Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tổ Ấm Gia Đình

Những kỷ niệm thời thơ ấu không như những kỷ niệm thời đã đứng tuổi, chúng không được sắp xếp trong khung cảnh thời gian. Đó chỉ là những hình ảnh rời rạc, bị sao lãng mọi bề và những nhân vật đại diện cho chúng ta lại rất khác biệt với bản thân chúng ta đến nỗi có rất nhiều hình ảnh như xa lạ hẳn với chúng ta. Nhưng những hình ảnh khác để lại trong tính tình chúng ta những dấu vết khó mà phai nhòa đến mức ngày nay, do những hậu quả mạnh mẽ của chúng, ta nhận ra đó là những thực tế đã qua. Tựa như khi nghiên cứu lịch sử một xứ sở, chúng ta không thể cảm thông thế nào là kiếp sống nô lệ của người nông dân đứng giữa tầng lớp Giáo hội và quý tộc, mà chỉ hình dung ra kiếp ấy qua quan sát ở trong làng xóm chúng ta những nỗi hận thù không sao giải thích nổi còn rơi rớt lại. Vậy nên trong tình cảm chúng ta hiện nay những nỗi chán chường điên cuồng cùng những sở thích đáng lên án mà chúng ta nhận ra những dư ba yếu ớt của sự rung chuyền từ ba mươi năm trước đã từng xáo động những nhóm tế bào mà nay chúng ta là những người nối dõi. Ký niệm xa xưa nhất của Đơnidơ Herpanh là kỷ niệm về một ngày trên bờ biển. Lâu nay, hè nào bà Herpanh cũng thuê một biệt thự ở Bơdơvan bên bờ biển Noocmăngởđi. “Tôi thuê trước hết là cho lũ trẻ”, bà nói. Ngôi nhà mang tên “biệt thự Côlibri”. Hai mươi năm rồi mà Đơnidơ vẫn hình dung lại được cái mái ngói có đường diễu bằng gỗ cắt theo hình những trái tìm cùng các đường xoắn trang trí, những thanh dầm gỗ xiên xiên hay thắng đứng giữa những hàng gạch, hàng hiên có cửa kính, cánh cửa ra vườn mỗi khi mở làm rung cái chuông nhỏ và các bồn sắt to trên cửa số với những cây phong lữ thảo sống lay lắt, ở đó bốc lên mùi đất và mùi lá ủng. Đơnidơ mặc tắm áo may ô đỏ đang đứng chống xẻng bên lũy một cái pháo đài em vừa đào đắp. Em nhìn ra biển. Những mảng bóng đen to lớn, gió cuốn chạy lô xô trên mặt nước xanh khi đỗ đến gần bờ lại trở thành màu cát. Nước triều đã rạc. Phía trước pháo đài trải dài một dải những hòn cuội nhỏ và mảnh sò vỏ ốc vụn, đi đất có thể bị đứt chân. Xa hơn nữa là những cồn cát mịn màng và chắc với những dòng sông uốn khúc quanh co trông đẹp mắt. Dưới đáy những ngòi ấy, cát đóng chắc thành hình sóng lượn. Đơnidơ bỗng thèm được cảm thấy độ bền của lớp cát ấy đưới chân mình, em buông xẻng, chạy về phía các vũng nước. Có tiếng quát: “Đơnidơ...”. Em dừng phắt ngay lại và chậm chạp quay về. Nơtx Kêrinhtơn, cô có những bực dọc trong lòng. Có trời biết tại sao cô lại làm cho cái gia đình Herpanh này, vốn chỉ là dân tiểu tư sản tỉnh lẻ, thậm chí xe riêng cũng chẳng có. Trước đó, cô đã từng dạy dỗ con cái của bá tước Thiănggiơ có cả một tòa lâu đài và con cái gia đình Oetbergiê mỗi năm đến ở Biaritz hàng bốn tháng trời. Nơtx Kêrinhtơn là con gái một người buôn bán tạp hóa ở Phânkớtxtơn. Cô có tham vọng trở về nước Anh khi tuổi chừng năm mươi để mở một ngôi nhà trọ, khách vừa ăn vừa ở. Ở Pháp, cô mong muốn được sống lẫn với các gia đình giầu có hay quyền quý. Trên cái bãi biển còn quê kệch vào những năm 1900 này, cô không thấy có những nữ gia sư người Anh nào khác. Buộc lòng phải ngồi với các chị vú sữa, cô đồ trách nhiệm cho cả vũ trụ về sự sa sút này. Phòng riêng của bọn trẻ bé quá. Nhà chỉ có một buồng tắm. Tính nết Đơnidơ quá tệ không chịu cho hai em là Lôlôtơ' và Bêbê mượn đồ chơi. Yow are a very naughty lile girl...I']I telÏ your mother about you...” Nơtx nói: Đơniđơ hờn dỗi ngồi tách ra một chỗ. Cái xẻng của em tên là Olali, nó cũng là người hẳn hoi thì cho Lôlôttơ mượn làm sao được cơ chứ! Mỗi đồ chơi đều có một cái tên bí mật cắm được nói ra. Cái gối tên là Sêbatchiêng, cái xô đựng nước là ông Ghibôren, như ông cụ làm vườn ở Pông đờ Lorơ vẫn thường đem đến hàng trăm chậu nhỏ đề trồng thu hải đường và hương nhật quỳ. Ngồi bên miệng hố em đã đào làm nơi ấn nấp, em vục đầy tay cát mịn và ấm cho chảy lọt qua kẽ các ngón tay, một viên sỏi hay mảnh vỏ ốc lẫn trong cát mắc lại ở kẽ các ngón tay sít nhau. Nước triều lên. Đơnidơ ngắm nhìn những làn sóng nhỏ từ xa dồn đến tung bọt trắng xóa trải dài trên cát, sóng rút, sau khi được tắm thứ nước ấy, cát trơ ra, bóng loáng như hải cầu. Ở bên trái, về phía Đivơ và Cabua những chiếc thuyền nhỏ đang đánh cá trên mặt biển sáng long lanh. Đơnidơ nghĩ giá được đi trên những con thuyền ấy hẳn là thích lắm và “người lớn thực là bất công và độc ác”. *** André Maurois (1885 - 1967) là nhà văn lớn Pháp, tên thật là Emile Herzog. Viện sĩ trong Viện Hàn lâm Pháp. Ông xuất thân trong một gia đình công nghiệp ở Alsaca. Khi còn ở ghế nhà trường ông là một cao đệ của giáo sư kiêm triết gia Alaine (1868 - 1951), tốt nghiệp Đại học, ông làm giáo sư triết học. Một thời gian sau ông từ chức về quản lí nhà máy dệt của gia đình và bắt đầu viết từ đó. Trong thế chiến thứ nhất (1914 - 1918) , ông làm thông dịch viên trong quân đội Hoàng gia Anh, chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945), ông sống ở Anh quốc và Hoa Kỳ. André Maurois chuyên về tiểu thuyết, luận văn, sử, phê bình, khảo luận, tùy bút... Với hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại mà có người cho "toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt" đã được các thế hệ trẻ ngưỡng mộ, tin cậy và xem ông như bậc thầy. Hồi André Maurois mất, cuối năm 1967, thọ 82 tuổi, một bạn đồng viện của ông khen ông đại ý như sau : "André Maurois phân biệt ba hạng tác phẩm : trác tuyệt, lớn và hữu ích. Không một tác phẩm nào của ông vào hàng trác tuyệt nhưng toàn thể tác phẩm của ông quả là trác tuyệt". Ông nổi tiếng là nhà luân lí có khuynh hướng tình cảm, lãnh nhiệm vụ hướng dẫn thanh niên trong thời đại nhiều biến chuyển nhất của Pháp (từ Thế chiến thứ nhất tới nay), và ông đã được ba thế hệ trẻ tin cậy, coi như bậc thầy. Sự nghiệp trác tuyệt của ông ở đó. "Người đàn bà không quen biết" mà ông tưởng tượng là một thiếu phụ khoảng ba mươi, đẹp, thông minh, có óc phán đoán, suy xét, thực ra tượng trưng tất cả những phụ nữ thắc mắc về đời sống. Liên tiếp trong sáu chục tuần, ông viết cho họ mỗi tuần một bức thư từ hai tới bốn trang. Trong sáu chục bức thư đó, ông giải đáp tất cả những câu họ có thể hỏi ông về những nỗi vui, buồn và ưu tư của họ, về ái tình, hôn nhân, hạnh phúc, nghề nghiệp, về tâm lí đàn ông, tâm lí đàn bà, về y phục, nhan sắc, cách lấy lòng người, cách xử trí khi chồng có ngoại tình, về quyền lợi và bổn phận của đàn bà, như dạy con, chiều chuộng v.v... Ông lại chỉ cho họ cách bồi dưỡng tinh thần và trí tuệ : đọc sách ra sao, tiêu khiển ra sao. Đôi khi ông cao hứng, nhân một lúc vui hay một lúc bực mình, giới thiệu một tác phẩm, một khúc nhạc, một cảnh đẹp hoặc mạt sát bọn giết thì giờ của ông, mỉa mai bọn làm áp phe, suốt đời chỉ lo kiếm tiền... Tóm lại, ông gặp chuyện gì nói chuyện đó, không sắp đặt trước, lan man y như trong một cuộc đàm thoại. Triết lý của ông là một triết lý lạc quan, khoan hoà, thực tế mà chân chính. Giọng của ông nghiêm trang, thanh nhã mà thân mật, dí dỏm không ra vẻ dạy đời. Ông già tâm lí, giàu kinh nghiệm ; đọc ông ta thấy thích hơn là đọc tác phẩm khô khan của các triết gia, thích hơn cả là những trang tuy sâu sắc, nhưng cô đọng gần như châm ngôn của Alain, sư phụ của ông nữa. Vì ông gần chúng ta hơn.   Mời các bạn đón đọc Tổ Ấm Gia Đình của tác giả André Maurois & Vương Hữu Khôi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Đọc Sách

Triệu Phú Khu Ổ Chuột - Vikas Swarup
Tên sách: Triệu phú khu ổ chuột (full prc, pdf, epub) Tên gốc: Q&A Tác giả: Vikas Swarup  Thể loại: Sách hay, Tiểu thuyết, Văn học Ấn độ Công ty phát hành Nhã Nam Nhà xuất bản NXB Văn Học Trọng lượng vận chuyển 520 grams Kích thước 14x20.5 cm Dịch giả Nguyễn Bích Lan Số trang 448 Ngày xuất bản 09/2009 Nguồn: tuoitre.com.vn Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www. dtv-ebook.com Giới thiệu: Sức hấp dẫn của Triệu Phú Khu Ổ Chuột ở chỗ, nó khơi dậy trắc ẩn trong mỗi con người, nó đưa độc giả qua ngõ ngách của những khu ổ chuột tồi tàn, nó kể lại cảnh sống khốn cùng khi người ta đánh mất quyền được tồn tại như một con người, sống trong sự chờ đợi một chiếc xe jeep có thể đến đưa mình đi vì hàng ngàn tội lỗi vô cớ. Trong bóng tối của xã hội Ấn Độ hỗn tạp, bùng nhùng những nghèo đói, bệnh tật, nhà thổ, giết thuê, mafia ấy, lại có người chiến thắng một trăm triệu rupi trong một chương trình truyền hình nổi tiếng “Ai là triệu phú”: một anh bồi bàn. Ram Mohammad Thomas, cái tên mang trong mình nhiều tôn giáo, phức tạp như chính những biến cố trong cuộc đời mình, đã bị bắt ngay sau khi giành được giải thưởng lớn. Người ta không tin kẻ xuất thân nghèo hèn có thể làm được điều kỳ diệu đến thế. Thực chất, người ta không muốn chi trả cho anh một khoản tiền khổng lồ như vậy, người ta, bao gồm cả cảnh sát - người chấp pháp, người thi hành công lý, đã tra tấn kẻ chiến thắng cùng khổ, chỉ để anh nói rằng: “Tôi đã gian lận”. Câu chuyện sẽ kết thúc nếu không có sự xuất hiện của một nữ luật sư trẻ, tạm thời giải cứu và tình nguyện làm người làm chứng cho câu chuyện thật của cậu. Triệu Phú Khu Ổ Chuột từ đầu đến cuối trung thành với mạch tự sự ngôi thứ nhất, với cách sắp xếp đảo chiều thời gian để phù hợp với mạch kết nối là 12 câu hỏi của trò chơi. Câu chuyện không có tính trò chơi, nó chỉ mượn hình thức trò chơi để diễn tả những điều rất đời, cũng như nó vay mượn một câu chuyện có thực về người chiến thắng một triệu rupi trong lịch sử Ấn Độ để nói về một câu chuyện còn thực hơn cả sự thực. Mỗi trải nghiệm trong cuộc sống của Thomas là lời giải cho một câu hỏi trong cuộc chơi. Trong chuỗi hồi tưởng ấy, người đọc bắt gặp những hình ảnh trẻ thơ thiên thần xuất thân từ bùn lầy của xã hội: Cậu bé Ian - con trai bất hạnh của mục sư Timothy, cô bé Gudya bị chính cha mình lợi dụng, Salim với ước mơ trở thành một diễn viên nổi tiếng, đã phải đối mặt với cú sốc lớn nhất đời mình khi bị thần tượng đồng tính luyến ái giở trò trong rạp chiếu phim... Những số phận ấy bị vùi đi trong lớp bụi của lầm than, trong váng dầu nhơ bẩn của xã hội, mà ở đó: kẻ có tiền là người làm chủ vận mệnh. Tất cả dựng nên một góc nhìn xã hội vừa bi đát, vừa hài hước, vừa hiển nhiên, vừa căm phẫn và chua chát đến cùng cực. Mỗi chươngTriệu Phú Khu Ổ Chuột là một cuộc phiêu lưu, bằng cách kể nhẩn nha, chi tiết, ít bày tỏ xúc cảm trực tiếp, Thomas chậm rãi tua lại cuốn băng của cuộc đời mình để rồi viết lên bài ca của nỗi thống khổ và lòng nhân ái. Cái gọi là đồng xu may mắn thực ra cả 2 mặt đều ngửa, cái gọi là chớp lấy may mắn thực ra đều do con người chủ đích tạo nên, cái gọi là lòng nhân ái thực sự ẩn sâu trong những cử chỉ cao đẹp nhất giữa người với người, cho dù, họ là những người tồn tại bất hợp pháp trong cuộc đời mình. Hình ảnh Thomas đấu tranh đến phút cuối cho mạng sống của Shankar đang bị bệnh dại hành hạ, những câu nói trôi chảy nhất trong cuộc đời của một hoàng tử bị bỏ quên là về chính người mẹ - bà hoàng đã cố tình quên đi sự tồn tại của cậu; Thomas, người không ngớt bị ám ảnh phải kiếm bằng mọi giá số tiền 400.000 rupi lại dễ dàng cho một người không quen toàn bộ số tiền ấy để ông ta mua thuốc cho con trai bị bệnh dại; Thomas, con người sẵn sàng đánh đổi cả mạng sống của mình để trả thù cho người yêu bị Prem Kumar dày vò, cũng vô tư như khi anh từng nhiều lần quên mình vì những người cùng cảnh ngộ khác. Một anh bồi bàn ở dưới đáy xã hội, không gia đình, không mơ ước, liệu có thể trở thành triệu phú? Cuộc đời có tồn tại may mắn? Điều gì sẽ chiến thắng sau cùng: quyền lực hay lòng nhân ái? Triệu phú khu ổ chuột sẽ giải đáp tất cả câu hỏi đó của bạn cũng như nó từng làm với hàng triệu độc giả trên thế giới, lấy đi nước mắt của họ và mang lại cho họ niềm tin vào cuộc đời. Vì Vikas Swarup đâu chỉ viết bằng ngôn ngữ Ấn Độ, ông đã viết chuyện đời Thomas bằng thứ tiếng của chung của loài người. Mời các bạn đón đọc Triệu Phú Khu Ổ Chuột của tác giả Vikas Swarup.
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Johnson Kostova
NXB Văn học và Công ty Văn hóa & Truyền thông Nhã Nam vừa cho ra mắt cuốn sách Truy Tìm Dracula, tác phẩm đầu tay của Elizabeth Johnson Kostova. Ngay sau khi ra đời, Truy Tìm Dracula đã được dịch ra 28 thứ tiếng, giành giải Hopwood Award cho Tiểu thuyết đang hoàn thành (2003), Quill Award cho Tác phẩm đầu tay (2005) và giải thưởng Book Sense Award dành cho Tiểu thuyết xuất sắc nhất (2006). Tác phẩm gần như một kỳ tích trong ngành xuất bản khi tác giả của nó, khi ấy còn là một nhà văn vô danh, đã nhận được hai triệu đôla Mỹ nhuận bút ứng trước, gấp nhiều lần mức trung bình dành cho một tác giả ở cùng tầm cỡ.  Năm 2007, Sony đã mua bản quyền dựng phim tác phẩm này. Elizabeth Kostova đã mất 10 năm để viết ra Truy Tìm Dracula, từ những cảm nhận mơ hồ và nhờ trí tưởng tượng vô cùng phong phú của bà. Những gì đã được viết mở ra hành trình khám phá thú vị cho bạn đọc, như Victoria A. Brownworth đánh giá trên tờ Baltimore Sun "vừa là chuyện kinh dị, vừa là lịch sử, vừa là chuyện tình lãng mạn... Kostova có một khả năng kể chuyện sắc sảo, cùng một câu chuyện kỳ diệu để thuật lại với chúng ta". “Cuốn tiểu thuyết hoành tráng với một phụ nữ thông minh vừa là nhân vật chính vừa là người kể chuyện sẽ kéo bạn vào từng trang sách, bạn sẽ đọc suốt đêm và sẽ thoáng rùng mình khi những cơn gió mùa rền rĩ bên ngoài cửa sổ.” - Uma Mahadevan-Dasgupta, Indian Express “Kostova đã tái tạo một Dracula vừa kinh hoàng vừa đáng sợ như hình ảnh ma cà rồng hút máu đã từng in đậm trong truyền thống văn hóa dân gian qua câu chuyện kể của Bram Stoker từ năm 1897… Nhưng trong phần kết thúc, có lẽ Kostova còn xuất sắc hơn cả Stoker.” - USA Today “Mê hoặc như thôi miên… Gần như không thể bỏ cuốn sách xuống được… Một cảm giác rùng mình ớn lạnh xuyên suốt câu chuyện.” - Brian Richard Boylan, Denver Post. “Truy tìm Dracula là loại sách mà người ta không thể nửa chừng bỏ xuống được.” - Charles Matthews, San Jose Mercury News “Gần như không thể bỏ Truy tìm Dracula xuống một khi đã đụng đến gáy sách.” - Michael D. Clark, Houston Chronicle “Một bí ẩn lịch sử đồ sộ… với tham vọng can thiệp vào lịch sử, căng thẳng hồi hộp, lãng mạn, đầy tri thức… Kostova đã dần dần làm sáng tỏ truyền thuyết về ma cà rồng.” - Sherryl Connelly, New York Times News “Không chỉ là câu chuyện lịch sử súc tích, phong phú đậm chất văn hóa và phiêu lưu, Truy tìm Dracula còn là một truyện trinh thám thần bí thông minh và đáng đọc.” - Lev Grossman, Time Tác giả Elizabeth Johnson Kostova: Nhà văn Elizabeth Johnson Kostova Elizabeth Johnson Kostova sinh năm 1964 tại Mỹ, tốt nghiệp đại học Yale và lấy bằng Thạc sĩ Văn chương tại Đại học Michigan. Tháng Năm 2007, Elizabeth Kostova thành lập một quỹ mang tên cô. Quỹ này sẽ hỗ trợ việc sáng tác và dịch thuật các tác phẩm văn học đương đại của Bungari, đồng thời tăng cường tình hữu nghị giữa các tác giả Bungari vàcác tác giả Anh, Mỹ. Elizabeth Kostova vừa ra mắt tiểu thuyết mới nhất, “The Swan Thieves”, vào ngày 12 tháng 1 năm 2010 vừa qua. Mời các bạn đón đọc Truy Tìm Dracula của tác giả Elizabeth Johnson Kostova.  
Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang
Tên ebook: Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp (full prc, pdf, epub) Tác giả : Andrew Lang Thể loại: Cổ đại, Sách hay, Tiểu thuyết, Thần thoại, Văn học phương Tây Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa thông tin Xuất bản năm:  2008 Khổ: 13 x 20.5 cm Số trang : 556 Thực hiện ebook : hoi_ls Nguồn: thuvien-ebook.com Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Bìa Truyền thuyết về thành Troy và Hy Lạp - Andrew Lang Giới thiệu: Thành Troy có thực sự tồn tại hay không? Cuộc chiến và con ngựa khổng lồ thành Troy là huyền thoại hay là một thực tế lịch sử? Theo sử thi Iliad của Hy Lạp, hoàng tử Paris thành Troy đã "nẫng" mất nàng Helen xinh đẹp tuyệt trần từ tay vua Hy Lạp Menelaus chồng nàng. Vì hành động này mà hai nước vốn giao hảo với nhau bỗng nổi can qua, và cuối cùng người anh hùng Achilles đã dẫn đoàn quân Hy Lạp sang vây hãm thành Troy để "rửa mối quốc nhục". Theo truyền thuyết, nhà thơ Homer viết thiên sử thi này vào khoảng thế kỷ VIII - IX trước CN, sau cuộc chiến tranh khoảng vài trăm năm. Phần lớn tác phẩm, từ nhân vật cho đến diễn biến, đều mang nặng màu sắc huyền thoại. Hơn nữa, không có một bằng chứng nào về sự tồn tại của cả Achilles lẫn Helen. Tác giả Andrew Lang: Nhà văn Andrew Lang             Andrew Lang sinh ngày 31 tháng 5 năm 1844 tại Selkirk, Scotland, mất ngày 20 tháng 7 năm 1912. Mọi người thường gọi ông là anh bạn Scots của những lá thư bởi trong suốt cuộc đời mình ông đã viết rất nhiều thư. Ông là một nhà thơ, một nhà tiểu thuyết, một nhà phê bình văn học và là người có nhiều đóng góp cho ngành Nhân loại học. Hiện tại, ông được mọi người biết đến nhiều nhất với tư cách là nhà sưu tầm những câu chuyện dân gian và thần thoại. Tại trường đại học St Andrews, các bài học được đặt tên theo tên của ông.             Ông học tại Học viện Edinburge, Đại học St. Andrews và đại học Balliol, Oxford. Năm 1868, sau khi học xong năm cuối, ông trở thành nghiên cứu sinh và sau này là Hội viên danh dự của Trường cao đẳng Merton. Sau khi tốt nghiệp, ông vừa viết báo, vừa làm thơ, vừa là nhà phê bình và nhà lịch sử, chính vì vậy ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng với tư cách là một trong những nhà văn có tài và có năng lực nhất vào thời bấy giờ. Nhưng chuyên ngành ông dành nhiều thời gian và tâm huyết là Chuyện dân gian và Nhân loại học.             Ngày nay, Lang được biết đến nhờ những cuốn sách về chuyện dân gian, những câu chuyện thần thoại và tôn giáo. Tác phẩm xuất bản đầu tay của ông là Phong tục và thần thoại, Nghi lễ và Tôn giáo (1887), trong hai tác phẩm này ông giải thích những nhân tố "phi lý" của thần thoại chính là những gì còn sót lại của những hình thức nguyên thuỷ. Cuốn Đi theo Tôn giáo của ông chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Người nguyên thuỷ quý tộc vào thế kỷ XVIII. Trong tác phẩm này, ông đề cập đến sự tồn tại của những ý tưởng tinh thần siêu nhiên giữa những bộ tộc được gọi là "hoang dã", nó tồn tại song song với những mối quan tâm hiện đại vào thời bấy giờ về những sự kiện huyền bí ở nước Anh.   Truyền thuyết thành Troy và Hi Lạp được xuất bản lần đầu tiên năm 1902 bao gồm những câu chuyện mang màu sắc thần thoại, huyền bí, hấp dẫn. Sau đó cuốn sách được tái bản nhiều lần và được in bằng nhiều thứ tiếng trên thế giới. Nó lôi cuốn bao thế hệ trẻ em và cả người lớ cho đến tận bây giờ. Tiếp theo là một loạt các tuyển tập chuyện thần thoại khác của ông được xuất bản, tạo thành Những cuốn sách thần thoại của Andrew Lang. Mời các bạn đón đọc Truyền thuyết thành Troy và Hy Lạp của tác giả Andrew Lang.
Buồn Nôn - Jean Paul Sartre
BUỒN NÔN   Thông Tin     Tên truyện: Buồn Nôn Tác giả: Jean Paul Sartre Dịch: Phùng Thăng Thể loại: Tiểu thuyết, Triết học, Nhật ký, Văn học phương tây. Tạo ebook © Romance Book, 2013 Thực hiện: Summer Scent, Nguyet Anh, Vũ Vũ, Nini Quynh Cảm ơn Russie, thành viên diễn đàn TVE đã scan sách để nhóm thực hiện ebook này. Edit ebook lần 2: Kayako Saeki Đăng:  Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com   Giới Thiệu   Với phương pháp mô tả theo hiện tượng học, nền văn nghệ thời mới đã thực hiện được cuộc hôn phối toàn bích với khoa triết lý. Trong số những triết gia ở trên đỉnh cao của thời hiện đại, Sartre là hình ảnh biểu trưng toàn vẹn cho lời quả quyết trên, nhờ vào thiên tài văn nghệ và sức sáng tác phong phú của ông. Dòng máu văn nghệ luân lưu trong huyết quản Sartre đã chuyên chở đến cho quần chúng độc giả những chất liệu cần thiết để đi vào tư tưởng Sartre, và còn gây nhiều ảnh hưởng quan trọng hơn là những bộ tiết luận vĩ đại của ông. Tác phẩm Buồn Nôn (La Nausée, 1938) là một trong số những tác phẩm giá trị nhất của nền văn học thế kỷ thứ XX, đồng thời cũng là tác phẩm thuộc vào loại khó đọc, vì ngoài giá trị về phương diện thẩm mỹ, tác giả còn muốn đưa ta chạm mặt thực sự với một trực giác nguyên uỷ, làm trung tâm điểm cho nền hiện sinh vô thần của ông: trực giác về hiện hữu của sự vật. Tất cả cố gắng của Roquentin – nhân vật chính và cũng là tác giả tập Nhật ký này - nhằm xoáy sâu cái nhìn, xuyên thủng qua những lần vỏ ngoài bao bọc, đề đạt đến tri kiến đích thực về bản chất của thực tại. Tri kiến ấy là tri kiến của hiện tính (existence) của vạn vật. Sự vật hiện hữu. Sự hiện hữu ấy mang tính chất lầm lì, dày đặc, bất khả giải ngộ và ngẫu nhiên. Chính cái tính cách bất tất (contingence) của sự vật là chất men gợi dậy cơn Buồn Nôn. Người ta bị đẩy vào trong cõi bao la đồng nhất của hiện hữu, một hiện hữu thoát vượt ra ngoài mọi tương quan để chỉ còn giữ lại mối tương quan duy nhất là tính chất “dư thừa” của những sự vật với nhau. Tất cả dư thừa nên tất cả đều là phi lý. Mọi sự đều phi lý: đây không phải là tiếng kêu phẫn hận với cuộc đời mà là một nỗi cay đắng âm thầm phát sinh từ trực giác về hiện hữu của sự vật. Ông cho tận cùng nỗi cay đắng ấy, con nguời lại tìm thấy sinh lộ giải phóng trực giác về hiện hữu dẫn đến sự khước từ Thượng đế và tự do trong trách nhiệm để tự thể hiện lý vận mệnh của mình. Người ta đã có lý khi xem Buồn Nôn là khai từ thơ mộng cho thiên triết luận hữu thể và vô thể, hồng tâm của tư tưởng Sartre. Giờ đây, chỉ còn buông mình theo lời kể và dần dà đánh thức dậy anh chàng Roquentin đang ngủ im trong mỗi người chúng ta.