Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khao

Khao được coi là tiểu thuyết trào phúng, xuất bản lần đầu năm 1946. Bìa này của NXB Văn học năm 1988. Bản ebook dưới đây lấy nguồn từ Tổng tập văn học Việt Nam tập 33. *** Thơ của Xuân Sách về Bùi Huy Phồn trong "Chân dung nhà văn" Phất rồi ông mới ăn khao Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời Ông đồ phấn ông đồ vôi Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng (in nghiêng: tên tác phẩm của ông) Một giai thoại về Bùi Huy Phồn Bùi Huy Phồn phải bỏ làng... Chuyện vào làng văn phải bỏ... làng là có thật. Người ấy chính là nhà văn Bùi Huy Phồn, quê ở Vân Đình, huyện Ứng Hoà (Hà Tây cũ). Nhà văn Bùi Huy Phồn từng dạy học, viết văn, làm báo, sáng tác thơ và qua các công tác: Uỷ viên Ban Vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ (trước cách mạng) ở Hà Nội, Uỷ viên Ban Chấp hành Đoàn Kháng chiến Bắc Bộ, Chủ bút báo Tây Việt Bắc (khu X), Giám đốc Nhà xuất bản Văn học 1962-1972... Năm 20 tuổi, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay dã sử “Lá huyết thư”, rồi sau này liên tiếp xuất bản hơn 20 tập tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch cùng với 4 tập thơ trào phúng. Bùi Huy Phồn là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng với bút danh Đồ Phồn. Để bước được vào làng văn và có được một bề dày văn phẩm, thi phẩm như kể trên, thì những ngày đầu “chập chững” vào làng văn, Bùi Huy Phồn phải bỏ làng ra đi... Năm ấy, khi Bùi Huy Phồn mới 15, 16 tuổi, nhân dịp Tết Nguyên đán, thấy mẹ dặn chị gái đi chợ nhớ mua mấy tờ giấy hồng điều cánh sen mang sang nhà cụ đồ Hai trong làng nhờ viết cho dăm câu đối bằng chữ nho để dán ở trong nhà, ngoài cửa, ngoài ngõ mấy ngày Tết. Thấy có giấy hồng điều, Bùi Huy Phồn tự nghĩ ra đôi câu đối rồi viết bằng chữ quốc ngữ, đem dán vào hai cột cổng ngoài nhà thờ họ vào trước lúc giao thừa. Sáng mồng một Tết, Bùi Huy Phồn dậy thật sớm ra trước cổng nhà thờ họ để ngắm và thưởng thức tác phẩm trào phúng đầu tay của mình. Nhưng thật lạ, không rõ kẻ nào đã bóc đi? Trên cột chỉ còn lại những vết bóc nham nhở. Bùi Huy Phồn ức quá, cảm thấy mình như một người đi săn lần đầu vớ phải một viên đạn thối. Song nghĩ lại, ông thấy có khi thế lại may, bởi vì chỉ lát nữa thôi cụ tuần anh, tuần em, cụ thượng cùng “Tinh thê đẳng” (những người chức sắc trong làng, xã thời đó) mũ mãng cân đai đi đến nhà thờ đại tôn họ Bùi lễ tổ mà bắt gặp đôi câu đối “bạo thiên, nghịch địa” của ông, thì mẹ ông phải đi tạ tội “phạm thượng”. Con dại cái mang mà! Những vị chức sắc làng xã kia không nổi giận sao được khi đọc những câu đối mà Bùi Huy Phồn viết thế này: “Mồng một Tết người đội mũ cánh chuồn khoe mẽ Ba ngày xuân tớ trùm nơm mẹ đĩ ngâm thơ” Mặc dù chưa có vợ nhưng Bùi Huy Phồn vẫn “mượn tạm” cái nơm mẹ đĩ để đối với mũ cánh chuồn. Thật là hả hê quá, mũ cánh chuồn đối với cái váy đàn bà. Tưởng chuyện bị mất câu đối chìm trong im lặng. Nào ngờ, chắc để hết Tết, qua rằm tháng giêng? Đúng ngày 16 tháng giêng năm ấy, nhân ngày giỗ tổ họ Bùi, những người “tai to mặt lớn” trong làng, xã có mặt. Giờ là dịp để họ “sờ gáy’ tác giả câu đối kia. Cụ tuần anh nói với mẹ Bùi Huy Phồn: - Phải đưa thằng Phồn ra nhà thờ họ ngay. Phồn vừa bước đến cửa, cụ tuần anh quát: - Thằng kia, vào đây! Rồi cụ tuần anh quay sang nói với mọi người trong họ: - Hôm nọ, mồng một Tết, anh và các chú vận phẩm phục triều đình đi hành ngơi trong thôn, xóm, cho dân làng được ra bái yết lấy may. Thế mà thằng này (chỉ Phồn) nó dám làm câu đối nói láo! Bùi Huy Phồn lắp bắp định cãi thì cụ tuần anh đập tay xuống tráp, thét lớn: - Câm! Tao lại sai nó nọc cổ mày xuống trước từ đường, đánh cho tan xác bây giờ. Mày muốn làm bình dân thì mày ra Hà Nội. Mày muốn làm cộng sản thì mày sang Nga-la-tư. Chứ còn ở cái làng này thì phải có tôn ti trật tự! Thôi cút! (câu nói này, cũng như những nhân vật Tuần anh, Tuần em... đã được đưa vào trong tác phẩm Khao) Có ai ngờ câu quở mắng của cụ tuần anh kia đã trở thành những lời “tiên tri” ứng nghiệm với cuộc đời Bùi Huy Phồn. Quả thật, sau “vụ câu đối Tết”, Bùi Huy Phồn đã phải bỏ làng ra Hà Nội làm một người bình dân viết văn kiếm sống và sau này, ông được sang Liên Xô thật trong đoàn nhà văn Việt Nam và trở thành một người cộng sản viết văn. *** Lão buông dùi, buông đục. Lão híp cặp mắt. Lão nhe đôi hàm lợi trơ. Rồi xoa hai tay vào nhau, lão thở phào qua đôi hàm lợi ấy. Lão đã khớp xong đôi cá ở ván địa. Cả đôi cá ở ván thiên. Lão đã khớp gần xong tám cặp cá ở cỗ quan tài. Một cỗ quan tài cho lão. Lão khoái! Và nghĩ ngợi. Tất cả mọi người khi đến cái tuổi “gần đất xa trời”, thấy mình sắp được nằm dài thanh thản trong cỗ quan tài, ai mà không nghĩ ngợi? Lão nghĩ rằng: năm nay, lão vừa bẩy mươi hai. Lại có chín con, một miếng đất ở, ba gian nhà. Tổng cộng là bẩy mươi hai tuổi, chín con, một miếng đất, ba gian nhà. Ta có nên tính cả một mụ vợ gù và một con chó ghẻ? Chín con, nhưng theo thói thường, những đứa hiếu đạo đều là đứa yểu số, hoặc nghèo xác, nghèo xơ. Còn những đứa tổ độ mát mặt mát mày lại là đứa cư xử với lão chả ra gì ráo. Một miếng đất ở đã đem cầm lấy tiền nộp ma khô cho vợ cả lão đâu từ năm trước. Ba gian nhà chỉ chờ được tiếp một cơn gió mạnh, là nằm kềnh ra ngửa mặt lên cười với giời. Rút lại, ở lão, chỉ còn có chút tuổi bẩy mươi khả dĩ cho lão tự hào được với trong xóm ngoài làng. Thiên tước kia mà! Lão đã chẳng có phú quý - một con chó ghẻ, ba gian nhà -, nhưng ở đời này, ai không làm được nên phú quý? Lão cũng chẳng có công danh - phó mộc từ năm mười bốn, lão vẫn còn phó mộc đến lúc bẩy mươi, - nhưng ai không làm được nên công danh? Còn như nói đến thiên tước, nói đến sự sống nổi cái tuổi mà lão sống đến ngày hôm nay, dễ ai mà sống được? Đó là một triết lý lão lấy làm sung sướng mới khám phá ra, để hằng ngày hiểu thị cho cái đám thê nhi, sau tiếng rít điếu cày, hoặc cạn một cút con rượu lậu. Đó cũng là một thứ khí giới lão tính sẽ dùng đến để tự vệ ở chỗ đình chung điếm sở, chống với mấy ông Nhang, ông Cán, ngõ hầu hạ giá họ, mỗi khi họ cậy là Nhang, là Cán, hạ giá lão là một thằng… bạch đinh! Bạch đinh! Lão hết cười. Và buồn. Lão đứng lên - như mỗi khi buồn - lẻn vào gậm ban thờ, moi ra một cút rượu lậu, nhấp nháp xuông vài tợp làm vui. Được kích thích trong não cân, đột nhiên, lão tìm ra, lần này cũng như tất cả mọi lần, câu trả lời cho cái điều sỉ nhục trên kia: - A! Bạch đinh, âu nó cũng là cái… số. Phải; chính nó là cái “số”! Lão lại được dịp nhe lợi ra cười phào, sung sướng về sự khám phá mới mẻ này, như lúc vừa đây đã khám phá ra cái “thiên tước”. Chính nó là cái số. Cái số đã cho thiên hạ làm ông Nhang, ông Cán, cái số đã bắt lão mòn đời làm thằng dân trắng, lưng đen khố cao. Rồi lão nghèo, đói, rách, rét. Đó cũng là cái số cả mà thôi. Rồi Chánh Vận sai người đánh đập lão để đòi nợ, hay Lý Bá trói giải lão để ốp thuế năm xưa, chung quy cũng chỉ là cái số lão phải cam như thế. Ấy thế là lão đã vơi được hẳn những oán hận trong lòng! Như mỗi khi vui, lão lại tợp luôn vài tợp rượu cho nó thêm vui. Lão khà một cái khà thống khoái. Chỉ bực một nỗi mụ vợ gù của lão mãi chưa về chợ, thế nào chẳng mua cho lão đôi bìa đậu phụ với vài đồng mắm tôm! Sực nghĩ đến mụ vợ gù, lão không chỉ cười phào. Lão quệt tay lau miệng, liếm môi một cái, cười hẳn ra mấy tiếng “hức hức” liền. Đó mới cũng là cái “số” của giời xui! Nếu không, thì tự dưng sao mụ, chẳng rõ quê quán nơi đâu, lại thành ra con mụ ăn mày. Đã thế rồi, tự dưng sao mụ lại đến xin ngủ nhờ trong túp nhà của lão một đêm! Hai đêm! Rồi lại thêm nữa một đêm! Cho đến khi mụ thấy rằng mụ chẳng cần đi, và lão thấy rằng để mụ ở cũng chẳng thiệt gì cho lão. Mời các bạn đón đọc Khao của tác giả Đồ Phồn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam - Daniel Ellsberg
Năm 1971, Daniel Ellsberg, sĩ quan Lầu Năm Góc từng tham chiến ở Việt Nam, đã cho công bố 7.000 trang tài liệu tối mật cho báo chí, tạo nên một làn sóng phản đối chiến tranh Việt Nam mạnh mẽ chưa từng có tại Mỹ. Nhận bằng tiến sĩ Kinh tế Đại học Harvard năm 1962, nhưng số phận lại đưa ông đến làm việc ở Bộ Quốc phòng và sau đó ông được phái sang chiến trường Việt Nam. Sau hơn 3 năm ở Việt Nam, làm việc cho cố vấn đặc biệt của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, năm 1967, Daniel trở về Mỹ, ông được phân vào nhóm nghiên cứu tối mật về hoạch định chính sách đối với Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng McNamara. Tại đây, ông đã được trực tiếp tiếp xúc với các tài liệu mật của Nhà Trắng và biết rõ kế hoạch muốn leo thang chiến tranh Việt Nam của Tổng thống, mặc dù bề ngoài Nixon và bộ sậu của ông ta ra sức nói dối để bao che cho hành động leo thang và kéo dài cuộc chiến của mình. Là một người yêu chuộng hoà bình và đã từng có thời gian tham chiến tại Việt Nam, hiểu rõ bản chất phi nghĩa của cuộc chiến, Dan đã đánh cược cả cuộc đời mình, sao chụp 7.000 trang tài liệu của Hồ sơ Lầu Năm Góc. Ông bắt đầu công việc này từ năm 1969 và đến năm 1971, ông đã đi đến quyết định làm chấn động nước Mỹ, công bố toàn bộ tài liệu trên tờ Thời báo New York. Dan đã từng nói: Lẽ ra, nếu tôi có thể đưa các tài liệu đó ra từ khi tôi mới vào làm việc tại Lầu Năm Góc và Nhà Trắng, vào năm 1964-1965, thì có thể những tài liệu đó đã góp phần ngăn chặn cuộc chiến". Những bí mật về chiến tranh Việt Nam - Hồi ức về Việt Nam và Hồ sơ Lầu Năm Góc (Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon papers) là cuốn hồi ký của Daniel, xuất bản năm 2002, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất, gây xôn xao nước Mỹ. Cuốn sách kể lại cuộc hành trình đi tìm sự thật của Dan và phanh phui những âm mưu dối trá của Tổng thống Nixon và Lầu Năm Góc về cuộc chiến tranh Việt Nam, bắt đầu từ Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, (tháng tám năm 1964). Tháng Ba năm 2006, Daniel trở lại thăm Việt Nam, và được trao Kỷ niệm chương "Vì hoà bình hữu nghị giữa các dân tộc", tôn vinh những cống hiến không mệt mỏi của ông đã góp phần thức tỉnh dư luận về cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Ông đã cho phép Nhà xuất bản Công an nhân dân dịch và xuất bản cuốn hồi ký của mình. Sau một thời gian làm việc, cuốn sách đã đến tay bạn đọc. Hy vọng cuốn sách sẽ giúp bạn đọc có một góc nhìn đa diện hơn về cuộc chiến và qua đó thấy rõ tâm lòng của một người ở phía bên kia chiến tuyến đối với đất nước nhỏ bé này. *** Tối ngày 1 tháng mười năm 1969, tôi rảo bước nhanh qua phòng bảo vệ của Công ty Rand[I] ở Santa Monica, tay xách một vali chứa đầy tài liệu tối mật mà tôi dự tính sẽ sao chụp trong đêm hôm đó. Số tài liệu này là một phần trong công trình nghiên cứu tối mật gồm 7.000 trang liên quan tới các quyết định của Mỹ ở Việt Nam, sau này được biết đến dưới tên gọi quen thuộc là Hồ sơ Lầu Năm Góc. Phần còn lại nằm trong két đựng tài liệu ở văn phòng của tôi. Tôi quyết định sao chụp toàn bộ và đưa ra công chúng bộ hồ sơ này, hoặc là thông qua các cuộc điều trần tại Thượng viện hoặc là qua báo chí nếu tôi thấy điều đó là cần thiết. Tôi tin rằng tôi có thể sẽ phải ngồi tù suốt đời vì việc làm này. Cuốn hồi ký này sẽ tập trung mô tả quá trình hành động công bố tài liệu của tôi. Trong 11 năm, từ giữa năm 1969 đến khi kết thúc cuộc chiến tranh vào tháng Năm năm 1975, tôi cũng như rất nhiều người Mỹ khác đặc biệt quan tâm tới sự can thiệp của Mỹ vào Việt Nam. Vào thời gian đó, thoạt tiên tôi nghĩ đó chỉ là một vấn đề, tiếp đến là một sự bế tắc, nhưng rồi sau đó là một thảm hoạ về đạo đức và chính trị và cuối cùng trở thành một tội ác. Ba phần đầu của cuốn sách tương ứng với ba giai đoạn phát triển về nhận thức của tôi. Những sai phạm và hành động sau đó của tôi đã phản ánh quá trình thay đổi nhận thức đó. Khi nhận thức cuộc xung đột chỉ là một vấn đề tôi đã cố gắng góp sức để giải quyết nó, khi nhận ra sự bế tắc, chúng ta (Nước Mỹ - ND) đã cố gắng tư giải thoát mà không gây phương hại tới lợi ích của quốc gia khác, và tôi đã nỗ vạch trần và chống lại cuộc chiến khi ý thức mách bảo nó đã trở thành một tội ác với hy vọng chấm dứt nó càng sớm càng tốt. Qua quá trình nhận thức trên, tôi đã vận dụng nhiều cách khác nhau nhằm tránh khả năng chiến tranh leo thang lên cao hơn. Nhưng gần đến giữa năm 1973, khi tôi phải ra trước Toà án liên bang vì nhũng hành động của tôi vào cuối năm 1969, tôi đã nói không ai, kể cả tôi, thành công trong mục đích và cố gắng của mình. Những nỗ lực nhằm chấm dứt cuộc xung đột - cho dù nó được nhìn nhận như là một cuộc kiểm nghiệm bị thất bại, một vũng lầy hay một sai phạm về mặt đạo lý - dường như cũng chẳng thấm vào đâu so với những cố gắng để chiến thắng trong cuộc xung đột đó. Vì sao? ... Mời các bạn đón đọc Những Bí Mật Về Chiến Tranh Việt Nam của tác giả Daniel Ellsberg.
Những Câu Chuyện Tâm Linh - Gary Zukav
Đây là một quyển sách tập hợp những câu chuyện có thật về hành trình khám phá nội tâm của tôi. Trong đó, đôi khi tôi dùng tên thật của những nhân vật, đôi khi tôi thay bằng những tên gọi khác. Có lúc tôi kể chuyện theo đúng như những gì đã xảy ra trong thực tế, và đôi khi tôi kết hợp nhiều câu chuyện lại làm một. Thi thoảng các câu chuyện không kể lại những sự việc đúng y như chúng xảy ra, nhưng các câu chuyện đó cũng là có thật. Người Lakota, một tộc người thổ dân châu Mỹ, truyền lưu câu chuyện về một phụ nữ cưỡi con nghé màu trắng. Bà là người đã cho bộ tộc của họ cái tẩu thiêng. Một ngày kia, có phóng viên hỏi một cụ già Lakota rằng cụ có tin câu chuyện về người phụ nữ kỳ lạ này là thật hay không. Cụ trả lời: - Tôi không biết nó có thật sự xảy ra đúng theo cách mọi người truyền tụng hay không, nhưng tự bản thân anh có thể hiểu là chuyện đó có thật. Và bạn cũng có thể nhận thấy tất cả những câu chuyện trong quyển sách này đều là thật. Bạn cần nhìn sâu vào bên trong tâm hồn mình để chứng thực điều đó. Mọi câu chuyện về linh hồn, từ quyển sách này hay bạn nghe được ở đâu đó, đều đòi hỏi bạn phải nhìn vào nội tâm mình để biết xem nó có thật hay không. Điều này có thể thật với người này, nhưng lại không thật đối với người khác. Đó là cách tiếp cận của quyển sách về Những câu chuyện tâm linh. Chẳng hạn, có người cho rằng Vũ Trụ ở trạng thái chết, “trơ ỳ” và mọi sự việc trong cuộc sống đều xảy ra tình cờ, ngẫu nhiên. Nhưng người khác, trong đó có tôi, lại nghĩ Vũ Trụ rất sống động, thông thái và đầy lòng trắc ẩn. Nhìn nhận Vũ Trụ chết là một câu chuyện. Nhìn nhận Vũ Trụ sống động lại là một câu chuyện khác. Vậy thì theo bạn, câu chuyện nào là có thật? Chính bạn phải quyết định điều đó. Mỗi câu chuyện trong quyển sách này đều mang đến cho bạn cơ hội để quyết định xem nó có là thật đối với bạn hay không. Cụ già người Lakota nói rằng chính bản thân bạn có thể tự suy xét xem khi nào một câu chuyện là thật, nhưng trước khi suy xét, bạn phải biết về câu chuyện đó trước đã. Có nghĩa là bạn phải suy nghĩ về nó và, thậm chí quan trọng hơn, khám phá xem bạn cảm nhận gì về nó. Bạn có thể đọc tất cả những câu chuyện này trong vài ngày, theo thứ tự, hoặc chọn đọc từng câu chuyện riêng rẽ tùy thích. Vì có tới năm mươi hai câu chuyện, cho nên bạn có thể đọc mỗi tuần một câu chuyện và dành ra thời gian để ngẫm nghĩ về nó. Ngay cả nếu bạn đọc hết tất cả chỉ trong một ngày, bạn vẫn có thể đọc lại chúng, mỗi tuần một câu chuyện chẳng hạn, để có thêm thời gian suy ngẫm về từng câu chuyện. Tôi yêu thích Những câu chuyện tâm linh. Đối với tôi, bất kỳ câu chuyện nào khiến tôi hiểu rõ giá trị bản thân và giá trị của bạn, cũng như khiến tôi hạnh phúc khi biết rằng tất cả chúng ta cùng tồn tại bên nhau kể cả khi mọi việc trở nên khó khăn, thì tất thảy đều là Những câu chuyện tâm linh. Bất kỳ câu chuyện nào giúp tôi quý trọng Trái Đất và nhìn nhận Trái Đất như một Người Bạn Lớn, cũng là Những câu chuyện tâm linh. Tôi hạnh phúc khi chia sẻ Những câu chuyện tâm linh này với các bạn. Mời các bạn đón đọc Những Câu Chuyện Tâm Linh của tác giả Gary Zukav.
Hồ Quý Ly - Nguyễn Xuân Khánh
Bằng nghệ thuật tái hiện khoáng đạt, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh đã lật lại lịch sử thời kỳ cuối đời nhà Trần, góp thêm tiếng nói khám phá xã hội và con người Hồ Quý Ly - một nhân vật mà hơn 600 năm qua vẫn còn nhiều tranh cãi về ông. Hơn thế, cuốn tiểu thuyết còn là bức tranh đẹp về Thăng Long ngàn năm văn hiến với những địa danh cổ nổi tiếng, những cảnh sinh hoạt thôn dã, những lễ hội dân gian, những phong tục tốt đẹp...được lưu truyền hay đã bị mai một theo năm tháng. *** Hồ Quý Ly (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tự Lý Nguyên, là hoàng đế sáng lập nhà Hồ Việt Nam. Ông trị vì được 1 năm thì trao ngôi cho con là Hồ Hán Thương để lên ngôi làm Thái thượng hoàng, cho đến khi ông bị bắt qua nhà Minh sau khi bị thua trận vào năm 1407. Về dòng dõi Hồ Quý Ly, sách Đại Việt sử ký toàn thư, quyển VII chép: ...Tổ tiên Hồ Quý Ly là Hồ Hưng Dật, vốn là người Triết Giang bên Trung Quốc, thời Hậu Hán (947-950) được vua Hán cử sang làm Thái thú Châu Diễn (tức vùng Diễn Châu, Nghệ An). Đến thời loạn mười hai sứ quân, họ Hồ dời vào hương Bào Đột (nay là xã Quỳnh Lâm, Quỳnh Lưu, Nghệ An) và trở thành một trại chủ. Đến thời Lý, trong họ có người lấy công chúa Nguyệt Đích, sinh ra công chúa Nguyệt Đoan. Đời cháu thứ 12 của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm dời đến ở hương Đại Lại, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa. Hồ Liêm làm con nuôi của Tuyên úy Lê Huấn rồi lấy họ Lê làm họ của mình. Hồ Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Liêm, khi lên làm vua thì đổi lại họ Hồ... *** Hội thề Đồng Cổ là ngày lễ lớn của Thăng Long. Nó được cừ hành vào ngày mồng bốn tháng tư hàng năm. Đó là một lễ hội thuần Việt rất được dân kinh đô xem trọng ở thời Lý Trần, tiếc rằng đã bị các triều vua sau này nho hoá bỏ mất.  Sách cổ chép rằng vua Lý Thái Tông, thủa còn là thái tử, phụng mạng vua cha đi đánh Chiêm Thành, năm Canh Thân (1020), khi đến vùng Đan Nê, An Định, Thanh Hoá, đóng quân dưới chân một quả núi. Canh ba đêm ấy, trong cõi mộng mung lung, nhà vua chợt thấy một dị nhân, mình cao tám thước, mày râu cứng nhọn, mặc áo giáp, tay cầm binh khí, đến trước cúi đầu tâu rằng: “Tôi là Thần núi Đồng Cổ, nghe tin thái tử đem quân đi dẹp giặc phương Nam, tôi xin theo giúp phá giặc, để lập chút công nhỏ”. Thái từ cả mừng vỗ tay khen ngợi rồi tỉnh dậy. Sau đó tiến quân đánh chiếm quả nhiên toàn thắng. Khi trở về qua núi Đồng cổ, thái tử sửa sang lễ tạ rồi rước thần vị về kinh đô Thăng Long. để giữ dân, hộ nước. Đền thờ lập sau chùa Thánh Thọ, thuộc địa phận thôn Đông, phường Yên Thái (làng Bưởi).  Khi Lý Thái Tổ chết, thái tử lên ngôi vua, tức vua Lý Thái Tôn. Đêm nằm mộng thấy thần Đồng Cổ đến báo rằng: “Ba vị em vua là Vũ Đức Vương, Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương âm mưu làm phản”. Lúc vua tỉnh dậy. Sai Lê Phụng Hiểu dàn quân bố trí phòng bị. Sự việc xảy ra quả đúng như giấc mộng. Loạn ba vương được dẹp tan. Đến đây, vua xuống chiếu xây đàn thề ở miếu Đồng Cổ, và hàng năm cứ đến mồng bốn tháng tư thì trăm quan hội họp làm lễ ăn thề.  Năm nay, ông vua già Trần Nghệ Tông cho mở hội thề to hơn mọi năm. Tháng hai, viên quan coi việc tế lễ đã cho thợ đến sửa sang miếu thờ, cạo rêu, quét vôi, tô tượng, thay những câu đối cũ. xây dựng lại những chỗ đổ nát, sửa sang cây cối, trồng hoa, lát đường... và soát xét lại đồ tế khí. Đồ tế khí ở đây có hai thứ có thể gọi là linh vật của đất nước.  Thứ nhất là chiếc chuông chùa Yên Tử. Hồi vua Trần Thái Tôn bỏ nhà lên núi Yên Tử định cắt tóc đi tu, quan thái sư Trần Thủ Độ kéo cả triều đình lên theo, cầu xin vua về cho hợp lòng dân. Việc đi tu của vua không thành. Khi vua chia tay, Phù vân quốc sư nghĩ phải có cái duyên hạnh ngộ lớn thì mới có một ông vua lên tận chốn núi cao hẻo lánh này để tìm Phật. Ông bảo nhà vua: “Trong núi không có Phật. Phật ở trong lòng người”. Tuy nhiên, để kỷ niệm cái duyên kỳ ngộ ấy, phù vân quốc sư tặng nhà vua Đại Hồng Chung ở chùa Vân Yên đem về kinh đô.  - Tâu bệ hạ. Đây là chiếc chuông quý truyền mấy trăm năm suốt triều nhà Lý. Đại Hồng Chung ít khi dùng đến, chỉ dùng vào dịp đầu xuân. Mỗi năm khi chuông rung lên là mây mù ùn ùn kéo đến. Mây trắng che kín đầu Yên Từ. Chuông gọi mây xong lại gọi mưa. Khi hồi chuông dồn dập binh boong ngân nga lần thứ hai thì những hạt nước li ti nằm trong mây sữa run rẩy, rồi chúng bay lượn quấn quít với nhau và thành những hạt to rơi xuống. Mưa rào. Đó là phật lộ. Mong rằng tiếng chuông của đức Phật từ bi được vang lên trên kinh thành Thăng Long. Mong rằng nước mưa của Phật từ bi sẽ nhuần thấm trong lòng người dân kinh kỳ.  Chiếc chuông Yên Tử đem về được treo ở chùa Thánh Thọ. Mấy năm trước, nhà sư Phạm Sư Ôn tập họp dân lưu tán đói khát nổi loạn. Giặc thày chùa kéo về kinh thành Thăng Long đốt phá. Ông vua già Trần Nghệ Tông, ông vua trẻ Trần Thuận Tôn và cả hoàng gia phải rời kinh đô đi lánh nạn. Đội cấm quân phía hữu kinh thành đóng binh ở chùa Thánh Thọ. Đội quân này đã gây cho quân nổi loạn nhiều thiệt hại. Tức giận, toán giặc thày chùa đã tàn phá, đốt trụi khu chùa thắng cảnh đẹp nhất Thăng Long. Cũng may khi giặc rút, nhân dân đã chữa cháy, cứu được tháp chuông. Giặc thày chùa mà lại đốt chùa. Ông vua già thở dài, và chẳng lẽ để chiếc chuông linh thiêng nằm chơ vơ giữa hoang phế, nên ông đã sai mang chuông đến đền Đồng Cổ.  ... Mời các bạn đón đọc Hồ Quý Ly của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Yến Huyết - Nguyễn Khắc Phục
Mùa cưới rộ lên ở Hàm Dương. Thành phố bỗng trở nên vô cùng quyến rũ. Khắp nơi nhuốm đầy vẻ diễm tình, từ những làn sóng biển màu lục đến nụ cười của du khách. Giữa lúc đó, người ta đồn rầm lên chuyện “Ma Nữ” xuất hiện trên đảo Phu Thê, một hòn đảo nhỏ ở eo biển phía bắc thành phố, cách bờ khoảng hơn nghìn mét. Ngày nước ròng có thể lội ra đảo câu cá, mò trai vọp và cầu gai. Trên đảo, khách sạn Na-ga đang được xây dựng dở dang với những ngọn tháp mô phỏng kiểu tháp Chàm cổ. Đùng một cái, xảy ra những vụ bê bối trên công trường, việc thi công khách sạn phải đình chỉ… Người ta quả quyết rằng, đêm nào cũng thấy một người đàn bà mặc áo trắng xõa tóc đi lại trên cái khách sạn bị bỏ hoang, đúng giờ tý, từ bốn ngọn tháp tối tăm cất lên tiếng than khóc rền rĩ, ai oán của những bóng ma. Rồi người đàn bà mặc áo trắng bay lên sân thượng, cười rú từng cơn hú gọi cuồng phong. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, tiếng gió hú, tiếng sóng biển gầm thét làm thành bản hòa tấu của đêm tối và chết chóc. Ma Nữ là ai vậy? Thực ra đó chỉ là một người đàn bà chạy trốn cái bầu không khí sống động của mùa cưới thành phố, đêm đêm lén lút đổ bộ lên đảo Phu Thê… Nàng không tới đấy để ngắm trăng. Nàng cũng chẳng tìm kiếm cái gì ở đấy. Nàng chỉ trở lại với cái thiên đường xa xưa, ngắn ngủi, nguyên sơ và nồng nhiệt của nàng. Mười tám tuổi, chỉ một đêm duy nhất tại thiên đường đó, nàng đã bước từ cuộc đời trinh nữ lên kiếp đàn bà. Để rồi cái thiên đường ấy bị bỏ hoang mãi mãi. Nàng từ đâu đó trong thành phố, lầm lũi ngược sông núi, băng qua rừng thông, rồi một mình một bóng, tiếp tục cuộc độc hành trong đêm. Nàng cười vô cớ trong lúc trèo từng bậc thang xoáy ốc lên đỉnh tháp. Ngọn tháp chưa kịp đúc mái, thành thử nàng gần như mặt đối mặt với khoảng không rợn người. Nàng vội tựa lưng vào vách bê-tông nhám lạnh để trấn tĩnh. Gió lộng lau khô những giọt mồ hôi đầm đìa trên mặt lúc nàng trèo lên tháp và bây giờ, nó lại rũ tung mớ tóc nàng. Nàng rùng mình nhìn xuống mặt biển hun hút, thảng thốt vì cảm giác kinh dị xâm chiếm tâm trí nàng. Nàng ngồi bệt xuống sàn tháp, lẩn trốn cái chiều sâu vừa hiện thể trong cặp mắt mở to chứa đựng nỗi chống chuếnh của mình. Dưới chân nàng là vực thẳm vô định. Trên đầu nàng, bầu trời đêm vần vũ đầy hăm dọa... Mấy giây sau, nàng chậm rãi đứng dậy, mon men đến sát hàng lan can sắt tạm thời - cái giới hạn mong manh giữa nàng và khoảng trống. Gió thốc ngay vào mặt, bất giác nàng bíu chặt lấy lan can như sợ bị gió cuốn đi. Nàng cố dò dẫm tìm một điểm tựa nào đó cho đôi mắt nàng khỏi thất lạc trong bóng tối mịt mù. Càng khuya gió biển càng mạnh lên, thổi dạt đi ánh trăng vốn mỏng mảnh, yếu đuối. Trên mặt biển chỉ còn lại chút hồi quang nhỏ nhoi của đêm trăng ngà. Nàng lạnh, da mặt hứng gió quá lâu đã dại hẳn đi và mất luôn cảm giác nhức buốt. Cái lạnh còn ngấm cả vào đôi mắt của nàng khiến chúng sáng lên thứ ánh sáng của khối chì bị chém sạt một góc... Nỗi sợ hãi dần dà tiêu tan. Mất nó, tâm hồn nàng càng trở nên trống rỗng như một đoàn va-gông phế thải nằm trên nhánh ray phụ của một ga xép. Nàng không còn chủ ý nào rõ rệt. Mọi giác quan của nàng tạm thời tê liệt dưới ánh trăng, trong gió rét, nhưng tận cùng linh hồn nàng lay động một nỗi khát khao tự giải thoát. Nàng như một con chim sa xuống bãi lầy, đôi cánh mỏng của nó dính bùn bê bết, hai chân nó thì lại quá mảnh khảnh, không đủ sức lấy đà cho nó cất mình lên. Con chim đáng thương ấy thuộc loài yến huyết. Loài yến không nhả rãi ra làm tổ như những loài yến khác, mà đúc tổ bằng máu tự tim mình! Trong ký ức của nàng, bao giờ hình ảnh Võ Dinh cũng hiện lên dịu dàng và khốc liệt… Mời các bạn đón đọc Yến Huyết của tác giả Nguyễn Khắc Phục.