newsweek "Một cuốn sách khiến ta không thể dừng mở trang kế tiếp" - Rocky Mountain News. "(Brockmeier) không gì hơn là một nhiệt thành thiết tha sống, và những sáng tác tuyệt diệu của ông, những trang sách đầy yêu thương và đáng được yêu thương, là một nguồn năng lượng sống dồi dào đáng kinh ngạc trong một thế giới mệt mỏi và dễ làm con người ta mệt mỏi." - Chicago Tribune "Một tiểu thuyết ly kỳ được viết với một trái tim giàu lòng nhân ái" - O, The Oprah Magazine. "Một tiểu thuyết đầy sức mê hoặc và gợi nhiều suy nghĩ về ký ức của con người, về sự giao thoa giữa những tâm hồn, về cuộc sống sau khi chết, và về hiện tại."  - Tucson Citizen. "Có sức lay động mạnh... Ngay từ chương đầu, cuốn tiểu thuyết đã tạo ra một sức thu hút khác lạ, và chắc chắn nó sẽ còn đọng lại trong lòng độc giả sau khi trang sách cuối cùng khép lại. Là một câu chuyện ngụ ngôn, một câu chuyện cổ, một câu chuyện thần thoại đương đại... Trong Lược sử cái chết, Brockmeier đã đưa ra một cái nhìn giả thuyết về kết thúc của nhân loại... Nếu sự vĩnh hằng tồn tại, thì đây chính là một định nghĩa sắc nét cho thời đại của chúng ta"... - Akron Beacon Journal. "Rất ấn tượng... Không ai có thể tung hứng với lối xử lý tình tiết hài hước, mang đầy tính triết lý và lại gây suy nghĩ như Brockmeier." - The Plain Dealer "Đầy sáng tạo... Lôi cuốn... Trữ tình." - Newsday "Điều đáng sợ về câu chuyện của Brockmeier là tính thuyết phục như thật của tác phẩm. Giống Borges, nhưng thật hơn." - Los Angeles Times Book Review "Không chỉ là một câu chuyện gây băn khoăn về tận cùng của thế giới. Đó là một sự suy ngẫm sâu sắc về sự tồn tại của chúng ta, về sự giao thoa giữa tâm hồn ta với những bản thể khác và với toàn vũ trụ. Với bối cảnh viễn tưởng ly kỳ và các nhân vật đa diện, Lược sử cái chết không tuân theo các thể văn truyền thống. Tác giả đã rất khôn ngoan "đứng cả hai dòng nước", một bên là dòng tiểu thuyết khoa học giả tưởng và một bên là các truyền thống văn học để tạo nên một tác phẩm độc nhất vô nhị - đầy ám ảnh, gây xáo trộn, và thú vị về mọi mặt." - The Charlotte Observer. "Đầy mê hoặc... Rất lôi cuốn." - USA Today "Kỳ lạ và gần gũi.... Chính không khí truyện và nỗi lòng tha thiết, chân thành mà không phô trương ồn ã của Brockmeier... đã khiến Lược sử cái chết có sức mê hoặc như vậy... Một tác phẩm đẹp, chứa đựng nhiều khám phá." - Salon             Kevin Brockmeier là tác giả của cuốn Sự thật về Celia, Những thứ rơi từ trời, và hai tiểu thuyết cho thiếu nhi là Thành phố của những cái tên và Grooves: Một điều bí mật. Các sáng tác của ông đã xuất hiện trong nhiều ấn phẩm, như: The New Yorker, McSweeney’s, The Georgia Review, Tuyển tập truyện ngắn hay nhất của nước Mỹ, Các tiểu thuyết kinh dị và viễn tưởng hay nhất của năm… và nhiều số phát hành của Hợp tuyển các tác phẩm được trao giải O.Henry. Ông đã được trao tặng Giải thưởng Nelson Algren, Giải thưởng Italo Calvino cho tiểu thuyết ngắn, Học bổng James Michener – Paul Engle, ba lần được trao tặng Giải thưởng O.Henry – một trong số đó là một giải nhất – và Học bổng Tài trợ Nghiên cứu sinh Quốc gia về Nghệ thuật. Ông đã giảng dạy tại Hội thảo Nhà văn bang Iowa và sinh sống tại Little Rock, Arkansas. *** Khi người mù vào đến thành phố, lão kể đã vượt qua một sa mạc cát lún. Lúc đấy ta đã chết, lão kể, nhưng rồi “tách!”, sa mạc lại hiện ra. Lão kể cho bất cứ ai sẵn lòng nghe trong khi đầu gật gù theo tiếng bước chân người qua lại. Những hạt sạn đỏ hung li ti rơi xuống từ bộ râu cằm. Lão kể: Sa mạc hoang vu và cô độc. Nó hướng về lão, rít lên như một con rắn. Lão đã đi bộ ròng rã suốt ngày này qua ngày khác cho đến khi những đụn cát lở ra dưới chân, cồn lên vây lấy lão, đập vào mặt lão. Rồi, mọi thứ đột nhiên trở nên im bặt, và bắt đầu có tiếng đập nhè nhẹ như nhịp tim. Âm thanh đó rất rõ ràng, y hệt nhịp tim trước giờ lão vẫn biết. Chỉ đến lúc đó, lão kể, vào cái khoảnh khắc một triệu hạt cát sắc lẻm như những mũi tên đồng loạt tấn công, lão mới thật sự nhận ra mình đã chết. Jim Singer, chủ cửa hàng sandwich ở khu đài tưởng niệm, kể rằng bác có cảm giác như có kiến bò trên các ngón tay, rồi, bác ngừng thở. “Đó là do tim tôi có vấn đề - bác nhấn giọng trong khi ấn ngón tay cái vào ngực – nên tôi mới nằm liệt giường như vậy.” Tay đã xuôi, mắt đã nhắm, rồi đột nhiên bác mở mắt ra, thấy mình đang ở trên một chiếc tàu lửa, loại tàu chuyên chở trẻ con chạy quanh khu giải trí. Đường ray dẫn đến một khu rừng rậm toàn những cây màu vàng nâu. Hóa ra đó là những con hươu cao cổ, những chiếc cổ dài ngoẳng vươn lên trời như những thân cây. Một ngọn gió nổi lên thổi bay các đốm lông màu trên lưng những con hươu. Những đốm màu lả tả rơi xuống, lửng lơ xung quanh bác, xoay mòng mòng rồi rơi xuống chạm vào đường bánh xe do con tàu để lại. Phải mất một lúc bác mới hiểu ra âm thanh bác nghe thấy không phải là tiếng bánh xe nghiến vào đường sắt. Cô gái hay thích đứng dưới cây dương trong công viên kể: Cô đã chết trong một biển màu sắc các trái sơ ri khô. Nước giúp em nổi được một lúc, cô nói, rồi em nằm ngửa, xoay tròn trong những vòng tròn vô nghĩa và hát đoạn điệp khúc của tất cả những bài hát pop em có thể nhớ ra. Rồi đột nhiên, một tiếng sấm vang lên. Các đám mây mở ra, những ổ bi bắt đầu trút ào xuống xung quanh – phải có đến hàng ngàn hàng vạn ổ. Em cố hết sức nuốt chửng các viên bi nhưng những cành cây dương gãy rơi xuống làm em mắc nghẹn, cô kể. Bị nhồi đầy như một chiếc bao tải, cô từ từ chìm xuống xuyên qua các tầng đại dương. Nhiều đàn cá bơi ngang qua, những chiếc vảy xanh biếc, vàng óng là những điểm sáng rực rỡ duy nhất ánh lên trong làn nước. Rồi cô nghe thấy âm thanh đấy ở mọi nơi xung quanh, âm thanh đó, âm thanh mà những người khác đều nghe thấy, nhịp đập đều đặn của một trái tim khổng lồ. Những câu chuyện được kể lại về khoảnh khắc vượt qua giao lộ sống-chết rất khác nhau, cũng như mười tỉ người trên thế giới này không ai sống một cuộc sống giống ai khác. Chỉ có điều khi kể về cái chết của mình, người ta có khuynh hướng miêu tả chi tiết hơn, tường tận hơn. Rốt cuộc, đâu có bao nhiêu cách: nếu không phải do trái tim thì cái đầu của một người mang người ta vào cõi chết, không ai giống ai. Lev Paley kể lúc đó anh ngồi nhìn các phân tử của mình phân rã ra thành từng mẩu li ti như cẩm thạch, lăn khắp vũ trụ, rồi sau đó bỗng chốc quay trở lại dính lấy nhau. Hanbing Li kể anh thức dậy, thấy mình là một con rệp sống suốt đời trong một trái lê. Graciella Cavazos chỉ kể đoạn cô bắt đầu biến thành tuyết và khi người ta đòi biết chi tiết hơn, Graciella chỉ bẽn lẽn cười. Không bao giờ có hai câu chuyện giống nhau. Tuy vậy, ai cũng kể về một âm thanh giống như tiếng sấm. Một số khăng khăng khẳng định âm thanh đó không bao giờ ngừng, nếu anh tập trung chú ý không rời tai khỏi nó, anh luôn nghe thấy nó lẩn khuất mơ mồ sau mọi tiếng ồn trong thành phố - đằng sau tiếng còi, tiếng phanh xe, tiếng chuông nhà hàng, tiếng lộp cộp của hàng trăm loại gót giày khác nhau bước trên đường phố. Nhiều người tụ tập cùng nhau trong công viên hay trên tầng thượng các tòa nhà cao tầng để lắng nghe. Họ ngồi lặng lẽ, lưng quay vào nhau. Ba-đum. Ba-đum. Ba-đum. Cảm giác giống như cố gắng nhìn theo bóng chim bay lên, nhòa đi và mờ dần thành một chấm nhỏ. Luka Sims đã tìm thấy một chiếc máy roneo ngay tuần đầu tiên anh đến sống ở thành phố và quyết định sẽ sử dụng nó để in tạp chí. Mỗi buổi sáng, anh đứng bên ngoài tiệm cà phê Đường Bờ Sông để phát các bản in tự chế. Có lần tờ Tin tức & Nghiên cứu L. Sims của anh, hay Báo Sims như mọi người vẫn gọi, có bàn về thứ âm thanh này. Không đến hai mươi phần trăm những thứ được Luka phỏng vấn cho biết sau khi chết, họ vẫn có thể nghe thấy nó, nhưng hầu như tất cả thảy mọi người đều đồng ý: nó nghe giống như tiếng tim đập hơn là bất cứ âm thanh nào khác. Vậy vấn đề là: nó từ đâu đến? Không thể là nhịp đập của chính trái tim họ. Vì tim họ không đập nửa. Mahmoud Qassim thì tin rằng đó không phải là âm thanh của trái tim lão đập mà có thể là âm thanh còn lưu lại trong ký ức, âm thanh mà dù không thật sự để ý lão cũng đã nghe trong suốt một thời gian dài nên âm hưởng của nó vẫn còn lưu lại trong tai lão. Người phụ nữ bán vòng tay bên bờ sông lại nói đó là nhịp đập từ tâm quả đất, cái nơi chói lóa, sục sôi chị đã vượt qua trên đường vào thành phố. Riêng bản thân người viết”, bài báo kết luận, “tán thành ý kiến của đa số. Mời các bạn đón đọc Lược Sử Cái Chết của tác giả Kevin Brockmeier & Mai Huyền Chi.
Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố
Curzio Malaparte (1898-1957) là nhà văn và phóng viên chiến trường người Ý. Trong cuốn “tiểu thuyết” viết tặng các sơn binh Pháp và Ý ngã gục trên dãy núi Alpes vào tháng 6.1940 này, tất cả đều đúng sự thật: thời gian, con người, sự kiện, cảm xúc, không gian. Khi đó tác giả đang làm đại úy trong một trung đoàn trên đỉnh Bạch Sơn (Mont Blanc), quyển “Mặt trời mù” đã ra đời và được đăng thành nhiều kỳ trên tạp chí Thời đại. Curzio Malaparte tên thật là Curt Erich Suckert sinh ngày 9/6/1898 ở Prato, Tuscane Ý. Mất ngày 19/7/1957 tại Rome. Ông là một nhà văn, nhà làm phim, nhà báo, phóng viên chiến trường và còn là nhà ngoại giao. Trong tổng số hơn 35 tác phẩm, cuốn Kaputt và La Pelle là hai tác phẩm lớn được biết đến nhiều nhất tại Châu Âu. Curzio Malaparte vốn dấn thân vào con đường binh nghiệp từ rất sớm, ông đã phải chứng kiến hàng loạt thảm cảnh của Thế chiến 2 ngay từ những buổi đầu. Chính cái nhì chân xác của người trong cuộc kết hopwj với ngòi bút tuyệt kỹ của một cây viết gạo cội đã làm nên một trong những tiểu thuyết ấn tượng bậc nhất của văn chương Ý... Chiến tranh là chết chóc. Đứng trước cái chết là lúc con người ta bộc lộ bản thân mình rõ rệt nhất. Những con người trong quyển sách này coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chiến tranh vì thế lại hiện ra với cảnh núi non hùng vĩ, những bãi đồng xanh lục tốt tươi, những bông hoa violet, những mẫu đơn màu huyết, giọng thác lách dưới cành cây… Thiên nhiên tráng lệ và khổng lồ như đang làm dịu đi cái chết chực chờ, khỏa lấp tiếng bom đạn, mở rộng tâm hồn con người. Trước cảnh đẹp, người nào lại không muốn được ngồi xuống, gối đầu trên bãi cỏ và im lặng lắng nghe tiếng chim hót, người nào lại không khao khát hòa bình để trở về với gia đình? Với viên đại úy, hình ảnh cậu sơn binh ngồi trên chiếc ghế với hình bóng lờ mờ, nét rắn rỏi trong khuôn mặt nhỏ nhắn và thơ trẻ cùng tiếng chiếc lạc bò êm trầm, là tất cả những gì bình yên mà anh luôn khao khát nơi chiến trường khốc liệt. Calusia gợi nên trong lòng viên đại úy cảm giác con người – hồn nhiên, thân thiện, trẻ thơ, an yên. Theo dõi và quan sát những hoạt động của Calusia như là một niềm vui giản đơn, một phút thư giãn thanh bình. Tiếng lòng của viên đại úy đồng thời là hàng triệu tiếng kêu gào trong chiến tranh, dùng một sự điên loạn để lên án chiến tranh đã tổn thương và hủy hoại hoàn toà Mời các bạn đón đọc Thượng Đế Đã Chết Trong Thành Phố của tác giả Curzio Malaparte.
Mặt Trời Mù
Giữa dãy Alpes, cơn ác mộng bắt đầu, những sĩ quan Ý ra lệnh cho đám sơn binh chất phác xung kích dưới làn đạn pháo. Trong số các sĩ quan đó, vì cảm tình và thương xót, có một viên đại úy luôn dõi theo một cậu sơn binh chăn bò luôn đeo chiếc lạc bò trên cổ. Cậu sơn binh đó đã bị giết chết, như hàng trăm con vật, hàng trăm con người lúc tươi vui lúc lầm lũi trên các đỉnh Bạch Sơn (Mont Blanc) phủ tuyết. Còn đại úy, cảm thấy có trách nhiệm trong cái chết của cậu bé, đã phát điên... Ở nơi trận mạc máu tuôn lệ đổ, nơi chỉ có vầng mặt trời mù soi chiếu, sự điên loạn hay mất trí đôi khi chính là những tiếng kêu thét không thành tiếng của lương tri con người. Curzio Malaparte vốn dấn thân vào con đường binh nghiệp từ rất sớm, ông đã phải chứng kiến hàng loạt thảm cảnh của Thế chiến 2 ngay từ những buổi đầu. Chính cái nhì chân xác của người trong cuộc kết hopwj với ngòi bút tuyệt kỹ của một cây viết gạo cội đã làm nên một trong những tiểu thuyết ấn tượng bậc nhất của văn chương Ý... *** Curzio Malaparte (1898-1957) là nhà văn và phóng viên chiến trường người Ý. Trong cuốn “tiểu thuyết” viết tặng các sơn binh Pháp và Ý ngã gục trên dãy núi Alpes vào tháng 6.1940 này, tất cả đều đúng sự thật: thời gian, con người, sự kiện, cảm xúc, không gian. Khi đó tác giả đang làm đại úy trong một trung đoàn trên đỉnh Bạch Sơn (Mont Blanc), quyển “Mặt trời mù” đã ra đời và được đăng thành nhiều kỳ trên tạp chí Thời đại. “Mặt trời mù” là một quyển sách mỏng nhưng nặng nề, giống như tâm tư người lính chiến trận. Cái chết chỉ là gang tấc, không ai biết được giây tiếp theo mình có còn sống không. Nhân vật chính là một đại úy dành sự quan sát đặc biệt cho một cậu sơn binh luôn đeo chiếc lạc bò trên cổ tên Calusia. Chứng kiến cậu bị giết chết ngay trước mặt, đại úy cho rằng mình đã giết chết cậu, phát điên không ngừng hồi tưởng lại những ký ức về Calusia và liên tục gào thét gọi tên cậu. Chiến tranh là chết chóc. Đứng trước cái chết là lúc con người ta bộc lộ bản thân mình rõ rệt nhất. Những con người trong quyển sách này coi cái chết nhẹ tựa lông hồng, chiến tranh vì thế lại hiện ra với cảnh núi non hùng vĩ, những bãi đồng xanh lục tốt tươi, những bông hoa violet, những mẫu đơn màu huyết, giọng thác lách dưới cành cây… Thiên nhiên tráng lệ và khổng lồ như đang làm dịu đi cái chết chực chờ, khỏa lấp tiếng bom đạn, mở rộng tâm hồn con người. Trước cảnh đẹp, người nào lại không muốn được ngồi xuống, gối đầu trên bãi cỏ và im lặng lắng nghe tiếng chim hót, người nào lại không khao khát hòa bình để trở về với gia đình? Với viên đại úy, hình ảnh cậu sơn binh ngồi trên chiếc ghế với hình bóng lờ mờ, nét rắn rỏi trong khuôn mặt nhỏ nhắn và thơ trẻ cùng tiếng chiếc lạc bò êm trầm, là tất cả những gì bình yên mà anh luôn khao khát nơi chiến trường khốc liệt. Calusia gợi nên trong lòng viên đại úy cảm giác con người – hồn nhiên, thân thiện, trẻ thơ, an yên. Theo dõi và quan sát những hoạt động của Calusia như là một niềm vui giản đơn, một phút thư giãn thanh bình. Tiếng lòng của viên đại úy đồng thời là hàng triệu tiếng kêu gào trong chiến tranh, dùng một sự điên loạn để lên án chiến tranh đã tổn thương và hủy hoại hoàn toàn cuộc sống con người. Sau cùng, chỉ còn lại vầng mặt trời lạnh lẽo vẫn dửng dưng soi bóng, lãnh đạm và đui mù trước bao nỗi thống khổ của con người. Mời các bạn đón đọc Mặt Trời Mù của tác giả Curzio Malaparte.
Ánh Sao Lấp Lánh
Ông Tuấn bảo tất cả người nhà phải chuẩn bị chu đáo cho bữa cơm chiều nay. Hôm nay, ông khó khăn lắm mới mời được Vỹ Khang đến nhà, mục đích của ông là muốn giới thiệu cô con gái của mình cho anh. Nếu thành công, công ty của ông sẽ thoát được khó khăn và ông tin con gái mình đủ khả năng để làm mềm trái tim của người đàn ông sắt đá này. Buổi chiều, Vỹ Khang đến cùng trợ lý của mình, ông Tuấn thoáng thất vọng khi ông chỉ muốn Khang đến một mình để buổi tiệc có phần thân mật hơn. Nghĩ thế, nhưng ông vẫn tươi cười bắt tay anh: - Cảm ơn cậu đã đến! Tôi đã bảo người nhà chuẩn bị cơm, coi như cảm ơn cậu đã giúp đỡ tôi thời gian qua. Vỹ Khang khẽ cười không nói gì. Khi cả ba ngồi xuống phòng khách thì Hiểu Ngọc đã xuống đến bậc thang cuối, cô cười thật đẹp. Ông Tuấn nhìn con thầm hài lòng. - Ngọc! Con lại chào anh Khang và anh Nguyên đi. Hiểu Ngọc thật quyến rũ trong bồ đồ mặc nhà, cô duyên dáng gật đầu chào rồi xin phép ra phía sau. Ông Tuấn thầm quan sát nét mặt của Khang. Đôi mắt ông thoáng thất vọng, khi vẫn là khuôn mặt lạnh lùng cố hữu. Ông nói như vô tình: - Nó đang học năm cuối khoa Quản trị. Rất ngoan và học giỏi nên tôi rất yên tâm. Nguyên mỉm cười: - Tôi có biết Hiểu Ngọc, cô ấy rất nổi tiếng. Vừa là hoa khôi của trường lại là sinh viên xuất sắc. Ông Tuấn cười thật tươi không giấu được vẻ hãnh diện về con gái mình, ông nói khiêm tốn: - Tôi chỉ mong nó ra trường phụ tôi một tay. Nó còn khờ lắm, chưa biết gì về cách làm ăn bên ngoài cả. Cả ba nói chuyện một lúc thì Hiểu Ngọc bước ra, cô lễ phép mời mọi người vào dùng cơm. Ngọc ngồi đối diện với Vỹ Khang, cử chỉ hiền ngoan đến mềm lòng. Hình như suốt bữa ăn, chỉ có Nguyên là gợi chuyện với Ngọc, cô thoáng thất vọng nhưng cũng lịch sự đáp lại Nguyên. - Anh Khang chắc khó lắm nhỉ? Vỹ Khang khẽ nhướng mày như hỏi nhưng không nói gì. Ngọc mỉm cười: - Em chỉ nói theo cảm nhận của mình. Em nói có đúng không? Nguyên khẽ cười nhún vai: - Rất chính xác. Vỹ Khang hớp một ngụm rượu rồi nhìn Ngọc, cái nhìn thẳng thắn lần đầu tiên kể từ lúc gặp cô đến giờ. Như một luồng điện chạy khắp người cô, Hiểu Ngọc chớp mắt bối rối. Cùng lúc đó bà vú từ nhà sau mang lên một mâm cơm nhỏ trên tay. Bà Tuấn chặn lại: - Nhớ pha cho con bé ly sữa, hôm qua nó không ăn gì nhiều. - Dạ. Nói rồi bà vú đi thẳng lên phòng khách để lên lầu. Bà Tuấn quay lại, thấy cái nhìn của Nguyên, bà khẽ cười: - Con bé là em của Ngọc, nó bị bệnh nên không thể xuống. Chỉ một câu giải thích rồi chấm dứt, mọi người cũng không bận tâm. Lúc sau thì bà vú hớt hải chạy xuống: - Con Hân nóng quá, hình như là sốt rất cao. Bà Tuấn đứng bật dậy: - Để tôi xem. Tất cả đều ra phòng khách, ông Tuấn cũng không giấu được vẻ lo lắng khi gọi điện cho bác sĩ. Vỹ Khang và Nguyên đều trầm ngâm nhìn. Lúc sau bà Tuấn đi xuống: - Không hiểu sao nó bị bệnh như thế. Nó đâu có đi ra ngoài. Bác sĩ đến nhưng ông đề nghị phải đưa vào bệnh viện. Cả nhà lo lắng lên phòng của Hiểu Hân. Ông Tuấn ái ngại nhìn Vỹ Khang: - Xin lỗi cậu... Vỹ Khang khoát tay. Không thể làm khác, anh và Nguyên cùng lên xem sao. Đó là một căn phòng toàn một màu vàng ngộ nghĩnh, từ drap giường đến chiếc đèn ngủ nhỏ. Bấy giờ Khang mới lên tiếng: - Cô ấy không sao chứ? Anh bước vào phòng và nhìn đăm đăm cô gái nằm bất động được ủ ấm bằng chiếc chăn thật dày trên giường. Nguyên cũng nhìn nhưng đôi mắt không giấu giếm được sự say mê. Không ngờ ông Tuấn lại có hai người con gái đẹp đến như thế, nhưng ở Hiểu Hân lại có sức quyến rũ lạ thường dù cô đang bệnh. Chưa bao giờ Nguyên gặp người đẹp nào hoàn hảo đến thế. Anh cứ đứng lặng nhìn quên mọi thứ xung quanh. Bỗng Khang lên tiếng: - Sẵn có xe, để tôi giúp mọi người đưa cô ấy vào viện. Ông Tuấn dù đang lo cũng không giấu được sự ngạc nhiên về cách quan tâm của Khang. Bà Tuấn thì ngân ngấn nước mắt lăng xăng soạn đồ cho con. Ông Tuấn định đỡ Hiểu Hân nhưng Khang đã bước đến: - Để tôi giúp ông! Nói rồi anh bồng xốc Hiểu Hân trên tay trước đôi mặt ngạc nhiên của Nguyên. Khang đi nhanh ra xe bằng những bước chân hối hả, biểu lộ một sự lo lắng thực sự chứ không phải giúp xã giao. Hiểu Hân được đưa vào phòng cấp cứu, khoảng gần một tiếng bác sĩ mới bước ra: - Cô ấy bị suy nhược lại sốt rất cao, cũng may là đưa đến kịp. Mọi người đều thở nhẹ dù chưa hết lo lắng. Hiểu Hân được đưa vào phòng riêng biệt mà ông Tuấn đã đặt sẵn, cô vẫn chưa tỉnh. Sau khi đã an tâm về con, ông Tuấn quay qua Vỹ Khang: - Cám ơn cậu! - Không có gì. Cô ấy không sao là tốt rồi. Đôi mắt Khang lại chiếu vào Hiểu Hân đang nằm thiêm thiếp, ông Tuấn cũng nhận thấy sự khác lạ đó và khẽ thở dài. Một lúc sau thì Vỹ Khang và Nguyên ra về. Suốt đoạn đường, Nguyên thầm quan sát bạn, khuôn mặt của Vỹ Khang rất trầm ngâm, anh không nói một lời nào từ lúc lên xe. - Hôm nay mày lạ quá, có thể giải thích không? Khang châm cho mình điếu thuốc: - Không có gì. Nguyên thấy mình nên dừng lại và đừng hỏi gì cả, dù là bạn nhưng Nguyên thầm nhận mình rất ngán Khang. Hiểu Hân dựa vào cạnh giường. Mẹ vừa về nên cô cũng thấy thoải mái vì nếu có bà, bà sẽ ép ăn đủ thứ, mà Hiểu Hân lại rất ngán những thứ đó. Bà vú đã ra ngoài mua cháo, chỉ có một mình cô trong phòng. Bỗng có tiếng gõ, Hiểu Hân lắng tai nghe, chắc chắn không phải người nhà, cũng không thể là Uyên khi nhỏ đã vào lúc sáng. Hân nghĩ ngay đến Bình: - Vào đi! Tiếng chân bước hoàn toàn xa lạ, Hân không nhận ra âm thanh nào quen thuộc. Cô run giọng: - Ai? Tiếng bước chân dừng lại bên cạnh rồi một giọng nói trầm ấm vang lên. - Tôi là bạn của ba cô. Lúc cô vào bệnh viện tôi cũng có mặt nên tôi đến đây xem cô thế nào. Hiểu Hân chớp mắt: - Xin lỗi, tôi không biết ông. Người đàn ông khẽ cười: - Tôi tên Vỹ Khang. Cô khỏe chưa? - Tôi đỡ nhiều rồi. Cảm ơn ông. - Cô thấy tôi già lắm sao? Hiểu Hân chớp mắt, không hiểu ông ta vô ý hay cố tình khi nói như thế. Cô có thấy gì đâu? Không lẽ ông ta không biết cô không thể nhìn thấy ánh sáng hay sao? Hân bỗng nhớ ra cặp mắt kính mình đang đeo khi ra ngoài lúc nãy. - Xin lỗi, vì tôi nghĩ ông là bạn của ba mình. Vỹ Khang khẽ nhướng mắt, anh không thấy được gì khi cô che giấu cặp mắt của mình. - Tôi có nghe mẹ kể lại, chắc ông là người đã đưa tôi vào bệnh viện, đúng không? Vỹ Khang gật đầu không trả lời. Hiểu Hân cũng ngồi im vì không biết nói gì. Cô không quen khi tiếp xúc với người lạ như thế này. Cửa phòng được đẩy nhẹ, Hân nhẹ nhõm khi nhận ra tiếng chân bà vú: - Vú về rồi à? - Ừ. Bà vú quay qua nhìn Khang, cái nhìn đầy vẻ ngạc nhiên: - Cậu Khang đến lâu chưa? - Mới đây thôi. Vỹ Khang đưa cho bà vú bọc trái cây và một bó hoa rồi đưa mặt nhìn Hân: - Chúc Hân mau bình phục! - Cảm ơn. Khang hơi nhíu mày vì vẻ thờ ơ của Hân. Bà vú hình như nhận ra, liền nói: - Tôi nhận giùm Hân được rồi. Cảm ơn cậu. Khang trao tất cả cho bà vú. Hân chỉ gật đầu không nói gì. - Chào cô. Hân khẽ gật đầu chào lại, cử chỉ như đề phòng. Đợi cánh cửa khép lại, Hân vội hỏi: - Ai thế vú? Bà vú đặt vào tay cô cà mèn cháo: - Ba con rất quý cậu ấy. Ông định gả Hiểu Ngọc cho cậu ấy đấy. Hiểu Hân gỡ chiếc kính ra: - Vậy sao? Tại ông nói là bạn của ba con nên con thấy lạ, vì có bao giờ bạn của ba đến thăm con đâu. Hiểu Hân không hỏi nữa, cô ngoan ngoãn múc từng thìa cháo trong cái nhìn thương yêu của bà vú. Đây là lấn thứ hai Vỹ Khang đến nhà theo lời mời của ông Tuấn. Đặt tách trà xuống bàn, Khang hỏi: - Tôi có thể thăm Hiểu Hân không? Ông Tuấn nhìn Khang lo ngại: - Dĩ nhiên là được. Hiểu Ngọc từ trên lầu đi xuống, cô ngạc nhiên khi thấy Khang đứng lên. - Anh Khang về hả? Vỹ Khang đưa mắt nhìn cô: - Tôi lên thăm Hiểu Hân. Hiểu Ngọc chớp mắt, cô nói bình thản: - Để em đưa anh đi. Khang không nói gì, bước theo cô lên lầu. Ông Tuấn trầm ngâm nhìn theo. Ông không hiểu Khang là người thế nào, nhưng cách quan tâm của anh đối với Hiểu Hân thì chỉ có kẻ ngốc mới không nhận ra tình ý của Khang. Hiểu Ngọc mở cửa phòng em. Hân đang nằm ôm con gấu bông trên giường. Nhận ra ngay tiếng bước chân của chị, cô khẽ cười. - Có anh Khang đến thăm em nè. Ngồi dậy đi! Hiểu Hân bối rối ngồi lên. Hiểu Ngọc quay qua Khang: - Anh Khang ngồi chơi. Khang nhìn đăm đăm gương mặt của Hiểu Hân. Bây giờ anh mới thấy đôi mắt thật đẹp của cô nhưng có nét gì đó không linh động bình thường. - Hân nhớ tôi chứ? Hiểu Hân gật đầu không nói. Hiểu Ngọc chợt hỏi: - Cái đồng hồ chị tặng cho em đâu rồi? Hiểu Hân nhíu mày, cô luôn để trên đầu giường mà. Hân đưa tay tìm ở chỗ cũ nhưng trống không. Cô quờ quạng tìm chỗ khác, không hay có đôi mắt đang sững sờ nhìn theo từng cử chỉ của mình: - Em để ở đây mà, không biết ai lấy đi đâu mất rôi. Hiểu Ngọc bước đến nắm tay em: - Thôi đừng tìm nữa, để chị hỏi mọi người cho. - Dạ. Hiểu Hân lại ngồi im như lúc đầu. Khang như đã qua phút ngỡ ngàng, anh nhìn Hiểu Hân dịu dàng: - Tôi thấy Hân hồng hào hơn trước nhiều. Theo phản xạ, Hân đưa tay sờ lên mặt mình: - Vậy sao? Khang vẫn không rời mắt khỏi cô. Hiểu Ngọc cảm nhận được những gì Vỹ Khang đang thể hiện. Một nỗi cay đắng trào lên trong cô. - Hân có muốn hỏi gì về tôi không? Hân ngồi im, không hiểu Khang muốn nói gì, nhưng cô vẫn trả lời theo những gì mình biết: - Xin lỗi vì lần trước tôi không biết anh là ai. Nhưng giờ thì tôi biết rồi. - Biết gì? Hân ngước lên, có cái gì đó đau thắt trong Khang khi anh nhìn vào đôi mắt tuyệt đẹp của cô. Nó vẫn rất trong sáng, không ai ngờ được rằng cô không thấy được gì. - Anh là bạn của chị Ngọc. Vỹ Khang nhíu mày: - Và của Hân nữa, nếu em muốn. Hiểu Hân khẽ cười: - Tôi không vô phép thế đâu. Vỹ Khang nhìn cô không nói gì. Một lúc sau thì Khang ra về. Anh bước xuống phòng khách thì gặp ông bà Tuấn đang ngồi: - Cậu về sao? Vỹ Khang gật đầu: - Tôi có một cuộc hẹn nên phải đi. Hiểu Ngọc tiễn Khang ra cổng. Nhìn vẻ lạnh lùng cố hữu của anh, Ngọc khẽ quay đi. - Tôi về nhé! - Vỹ Khang bước đi. - Anh Khang! Vỹ Khang đứng lại chờ đợi. - Em muốn biết anh đến đây vì cái gì? Vỹ Khang quay lại nhìn cô: - Vì lời mời của ba em. - Thật không? Vỹ Khang nhướng mắt: - Nhưng bắt đầu từ ngày mai, tôi sẽ là vị khách không mời mà đến. Tim Hiểu Ngọc nhói đau, cô cố nói bình thản: - Nghĩa là sao? - Tôi sẽ nói chuyện với ba em về quyết định của mình. Em vào nhà đi! Hiểu Ngọc chớp mắt, cô muốn nghe Khang nói rõ ràng hơn, nhưng nhìn vẻ dứt khoát của anh, cô không dám. Tuần sau, ông Tuấn hoàn toàn kinh ngạc vì những điều Khang nói. Ông về nhà với tâm trạng vừa mừng lại vừa lo, một điều mà chưa bao giờ ông dám mơ. Hiểu Ngọc nghe với một nỗi đau không gì gượng nổi, Khang đã đánh vào lòng tự trọng của cô quá nặng nề. Anh là người đầu tiên cô đem tất cả tình cảm để yêu và hy vọng, thế mà Khang đã gạt bỏ không cần bận tâm. Ông Tuấn ngồi trầm ngâm bên tách trà, ông không biết mình phải nói gì với Hiểu Hân, con bé sẽ có thái độ gì? Vỹ Khang lại đến, bây giờ anh có thể tự do lên thăm Hiểu Hân mà không cần phải e dè. Khang gõ nhẹ cửa: - Vào đi! Sự im lặng của Hân làm Khang thấy thất vọng khi cô vẫn chưa quen được tiếng chân anh: - Em không đoán được ai à? - Xin lỗi, tôi không quen. Vỹ Khang ngồi xuống, đối diện với cô: - Nhận ra tiếng anh không? Hiểu Hân chớp mắt, cô thấy ngại vì cách nói thân mật gần như âu yếm của Khang: - Chị Ngọc không lên với anh sao? Vỹ Khang nhìn cô rồi cố ý hỏi để cho cô hiểu: - Tại sao Hiểu Ngọc phải lên với anh? Hiểu Hân chớp mắt, cô ngồi thẳng người lên, cách nói chuyện của Khang luôn làm cô bất an, luôn đề phòng. - Đừng căng thẳng như thế, anh hỏi rất nghiêm túc. Em cứ nói những gì mình nghĩ. Hiểu Hân lắc đầu: - Tôi không hiểu anh nói gì, khi tôi thấy mình không nói điều gì sai cả. Vỹ Khang khẽ cười: - Em không nói sai, nhưng anh muốn em hiểu rằng việc anh đến thăm em không liên quan gì đến Ngọc. Anh đến vì anh thích, thế thôi. Hiểu Hân ngồi im. Vỹ Khang nhìn cô đăm đăm như quan sát, cái nhìn của anh sắc đến nỗi nó lây sang cả Hân, dù không thấy nhưng cô vẫn cảm nhận được. Hân vụng về nắm chặt bàn tay mình lại, cử chỉ đó không qua mắt Khang: - Em không hiểu anh nói gì phải không? - Không và cũng không muốn hiểu. Anh đừng nói nữa. - Tại sao? Hiểu Hân chớp mắt như sắp khóc, cô thấy giận cay đắng: - Không tại sao cả. Nếu muốn lên thăm tôi, tốt nhất là anh hãy đi cùng chị Ngọc. Tôi mệt lắm, tôi muốn nghỉ. Xin lỗi anh... Vỹ Khang vẫn ngồi yên, không ngờ cách thể hiện của anh lại làm cô giận đến thế. Vỹ Khang hiểu để làm Hân chấp nhận thì là cả một quá trình, nhưng quan trọng là anh sẽ không bỏ cuộc. Vỹ Khang bước đến gần cô. Hân hơi lùi lại khi cảm nhận được sự gần gũi rất gần. Cô run giọng: - Anh muốn gì? Vỹ Khang thấy đau lòng khi nhìn vẻ sợ sệt của cô. Không ngờ có lúc anh khó diễn đạt tình cảm của mình như thế này. - Hôm nay, anh muốn em hiểu đúng những gì anh nói. Anh đến đây là vì em, Hiểu Ngọc không liên quan gì cả. Đừng suy nghĩ lung tung mà hãy đón nhận và suy nghĩ xem em có chấp nhận được anh không? Hiểu Hân im lìm. Vỹ Khang khẽ quay đi: - Em nghỉ đi. Anh về đây. Nói rồi Vỹ Khang bước ra ngoài. Anh biết cách thể hiện tình cảm của mình sẽ làm Hiểu Hân hoang mang, đề phòng nhưng Khang chấp nhận, chứ anh không bao giờ muốn Hân hiểu lầm tình cảm của mình. Ông Tuấn lên phòng Hân sau khi đã tiễn Khang về. Ông cứ ngồi trầm ngâm bên giường của con. Nhìn dáng vẻ im lìm thụ động của con, ông không khỏi đau lòng: - Con thấy Vỹ Khang thế nào Hân? - Sao ba lại hỏi thế? Ông nắm tay con khẽ cười: - Thằng Khang nó muốn cưới con. Con nghĩ sao? Hân nắm chặt tay ba mình: - Con không thể... Ông Tuấn vuốt tóc cô: - Ba hiểu con khó chấp nhận, nhưng Khang là người đáng tin cậy. Ba tin nó sẽ mang hạnh phúc đến cho con. Hiểu Hân khóc lặng lẽ, cô quá yếu đuối: - Con không muốn. Ba đừng đồng ý, sao ba không hiểu... Ông Tuấn ngắt ngang: - Ba hiểu tất cả, nhưng con đừng sống như thế nữa. Cơ hội chỉ đến một lần thôi, đó là hạnh phúc cả đời, con nên nắm lấy. Hiểu Hân im lìm, cô khẽ lắc đầu nhưng không diễn tả được suy nghĩ của mình. - Con xin lỗi. Ông Tuấn khẽ thở dài: - Ba nói thật, công ty sắp phá sản rồi mà Khang lại là người có thể cứu gia đình mình. Ba nói thế, con hiểu không Hân? Ông Tuấn gục đầu trong tay, ông không nhìn Hiểu Hân vì thấy mình không xứng đáng. Gương mặt thất thần, tuyệt vọng của con như ngọn roi quất vào lương tâm ông đau nhói: - Ba xin lỗi, nếu con không đồng ý, ba sẽ không ép. Con nghỉ đi. Nói rồi ông bước ra khỏi phòng, bỏ lại Hiểu Hân một màu đen tối cả ở ngoài lẫn trong tâm hồn. Cô không còn nhận biết được thứ ánh sáng nào có thể dìu dắt mình nữa. Vỹ Khang đưa cô vào phòng, anh để cô ngồi trên giường: - Em mệt lắm hả? Hiểu Hân im lìm, Khang khẽ nắm tay cô, Hân rút nhẹ: - Tôi muốn gặp vú. Khang vẫn dịu dàng: - Em cần gì? Hiểu Hân chớp mắt: - Xin lỗi, tôi chỉ quen với sự chăm sóc của vú. - Anh là chồng em, đó là bổn phận của anh. Hiểu Hân rụt tay lại: - Đừng làm tôi sợ, anh Khang. Vỹ Khang nhìn cô im lìm, ước gì cô đọc thấy tình yêu của anh dành cho cô: - Em nghỉ đi. Nói rồi anh bước ra ngoài, lát sau thì bà vú vào. Hiểu Hân nắm tay bà áp lên má: - Vú đừng đi đâu nhé, ở lại với con. Bà vú khẽ vuốt tóc cô: - Con nên tập làm quen với sự hiện diện của Vỹ Khang, cậu ấy mới là người con cần đấy. Hiểu Hân chớp mắt, cô hiểu chứ. Nếu được như những người bình thường khác, có lẽ cô sẽ không như thế này. Tâm trạng của cô làm sao mọi người hiểu được. Mời các bạn đón đọc Ánh Sao Lấp Lánh của tác giả Hoàng Anh.