Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Huyền Thoại Porasitus (Thảo Dương)

Cuốn sách là câu chuyện về nàng công chúa chiến thần Anastasia - một trong những tác phẩm Việt Nam thu hút được nhiều sự quan tâm của cộng đồng mạng.

Huyền thoại Porasitus hay còn có tên gọi quen thuộc là Legend of Porasitus là tác phẩm thuộc thể loại giả tưởng, dã sử của tác giả Thảo Dương. Tác phẩm đã được đăng tải trên mạng từ năm 2003 từ khi Thảo Dương mới chỉ 15 tuổi, và sau 11 năm Huyền thoại Porasitus đã trình làng bạn đọc dưới dạng sách giấy.

Câu chuyện về nàng công chúa chiến thần Anastasia này đã trở thành một trong những truyện mạng Việt Nam thu hút được nhiều sự quan tâm nhất của cộng đồng mạng với hơn 100 website đăng tải, nhiều kết quả tìm kiếm trên Google và đạt hơn 2 triệu lượt xem.

Huyền thoại Porasitus là truyện dài giả tưởng về một lịch sử không có thật, nơi tồn tại những quốc gia hùng mạnh mang hơi hướm của thời kỳ Trung Cổ. Câu chuyện bắt nguồn từ sự diệt vong của vương quốc Porasitus xinh đẹp trước vó ngựa xâm lăng của đế quốc Henki tàn bạo, đẩy số phận của nàng công chúa cuối cùng của hoàng triều Porasitus vào một cuộc trả thù thấm đẫm máu và nước mắt.

Những tham vọng quyền lực, những âm mưu xâm chiếm, những trận đánh nảy lửa, những trò đùa số mệnh, những tình cảm nội tâm dằn xé được cất giấu trong những trang sách sẽ làm người đọc phải choáng ngợp. Tìm mua: Huyền Thoại Porasitus TiKi Lazada Shopee

Nét đặc sắc của Huyền thoại Porasitus trước hết nằm ở tài phác họa của tác giả khi xây dựng lên một xã hội với những quốc gia khác biệt rõ ràng về dân tộc, địa lý, phong tục, đặc trưng. Cách xây dựng nhân vật cũng là điểm mạnh của Thảo Dương khi đem vào Huyền thoại Porasitus hệ thống nhân vật đồ sộ với những phe phái, gia tộc, dòng dõi và đặc điểm khác nhau.

Trải dài trong Huyền thoại Porasitus là những cuộc viễn chinh xâm lược của quân đội Henki và sau đó là những xung đột quân sự để bảo vệ lãnh thổ giữa Henki và Serazan. Xen lẫn vào đó là những cuộc minh tranh ám đấu trong triều đình đế quốc, không hoàng gia nào là không tồn tại tranh chấp chính trị và không quốc gia nào là tránh được xung đột lãnh thổ, chỉ là cái giá phải trả là to lớn bao nhiêu thôi.

Huyền thoại Porasitus không chỉ là khúc bi ca về tình yêu mà còn ca ngợi những tình yêu sâu sắc mãnh liệt. Biết bao nhân vật trong truyện đã phải dằn vặt, đớn đau, thậm chí là hy sinh cả tính mạng vì tình cảm của mình. Thế nhưng tuyệt nhiên lại không có tình cảm nào nhuốm màu bi lụy.

Bằng trí tưởng tượng không có giới hạn, Thảo Dương đã viết nên một tác phẩm đậm tính anh hùng ca, có chút hơi hướm của những sử thi như Iliad và Odyssey với những trận chiến hào hùng, những con người mạnh mẽ và quả cảm, những âm mưu tranh đấu chính trị khôn lường và những tình cảm chân thành sâu sắc.***

Câu chuyện bi hùng này bắt đầu từ cái thuở xa xưa lắm rồi, khi mà cả tôi và bạn mới chỉ là những hạt bụi lơ

lửng trong vũ trụ của sự sống, khi mà ma thuật vẫn bùng lên dưới tay những bậc thầy pháp sư tài ba và những chàng hiệp sĩ vẫn mải mê lao vào trận chiến với các loài quái vật để tìm kiếm vinh quang.

Cái thuở ấy, ở một vương quốc giàu đẹp mang cái tên định mệnh Porasitus, vào một đêm trăng sáng cuối mùa thu năm trị vì thứ tám của vua Devis, trong hoàng cung lộng lẫy vang lên tiếng khóc chào đời của một đứa trẻ

-Thưa bệ hạ, hoàng hậu đã hạ sinh một tiểu công chúa. - Cô tì nữ hấp tấp chạy ra ngoài hành lang, nơi vua Devis đang bước vòng quanh cả trăm lần, tưởng chừng sắp nổ tung vì lo lắng. Mặt ngài sáng lên trong niềm vui rạng rỡ khi vội chạy vào phòng, theo sau là hai vị tiểu hoàng tử: Leon, tám tuổi và Gan, sáu tuổi.

Nhân đây cũng xin nói về hai vị hoàng tử này. Cả hai đều không phải là con của vị hoàng hậu hiện nay mà là của một hoàng hậu đã qua đời sáu năm trước sau khi sinh hoàng tử Gan. Leon có đôi mắt màu nâu nhạt, ấm áp, kiên định và mái tóc vàng kem hệt mẫu hậu. Thế nhưng cậu em Gan lại có mái tóc vàng sậm cùng đôi mắt sáng thông minh của phụ hoàng.

Trong căn phòng hoàng gia, hoàng hậu trẻ với khuôn mặt ửng hồng ôm trong tay một cuộn chăn bao gọn thân hình bé nhỏ đáng yêu. Một bé gái. Đôi mắt xanh của tiểu công chúa mở to, đẹp như hai viên ngọc quý. Một khuôn mặt ửng hồng đã sớm có những đường nét của nhan sắc tuyệt mỹ trong tương lai.

-Con ta sẽ là công chúa Anastasia. - Nhà vua tuyên bố.

Trông ông vô cùng hạnh phúc. Vâng, hạnh phúc như bất kì người cha nào trên thế gian này.

Hoàng hậu mỉm cười âu yếm:

-Và con gái yêu của chúng ta nhất định sẽ trở thành một đại mỹ nhân…

Lời của hoàng hậu chợt bị cắt ngang bởi hàng loạt tiếng la hét náo loạn bên ngoài vườn hoa. Một nữ tì hớt hải chạy vào báo, giọng đứt quãng:

-Thưa bệ hạ, xin…xin người mau ra ngoài…

Đức vua Devis nheo mày ngạc nhiên nhưng vốn đang vui vẻ, ông đứng dậy đi ra.

Bên ngoài là một khung cảnh vô cùng ấn tượng.

Vô số cánh hoa hồng màu đen thẫm đang từ trên trời tung xuống, cuộn lên trong những cơn gió mỏng. Một khung cảnh lạ lùng. Trăng sáng vằng vặc, làm nền cho một bóng người mặc áo choàng đen huyền bí đứng chót vót trên đỉnh tháp Bắc, ngọn tháp cao nhất trong cung điện. Người ấy không ngừng rải hoa xuống. Trên đỉnh tháp Nam ngay đối diện lại có thêm một người nữa mặc áo choàng đỏ sậm như máu, tay cầm đàn gảy nhịp

nhàng. Điệu nhạc du dương nhưng buồn thảm não lòng với những nốt ngân dài như hơi thở của gió miết trên nền trời đêm.

-Các người là ai?!? - Nhà vua Devis quát hỏi - Sao lại đến đây?

Thay cho câu trả lời, người mặc áo choàng đỏ cất giọng hát tuyệt hay mà đem đến cảm giác rợn người:

-Chúng ta đến để chúc mừng vì hoàng hậu đã hạ sinh tiểu công chúa xinh đẹp tuyệt trần. Chúng ta cũng đến để

chia buồn cho vương quốc Porasitus đáng thương. Ngày tàn của các người sắp đến. Lời nguyền từ hàng trăm năm trước rằng, vương quốc của nhà vua bị giẫm tan dưới vó ngựa tộc người tàn ác phương Bắc xa xôi. Hãy khóc, hãy cầu nguyện… trước khi máu chảy, thấm ướt những cánh đồng, làm những chùm nho có mùi tanh và mặn chát…

-Bệ hạ. - Hoàng hậu bế công chúa bước ra, yếu ớt phải nhờ tì nữ đỡ hai bên, mặt mày bà nhợt nhạt pha nỗi lo lắng kinh hoàng - Có chuyện gì thế ạ? Đó là những ai vậy? Họ hát cái gì thế?

-Ồ, chào công chúa đáng yêu nhất trên đời. - Người ban nãy hát tiếp, giọng vui hơn một chút, có điều đó lại là một niềm vui xa vắng - Nàng sinh ra khiến thế gian như vào mùa xuân rực rỡ tuyệt vời. Nhưng sắc đẹp là thuốc độc, nhuốm đầy máu tươi dưới vó ngựa của những chiến binh tóc đen tuyền...

-Im ngay! - Nhà vua giận dữ - Mi là ai mà dám vô lễ đến nhường ấy! Mi dám nguyền rủa con gái ta sao?!?

-Ôi, bệ hạ, hắn ta hát giống như một lời tiên tri vậy. - Hoàng hậu thoáng rùng mình, lo sợ ôm con gái bé nhỏ vào lòng như sắp có ai đến cướp mất của bà món quà tuyệt diệu này. Linh cảm của một người mẹ về tương lai đen tối đang chờ đứa con thơ ngây khiến bà tưởng chừng nghẹt thở vì kinh hãi.

Trước khi có bất cứ sự phản ứng phòng vệ nào của mọi người đang có mặt, người mặc áo choàng đen đã nhảy khỏi đỉnh tháp cao chót vót, đáp xuống ngay trước mặt gia đình hoàng tộc. Một chàng trai còn rất trẻ. Sở dĩ

chúng ta có thể khẳng định điều đó cho dù chàng che kín nửa mặt bằng thứ khăn voan đen ấy là vì sắc trong veo như thủy tinh của đôi mắt xám ánh bạc để lộ ra.

Trong và sáng. Chắc hẳn là một người con trai tuấn tú. Chàng chăm chú nhìn công chúa bé nhỏ và công chúa cũng mở to mắt nhìn lại.

-Chào người yêu dấu của ta. - Chàng trai dịu dàng nói.

Hoàng hậu vừa định thần được đã thét lên thất thanh và lùi lại sau lưng chồng trong khi hàng trăm cận vệ hoàng gia ào đến chĩa thẳng mũi thương vào người vị khách lạ lùng vừa xuất hiện.

-Mi là ai?!? - Nhà vua gầm vang như sư tử đang bảo vệ con thơ.

-Ta là kẻ lãng du mà ông không bao giờ muốn biết... - Giọng người đó bỗng chuyển thành một thứ âm thanh buốt giá sâu thẳm.

-Cái gì? Ai?

Nhưng người tự xưng là kẻ lãng du không quan tâm đến đức vua nữa, chàng mỉm cười trìu mến nhìn cô bé

trong cuộn chăn nhỏ:

-Ta đến đây vì em, người yêu dấu ạ. Định mệnh của chúng ta là ở đây. Nhưng chưa đến lúc, mười sáu năm nữa ta sẽ quay lại và mang em đi...

-Hỗn xược! Bắt lấy hắn! - Nhà vua quát. Ngài nghĩ bấy nhiêu chuyện lạ lùng thế là quá đủ!

Còn nhanh hơn cơn gió vùng thảo nguyên, chàng trai kì lạ biến mất trong một làn khói mỏng màu trắng bạc.

Công chúa Anastasia bất chợt nhoẻn cười ngây thơ. Và đôi mắt màu ngọc lam bừng sáng hơn bao giờ hết.

Đôi mắt trẻ thơ … Đôi mắt định mệnh … đã bắt đầu dõi nhìn cuộc đời đầy biến động, đau thương.

Bấy giờ đến lượt người mặc áo choàng đỏ chậm rãi bước đến, mái tóc dài màu nâu hạt dẻ tung bay phía sau lưng, huyền hoặc, phong thái ung dung, tao nhã. Mọi người cảnh giác lùi lại, không hẳn vì sợ hãi mà là bởi thứ

khí thanh khiết toả ra từ con người này thật quá sức tưởng tượng của người bình thường.

Chàng trai tóc nâu mỉm cười thật dịu dàng, khuôn mặt được che kín bởi một chiếc mặt nạ bạc:

-Tôi đến vì lời tiên tri. Mười sáu năm nữa, vương quốc này sẽ trở thành nấm mồ lớn nhất chưa từng có, bị san bằng dưới vó ngựa của tộc người phương Bắc. Hãy nhớ điều đó. Kẻ lãng du chỉ mang lại buồn thương cho công chúa mà thôi.

Cả gia đình hoàng tộc mở to mắt hãi hùng nhìn người vừa thốt ra những lời độc địa ấy. Đó không chỉ là những lời tiên tri mà đúng như lời hoàng hậu nói, nó cứ như là sự nguyền rủa. Nhưng chàng trai thì dường như chẳng quan tâm đến nỗi sợ hãi mà mình vừa gieo rắc, đôi mắt màu xanh đẹp như màu ngọc lục bảo tinh khiết nhất đang ấm áp nhìn sinh linh bé bỏng vừa chào đời, nói trìu mến:

-Tạm biệt công chúa xinh đẹp nhất trên đời, cầu cho trái tim nàng không được làm từ băng tuyết.

Người mặc áo choàng đỏ thoáng mỉm cười và rồi cũng biến mất nhẹ như làn gió ôn hoà.

Vua Devis ôm hoàng hậu vào lòng, vỗ về trấn an. Mắt ông dấy lên nỗi phiền muộn lo lắng. Niềm vui ban nãy dường như đã bị chôn vùi ở sâu, sâu lắm trong nỗi lòng sóng gió của ông lúc này. Cho dù hai người đó là ai thì công chúa Anastasia cũng đang bị đe doạ bởi những lời tiên tri mơ hồ. Là một người cha, đức vua không thể

cho phép ai hại đến con gái mình. Và với tư cách một vị vua, ông sẽ làm hết khả năng để bảo vệ con.

Công chúa Anastasia cười khúc khích thật lạ lùng trước nỗi lo lắng của những người xung quanh. Cô bé không ngủ li bì giống phần lớn những em bé sơ sinh khác. Điều đó khiến cho chúng ta cảm giác mơ hồ là dường như

bé hiểu được câu chuyện từ nãy đến giờ …

Điềm báo hay sao?

Chương 2

Thời gian trôi khe khẽ, nhẹ nhàng như những cơn gió ngày ngày vẫn ve vuốt cỏ xanh trên các thảo nguyên bao la của vương quốc Porasitus hiền hoà. Vậy mà đã mười lăm năm trôi qua, lời tiên tri mà hai con người năm xưa từng nói đang đến gần. Đức vua Devis và hoàng hậu ngày đêm lo lắng. Đức vua cảm thấy mình bất lực quá, ngài không biết phải làm gì để ngăn số mệnh đến gần và chạm bàn tay độc ác vào đứa con gái bé bỏng của mình. Nỗi u phiền đã nhuộm bạc mái tóc của ngài. Và trong khi các bậc tiền bối đang lo lắng như vậy thì những con người trẻ tuổi vẫn không hề hay biết…

-Anastasia! - Một chàng trai chừng hai mươi tuổi chạy vào cung điện Lency vừa mới xây dựng dành cho nàng công chúa yêu quý của đức vua Devis. Tóc vàng mềm như tơ, đôi mắt nâu ấm, không ai xa lạ, đó chính là nhị

hoàng tử Gan, một trong hai niềm hi vọng của thế hệ tiếp theo thuộc hoàng tộc vương quốc Porasitus.

Gan đang cố tìm cô em Ana xinh đẹp nhưng nghịch ngợm của mình trốn trong những dãy phòng trang nhã.

Cung điện này được xây bằng đá cẩm thạch trắng, có những hàng cột cao hình múi khế, thoáng đãng, khắp nơi là phù điêu chạm khắc chân dung một thiếu nữ trẻ vô cùng xinh đẹp. Mái tóc nàng mềm mại, ôm lấy khuôn mặt thanh tú, đôi mắt đầy thần khí … công chúa Anastasia.

Gan dừng bước trước bức tượng bằng người thật của em gái mình, chàng chạm tay lên đôi môi của bức tượng, mắt sáng long lanh một thứ tình cảm lạ lùng. Không ai có thể khẳng định cụ thể nó là gì, nhưng, có thể cam đoan rằng một người anh trai không bao giờ nhìn em gái mình như thế.

-Anh! - Một tiếng gọi trong veo vang lên chẳng khác nào tiếng chuông bạc.

Gan giật mình rụt tay lại, vừa kịp lúc cô gái, người được tả trong tất cả các bức tượng và tranh ở cung điện này, xuất hiện ở cuối căn phòng rộng lớn. Gan lập tức nở một nụ cười trìu mến, chứa chan yêu thương:

-Ana, anh tìm em mãi.

-Có chuyện gì vậy, anh? - Ana tung tăng chạy quanh anh trai, rực rỡ và rạng ngời như một tia nắng hiếu động của mùa xuân.

Những lọn tóc màu nâu hạt dẻ gợn sóng mềm mại rủ xuống vai, nàng nở nụ cười xinh đẹp và hướng đôi mắt sáng ngời về phía người đối diện. Ở cạnh nàng những bức tượng và phù điêu trở nên thô cứng và dường như hơi ghen tức.

Làm sao chúng có được đôi mắt long lanh nhường ấy?

Làm sao chúng có được nụ cười e ấp như đoá hoa hồng vừa hé nở buổi ban mai kia?

Nàng công chúa mới mười lăm tuổi tràn đầy sức sống hạnh phúc. Khi nhìn nàng, ai cũng bất giác thấy ấm áp và vui sướng lạ lùng.

-Phụ vương muốn em về chính cung ngay, khách từ vương quốc Henki đã đến rồi.

-Việc đó đâu liên quan đến em. - Công chúa bướng bỉnh nói, ngón tay thon của nàng quấn quấn một sợi tóc nâu mềm mại - Họ đến hay ở là chuyện của phụ vương và hai anh mà.

Gan cố tỏ ra cương quyết một chút, chỉ một chút thôi:

-Nào, mọi người đang đợi. Phụ vương muốn em có mặt thì em nên làm điều đó, Ana à.

Nhìn thấy vẻ van nài của anh trai, Ana đành tiếc nuối ngắm nhìn vườn hoa rộng lớn đầy thú vị xung quanh một lần nữa rồi nàng nhún vai:

-Được rồi, em sẽ đi với anh, không phải vì khách khứa gì đâu. Mà vì anh đấy, em sợ anh gặp rắc rối với phụ vương thôi.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Huyền Thoại Porasitus PDF của tác giả Thảo Dương nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Một Người Chân Chính (Boris Polevoi)
Năm 1954, khi từ bưng biền về hoạt động bí mật ở Sài Gòn, tôi đến cửa hàng Albert Portail ở đường Catinat mua sách báo ngoại văn. Tình cờ tôi thấy một số sách Liên Xô dịch ra tiếng Pháp của nhà xuất bản Xã hội Pháp (Editions Sociales) bày bán tự do. Tôi lựa được một cuốn tiểu thuyết rất hay: “Một người chân chính” (Un homme veritable) của nhà văn Xô viết Bôris Pôlêvôi. Tôi bắt đầu dịch ngay trong những thời gian rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Lúc đầu tôi định chuyển thể để có thể đăng trên các báo Sài Gòn hoặc ra sách, như kiểu anh Năm Châu chuyển thể vở “Người mặt cháy”. Nhưng dưới sự kiểm duyệt rất khắc nghiệt của địch nên không thể qua mặt được. Tôi liền gửi đăng trên báo Sông Chung (sau này là báo Trung Lập) của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Sau đó tôi sửa chữa lại lần nữa bản dịch gửi ra Hà Nội. Vợ tôi (chị Lê Đoan) lúc đó là thư ký tòa soạn báo Phụ Nữ Việt Nam đã đưa bản dịch cho Nhà xuất bản Thanh Niên. Cuốn sách được in 2 lần, mỗi lần với số lượng lớn 15.000 bản. Nhà xuất bản còn đề nghị tác giả Bôris Pôlêvôi gửi ảnh và lời tựa cho cuốn sách kèm với bản tự thuật của ông. Vì tôi dịch cuốn sách từ tiếng Pháp, chớ không phải tiếng Nga, nên phải nhờ Giáo sư Phạm Huy Thông hiệu đính theo nguyên bản tiếng Nga. Anh Phạm Huy Thông lại có dịp gặp cả tác giả Bôris Pôlêvôi và anh hùng Xô viết Alếchxây Mêrétxép nên việc xuất bản cuốn “Một người chân chính” càng có giá trị thắt chặt quan hệ anh em giữa Liên Xô và Việt Nam. Đây là bản dịch rất sớm các tác phẩm văn học của Liên Xô. Vì cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài, tôi rất tiếc không gặp được Bôris Pôlêvôi và anh hùng Alếchxây Mêrétxép, chỉ có liên hệ thư từ với Bôris Pôlêvôi. Chính tác giả đã gởi cho tôi nhiều tác phẩm văn học của Liên Xô và cả sách học tiếng Nga để tôi tự học khi còn ở chiến khu. Bôris Pôlêvôi còn khuyên tôi nên dịch cuốn “Tấm kiếng Parabôn” của Alếchxây Tônstôi, tôi cũng đã dịch và in thành truyện nhiều kỳ (feuilleton) trong tuần san “Hòa bình trung lập” của Việt kiều ở Phnôm Pênh. Tìm mua: Một Người Chân Chính TiKi Lazada Shopee Cuốn “Một người chân chính” có tính giáo dục, rèn luyện thanh niên rất cao, gần như cuốn “Thép đã tôi thế đấy”. Bởi vì phi công Alếchxây Mêrétxép sau khi bị bắn hạ trên bầu trời Đức chiếm đóng, gãy hai chân, đã bằng hai tay bò suốt 18 ngày đêm vừa đói vừa rét, để về căn cứ Hồng Quân. Sau khi lắp chân giả, anh lại bay nhiều ngày tấn công địch đến thắng lợi cuối cùng trong chiến tranh chống Phát xít. Anh được phong Anh hùng lực lượng võ trang Liên Xô và được bầu vào Ban Chấp hành “Hội đồng Hòa bình thế giới” chính anh đã lên tiếng nhiều lần ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam trên các diễn đàn Quốc tế. Tôi có ý định tái bản cuốn “Một người chân chính” vì cuốn sách là một tác phẩm có giá trị văn học, có giá trị giáo dục thanh thiếu niên, ngay cả trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Người dịch Minh Đô (Phạm Dân). *** LỜI TÁC GIẢ Tôi chưa sang thăm nước Việt Nam. Nhưng tôi có cảm tưởng là mình đã từng sống ở đấy, đã quen biết cảnh thiên nhiên giàu đẹp của đất nước này, với những khu rừng nhiệt đới, những con sông hùng tráng và những thung lũng phì nhiêu, những người Việt Nam tuy tầm vóc không cao lắm, nhưng gần cảnh vật và những con người ấy, không ai có thể coi là bé nhỏ. Những năm trước đây, khi nhân dân Việt Nam đang tiến hành cuộc đấu tranh thần thánh và anh dũng chống bọn thực dân được trang bị đẩy đủ thì những người Xô viết chúng tôi đã theo dõi quá trình các trận chiến đấu anh dũng của các bạn với tấm lòng kính phục và thông cảm sâu sắc. Nhân dân chúng tôi biết rõ giá trị của lòng dũng cảm, tinh thần can đảm và lòng yêu mến tự do. Người anh hùng họ biết kính phục tinh thần anh dũng của những người anh hùng khác. Vì vậy người Việt Nam ở xa chúng tôi, đã trở thành người bạn gần gũi và thân thiết. Chúng tôi rất vui mừng trước mỗi thắng lợi chống thực dân của các bạn và đã gửi đến đất nước các bạn lời chào hòa bình. Ngày nay với tấm lòng kính phục anh em, chúng tôi rất yêu mến những người Việt Nam quang vinh đang nắm trong tay vận mệnh của mình để xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Tôi hy vọng Alếchxây Mêrétxép, nhân vật có thực trong cuốn sách của tôi, một người Xô viết bình thường sẽ được gặp những người bạn tốt trong hàng ngàn vạn người lao động của nước Việt Nam mới. Chính vì ở nước các bạn cũng biết rõ giá trị tinh thần anh dũng chân chính, nên Alếchxây Mêrétxép đã đến với các bạn như tình anh em.Mạc tư khoa (Mascơva)2-1960Bôris Pôlêvôi***LỜI TỰ THUẬT CỦA TÁC GIẢ Tôi sinh ngày 17 tháng 3 năm 1908 tại Mátxcơva, nhưng tôi lớn lên ở Tưve (bây giờ gọi là Calinin); cho nên tôi có thể có lý do để tự coi mình là một công dân Calinin. Cha tôi xưa là luật gia. Ông chết vì bệnh lao năm 1916. Tôi gần như không còn nhớ gì hết về ông, nhưng cứ phán đoán theo tủ sách rất tốt ông để lại, trong đó có đầy đủ các nhà văn cổ điển Nga và nước ngoài, và theo lời mẹ tôi nói lại, thì đối với thời ông, ông là một người có đầu óc tiến bộ và có học vấn cao rộng. Sau khi cha tôi mất, mẹ tôi vào làm việc ở một nhà thương xưởng máy, làm thầy thuốc, và mẹ con chúng tôi dọn đến ở trong một xưởng dệt lớn của bọn buôn bán Marôdốp. Tôi ở đấy suốt thời thơ ấu và thời niên thiếu của tôi. Chúng tôi ở trong chỗ gọi là “nhà nhân viên”, nhưng bạn học và bạn chơi của tôi là các con cái thợ thuyền, và vì mẹ tôi làm việc ở nhà thương nên công việc bận rộn bù đầu và chả mấy khi gần gũi con được, có những khi tôi cứ cả ngày ở trong các nhà ngủ công cộng của công nhân hay ở vùng ngoại ô quanh đấy. Tôi học hành không đến nỗi quá kém ở trường, nhưng cũng không hào hứng quá độ, và vào ngày giờ rảnh, tôi hoặc ra giữa dòng sông Tưmaca - một dòng nước hôi thối chảy ngang qua xưởng - và hoặc đắm chìm trong sách vở trong thư viện của cha. Tuy bận bịu, mẹ tôi cũng cố gắng hướng dẫn tôi đọc sách và khuyên nhủ tôi đọc sách của những tác giả mà mẹ tôi ưa thích nhất. Những cuốn sách đầu tiên tôi đọc là Gôgôn, Sêkhốp, Nêcưraxốp, Pimialốpski. Nhà văn tôi thích nhất là Goócki. Khi còn là sinh viên, cha mẹ tôi đều rất tôn sùng ông, và tủ sách của gia đình gồm hầu tất cả những sách của ông xuất bản trước cách mạng. Thời còn bé, tôi lại còn có một chiều hướng thích thú khác nữa, là yêu thiên nhiên. Học lớp tư, tôi đã là một “người lãnh đạo” nhóm các nhà sinh vật học trẻ tuổi và đã tham dự những cuộc gặp gỡ của thanh thiếu niên thành phố và của thanh thiếu niên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Liên bang Xô viết Nga. Ở nhà tôi lúc nào cũng có chứa những khách lạ: một lần, có con ưng không biết tại sao lạc đến bay lới phới trong sân xưởng và đụng phải dây điện tín gẫy cánh; một lần khác, có con quạ con bị ngã từ trên ổ xuống được tôi cứu thoát khỏi móng mèo, có con nhím và có cả con rắn nước mà tôi dọn dẹp chỗ cho ở giữa hai khung cửa sổ, trong một đường rãnh nhỏ đã đào riêng cho nó. Trong thành phố bấy giờ có xuất bản một tờ báo địa phương: tờ Sự thật Tưve. Trong những năm hai mươi[1] có thành lập nên trong xưởng một mạng lưới quan trọng các thông tín viên công nhân. Tòa báo đặt trong căn nhà sắp xếp dụng cụ cứu hỏa. Và lũ bé con chúng tôi vô cùng kính phục nhìn những kẻ ra vào căn nhà gạch nhỏ ấy. Những thông tín viên công nhân mà! Những người viết bài trong báo mà! Chủ tịch của tổ chức đó, bác thợ nguội Gurianốp, là một trong những người được trọng vọng nhất nhà máy. Chắc hẳn là từ thuở xa xăm ấy đã chớm nở trong tôi cái chiều hướng thích thú đối với nghề viết báo, bấy giờ tôi đã coi như nghề hay nhất, quan trọng vô cùng, lại có cái khía cạnh đôi chút huyền bí. Tôi đang học lớp sáu khi báo Sự thật Tưve đăng bài báo nhỏ đầu tiên của tôi. Bài, theo như tôi còn nhớ được, có bảy dòng; nó kể chuyện một nhà thơ nông dân có tiếng tên là Đưrốtgin, đến thăm trường. Báo đăng bài đó cuối trang tư và tôi nhớ là đâu không có ký tên. Nhưng tôi thì tôi biết là ai viết bài đó, nên tôi không bao giờ rời số báo có đăng bài đó cho đến lúc nó rách tan từng mảnh trong túi tôi. Từ đó, tôi viết đều đặn trong báo Sự thật Tưve: bắt đầu là phản ánh mọi việc gì lôi thôi ở thành phố, rồi vào những đề nghiêm chỉnh hơn; cuối cùng, khi tòa soạn chú ý đến tôi, tôi được giao cho làm những phóng sự nho nhỏ về thời sự ở thành phố trong các xưởng, các nhà máy. Tôi tiếp tục học phổ thông, rồi tôi vào trường kỹ thuật công nghiệp; tôi chuyển ngành hóa học và cắm đầu vào phân tích chất lượng và số lượng. Nhưng tôi đã mơ màng tới những phòng tòa soạn phảng phất mùi mực in; trong những giờ nghe giảng, tôi viết trộm những bài báo hay những thiên phóng sự về những đề khá là xa với những đề mà giáo sư đang diễn đạt. Cứ như thế dần dần tôi đi đến làm cái nghề làm báo Xô viết, cái nghề mà tôi luôn vẫn coi như ngành văn chương nhiều hứng thú hơn tất cả các ngành khác. Báo Sự thật Tưve bấy giờ là một tờ báo rất là sinh động: Nhờ báo biết nắm lấy đúng lúc và “cho ra” cái gì có vẻ mới, hay và có giá trị trong công tác lao động xã hội chủ nghĩa ở xí nghiệp và ở thôn xóm. Làm việc báo chí, tôi quen quan sát cẩn thận, suy nghĩ về các sự việc, và chỉ viết về những vấn đề mà tôi biết thật đầy đủ. Tôi bỏ những tháng nghỉ ngơi của tôi để làm việc cho nhà báo, cố gắng lợi dụng thì giờ ấy để mà quan sát. Tấm gương huy hoàng của Goócki, mà tôi đọc tác phẩm từ bé, soi sáng đường đi cho tôi chẳng khác ngọn hải đăng. Tôi học được tinh thần quan sát là chính ở nơi ông. Một mùa hè nọ, tôi định sẽ cho tòa soạn một thiên phóng sự về những xí nghiệp làm nghề rừng và những xí nghiệp làm nghề thả bè trên sông trong vùng Tưve. Tôi đi tuốt đến quận Xêligiarốpski. Ở đó, tôi tới những xí nghiệp làm nghề rừng, tôi lên bè trôi sông và tôi làm việc ở đó, cầm tay lái, giữ tay chèo ở phía sau bè. Cứ thế là từ nguồn sông Vonga tôi xuống đến tận Calinin, rồi lại còn xuống thấp hơn thế nữa, đến tận Rưbinscơ, nơi đó kết thúc thật là mỹ mãn, lịch trình của tôi vừa lúc những bè cây cặp đúng bến. Trong khi rong ruổi như vậy, báo đăng loạt bài của tôi tựa là Trên những bè trôi sông. Tôi viết những bài đó ban đêm, gần ngọn lửa nhỏ đốt ở giữa nhà lều trên bè. Một mùa hè khác, tòa soạn báo Thôn xóm Tưve giao cho tôi làm một thiên phóng sự về tình hình chủ nghĩa xã hội thâm nhập đời sống các thôn xóm chưa tổ chức thành nông trang. Tôi đến làng Míchsina một nơi cùng tận trong tỉnh Tưve, làm nghề sắp xếp sách trong thư viện và viết một loạt bài báo về đời sống trong làng về những bước đầu tiên của lao động tập thể. Năm 1927, tập bài báo đầu tiên của tôi ra đời. Các bạn tôi trong tòa báo của thanh niên cộng sản Thế hệ trẻ không bảo gì tôi cả mà cứ gửi nó đến cho Mácxim Goócki ở Xorente. Khi hay biết được, tôi cuống cuồng cả lên. Bắt nhà đại văn hào phải mất công đọc các sáng tác chẳng ra gì mấy đó, mà tôi lại nhận thức được vô cùng rõ ràng là thật là còn non nớt, thì theo tôi thật là một việc xúc phạm. Cho nên tôi ngạc nhiên lạ lùng khi nhận được một cái gói to lùm lùm đề tên tôi, có dán tem nước ngoài, chữ viết to và cứng cáp lắm. Tự tay viết đến sáu trang giấy, Goócki nghiên cứu tỉ mỉ và rất đỗi khoan dung các tác phẩm tuổi trẻ đó của tôi. Ông khuyên tôi nên làm việc không ngừng, học tập các nhà văn cổ điển mà mài giũa văn như “anh thợ tiện mài giũa kim khí”. Bức thư ấy của nhà đại văn hào đối với tôi thật là bằng không biết bao nhiêu năm học tập. Tôi đã từng phen suy nghĩ về mỗi chữ ông viết, ra sức rút ra những kết luận đúng đắn và hữu ích. Goócki đã giúp tôi hiểu được rằng nghề làm báo và nghề viết văn là những nghề khó khăn, đòi hỏi phải học tập và lao động nhiều hơn bất cứ nghề nào khác. Tôi hiểu rằng không thể nào làm được những nghề ấy theo lối tài tử được, phải bỏ hết tâm lực vào, và chỉ có thế mới mong trở nên được một người lao động thực sự trong ngành báo chí bônsêvích. Thời ấy, tôi học xong trường kỹ thuật, vừa vào làm việc ở xưởng nhuộm, nơi in những thứ vải gọi là “vải Ấn độ”. Xưởng này là một bộ phận của nhà máy liên hợp Vô sản. Chẳng bao lâu, tôi đứng đầu một nhóm thông tín viên công nhân ở đó. Công việc của tôi ở xưởng và công tác xã hội của tôi ở nhà máy chẳng để cho tôi mấy thì giờ để làm cái việc tôi thích thú hơn cả, là làm báo. Mà sự ưa thích của tôi thì lại cứ ngày càng rõ. Cuối cùng, suy nghĩ chín chắn rồi, tôi thôi việc ở xưởng để vào làm biên tập viên tờ báo của thanh niên trong tỉnh, là tờ Thế hệ trẻ. Ở đó có một tập thể biên tập viên tốt, sau đó nhiều người đã trở nên những người làm báo có giá trị. Hoạt động thật là sôi nổi. Quỹ tờ báo nhỏ bé, rõ là không đủ cho sáu hay tám trang báo mà chúng tôi cứ hàng tuần cho ra hai kỳ. Cho nên phần chính công việc là phải do những nhà thông tín viên trẻ tuổi làm công không giúp cho. Tinh thần phát huy sáng kiến của báo đó đã khiến cho báo được từng phen khen ngợi trên những cột báo của Sự thật. Tôi đã làm việc ở tòa báo Thế hệ trẻ rồi, khi báo thôi, làm việc cho báo địa phương của Calinin là tờ Sự thật Vô sản, cứ thế không lúc nào ngừng mãi cho tới chiến tranh. Tôi viết những thiên phóng sự cùng những bài báo, và tôi phụ trách các mục kinh tế và văn hóa. Tôi được kết nạp Thanh niên năm 1930; năm 1940 tôi gia nhập Đảng Cộng sản, Nhờ trường học lớn của Đảng bônsêvích mà tôi trở nên được một nhà văn. Vừa tiếp tục cộng tác biên tập, tôi vừa viết truyện, nhưng, nghe đúng theo lời khuyên nhủ của Goócki, tôi chỉ cho đăng một phần nhỏ thôi trên báo hay trong tập niên lịch của vùng, là tập Ngày nay. Năm 1939, tập san Tháng Mười đăng cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi: Xưởng nóng hổi. Tôi định cố tóm thâu trong cuốn sách đó toàn bộ kết quả của những điều tôi đã quan sát được về tình hình phát triển của phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa trong những xí nghiệp ở Calinin và về hoàn cảnh trong đó phát sinh ra được những sáng kiến của những kẻ phát minh. Tôi đã tự mắt mình quan sát tất cả những cái đó và tôi đã viết phóng sự nhiều về việc này. Sách, sở dĩ thời ấy được đôi chút hoan nghênh, đó là nhờ trước hết ở sự vĩ đại của những sự việc mà sách viết ra, kể đến và của những con người đã là những vai chính của truyện. Tôi muốn được nhấn mạnh nhất là vào một điểm, là đề truyện và nhân vật trong truyện đều là từ trong đời sống mà lấy ra; những ai công tác từ lâu trong các xưởng chế tạo dụng cụ vận chuyển ở Calinin đều đã nhận ra ngay bạn mình trong đám nhân vật trong truyện, và, rốt cuộc, anh là vai nam chính trong truyện đã mời tôi dự lễ cưới chị là vai nữ chính. Hôm lễ, đã đùa khá nhiều về cái điều đó: chính là nhân vật trong tiểu thuyết bắt buộc phải làm cho xong hẳn công việc của tác giả, để cho tác phẩm được kết thúc có hậu, dầu không ly kỳ chi mấy. Công tác lâu năm trong báo chí đã khiến tôi viết được những cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tôi, nhưng chính công tác của tôi trong tờ Sự thật, mà tôi là thông tín viên chiến tranh khi cuộc chiến tranh dân tộc vĩ đại bùng nổ, đã là bổ ích nhất cho sự nghiệp nhà văn của tôi. Có người đôi khi hỏi tôi: - Cố nhiên là anh làm báo thành ra bị trở ngại nhiều trong công tác viết văn của anh; cái đời nhà làm báo vốn rồn rập, cứ bắt là phải viết về những đề tài nhất định phải gửi bài đến những ngày giờ hẹn trước, chẳng kể tâm tình mình mỗi lúc thế nào, rồi lại kèm vào đấy nữa là phải viết đúng là bao nhiêu hàng chữ. Những câu hỏi loạt ấy không khiến tôi khó chịu, chỉ khiến tôi buồn cười, vì chính là công tác trong báo chí bônsêvích đã đưa tôi tới con đường văn chương. Làm báo giúp tôi biết rút ra cái chủ yếu, ghi cái gì là mới, là đã cộng sản rồi trong tâm tình của những người đương thời. Là thông tín viên chiến tranh của báo Sự thật, tôi lúc nào cũng ở những điểm quyết định của mặt trận mênh mông, nơi quyết định số mạng của Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Tôi đã thu thập được ở đó một khối lượng tài liệu vô giá. Mọi người đã biết rằng những vai chính trong những cuốn sách của tôi: Một Người chân chính và Người Xô viết chúng ta, đều là những nhân vật có thật. Phần lớn tên thật ngoài đời thế nào, tên trong sách của tôi cũng là thế, đôi khi có thay đổi rất ít mà thôi. Ý đầu tiên của hai cuốn sách này là do ở tòa báo Sự thật mà ra. Sự việc xảy ra như thế này này. Tháng 2 năm 1942, có đăng một bài tựa là: Thành tích của Mátvây Cuzơmin. Bài ấy, tôi đã viết vội vã, sau khi đưa ma vị anh hùng ấy. Đó là chuyện một nông dân tập thể, đã bát tuần, thuộc nông trang tập thể Bình minh, trồng gai, cụ nông dân này đã lập lại cử chỉ anh hùng của Ivan Xuxanin. Bài viết vội và không có giá trị chi mấy. Lần đầu tôi ở mặt trận về, anh chủ bút báo Sự thật gọi tôi đến và trách tôi viết về một thành tích đáng kính phục như vậy một cách quá ư vội vã, y như một phóng viên nhà báo. - Thật tiếc là lẽ ra có thể kể câu chuyện này một cách khác hẳn, - anh trách tôi như vậy. Rồi, với thói quen của anh là hay tổng quát, anh nói thêm: - Tôi đã bảo tất cả các anh thông tín viên chiến tranh, và tôi xin hết điều căn dặn anh: Cứ ghi cho đầy đủ chi tiết những công trạng của những người Xô viết mà các anh có cái may mắn được chứng kiến. Đó là bổn phận công dân của các anh, và, hơn thế nữa, đó là bổn phận đảng viên Đảng Cộng sản của các anh. Nghĩ coi: trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Liên Xô đã vượt qua về dũng cảm tất cả các vị anh hùng của tất cả các thời đại xưa cũ. Và để cho không quên chi hết về những thành tích hiển hách ấy, để cho mọi người Xô viết biết rõ đồng bào mình đã đánh phát xít như thế nào, đã thắng nó như thế nào, thì phải ghi tất cả, tất cả. Tôi liền mang theo một tập vở to, đóng bìa cứng, và tôi bắt đầu ghi vào đó thật là rành mạch địa chỉ các vị anh hùng hay những người đã chứng kiến những sự việc quan trọng, nhất là những tấm gương anh dũng mà tôi biết được. Là thông tín viên chiến tranh, tôi bay nhảy từ góc mặt trận này đến một góc mặt trận khác, khi thì tôi tới cùng quân du kích, khi thì tôi vào rừng, nơi các biệt đội nhảy dù chuẩn bị đánh chớp nhoáng phía sau lưng địch, rồi tôi lại trở về chiến tuyến ở Stalingơrát, về tuyến lồi Cuốcscơ ở Goócxun Sépchengơrat, tới sông Visla, tới sông Naixơ, tới sông Spưtê, và đâu đâu tôi cũng đã được chứng kiến cái bản lĩnh anh hùng của người Xô viết, đã làm phai mờ cả những thành tích hiển hách của các bậc anh hùng xưa: Ivan Xuxanin, Mácpha, Côgina, Côsơca người thủy thủ Xêbastôpôn, và biết bao nhiêu người nữa mà lịch sử ta, văn chương ta còn nhớ tên, nhớ tuổi. Suốt thời chiến tranh như thế là tôi đã ghi chép được sự việc về sáu mươi nhăm câu chuyện thuộc loại ấy. Một trong những câu chuyện ấy kể lại buổi gặp gỡ kỳ lạ với trung úy Vệ quốc Marétxép, phi công ở một phi trường lâm chiến, gần Oren, thời tấn công đánh lấy thành phố ấy. Đó là đề tài cuốn Một Người chân chính. Tôi đã rút ra từ những điều tôi đã ghi chép được hai mươi bốn câu chuyện tôi cho là quan trọng hơn cả, điển hình hơn cả, bộc lộ rõ hơn cả tinh thần của con người Xô viết. Và tôi đã viết thành những bài truyện ngắn, tập hợp lại trong một cuốn sách lấy tựa là Người Xô viết chúng ta. Giờ đây, xong chiến tranh rồi, tôi cứ tiếp tục làm việc theo đúng phương châm ấy, là kể những cái mà tôi đã chứng kiến. Trong truyện lấy tên là Trở về, tôi đã cố gắng trình bày bằng một hình thức nghệ thuật một mẫu đời của một anh thợ đúc nổi tiếng ở Mátxcơva. Đề tài của cuốn tiếu thuyết Vàng cũng là lấy ra từ trong đời sống thực sự: nó kết liễu vào lúc tấn công trên mặt trận Calinin, đầu năm 1942. Cái quan tâm đến sự xác thực đó, không phải là một cái gì riêng cho một mình tôi chút nào. Đời sống của chúng ta, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, cứ ngày một đổi thay hoài; nó tiến lên, nó cung cấp cứ mỗi ngày, mỗi giờ, cho nhà văn những đề vừa giản dị vừa say mê, lấy ở kinh nghiệm hàng ngày thấy có. Người Xô viết, được lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản dìu dắt, đạt đến đỉnh cao của sự vĩ đại trong lao động cũng như trong chiến đấu. Những công lao cao cả làm nên vì Tổ quốc, ta cố suy diễn đặt để nó ra thì thật là rất khó, ngay đối với một nghệ sĩ có trí tưởng tượng mãnh liệt nhất. Nhưng đời sống Xô viết chúng ta thì cung cấp cho nhà văn biết bao nhiêu tâm tình thật vô cùng là phong phú. Công tác làm báo luôn luôn đưa chúng tôi tiếp xúc với những người đáng lưu ý nhất của thời buổi này, và cho phép chúng tôi được thấy những người ấy trong lao động và trong đấu tranh. Nghề làm báo khiến cho mắt chúng tôi sắc hơn, tai chúng tôi thính hơn. Riêng về bản thân tôi, thì những sự việc mà đời sống hiến dâng cho, thay thế vào chỗ trí tưởng tượng văn chương của tôi bị thiếu sót. Những nhân vật mà tôi phác họa ra, mà đời sống vượt tràn ra khỏi những trang sách của tôi, hoàn thành cái gì còn chưa hoàn chỉnh trong sách tôi: chúng tôi đã cùng nhau gặp gỡ nhau lại với anh Marétxép ở Vácxava, không phải với danh nghĩa nhân vật và tác giả tiểu thuyết, mà lần này với danh nghĩa cùng là đại biểu Liên Xô tại Đại hội thế giới lần thứ hai của các Chiến sĩ Hòa bình. Malích Gápđulin, nhân vật truyện Một anh hùng ca ra đời hiện lãnh đạo Viện Văn học trong Viện Hàn lâm khoa học nước Cadắc và chị nông dân ở Pôntava, chị Uliana Bialôgơrút, người đã cứu được lá cờ của một trung đoàn chiến xa, trong truyện Lá cờ của trung đoàn của tôi, thì sau chiến tranh đã được tặng thưởng huân chương về kết quả chị đã thu được trong vụ mùa củ cải. Được chứng kiến hạnh phúc của những con người ấy, hoạt động say mê của những con người ấy, lao động sáng tác của những con người ấy, lòng ta thật là vui sướng không cùng không tận. Làm nhà văn ở xứ sở của chủ nghĩa xã hội, là được hướng một hạnh phúc lớn lao không bờ bến. Bôris Pôlêvôi Mátxcơva Tháng 11 năm 1950Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Người Chân Chính PDF của tác giả Boris Polevoi nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Ngày Mưa Đẹp Trời (Eric Emmanuel Schmitt)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Ngày Mưa Đẹp Trời PDF của tác giả Eric Emmanuel Schmitt nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Ngày Của Ivan Denisovich (Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn)
Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin. Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post, NewYork Times *** Tìm mua: Một Ngày Của Ivan Denisovich TiKi Lazada Shopee ... Người ta la hét, chửi bới ông, thúc vào lưng ông đòi chỗ. Pavlo nói:- Trung tá! Trung tá!Buinovski giật bắn mình, như bị đánh thức và quay lại.Pavlo đưa bát cháo cho ông, không hỏi xem ông có muốn ăn hay không.Cặp lông mày của Buinovski dựng ngược lên, hai mắt nhìn vào bát cháo như thể nhìn vào một vật lạ chưa từng thấy bao giờ.- Cầm lấy, cầm lấy, - Pavlo nói cho ông yên tâm, rồi cầm lấy bát cháo cuối cùng cho đội trưởng, đứng dậy, bước ra ngoài.Nụ cười ngượng ngập nở trên đôi môi nứt nẻ của viên trung tá, người đã từng bôn ba bốn biển, vòng quanh châu Âu và vùng cực Bắc mênh mông. Ông sung sướng cúi xuống bát cháo mạch đong vơi, loãng hoét, không một chút mỡ, chỉ có hạt mạch và nước.... Fechiukov hậm hực nhìn Sukhov và trung tá rồi bỏ đi.Theo Sukhov thì việc Pavlo cho ông trung tá bát cháo là đúng. Rồi sẽ đến lúc ông ta tự học được cách xoay xở, chứ như bây giờ ông còn ngu ngơ lắm. Sukhov còn có thêm một niềm hi vọng mỏng manh nữa: Sezar có thể sẽ cho anh bát cháo của hắn chăng?Sau khi ăn xong xuất thứ hai, Sukhov lại lấy cùi bánh vét sạch lòng bát, vừa lau vừa liếm miếng bánh, cuối cùng thì anh ăn hết miếng bánh đó. Xong xuôi anh mới bưng bát cháo đã nguội của Sezar và đứng dậy đi ra ngoài.- Mang lên văn phòng! - anh ẩy tên phạm canh bát đĩa ở cạnh cửa định không cho anh ra.Văn phòng là một cái nhà gỗ thô mộc cạnh trạm gác. Vẫn như lúc sáng, khói cuồn cuộn tuồn từ trong ống khói ngôi nhà ra. Bếp lò lúc nào cũng được một tên cần vụ kiêm tuỳ phái trông nom. Hắn được trả lương khoán để làm những việc này. Đối với văn phòng người ta không tiếc củi.Sukhov kẹt mở cửa ngoài, rồi đến một cửa nữa được nhồi kín chặt bằng những sợi đay. Anh bước lẹ vào mang theo một đám hơi nước băng giá, vội vàng sập cửa lại (kẻo lại bị la tướng lên: “Ê, đồ ngu, đóng cửa lại!”).Anh thấy trong phòng nóng như nhà tắm hơi vậy. Qua lớp băng chảy trên mặt kính cửa sổ, mặt trời vui vẻ đùa nghịch, không giận dữ như ở phía trên nhà máy điện. Và khói từ trong chiếc tẩu của Sezar nhả ra cuồn cuộn như hương trầm trong nhà thờ. Còn lò thì cháy đỏ rực, các ngài ở đây xài củi khiếp thật. Đến cả ống dẫn khói cũng đỏ rực.Nóng như thế này ngồi xuống một tí là ngủ ngay.Văn phòng chia làm hai căn. Cửa phòng của ông giám công hé mở, tiếng ông oang oang vọng ra:- Ta đã chi quá mức cho quỹ tiền lương và cho vật liệu xây dựng. Có những tấm gỗ rất quý, đây tôi còn chưa nói đến những bộ ván, tù nhân đem bổ ra chặt làm củi sưởi, thế mà các anh chẳng biết gì cả. Mấy ngày hôm nay trời gió to như vậy mà tù nhân bốc dỡ xi măng ở cạnh kho, lại còn lấy cáng mà khiêng xi măng đi đến cả chục mét. Xung quanh kho đâu cũng thấy xi măng ngập đến mắt cá chân, lúc ra về áo tù không phải màu đen nữa, mà là màu xám. Mất mát bao nhiêu các anh có biết không hả?Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Ngày Của Ivan Denisovich PDF của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Một Mình Ở Châu Âu (Phan Việt)
Bất hạnh là một tài sản Những người đàn bà, họ không một mình ngẫu nhiên tới Paris, Venice, Rome, Florence…Họ có thể là sinh viên mới ra trường, muốn đến Paris để viết văn; có thể là người đã đi qua một cuộc hôn nhân, giờ đến đó để nhìn lại; có thể là người bấy lâu vẫn mòn mỏi chờ đợi mối tình lớn của đời mình và mong nó xảy ra ở châu Âu… Hoặc họ có thể, như tác giả của cuốn sách này, đến châu Âu một mình để du lịch như một người không quá khứ, không ràng buộc; và để hỏi những câu hỏi bước ngoặt về tình yêu và hôn nhân…Cuốn sách này, hơn cả một cuốn du ký về những ngày du ngoạn qua các thánh địa mơ ước ở châu Âu, còn là một hành trình nội tâm xuyên suốt, dai dẳng, và không phải không đau đớn.Có thể thấy điều đó, dẫu chẳng ở châu Âu một mình. Tìm mua: Một Mình Ở Châu Âu TiKi Lazada Shopee Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Một Mình Ở Châu Âu PDF của tác giả Phan Việt nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.