Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Lời Tiên Tri Hắc Ám

Làm sao để trừng phạt một vị thần bất tử? Bằng cách biến vị thần ấy thành kẻ phàm trần. Sau khi khiến cho cha mình - thần Zeus nổi giận, Apollo bị tống cổ khỏi đỉnh Olympus. Yếu ớt và mất phương hướng, thần giáng xuống thành phố New York trong bộ dạng một cậu thiếu niên tầm thường. Giờ đây, thiếu những quyền năng thần thánh, vị thần bốn ngàn năm tuổi phải học cách sống sót trong thế giới hiện đại cho tới khi tìm được cách nào đó lấy lòng Zeus trở lại. Nhưng Apollo có quá nhiều kẻ thù là các vị thần, lũ quái vật và cả những kẻ phàm trần. Tất cả đều ao ước được thấy cựu thần Olympus bị tiêu diệt mãi mãi. Apollo cần được giúp đỡ, và thần chỉ biết có duy nhất một nơi để tìm đến…một vùng đất của các á thần hiện đại có tên gọi Trại Con Lai. Bộ sách Những thử thách của Apollo gồm có: Sấm Truyền Bí Ẩn Lời Tiên Tri Hắc Ám Địa Cung Rực Lửa Lăng Mộ Bạo Chúa ,,, *** Rick Riordan là tác giả có sách bán chạy nhất do tờ New York Times bình chọn cho bộ truyện dành cho trẻ em: Percy Jackson và các vị thần trên đỉnh Olympus và bộ Tiểu thuyết trinh thám dành cho người lớn Tres Navarre. Ông có 15 năm giảng dạy môn tiếng Anh và Lịch sử ở các trường trung học cơ sở công và tư ở San Francisco Bay Area ở California và Texas. Ông cũng từng nhận giải thưởng Giáo viên ưu tú đầu tiên của trường năm 2002 do Saint Mary’s Hall trao tặng. Rick Riordan hiện đang sống ở San Antonio, Texas cùng vợ và hai con trai. Ông dành toàn bộ thời gian cho sáng tác. *** Bắt đầu từ một trại “khác” dành cho các con lai và kéo dài đến tận vùng đất ngoài tầm kiểm soát của các vị thần, phần 2 giới thiệu cho độc giả các á thần mới, hồi sinh các con quái vật đáng sợ nhất và khắc họa các sinh vật đặc biệt. Tất cả được xác định sẽ đóng một vai trò nào đó trong Lời Tiên Tri về Nhóm Bảy. PERCY BỐI RỐI. Khi cậu tỉnh dậy sau một giấc ngủ dài, cậu không biết bất cứ điều gì ngoài tên của cậu. Bộ não xoắn tít của cậu chỉ còn lại một ít, ngay cả sau khi con sói cái Lupa nói rằng cậu là một á thần và huấn luyện cậu cách chiến đấu với cây bút/thanh kiếm trong túi quần cậu. Dẫu sao cậu cũng đã đến được trại dành cho các con lai, mặc dù cậu phải tiếp tục giết các con quái vật không chết đang quấy rầy cậu trên đường đi. Nhưng trại cũng chẳng gợi cho cậu chút quen thuộc nào. Điều duy nhất cậu có thể nhớ lại từ quá khứ của mình là một cái tên khác: Annabeth. HAZEL ĐƯỢC CHO RẰNG LÀ ĐÃ CHẾT. Khi cô còn sống trước đây, cô đã làm sai một điều. Dĩ nhiên, cô là một cô con gái biết nghe lời, ngay cả khi mẹ cô bị ám ảnh bởi tham lam.  Nhưng đó là vấn đề - khi Giọng Nói chiếm lấy cơ thể mẹ cô và ra lệnh cho Hazel sử dụng “quà tặng” của cô với mục đích xấu xa, Hazel không thể nói không với bà. Giờ, vì sai lầm của cô, tương lai của thế giới đang gặp phải nguy hiểm. Hazel ước gì cô có thể chạy trốn tất cả chuyện đó trên con ngựa xuất hiện trong các giấc mơ của cô. FRANK LÀ MỘT NGƯỜI VỤNG VỀ. Bà ngoại cậu nói rằng cậu là hậu duệ của các anh hùng và có thể trở thành bất cứ ai cậu muốn, nhưng cậu chẳng thấy được điều đó. Cậu thậm chí còn không biết cha mình là ai. Cậu vẫn hy vọng thần Apollo sẽ thừa nhận cậu, vì thứ cậu duy nhất cậu thành thạo là môn bắn cung – mặc dầu không đủ giỏi để giúp cho Đội quân Số Năm dành chiến thắng ở trò đánh trận. Cơ thể to lớn và lực lưỡng khiến cậu có cảm giác mình như một chú bò vụng về, đặc biệt là khi cậu ở trước mặt Hazel, người bạn thân nhất của cậu ở trại. Cậu hoàn toàn tin tưởng cô, thậm chí, đủ để chia sẻ bí mật mà cậu để gần với trái tim cậu. *** Lester (Apollo) Vẫn là con người; Cám ơn vì đã hỏi Chúa ơi, ta ghét cuộc sống này Khi CON RỒNG CỦA BỌN TA khiêu chiến tại Indiana, ta biết đây sẽ là một ngày thật tồi tệ. Bọn ta đã di chuyển về phía tây trong sáu tuần và Festus chưa bao giờ có thái độ thù địch như vậy đối với bất cứ một bang nào. New Jersey, mặc kệ. Pennsylvania, dường như khá thích thú, mặc dù đã có một trận chiến với Cyclopes của Pittsburgh ở đó. Ohio, đã cố kiềm chế, ngay cả sau cuộc gặp gỡ với Potina, nữ thần đồ uống thời thơ ấu của La Mã, người đuổi theo bọn ta dưới hình dạng một bình rượu khổng lồ màu đỏ hình mặt cười. Tuy nhiên, vì một lý do nào đó, Festus chẳng hề thích Indiana, nó hạ cánh trên đỉnh vòm của tòa nhà bang, vỗ nhẹ đôi cánh kim loại của mình và khạc ra một tia lửa đốt rụi quốc kỳ ngay lấp lựng. "Woww, anh bạn", Leo kéo dây cương con rồng," chúng ta đã nói về điều này rồi, không phá hoại di tích công cộng". Ở đằng sau, trên xương sống con rồng, Calypso đang bám chặt vào vảy Festus để giữ thăng bằng "Này, chúng ta có thể xuống dưới được không, lần này thật nhẹ nhàng nhé?" Đối với một nữ phù thủy bất tử đã từng điều khiển các linh hồn gió, Calypso chẳng thích bay cho lắm. Gió thổi mái tóc màu nâu hạt dẻ của cô ta tấp vào cả mặt và miệng, làm tôi chớp mắt và phun nước bọt. Thật đấy, bạn đọc ạ. Ta, hành khách quan trọng nhất, đã từng là vị thần vinh quang Apollo, giờ phải ngồi đằng sau lưng rồng. Ôi bao nhiêu phẫn nộ tôi phải chịu từ khì Zeus tước đi quyền hạn thiêng liêng của ta, cũng chẳng bằng việc bây giờ ta là một thằng nhóc phàm nhân 16 tuổi với cái bí danh ghê rợn Lester Papadopolus. Chẳng đủ để ta phải lao xuống trái đất làm nhiệm vụ anh hùng cho tới khi tìm được cách trở về với ông cha thần thánh, có lại được những ân sủng tốt đẹp, hoặc là khuôn mặt đầy mụn, thứ mụn mà chẳng hề phản ứng với thuốc zit kê đơn. Mặc dù tôi sở hữu một tấm bằng lái xe từ tiểu bang New York, Leo vẫn không tin tưởng giao cho ta quyền cầm lái con chiến mã trên không của mình. Móng vuốt Festus đã phải cào cấu khắp nơi để đứng vững được trên cái mái vòm xanh lá, thứ mà quá nhỏ so với kích thước một con rồng đồng. Ta bỗng nhiên hồi tưởng về cái lần tối cố gắng gắn bức tượng Calliope to bằng người thật vào cỗ xe mặt trời, sức nặng của bức tượng làm mui xe chúi xuống và lao vào giữa Trung Quốc tạo nên hoang mạc Gobi. Leo liếc nhìn lại:"Apollo, ngài có cảm nhận được gì không?" "Tại sao ta lại cảm nhận được gì chứ, tà chỉ là một vị thần tiên tri.." " Ngài là người đã nhìn thấy cảnh mộng", Calypso nhắc nhở, " Ngài đã nói có thể Meg đang ở đây". Việc nghe thấy tên Meg làm tim ta đau nhói: " Điều đó không có nghĩa là ta có thể xác định vị trí của con bé, Zues đã tước đi quyền truy cập GPS của ta" "GPS?" Calypso hỏi "Hệ thống định vị thần thánh" "Nó không có thật" "Mọi người, bình tĩnh nào", Leo vỗ cổ con rồng, "Apollo, hãy cố nhớ lại xem nào, đây có phải cái thành phố mà ngài đã thấy trong mơ không?" Ta quét mắt về phía chân trời, Indiana là một vùng đất bằng phẳng, đường cao tốc bắc ngang qua một vùng đồng bằng nâu sẫm, bóng của những đám mây trôi lơ lửng trên trời tạo thành những vệt đen lỗ chỗ trên thành phố, xung quanh chúng tôi mọc lên tựng cụm nhà cao tầng khẳng khiu đan xen bởi những lớp tường gạch và cửa kính trông như những bó cam thảo đen và trắng. (chẳng phải loại cam thảo ngon lành gì, cả đen và trắng, cái loại kinh khủng mà đã ngự trong bát kẹo trên bàn cà phê của mẹ kế bạn trong hàng niên kỉ. Phải, Hera đấy, tại sao ư? Ta sẽ kể cho ngươi sau). Từ sau khi rơi xuống trái đất ở New York, ta cảm thấy Indiana thật vắng vẻ và thanh bình, một người hàng xóm thích hợp của New York - Như một thành phố trung tâm đã bị kéo giãn ra bao phủ toàn bộ vùng Manhattan sau đó giảm hai phần ba dân số và bị rửa trôi sạch sẽ. Ta chẳng thể hiểu nổi lý do gì khiến bộ ba hoàng đế La Mã ác quỷ lại để ý một nơi như thế này, cũng chẳng hiểu tại sao Meg McCaffrey lại được cử đến để tóm cổ ta tại đây. Giờ mọi thứ đã rõ ràng, ta đã nhìn thấy đường chân trời này, ta đã nghe thấy kẻ thù cũ Nero ra lệnh cho Meg: Hãy đi về hướng Tây, bắt lấy Apollo trước khi hắn kịp tìm thấy Oracle tiếp theo, nếu không thể bắt sống thì hãy kết liễu đời hắn. Điều đó thật đáng buồn nhỉ? Meg đã từng là một người bạn tốt, cô bé còn có thể trở thành sư phụ á thần của ta, nhờ khiếu hài hước của Zeus. Chừng nào ta còn là người phàm, Meg có thể ra lệnh cho ta làm bất cứ thứ gì, thậm chí là tự sát. Ôi ôi, đừng nghĩ tới những điều như vậy chứ. Ta loay hoay trên cái ghế kim loại của mình, sau nhiều tuần di chuyển, cả người ta mệt mỏi và đau nhức, ta muốn tìm một nơi an toàn để nghỉ ngơi và đây chẳng phải một nơi như thế. Có cái gì đó trong thành phố làm ta bồn chồn y như cảm giác của Festus. Than ôi, đây lại chính là nơi bọn ta muốn đến. Cho dù nguy hiểm đến mức nào, nếu được gặp lại Meg, ta sẽ lôi con bé tránh xa tên cha dượng độc ác của mình, ta phải cố gắng. "Chính là nơi này", ta nói, "trước khi mái vòm này sụp đổ, có lẽ chúng ta nên xuống dưới" Mời các bạn đón đọc Những thử thách của Apollo Tập 2: Lời Tiên Tri Hắc Ám của tác giả Rick Riordan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mầm Ác
Mầm ác là một câu chuyện với những dòng diễn biến tâm lý của nhân vật Karen bởi nỗi ám ảnh, tội lỗi cô gây ra, và nỗi lo sợ về tương lai. Những giọt nước mắt rất mặn, chúng đã tưới lớn Mầm ác trong ai? Đón đọc Mầm ác, do Phúc Minh Books liên kết với Nhà xuất bản Văn học ấn hành! *** Mầm Ác là một cuốn tiểu thuyết trinh thám kể về ba con người với tính cách riêng biệt. Một Karen thông minh và khuôn phép. Một Biba quyến rũ và nổi loạn. Một Rex cam chịu và giàu đức hy sinh. Mùa hè năm ấy, số phận đã đưa ba con người với ba tính cách riêng biệt ấy lại gần nhau... và biến mùa hè đó thành khúc cua định mệnh trong đời mỗi người - khúc cua bất ngờ khiến họ vĩnh viễn không còn cơ hội quay đầu. Khúc cua đẩy Karen khỏi lộ trình tươi sáng của một thiên tài ngôn ngữ. Khúc cua xô Biba khỏi tham vọng hào nhoáng của một đại minh tinh. Khúc cua cắt lìa Rex khỏi giấc mơ sống một đời bình yên dưới mái nhà trong hẻm Queenswood. Và khúc cua, đã làm bừng dậy một Mầm ác. Điều gì đã xảy ra với ba con người ấy? Một sự giải thoát? Một con ác mộng? Hay những bước chân lầm lạc không còn phương hối cải? Và những giọt nước mắt rất mặn, chúng đã tưới lớn Mầm ác trong ai? *** “Anh bước nhẹ nhàng trên tấm rèm nhung màu xanh và vàng đồng mà không gây ra một tiếng động nào, tấm rèm ấy nằm trên nhiều lớp vỏ chăn ga trải ra trên sân thượng, nhưng vẫn có một tiếng va chạm khi gót chân của anh tiếp xúc với hòn đá chặn ở hai đầu của một chiếc mền. Trước đây tôi chưa từng thấy ai đi như vậy, anh cứ đi lên đi xuống quanh một khoảng đất nhỏ, đi qua rồi đi lại, đi tới rồi đi lui. Anh đi như thể trong tâm trí có quá nhiều suy nghĩ và chúng phải chuyển hóa vào các cơ bắp, khiến cho cơ thể di chuyển không mục đích. Có lẽ đó là lý do tại sao trông việc này lại đáng sợ như vậy.” Nỗi lo hay nói chính xác hơn là nỗi ám ảnh luôn khiến cho con người ta rơi vào trạng thái hỗn loạn và hành động kỳ quặc trong vô thức. Nhiều lúc không thể tự kiểm soát bản thân và vì áp lực đã bị dồn nén quá lâu trong một con người sống thầm lặng và “an phận thủ thường” nên mọi chuyện sẽ luôn đi theo chiều hướng cực đoan nhất. Nhân vật Paul trong quyển sách này là một trường hợp tương tự như thế – một mầm ác trỗi dậy như một quy luật tự nhiên về tâm lý của con người. “Mầm ác” chẳng khác gì một bối cảnh mùa hè phóng túng – nơi trỗi dậy của những bí mật tội lỗi và sự hồi hộp luôn kéo dài liên miên bởi biến đổi trong tâm lý đã khiến con người ta trở thành kẻ giết chóc. Cả ba nhân vật chính nhìn thì tưởng họ là những con người lương thiện bình thường nhưng không, ai cũng len lỏi một mầm ác trong tâm hồn. Với Karen – cô là một sinh viên xuất sắc và triển vọng nghề nghiệp rất cao nhưng cuộc đời của cô đã có ngã rẽ khi gặp Biba – một cô gái lòe loẹt và hào nhoáng. Karen đã bị cuốn hút bởi lối sống xa hoa của Biba và đến tham gia cuộc vui tại biệt thự – nơi cô gặp Rex và nảy sinh tình cảm. Họ cuốn vào cuộc đời nhau bởi rượu, tình dục và những đêm hè hoạt náo. Thế nhưng, cuộc đời đâu thể mãi vui và hạnh phúc mãi khi Biba và Rex có những bí mật phức tạp từ gia đình. Ruồng bỏ, tự tử, oán hận và tội lỗi bao trùm cái gia đình ấy và cũng chính nó sẽ bao trùm cả mùa hè vốn dĩ đang rạng ngời của Karen. Dĩ nhiên, biến cố đã xảy ra và cuộc tình của Rex và Karen đã phải chịu xa cách. Thời gian mười năm, Karen đã sinh bé Alice và dĩ nhiên cả Rex và Karen luôn mong muốn có được cuộc sống bình yên sau một khoảng thời gian dài chịu đựng những sóng gió của số phận. Nhưng bất ngờ thay, Karen cũng có những bí mật u tối và chắc chắn sự ám ảnh đó không phải chỉ là một căn bệnh tâm lý mà nó sẽ trở thành một mối nguy đe dọa đến sự an toàn của con và chồng cô. “Mầm ác” đã gây ra được sự thu hút đối với tôi bởi việc di chuyển dòng thời gian giữa mười năm trước và hiện tại rất mượt mà. Mọi tình tiết không hề bị gượng ép và luôn đưa ra được những góc nhìn sâu để tiết lộ sự thật qua từng trang truyện. Kịch tính của tình huống đều được tăng tiến theo mỗi chương cộng thêm với những tình tiết hoàn toàn đảo ngược vấn đề đã khiến cho câu chuyện đặc sắc lạ thường. Vì tội giết người nghe qua thì đơn giản nhưng sự thật đằng sau hành vi tàn ác đó lại khiến chúng ta phải quan tâm nhiều hơn. Những thắc mắc sẽ ẩn hiện và thôi thúc chúng ta đọc đến phần kết cục. Dĩ nhiên, con người không ai hoàn hảo và cũng chẳng có tác giả nào xây dựng một nhân vật hoàn hảo trên mọi phương diện. Thiếu sót của Karen và Rex chính là họ sống trong sợ hãi, họ nhấn chìm cả tuổi trẻ và sự ngây thơ vào những sự tối tăm không cần thiết. Và ở Karen, cô cũng đã quá tham lam với những điều mới mẻ; nếu cô không tò mò với những điều lạ lẫm ở trước mắt thì ngã rẽ của đời cô chắc gì đã xuất hiện?! Biba thì khác biệt một chút, cô ấy hoàn toàn là một kẻ ích kỷ và liều mạng, một kẻ chuyên gia gây ra sự hỗn loạn ở mọi phương diện nhưng lại hiện ra rất chân thật, rất đúng với sự nổi loạn của những người mới lớn. Một điều đáng lưu ý nữa là bầu không khí mà tác giả tạo ra trong truyện thực sự mang lại nhiều ám ảnh, không phải kiểu đáng sợ máu me mà là kiểu tâm trạng mơ hồ và ảm đạm cứ bám víu lấy mọi thứ. (Trần Nguyễn Phước Thông, FB Trần Thông, 29-01-2020) Trần Thông *** MỞ ĐẦU Tôi buông chiếc điện thoại để nó tuột khỏi tay. Cơn hoảng loạn đánh gục tôi rồi lại vực tôi dậy. Đầu ngón tay tôi chộn rộn lần mò trên mặt bàn cà phê, quờ quạng tìm chìa khóa xe và điện thoại di động. Tôi cuống cuồng mặc quần áo trong bóng tối, vớ vội lấy áo khoác và đôi bốt da cừu to quá khổ mà tôi vẫn dùng để đi trong nhà. Lúc tới ngưỡng cửa, tôi do dự một giây rồi hối hả quay lại bàn, lục ngăn kéo để tìm hộ chiếu và thẻ tín dụng chỉ dành cho lúc khẩn cấp. Tôi khẽ khàng kéo cánh cửa sau lưng, dù máu đang chạy rần rật trong tai tôi. Tôi chốt hai lần khóa bằng đôi tay run rẩy, nhưng để làm gì? Để ngăn ai đó thoát ra? Để ngăn kẻ nào bước vào? Tôi cũng không biết nữa. Ra đến bên ngoài, tôi nhón chân nhưng vẫn tạo ra tiếng lắc rắc như thể vừa đạp nát một con ốc sên dưới đế giày. Khi tôi giẫm phải một vũng nước ngoài cổng, nước lạnh ngấm qua lớp da lộn mềm mại và liếm vào những ngón chân trần của tôi. Trong khoang xe tối tăm, tôi vặn khóa khởi động, nhăn nhó vì cơn gió buốt giá thổi tới, xua đi làn hơi thở vừa đông thành khói. Đôi tay tôi ướt lạnh. Tôi cố bình tĩnh tìm đôi găng tay len nhét ở túi áo bên trái. Trước khi đeo găng, tôi móc điện thoại ra, mở danh sách cuộc gọi đến. Tôi gọi vào điện thoại trong nhà, chờ nghe tiếng tút tút kết nối tín hiệu nhưng lại vội cúp máy khi điện thoại chưa kịp đổ chuông. Kính chắn gió bị sương giá phủ mờ, còn tôi không dư thời gian để chờ tới lúc hệ thống sưởi làm tan hết hơi nước. Tôi lau ô cửa xe ở ghế khách rồi liếc mắt nhìn cửa sổ phòng ngủ tối đen. Anh có nghe thấy không? Biết đâu ngay lúc này, đèn bật sáng, bóng anh hiện ra bên cửa sổ và anh gọi to tên tôi. Liệu điều đó có ngăn được tôi không? Liệu điều gì có thể? Chiếc xe đỗ ngay phía trước căn nhà. Nếu tôi bật đèn pha lên thì chúng sẽ hắt sáng vào cửa sổ, vì vậy không cần ánh đèn dẫn lối, chỉ dựa vào việc nhìn xuyên qua dấu tay in trên cửa kính, tôi lầm lũi lái xe ra đường. Tới tận khi nghĩ mình đã đi khuất khỏi ngôi nhà, tôi mới mở đèn pha lên. Nơi thôn quê này lạnh băng và ảm đạm. Những hàng rào cây trơ trụi lá khắc họa đường nét kỳ quặc trên con đường trước mặt và vỉa cao bên đoạn đường hẹp đổ xuống những hình bóng tựa như bóng người. Cái chết, mất mát và lầm lỡ vây chặt lấy tôi, các linh hồn vốn giấu mình giờ bùng lên thành ma quỷ. Tôi sợ hãi cả việc liếc ra phía sau. Chúng truy đuổi khiến tôi mất bình tĩnh phóng bạt mạng, thậm chí lao cả lên bờ cỏ lúc rẽ quá nhanh qua khúc cua tầm nhìn hạn chế. Dây an toàn siết chặt vào khoảng giữa ngực tôi khi tôi phanh gấp để tránh đâm phải chiếc xe tải đột ngột xuất hiện trước mắt. Đó là một chiếc xe bẩn thỉu, sơn loang lổ, đồ lề lòng thòng đằng sau và đi chậm như rùa bò, có lẽ tay tài xế hơi quá chén. Tôi chẳng còn cách nào, đành đi chầm chậm theo sau. Tôi dành khoảng thời gian trì hoãn ấy để nghiêm túc suy nghĩ. Nhưng chẳng thể lí trí được trong tình huống thế này. Tôi chỉ mặc đồ ngủ và xỏ đôi giày ẩm lạnh, một mình lái xe trên đường quê giữa đêm tối mịt mùng. Không ai biết tôi đang ở đâu và sao tôi lại ở đó, trên danh sách cuộc gọi ở nhà, tôi cũng tự xóa dấu vết duy nhất mình có thể để lại. Tôi nghĩ tới những người khác, nhưng lần đầu tiên trong đời tôi nhận ra rằng chỉ khi tiếp tục mới có thể mang đến sự an toàn cho chính mình. Liếc nhìn đồng hồ tốc độ, tôi thấy mình đang đi với vận tốc bốn dặm 1* một giờ. Tôi nhấn còi và nháy đèn, nhưng màu xanh lam hắt ra từ buồng lái cho tôi biết tay tài xế đang nghe điện thoại. Tôi mường tượng trong đầu về đoạn đường phía trước. Vì đã đi qua rất nhiều lần nên tôi nắm rõ từng ổ gà, từng khúc lắt léo và từng đoạn mấp mô. Tôi hít sâu một hơi, giật mạnh cần số, lao liều vào điểm tránh mở rộng mà tôi nhớ rằng nó nằm ngay bên phải. Nhưng người lái chiếc xe đen đi từ hướng ngược lại cũng nghĩ giống tôi. Khi chúng tôi vượt qua nhau, tiếng kim loại cọ xát chát chúa vang lên. Tôi tăng tốc. Nếu anh ta muốn làm gì thì cứ việc đuổi theo tôi đi. Gương bên trái xe của tôi bị bung ra khỏi khung, lủng lẳng níu giữ bằng một mẩu dây điện, trông như một phần tay chân dính với thân thể chỉ bằng một mạch máu duy nhất. Gã lái xe kia bị bỏ lại đằng sau, nhấn còi đầy giận dữ, hiệu ứng Doppler 2* khiến chiếc xe quăng lại nửa tiếng còi cụt lủn rồi cứ thế đi tiếp về phía nhà tôi. Vì có một chiếc xe tải chen giữa xe tôi và chiếc xe vừa nãy, mà lúc này tôi cũng chẳng kịp quay lại, nên không biết gã đi một mình hay chở thêm người, là ô tô riêng hay taxi. *1 dặm ~ 1,069 km. *Một hiệu ứng vật lý, được nhà vật lý Christian Andreas Doppler tìm ra. Hiệu ứng Doppler là hiện tượng xảy ra khi nguồn sóng (với tần số ổn định) di chuyển khiến cho tần số sóng phát ra khác với tần số sóng thu được tại điểm quan sát. Tôi lao đi một cách điên rồ. Chỉ có camera tốc độ với dấu hiệu nhận biết quá rõ ràng mới có thể khiến tôi đi chậm lại. Ở vành đai thành phố, bờ cỏ cằn cỗi bên đường thay thế bằng vỉa hè chật hẹp và hàng cây được trồng thẳng hàng, đều tăm tắp, chia cách mấy căn nhà, một quán rượu cùng một cây xăng. Dãy cột đèn dần xuất hiện, những quả cầu theo phong cách Victoria trông như những mặt trăng nhỏ đang xếp hàng, tôi nhận thấy chúng cũng sáng tựa vầng trăng. Cuối cùng, sự việc làm tôi nơm nớp lo sợ suốt một phần ba đời người đang ở đây. Trong xe bỗng trở nên nóng nực. Đôi tay đeo găng của tôi mướt mồ hôi, mắt khô khốc, còn lưỡi thì dính lên vòm miệng. Tôi đã từ bỏ rất nhiều điều và làm vô số việc tồi tệ chỉ bởi tôi phải làm thế vì lợi ích của gia đình mình. Tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với chúng tôi. Tôi sợ hãi, nhưng lại cảm thấy mình thật mạnh mẽ. Tôi mang sức mạnh của một người phụ nữ có quá nhiều thứ để mất. Mời các bạn đón đọc Mầm Ác của tác giả Erin Kelly & Quang Bích (dịch).
Đi Tìm Sylvie Lee
Đi tìm Sylvie Lee - cuốn sách đầy bất ngờ với những bí mật, sự lừa dối và những khúc quanh không thể lường trước. Đó là câu chuyện về mối quan hệ phức tạp giữa ba người phụ nữ, hai chị em và mẹ của họ trong một gia đình nhập cư gốc Trung Quốc, và khám phá những gì xảy ra khi con gái lớn của người chị biến mất, một loạt bí mật gia đình xuất hiện. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Sylvie, cô con gái lớn, xinh đẹp, tài giỏi, thành đạt của gia tộc Lee, bay tới Hà Lan trong một chuyến viếng thăm cuối cùng với người bà đang hấp hối của mình và rồi biến mất. Chuyện gì đã xảy ra với Sylvie? Amy cùng cha mẹ cô đang quẫn trí và tuyệt vọng tìm câu trả lời. Sợ hãi nhưng vẫn quyết tâm, Amy bay đến Hà Lan, nơi cuối cùng Sylvie được nhìn thấy. Nhưng thay vì những câu trả lời đơn giản, cô phát hiện ra một thứ có giá trị hơn nhiều: sự thật. Sylvie, cô gái vàng, giữ bí mật đau đớn. . . những bí mật mà cô không thể tưởng tượng. Về tác giả:  Jean Kwok là một cây bút của tờ New York Times và là tác giả có sách bán chạy nhất trên thế giới với tác phẩm Girl in Translation và Mambo in Chinatown. Cô được vinh danh với rất nhiều giải thưởng trong lĩnh vực viết lách. Cô đã nhận bằng cử nhân trường Đại học Havard và hoàn thành bằng Thạc sĩ Nghệ thuật lĩnh vực tiểu thuyết tại Đại học Columbia. Jean Kwok hiện sống tại Hà Lan. *** Amy Thứ hai, ngày 2 tháng 5 Tôi đang đứng bên bậu cửa sổ trong căn hộ nhỏ của chúng tôi trên phố Queens, nhìn bố và mẹ tất tả đi làm. Nửa khuất sau tấm rèm cũ rách mà mẹ tự khâu, tôi thấy họ đi cạnh nhau trên đường đến ga tàu điện. Ở lối vào, họ dừng lại và nhìn nhau một lúc. Những lúc như này, tôi thường nín thở, để đợi bố chạm vào gò má mẹ, hoặc chờ mẹ bật khóc, hoặc mong một trong hai người sẽ đưa ra dấu hiệu nào đó về mối quan hệ thật sự của họ. Thay vào đó, mẹ ngượng nghịu giơ tay vẫy, để lộ cánh tay gầy gò dưới nếp gấp của chiếc khăn choàng đen, còn bố thì xộc thật nhanh vào cửa nhà ga đang mở khi giao thông buổi sáng gầm rú trên con phố bận rộn. Sau đó, mẹ cúi đầu và tiếp tục cuốc bộ đến tiệm giặt ủi địa phương nơi bà làm việc. Tôi thở dài và rời khỏi cửa sổ. Tôi cần làm điều gì đó có ích hơn. Tại sao tôi lại cứ theo dõi bố mẹ? Bởi tôi đã lớn tồng ngồng nhưng vẫn ru rú trong nhà và vô công rỗi việc. Nếu sơ sảy, tôi rồi cũng sẽ như mẹ. Rụt rè, cam chịu, bán mình vào công việc chẳng đồng dư. Thế nhưng, tôi lại bắt gặp một ý niệm khác về bố và mẹ sau ngần ấy thời gian. Sự say sưa trên khuôn mặt mẹ khi bà đọc tiểu thuyết ngôn tình Trung Quốc trong đêm, thể loại mà bố coi thường. Cách mà bố cố với lấy khuỷu tay mẹ khi ông đi phía sau, rồi ông chợt nhận ra, và rụt tay lại. Tôi ngang qua tủ quần áo trong phòng ngủ của mình, và dừng mắt nơi tấm áp phích treo trên tường - gần như khuất sau mớ giấy tờ lộn xộn và đống giặt ủi. Đó là một câu nói của Willa Cather mà tôi luôn yêu thích: “Trái tim của một người luôn là một khu rừng tối, bất luận nó kề cận với chủ nhân như thế nào”. Tôi không chắc mình có tin vào xúc cảm nhưng những lời của bà ấy thì không bao giờ làm tôi thất vọng. Căn hộ chật chội của chúng tôi vẫn còn phảng phất hương trầm mẹ thắp sáng nay trên bàn thờ bà ngoại. Bà mất ở Amsterdam một tuần trước. Bà sống ở đó với gia đình Tan, gồm có chị họ của mẹ, dì Helena; chồng của dì, dượng Willem; và cậu con trai Lukas, ba mươi ba tuổi, bằng tuổi chị gái tôi, Sylvie. Tôi chưa gặp bà bao giờ nhưng nỗi đau buồn mà mẹ mang như một con thác đổ dồn lên lòng tôi đến ngập lụt. Quầng mắt mẹ tấy đỏ và buốt rát. Mấy đêm rồi, trong khi bố trốn trong phòng ngủ, tôi nắm chặt lấy tay mẹ khi bà nằm co ro trên ghế sofa, nén tiếng khóc, cố ngăn dòng lệ ào chảy bằng một miếng khăn giấy cũ nhàu. Hôm nay tôi cũng mặc đồ đen, vì mẹ, trong khi bố vẫn ăn vận như thường ngày. Không phải là ông không quan tâm. Chỉ là ông không thể để chúng tôi nhìn thấy cảm xúc ấy. Chị Sylvie sống cùng bà và gia đình dì Helena tại Hà Lan trong suốt chín năm đầu đời và chị vừa bay trở lại đó vào một tháng trước, ngay khi nghe tin bà ốm. Chị cũng đang quản lý một dự án tư vấn cho công ty của mình tại đó. Chị Sylvie rực rỡ, lớn hơn tôi bảy tuổi, đã kéo theo cuộc sống hào nhoáng ở châu Âu về tới căn hộ sặc mùi bắp cải của chúng tôi ở phố Queens khi tôi chỉ mới hai tuổi. Thường sẽ có một sự phân chia đều giữa các chị em gái về sự xinh đẹp và thông minh, nhưng trong gia đình tôi, cả hai phẩm chất ấy đều thuộc về chị. Và tôi, chỉ là một cái bóng, suy cho cùng, chỉ là một âm vọng nhạt nhẽo. Nếu tôi không yêu chị Sylvie rất nhiều, thì tôi hẳn sẽ rất ghét chị ấy. Làm thế nào mà một sinh vật xuất sắc như Sylvie lại được sinh ra từ những người trần tục như mẹ và bố? Cứ mỗi khi tôi học với bất kì giáo viên nào từng dạy chị Sylvie, họ đều thốt lên rằng, “Ah, em là em gái của Sylvie Lee đây mà” với đầy ắp những mong đợi. Và tôi sẽ dõi chờ khi những hy vọng cao ngút ấy của họ bỗng chốc biến thành sự hoang mang trước vẻ chậm chạp và đần độn mà tôi thể hiện. Tiếp đó họ sẽ thất vọng, và cuối cùng, là sự thờ ơ. Sylvie từng theo học tại Đại học Princeton, nhận bằng Cử nhân Kỹ thuật Hóa từ Viện Công nghệ Massachusetts, đi làm một vài năm, sau đó trở lại trường học để lấy tiếp bằng Thạc sĩ Quản trị Kinh doanh từ Harvard. Bây giờ chị ấy là một chuyên gia tư vấn quản lý, một công việc mà tôi không bao giờ hiểu được dù cho chị có cố giải thích bao nhiêu lần. Cũng như tôi, Sylvie rất mê đồ ngọt, nhưng khác hẳn với tôi, chị ấy không bao giờ lên cân. Tôi đã từng trố mắt nhìn chị ăn lần lượt hết từng cái bánh trứng mà chẳng hề ảnh hưởng gì đến vòng eo thanh thoát, như thể nội lực mãnh liệt bên trong chị sẽ đốt cháy đám calo kia, tiêu hủy hết mọi thứ mà chị ấy nạp vào. Sylvie từng bị nhược thị khi còn nhỏ và đeo miếng che mắt trong nhiều năm. Giờ thì thứ duy nhất không hoàn hảo trên khuôn mặt đáng yêu của chị ấy là mắt phải có phần lác nhẹ khi chị ấy mệt mỏi. Hầu hết mọi người đều không nhận thấy, nhưng đôi khi tôi cũng tự an ủi mình với khiếm khuyết nhỏ này của Sylvie - Thấy chưa, chị ấy cũng không hẳn đã hoàn hảo. Tôi tiến đến hộc tủ gồ ghề, nơi tôi đã cẩn thận bọc và giấu một chùm lô quất nhỏ màu cam. Nếu tôi để chúng trên mặt bếp bằng nhựa vinyl và để bố bắt gặp một con ốc sên yếu ớt ẩn mình giữa những quả mọng này, bố chắc sẽ giết nó. Bố làm việc trong một chợ cá ở khu phố Tàu. Ông buộc phải trở nên vô cảm với cái chết - trước những con cá nằm ngoi ngóp trên mặt thớt gỗ cho đến khi ông kết liễu chúng bằng con dao pha trên tay mình. Con ốc nhỏ với lớp vỏ trong mờ vẫn còn lóp ngóp bò trên một trong những quả lô quất và trông nó có vẻ ổn. Bất cứ điều gì đủ mạnh để tồn tại trên hành trình gian nan từ Trung Quốc thì xứng đáng có cơ hội để sống tiếp. Tôi lấy một cái túi nhựa đã qua sử dụng, nhẹ nhàng bỏ quả lô quất và con ốc sên vào đó, rồi bước đến cửa. Tôi giũ nhẹ chiếc áo khoác mỏng và cầm lấy ví cùng điện thoại. Trước khi bước ra ngoài, tôi tháo cặp kính dày cộm màu tím và nhét chúng vào túi áo. Tôi cũng chẳng buồn đeo kính áp tròng. Sự hợm hĩnh và biếng nhác hòa vào cuộc sống trong thế giới mờ ảo của tôi gần như mọi lúc. Tôi lê bước qua vài tòa nhà tiến đến công viên nhỏ gần đó. Vẫn còn sớm, nên một số cửa hàng vẫn đóng cửa im lìm, và tôi rùng mình khi một làn gió lạnh buốt quét xuống vỉa hè bê tông. Một mùi hôi thối xộc lên từ nhựa đường quẩn quanh, dọc khắp các tòa nhà trống hoắc như hù dọa tôi. Một người mẹ đang kéo một đứa trẻ nhỏ bẩn thỉu đằng sau vội ngoảnh mặt khi đi ngang qua tôi. Không ai nhìn vào mắt ai nơi đông người, quạnh quẽ và tẻ nhạt này - không ai cả, ngoại trừ những kẻ đang cố gây sự. Lúc này, một nhóm người đang lang thang trước ô cửa sổ vỡ ở cửa hàng với tấm biển to oạch về thứ gì đó giảm giá năm mươi phần trăm. Không hơn không kém, họ chỉ như những vệt đen trong tầm nhìn hạn chế của tôi khi rú lên sau lưng tôi, “Nỉ-hào cô em! Có thể cho anh gửi cái“trứng cuốn” vào “miếng chả” của cô em không?” rồi phá lên bằng một tràng cười khản đặc. Họ phải nói mấy lời đần độn này mỗi ngày sao? Miễn là họ vẫn giữ khoảng cách, sự mờ ảo trong tầm nhìn khiến tôi thoải mái như trong một cái kén. Khi gần như mù, tôi có thể vờ như mình cũng bị cũng điếc. Một ngày nào đó, tôi sẽ tiếp tục chương trình học của mình tại Đại học Thành phố New York và hoàn thành chứng chỉ giảng dạy để tôi có thể thoát khỏi nơi này. Tôi sẽ rời xa cả mẹ và bố. Việc tôi đã bỏ học năm ngoái cũng chẳng đáng lo ngại. Tôi có thể làm được. Tôi đã có bằng cử nhân tiếng Anh. Tôi gần tới đích rồi. Tôi có thể thấy chính mình đang đứng trước một lớp học đầy những đứa trẻ. Chúng đang lắng nghe, cười vui trước những câu chuyện cười tôi kể, đôi mắt mở to trước sự rực rỡ của văn học mà chúng đang đọc, và tôi sẽ không bỏ sót bất cứ một từ nào. Tỉnh lại đi, Amy. Tất cả những gì mày có thể làm bây giờ là một vị cứu tinh ốc sên, đó cũng không hẳn là một biến chuyển tồi đâu. Sylvie và tôi đều theo đạo Phật, và một số ý niệm, như tất cả những gì trân quý trong cuộc sống, vẫn ở lại với chúng tôi. Khi còn nhỏ, chúng tôi thường rượt đuổi nhau quanh căn hộ với lưới bắt bướm, cố bắt ruồi và rồi lại thả chúng ra. Thế nhưng, như được chứng thực bởi bố và những-sinh-vật-biển- khác, tôn giáo chỉ tồn tại cho đến khi ta giáp mặt với sự khắc nghiệt của cuộc sống thường nhật. Công viên vẫn đang hồi sinh sau mùa đông khắc nghiệt và tôi vật vã tìm cho mình một vị trí đẹp rợp lá. Tôi rón rén gập người giữ con ốc giữa ngón trỏ và ngón cái khi điện thoại di động đổ chuông. Tôi nhảy lên và suýt thả rơi con ốc. Tôi đặt nó xuống, xoay xở để kéo điện thoại ra khỏi áo khoác, và nheo mắt để đọc số. Tôi vừa định trả lời thì người gọi đã cúp máy. Dãy số rất dài, bắt đầu với 31+. Tôi đã nhìn thấy đầu số này trước đây trên điện thoại của Sylvie. Là một người từ Hà Lan - có lẽ là anh họ xa của tôi, Lukas, bởi anh ấy không bao giờ gọi cho tôi. Anh ấy hay nói chuyện với chị Sylvie. Tôi dò thử phí cuộc gọi cho Lukas ở Amsterdam rồi lưỡng lự. Hy vọng anh ấy sẽ gọi lại. Tôi đi thẳng tới một tiệm đĩa. Tôi thích la cà ở một trong những chốt phát nhạc của họ nhưng hầu như chẳng mua thứ gì. Bụng tôi thắt lại khi nghĩ đến núi tiền vay sinh viên, chất chồng theo từng tấm bằng. Nhiều năm luẩn quẩn, cố gắng xác định những gì tôi muốn làm với cuộc đời mình trước khi quyết định chọn việc đi dạy - nhưng rồi, tật nói lắp lại trở lại khi tôi đứng trước nhóm thực tập. Dù tôi gần như đã bỏ được, nhưng nỗi sợ hãi về việc nói lắp đã chứng minh rằng nó luôn mạnh mẽ như nó vốn có: tất cả những khuôn mặt trống rỗng đó, sự hoảng loạn như một cái chăn dày khiến tôi nghẹt thở. Đôi lúc, tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên an phận là một kẻ nhập cư thất học như mẹ và bố. Vài con chim non rời tổ và vút cao, như chị Sylvie, những con khác thì bối rối, và run rẩy, rồi rơi bổ xuống đất. Cuối cùng, tôi không thể đối diện với các bạn cùng lớp và giáo viên của mình nữa. Và chị Sylvie, tất nhiên, là người bảo lãnh cho tôi khi các khoản vay của tôi vượt quá thời gian gia hạn. Chị ấy đã thanh toán mà không nói một lời. Chị Sylvie, khá giả, ít nhất là so với tôi, nhưng chị ấy không giàu đến mức có thể gánh vác thêm một khoản chi phí mà không cảm thấy hề hấn gì. Chị và chồng chị, anh Jim, thậm chí còn đang nặng vai khoản vay sinh viên hơn cả tôi, anh Jim thì không kiếm được nhiều tiền từ công việc tư vấn hướng nghiệp tại một trường công lập ở Brooklyn. Mặc dù có tiền thừa kế, nhưng bố mẹ của anh cho rằng người trẻ nên tự kiếm tiền, thế nên anh ấy sẽ không nhận được một xu nào cho đến khi họ mất, ngoại trừ món quà khôi hài mà họ đã cho anh khi cưới chị Sylvie. Còn tôi, thay vì phụ giúp bố và mẹ, những người đã làm lụng vất vả nhiều năm trời, thì tôi lại đang sống trong căn hộ của họ và ăn bám họ hằng ngày. Tôi hiện tại vẫn lông bông, mặc dù khả năng đánh máy của tôi rất nhanh - cũng là kỹ năng duy nhất mà tôi có, nhưng công việc thì khan hiếm. Do kinh tế mà thôi, tôi phân bua với tất cả, nhưng tất nhiên là tôi rõ hơn ai hết, bởi chỉ có tôi mới hiểu rõ nhất về mình. Chị Sylvie nói rằng tôi không có đủ tiềm năng, tôi bực dọc và bảo chị ấy thôi đi, để cho tôi yên. Trong cửa hiệu, tôi đi đến quầy nhạc cổ điển và bắt đầu thư giãn ngay khi giọng hát mượt mà, êm ái của Anna Netrebko phát ra từ chiếc loa. Cô ấy hát bài Verdi. Các kệ đĩa CD nằm gọn gàng bên cạnh các bảng xếp hạng âm nhạc và những thùng đĩa nhựa nối tiếp nhau. Những cây guitar và vĩ cầm cũ xếp thẳng hàng trên tường. Tôi thật sự thích cái cách mùi giấy, đồ sơn mài và nước tẩy hương chanh tỏa hương. Zach, một anh chàng đáng yêu, đã đi làm trở lại. Ít nhất, tôi tin là anh ấy hấp dẫn. Rất khó để chắc chắn khi không có kính - thứ giúp tôi không bị “đứng hình” nếu đến gần anh ta. Đối với tôi, những đường nét trên khuôn mặt và cơ thể của anh ấy thật lôi cuốn, tôi yêu giọng nói của anh ấy - ấm áp, hào sảng và trong trẻo. Anh ấy luôn có vẻ như đang mỉm cười với tôi. “Này, Amy. Tuần này cậu muốn nghe gì?” Tôi cố gắng thể hiện sự thân thiện trên khuôn mặt mình nhưng dường như tôi đang biến nó trở nên nhăn nhó đến mức ngượng nghịu. “Anh có gợi ý nào không?” Anh ấy chỉ việc để cho khách hàng nghe thử các đĩa nhạc nhưng dường như chưa bao giờ lưu tâm đến những lần lượn lờ của tôi trong cửa hiệu. “Vậy, Joseph Szigeti thì sao?” Tôi hăng hái đến mức quên cả xấu hổ. “Tôi vừa đọc một bài báo về bản thu Prokofiev Concerto No.1 in D của anh ấy.” “Đang rất sốt đấy,” anh ấy nói và lấy ra một đĩa CD. “Anh ta là minh chứng rằng kỹ thuật hoàn hảo không phải là tất cả.” Ngay khi chúng tôi đi đến quầy nghe, điện thoại của tôi đổ chuông. “Xin lỗi”, tôi lí nhí nói. “Tôi phải nghe máy.” Tôi cúi đầu và rời cửa tiệm. Tôi bắt máy và ngay khoảnh khắc nghe thấy giọng anh Lukas, tôi biết có chuyện chẳng lành xảy ra. Đường truyền đầy nhiễu sóng, có thể do cuộc gọi xuyên Đại Tây Dương. Tôi lấy tay bịt tai bên kia lại để cố nghe rõ hơn. “Amy, anh cần nói chuyện với Sylvie ngay,” Lukas nói. Giọng anh ấy căng thẳng và đầy gấp gáp với ngữ điệu Hà Lan của anh nặng hơn là tôi nghĩ. Tôi nhíu mày. “Nhưng chị ấy đang ở Hà Lan chỗ anh mà.” Anh ấy thở mạnh đến mức tôi có thể nghe thấy nó qua điện thoại. “Sao cơ? Không có, cô ấy đã bay về đó vào thứ bảy. Giờ này phải đến nơi rồi chứ. Em không nghe tin gì từ chị em sao?” “Nhà em còn không biết là chị ấy đang về. Em mới nói chuyện với chị ấy sau đám tang của bà. Khi đó là khi nào nhỉ? Thứ năm, phải không? Em nghĩ chị ấy sẽ ở lại lâu hơn. Chị ấy cũng có nhắc đến dự án của chị ở đấy vẫn chưa xong.” “Sylvie vẫn không trả lời điện thoại. Anh rất muốn nói chuyện với cô ấy”. Rõ ràng, một người có trách nhiệm như chị Sylvie sẽ báo cho chúng tôi biết ngay nếu chị ấy quay lại. Chị ấy lẽ ra đã đến gặp mẹ và kể cho mẹ nghe về bà. Tim tôi bắt đầu đập mạnh như có một vết cắt dưới da. Phải có một vài lời giải thích đơn giản nào đó chứ. Tôi cố gắng trấn an: “Đừng lo lắng, em sẽ xem chuyện gì đang xảy ra.” “Uhm, làm ơn hãy tìm hiểu xem có chuyện gì nhé. Khi nào tìm thấy cô ấy, bảo Sylvie gọi cho anh, được chứ? Ngay lập tức nhé.” Một khoảng lặng rợn người. “Anh hy vọng cô ấy sẽ không có chuyện gì.” Tôi vội đeo kính và nhanh chóng đến tiệm giặt khô nơi mẹ làm việc. Mùi kinh khủng của hơi nước và hóa chất bao trùm lấy tôi khi tôi đẩy cánh cửa mở. Tôi thấy mẹ đang đứng sau một cái quầy dài, lí nhí một thứ tiếng Anh bập bẹ với một người phụ nữ ăn vận đẹp đẽ, mái tóc vàng óng ả sau lưng. “Chúng tôi rất bực khi một cái cúc áo đã bị long ra sau khi nhận lại mớ đồ này.” Bà khách vừa nói vừa đẩy về phía mẹ một chiếc áo sơ mi sọc của nam. “Vô cùng xin lỗi bà!”. Khuôn mặt nhỏ bé của mẹ dường như thêm gầy gò và xanh xao trong bộ quần áo đen, đôi mắt sưng lên vì khóc. “Tôi sẽ sửa nó”. Người phụ nữ gõ bộ móng tay được cắt tỉa cẩn thận lên mặt quầy. Giọng bà ta vừa cáu gắt vừa ra vẻ trịch thượng, như thể bà ấy đang nói chuyện với một đứa trẻ phạm lỗi. “Chất lượng dịch vụ thật sự không tốt như chúng tôi mong đợi, đặc biệt là sau khi lên giá đấy.” “Rất xin lỗi bà!”, mẹ lặp lại. Tôi nhìn trừng trừng về phía tấm lưng xương xẩu của bà ta. Tôi muốn nói với bà ấy rằng chủ cửa hiệu tăng giá chứ mẹ tôi chẳng được lợi gì trong đó. Mẹ thậm chí còn chưa được tăng lương trong suốt từng ấy năm làm việc ở đây - phải đứng suốt cả ngày, khiêng hàng đống quần áo nặng trịch, rồi giặt, ủi và sửa chúng. Nhưng miệng tôi cứ ngậm chặt. Tôi đợi cho đến khi bà khách mắng mỏ mẹ xong và rời đi. Mặc dù đang buồn, nhưng khi thấy tôi, nụ cười lại làm bừng sáng khuôn mặt mẹ. Tuy có thể hiểu một ít tiếng Hoa, nhưng tôi không bao giờ học nói cho đàng hoàng, vì vậy mẹ luôn nói chuyện với tôi bằng tiếng Anh. “Sao con lại ở đây, Amy?” Tôi đã định không làm mẹ lo lắng nhưng tôi nhận ra mình đang ghì chặt cổ tay bà, vò nát chiếc áo blouse vải polyester mỏng manh. “Anh họ Lukas vừa gọi cho con. Anh ấy nói, chị Sylvie đã bay về nhà vào cuối tuần trước, nhưng chị ấy không nhấc máy.” “Ay yah.” Mẹ thảng thốt lấy tay che miệng. Đôi mắt to đen của bà trợn trắng. “Nó không nói với chúng ta là nó về. Nó nhất định vẫn ổn. Chỉ là nhầm lẫn gì đó thôi. Con gọi anh Jim chưa?” “Con đã thử mọi cách nhưng anh ấy không trả lời. Không có vụ rơi máy bay hay chuyện gì xảy ra, phải không mẹ?” “Tất nhiên là không! Con đang nói bậy gì vậy!” Mẹ vuốt trán ba lần bằng bàn tay trái gầy guộc để xua đuổi những xui xẻo trong lời nói tôi vừa thốt ra. Mẹ nhìn chằm chằm tôi cho đến khi tôi cúi người để mẹ có thể làm điều tương tự với tôi. Tôi và mẹ có chiều cao gần như nhau và khi chợt nhìn thấy hình ảnh phản chiếu của chúng tôi trong gương ở cửa hàng, tôi mới chợt nhớ rằng tôi trông giống bà đến mức nào - ngoại trừ việc tôi đeo một cặp kính dày và không thể nào so sánh với hình ảnh của mẹ khi còn trẻ. Mẹ từng là cô gái đáng yêu nhất trong làng chúng tôi ở Quảng Đông. Bây giờ ở độ tuổi 50, làn da của mẹ vẫn đẹp với một vài nếp nhăn mờ, lớp kem mềm mượt làm nổi bật đôi mắt ấm áp, và có gì đó dịu dàng nhưng hoang dã trong ánh mắt của bà, như một chú nai vàng trong rừng thông. “Con đi đến nhà chị đi. Xem chuyện gì xảy ra. Hãy lấy chìa khóa, trong lọ gừng khô ở nhà.” “Con có chìa khóa riêng. Chị Sylvie có đưa cho con trước khi chị ấy đi. Nhưng mẹ có chắc không, mẹ?” Tôi thấy ngại khi nghĩ đến việc vào nhà chị Sylvie mà không có sự cho phép. Tâm trí tôi rối loạn: Nếu anh Jim ở đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra đây? Và điều gì có thể xảy ra với chị Sylvie? “Chắc, chắc chắn mà,” mẹ khẳng định. “Con hãy đi ngay đi! Nhanh lên!” Mời các bạn đón đọc Đi Tìm Sylvie Lee của tác giả Jean Kwok & Liên Thảo (dịch).
Bá Tước Dracula
Bá Tước Dracula là một cuốn tiểu thuyết kinh dị gothic năm 1897 của tác giả người Ireland Bram Stoker , nổi tiếng với nhân vật ma cà rồng bá tước Dracula . Cuốn tiểu thuyết kể về hành trình từ Transylva-nia đến Anh để săn lùng những con mồi mới và gieo rắc lời nguyền của Dracula và cuộc chiến giữa hắn và nhóm giáo sư Abraham Van Helsing . Cuốn tiểu thuyết đề cao vai trò của phụ nữ trong văn hoá Victoria, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa hậu thực dân . Mặc dù không sáng tạo ra ma cà rồng , nhưng tác phẩm của Stoker đã định ra hình thức hiện đại của nó và tạo ra nhiều diễn giải được áp dụng trong sân khấu , phim ảnh và truyền hình sau này . Mời các bạn đón đọc Bá Tước Dracula của tác giả Bram Stoker & Nguyễn Tuyên (dịch).
Lời Thú Tội
Sau cuộc phiêu lưu ly kỳ khám phá bí mật Cây Kim Rỗng, tưởng đâu gã đạo chích Arsène Lupin sẽ lui về ở ẩn một thời gian. Nhưng không, với bản tính ưa mạo hiểm, thích khám phá, Lupin sao có thể chịu ngồi yên nhìn cuộc đời trôi qua trong bình lặng. Những phi vụ của “Tên trộm quốc dân” đã được tái hiện đầy đủ và sống động trong Lời thú tội. Đan xen trong tập truyện là những vụ trộm vừa phải, những món lợi khiêm tốn hơn, Lupin đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì hắn thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. *** “Siêu trộm hào hoa”, “Hoàng tử đạo chích”, “Robin Hood của giới tội phạm”, đó là những mỹ danh được dành tặng cho một trong những nhân vật tiếng tăm nhất của dòng văn học trinh thám phiêu lưu nước Pháp: Arsène Lupin. Ra mắt độc giả vào năm 1905 dưới dạng truyện ngắn dài kỳ trên tạp chí Je sais tout, gã đạo chích thông minh, quyến rũ nhưng không kém phần hài hước và láu cá ấy đã khiến cảnh sát khốn khổ vò đầu bứt tai, cánh nhà giàu ngày đêm lo ngay ngáy vì mất của, còn công chúng thì thích thú tán thưởng và hồi hộp dõi theo những màn trình diễn đầy hấp dẫn và không thể đoán trước kết cục. *** Arsène Lupin là một nhân vật hư cấu xuất hiện trong loạt truyện thám tử, tiểu thuyết trinh thám của nhà văn Pháp Maurice Leblanc, cũng như một số phần tiếp theo và rất nhiều phim truyền hình, phim điện ảnh như Night Hood, Arsène Lupin, các vở kịch và truyện tranh phỏng theo.   Cùng thời với Arthur Conan Doyle, Maurice Leblanc (1864-1941) đã sáng tạo ra nhân vật Arsène Lupin, một nhân vật có tầm phổ biến rộng khắp và lâu dài ở các nước nói tiếng Pháp, giống như Sherlock Holmes (tải eBook) ở các nước nói tiếng Anh. Serie Arsène Lupin gồm hai mươi tập truyện được viết bởi chính Leblanc cộng thêm năm phần tiếp đã được ủy quyền cho nhóm viết của Boileau-Narcejac thực hiện, cũng như nhiều tác phẩm khác phỏng theo. Nhân vật Lupin được giới thiệu lần đầu trên tạp chí Je Sais Tout qua một loạt truyện ngắn, bắt đầu từ số thứ 6, ngày 15 tháng 7 năm 1905. Ban đầu nhân vật mang tên Arsène Lopin, nhưng vấp phải sự phản đối từ một chính trị gia trùng tên, kết quả là "Lopin" đã bị đổi thành "Lupin". Arsène Lupin là một siêu đạo chích có tài hóa trang, một tên trộm quý tộc chuyên trộm đồ của nhà giàu trong khi núp bóng quý ông lịch thiệp. Nhân vật Lupin giống với Marius Jacob nên có khi được cho là dựa trên hình mẫu này.xuất hiện trong 12 tập truyện ngắn đã cho thấy đây là một nhân vật có thể sánh ngang cùng với các nhân vật khác như Holmes cua Conan Doyle, Hercule Poirot cuả Agatha. Hình tượng Lupin đã được nhiều bộ phim nổi tiếng lấy làm mẫu nhân vật như Kaito Kid trong bộ manga nổi tiếng Thám tử lừng danh Conan (tải eBook). *** Maurice Leblanc sinh năm 1864 tại Rouen, Pháp. Tên tuổi của ông thực sự được biết tới và để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả suốt hơn một thế kỷ qua nhờ series truyện dài kỳ cho tạp chí Je sais tout về nhân vật siêu đạo chích Arsène Lupin. Nhờ những cống hiến không ngừng nghỉ của mình, Leblanc đã được trao tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh. Ông mất năm 1941 tại Perpignan. Dưới đây là một số tác phẩm của Maurice Leblanc được dịch và xuất bản tại Việt Nam: - Cái chết rình rập - Đối đầu Sherlock Holmes - Sa bẫy địa ngục - Những cú siêu lừa của Arsène Lupin - Những cuộc phiêu lưu của Arsène Lupin - Tám vụ phá án của Arsène Lupin - Ngôi nhà bí ẩn - Báo Thù - Nữ bá tước Cagliostro - Hòn Đảo 13 chiếc quan tài - Hai Nữ Tướng Cướp - Tam giác vàng ma quỷ - Arsene Lupin và Hồi Ức Bí Mật - Vụ Chơi Khăm Ngài Triệu Phú - Cây Kim Rỗng - Lời Thú Tội - ... *** Lupin này!” Tôi gạ. “Kể tôi nghe chuyện gì của anh đi.” “Ái chà! Chuyện gì là chuyện gì cơ chứ? Đời tôi – ai cũng biết hết rồi mà!” Lupin đang ngồi mơ màng trên chiếc trường kỷ trong phòng làm việc của tôi, đáp lại như thế. “Nào có ai biết rõ đời anh!” Tôi nói. “Đọc mấy lá thư anh gửi đăng báo, người ta biết đại khái anh dính vào vụ này, anh động vào việc kia… Chứ vai trò của anh, nội tình câu chuyện, diễn biến thế nào, kết thúc ra sao, những cái đó thì đố ai biết được!” “Xi! Toàn mấy chuyện linh tinh chứ có gì hay đâu!” “Ô này! Thế chuyện anh gửi năm mươi nghìn franc cho bà góa phụ Nicolas Dugrival thì sao? Anh bảo đấy là chuyện linh tinh không hay á? Còn chuyện anh giải mã câu đố bí ẩn của ba bức tranh đó nữa?” Lupin phá lên cười. “Đúng, đó là một bí ẩn lạ lùng, hẳn nhiên rồi. Tôi đề xuất một tiêu đề thế này, anh xem có thích không nhé: Mật hiệu bóng kim đồng hồ?” “Và cả những thành công tuyệt vời của anh trong xã hội và… với phái đẹp?” Tôi nói thêm. “Những cuộc tình chớp nhoáng của Arsène!… Rồi bí mật đằng sau những việc tốt anh đã làm? Mấy câu chuyện mà anh thường bóng gió với tôi bằng những cái tên: Chiếc nhẫn cưới, Tử thần rình rập… đó! Sao phải chậm trễ giãi bày những tâm sự và những thầm kín ấy, hả Lupin tội nghiệp của tôi?… Nào, hãy mạnh dạn lên một chút, làm như tôi bảo đi nào!…” Hồi đó, Lupin đã nức tiếng giang hồ, nhưng vẫn chưa thực hiện những phi vụ siêu khủng, chưa lao vào mấy trận chiến nảy lửa; là hồi trước các cuộc phiêu lưu để đời Cây Kim Rỗng và 813.Không mơ tới việc chiếm hữu kho báu cổ xưa mà những nhà vua nước Pháp⦾ tích lũy suốt mấy trăm năm, hay thay đổi bản đồ châu Âu ngay dưới mũi hoàng đế Đức, anh hài lòng với những vụ trộm vừa phải hơn và những món lợi khiêm tốn hơn. Hàng ngày, anh đều đặn làm việc xấu và cũng làm cả chút việc tốt nữa, bởi bản tính tự nhiên và vì anh thích thế, như một Don Quichotte dị thường và đầy trắc ẩn. Thấy anh im lặng, tôi lại nhắc: “Nào Lupin, mời anh kể…” Những lời anh đáp làm tôi ngạc nhiên: “Lấy giấy ra đi, anh bạn thân mến, cả bút nữa!” Tôi sốt sắng làm theo ngay, lòng khấp khởi mừng thầm với ý nghĩ: Cuối cùng, anh cũng chịu đọc cho đôi trang. Anh luôn biết cách kể chuyện. Những câu chuyện của anh bao giờ cũng lý thú và hấp dẫn, đầy khí lực và lôi cuốn, trong khi tôi cứ mải miết sa đà vào những giải thích rườm rà và trình bày nhàm chán. “Đã xong chưa?” Anh hỏi tôi. “Giấy bút sẵn sàng cả rồi đây!” “Anh viết nhé: 20 – 18 – 5 – 14; 8 – 5 – 20.” “Cái gì đây?” “Tôi bảo thì anh cứ viết đi.” Anh ngồi dậy, mắt dõi ra ô cửa sổ mở toang, còn ngón tay về một điếu thuốc lá Thổ Nhĩ Kỳ thượng hạng. Anh đọc tiếp: “Tiếp này: 6 – 1 – 9…” Ngừng một chút, anh lại đọc: “20 – 18 – 1 – 14 – 8.” Và sau một lúc im lặng. “24 – 5.” Anh điên rồi ư? Tôi chăm chú nhìn anh, chẳng mấy chốc đã nhận ra đôi mắt anh không còn lơ đãng như trước nữa, mà sắc sảo và rất tập trung, như thể đang theo dõi đâu đó trong không gian một cảnh tượng khiến anh bị thu hút. Nhưng, trong lúc đó, anh vẫn đọc và ngắt nghỉ giữa từng con số: “14 – 7 – 21 – 25…” Chẳng có gì để nhìn ngắm qua khung cửa sổ kia, ngoài mảnh trời màu lam ở phía bên phải và mặt tiền ngôi nhà cũ đối diện, cửa lúc nào cũng đóng im ỉm. Ngoài đó, chẳng có gì đặc biệt, cũng chẳng có gì mới giữa những thứ tôi luôn nhìn thấy suốt bao năm qua. “8 – 9…” Rồi tôi chợt hiểu… hay đúng hơn, tôi tưởng mình đã hiểu. Bởi làm sao tôi có thể thừa nhận một người bản chất điềm đạm giấu sau chiếc mặt nạ ngông nghênh phớt đời như Lupin lại có thể phí thời gian vào những trò trẻ con vớ vẩn như thế được? Không nghi ngờ gì nữa: Anh đang đếm những tia nắng mặt trời thoắt ẩn thoắt hiện vui đùa trên mặt tiền xám xịt của ngôi nhà đối diện, cao ngang lầu hai⦾. “5…” Lupin đọc. Vệt nắng biến mất mấy giây, rồi lại hiện ra trên mặt tiền ngôi nhà, rồi lại biến mất. Những lần hiện ra rồi biến mất ấy cách nhau đều đặn từng quãng. Tôi vô thức cũng đếm những vệt nắng trên tường và hô to: “13…” “Đã nắm được rồi à? Khá lắm! Chúc mừng nhé!” Anh cười, có chút giễu cợt. Anh bước tới khung cửa và nhoài người ra, như muốn tìm xem tia nắng rọi từ hướng nào. Rồi anh quay trở vào và lại nằm dài lên chiếc trường kỷ, nói: “Giờ đến lượt anh. Đếm đi!” Tôi nghe theo, có vẻ như gã tinh quái này biết chuyện gì đang xảy ra. Với lại, tôi cũng không thể phủ nhận, cách những vệt nắng kia ẩn hiện theo tần số trên mặt tiền ngôi nhà đối diện có gì đó bất thường, khiến ta phải tò mò. Chúng nhấp nháy đều đặn, nối tiếp nhau như tín hiệu đèn pin. Vệt nắng rõ ràng được chiếu ra từ ngôi nhà cùng dãy với nhà tôi, vì mặt trời chiếu xiên qua cửa sổ nhà tôi. Hình như có ai đó đang đóng – mở cửa kính hay đúng hơn là đang bày trò tiêu khiển bằng cách dùng chiếc gương bỏ túi hắt ánh mặt trời phản chiếu lên tường nhà người khác. “Là đứa trẻ nào nghịch gương chơi thôi mà!” Tôi gào lên, trong lòng thấy bực bội không nhịn được, sau một lúc căng mắt theo dõi và ghi chép. “Anh cứ tiếp tục đi!” Thế là tôi lại đếm… Thế là tôi lại viết những con số thành hàng… Và những tia nắng mặt trời lại tiếp tục nô đùa trước mặt tôi, với sự chính xác toán học. “Sao rồi?” Lupin hỏi, sau một lúc lâu không thấy những vệt nắng xuất hiện nữa. “Sao à? Hình như hết rồi đấy… Mấy phút trôi qua rồi mà chẳng thấy gì nữa…” Hai chúng tôi cùng đợi, do không thấy vệt nắng nào xuất hiện trên mặt tiền ngôi nhà cũ kia nữa, tôi mới đùa: “Theo tôi thấy, chúng ta vừa phí mất hơn chục phút cuộc đời. Chỉ ghi được có mấy con số trên giấy: Thành quả kém ghê!” Lupin, vẫn nằm yên trên ghế, cãi: “Ông bạn già, ông làm ơn chịu khó thay những con số bằng những chữ cái có thứ tự tương ứng trong bảng chữ cái đi tôi xem nào! Ví như chữ A thay vào số 1, chữ B vào số 2, chữ C vào số 3… cứ lần lượt thế. Làm thử tôi xem!” “Nhưng làm thế ngốc lắm!” “Quá ngốc! Nhưng trên đời có ai không làm chuyện ngốc nghếch đâu cơ chứ? Chỉ có người ít, người nhiều mà thôi!” Tôi đành ngồi xuống và làm cái chuyện ngớ ngẩn đó. Tôi bắt đầu viết những chữ đầu tiên: “T – R – E – N – H – E – T…” Tôi dừng bút, ngạc nhiên. “Được hẳn một từ có nghĩa đây này!” Tôi kêu lên. “Là từ TRÊN HẾT…” “Nốt đi, ông bạn già!” Tôi lại tiếp tục thay các con số bằng chữ cái tương ứng, lần lượt tách các nhóm ký tự ra thành từng tiếng, kinh ngạc hết sức khi chúng tạo thành những từ có nghĩa và một vế câu hoàn chỉnh hiện ra ngay trước mắt tôi. “Xong chưa?” Một lát sau, Lupin hỏi. “Xong rồi… À nhưng mà viết không dấu, lại có chỗ sai chính tả…” “Để ý đến cái đấy làm gì! Ông bạn làm ơn đọc to lên tôi nghe xem nào… Đọc chậm thôi.” Vậy là tôi đọc lên cho anh câu văn chưa hoàn chỉnh đó, nguyên văn như thế này: Trên hết, phải tránh xe nguy hiểm, chớ ttấn công, thận trọg tối đa khi tiếp cận đối phưang và…” Mời các bạn đón đọc Lời Thú Tội của tác giả Maurice Leblanc.