Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ Kinh (Nguyễn Văn Thọ)

Hàm Tự Quái

Thoạt tiên có Đất có Trời

Rồi ra vạn vật vạn loài mới sinh.

Loài sinh, nam nữ phân trình,

Có nam, có nữ, sẽ sinh vợ chồng. Tìm mua: Dịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ Kinh TiKi Lazada Shopee

Vợ chồng nối kết giải đồng,

Vợ chồng, nên mới có giòng cha con.

Quân thần, do đó, tiếp luôn,

Rồi ra trên dưới, kém hơn, phân trình.

Dưới, trên, lễ nghĩa sẽ sinh,

Tôn ti, đẳng cấp mới thành lễ nghi.

Dịch Kinh rất trọng Âm Dương. Đầu Thượng Kinh để hai quẻ Kiền Khôn.

Đầu Hạ Kinh để hai quẻ Hàm Hằng.

- Kiền Khôn ở Thượng Kinh còn tách rời nhau để định vị (Kiền Khôn định vị).

Nhưng ở Hạ Kinh, Sơn (Dương), Trạch (Âm) hòa hợp nhau (Sơn trạch thông khí) để thành quẻ Hàm; Phong (Âm) Lôi (Dương) tăng cường lẫn nhau (Phong lôi tương thác) để thành quẻ Hằng.

- Ở Thượng Kinh, Kiền Khôn là khí hóa chi thủy (khí trời đất bắt đầu biến hóa) thời Thoán Truyện quẻ Kiền lại có 4 chữ Phẩm vật lưu hình.

- Ở Hạ Kinh, Hàm là hình hóa chi thủy (hình hài bắt đầu biến hóa) thời lại có 4 chữ nhị khí cảm ứng. Ý muốn nói Hình và Khí không hề lìa nhau:

Thoán Truyện quẻ Kiền đề cập đến chữ Tính; Thoán Truyện quẻ Hàm nói đến chữ Tình; Thoán Truyện quẻ Phục nói đến Thiên địa chi tâm; Thoán Truyện quẻ Hàm nói đến Nhân tâm. Thế là tính tình không hề xa nhau, Trời người chẳng hề xa nhau, hình khí chẳng hề xa nhau, Âm Dương chẳng hề xa nhau.

Ngoài trời đất, Âm Dương có hòa hài, thì vạn vật mới sinh. Trong nhân quần, Âm Dương có hòa hài thì nhân luân mới có cơ bền vững, xã hội mới có cơ thanh bình.

Ngoài vũ trụ, Âm Dương là đất trời, trong nhân quần, Âm Dương là nam nữ. Vũ trụ là một từ trường bao la, nhân quần là một từ trường rộng lớn. Vạn vật hấp dẫn, cảm ứng nhau không ngừng, nên mới có được ngày nay.

Hàm có hai nghĩa: 1. Là cảm ứng. 2. Là phổ quát.

Cảm ứng phải bằng tâm tình, vì thế chữ Hàm 咸 thêm chữ Tâm 心 là chữ Cảm 感. Cảm ứng bằng tư tình thì không phổ quát, muốn phổ quát phải hư tâm, phải rũ bỏ tư tình, nên chữ Cảm 感 bỏ chữ Tâm 心 đi thành chữ Hàm 咸.

Quẻ Hàm trên là quẻ Đoài ☱, dưới là quẻ Cấn ☶. Đoài là vui thích; Cấn là vững vàng, là thành thực, là thành khẩn.

Đem lòng thành khẩn, thành thực mà cảm người, người sẽ vui lòng đáp ứng.

Ta và người cảm ứng lẫn nhau, hòa thuận với nhau thì việc gì cũng thông suốt.

I. Thoán.

Thoán Từ.

咸. 亨,利 貞,取 女 吉。

Hàm. Hanh. Lợi trinh. Thủ nữ cát.

Dịch.

Lẽ trời cảm ứng mới hay,

Cảm mà chính đáng, lợi nay mới nhiều.

Ví như thiếu nữ mình yêu,

Mình mà lấy được là điều mắn may.

Muốn cảm ứng với nhau cho hay, cho lợi, phải dựa trên nền tảng đạo lý, công chính. Vì thế Thoán Từ nói Hàm hanh. Lợi trinh. Trai gái yêu nhau, thương nhau mà lấy nhau, rồi ra cuộc sống sẽ đẹp đẽ; Thoán Từ tiếp: Thủ nữ cát.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nguyễn Văn Thọ":Tính Mệnh Khuê Chỉ Toàn ThưDịch Kinh Đại Toàn - Tập 1 Yếu ChỉDịch Kinh Đại Toàn - Tập 2 Thượng KinhDịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ KinhHà Đồ Và Lạc ThưLão, Trang Giản LượcĐạo Đức Kinh Lão TửÂm Phù KinhPhật Học Chỉ NamTrung Dung Tân KhảoTìm Hiểu Kinh Hoa NghiêmKhổng Học Tinh HoaHướng Tinh ThầnĐường Vào Triết Học Và Đạo HọcChân Dung Khổng TửThiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất ThểTrời Chẳng Xa NgườiCon Đường Huyền Nhiệm Trung DungCon Đường Qui Nguyên Phản Bản Theo Nho GiáoĐịnh Luật Tiến HoáKhổng Giáo Vô Thần Hay Hữu ThầnKinh Dịch Với Đông YĐức Lão Tử Và Con Đường Huyền Nhiệm Tâm LinhLecomte Du Noüy Và Học Thuyết Viễn ĐíchLễ, Nghĩa, Liêm, SỉNê Hoàn - Nhâm - ĐốcQuan Niệm Tam Tài Với Con NgườiRa Đời, Vào ĐạoSẫm VioletThất Huyền Cầm

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Dịch Kinh Đại Toàn - Tập 3 Hạ Kinh PDF của tác giả Nguyễn Văn Thọ nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

PDF Dự báo theo Tử Bình - Trần Khang Ninh
Dự báo theo Tử Bình được tiến hành thông qua luận giải các dữ liệu trong 4 cột thời gian (năm, tháng,ngày, giờ) lịch Can Chi, điều mà nhiều sách gọi là tứ trụ. Trong từng cột thời gian, người ta ghi các dự liệu là các thần trong thập thần, an cát tinh và hung tinh, các mức độ phát vượng hay thịnh suy của vòng trường sình vào các thiên can của năm, tháng, ngày, giờ… Để có một cách nhìn tổng thể vận trình cuộc đời của một người, người ta còn xác định Mệnh cung, cách cục, Đại vận, Tiểu vận, sự hợp xung, hình, hại của các Can Chi có trong dữ liệu thời gian sinh cụ thể của một người và tìm Dụng thần. Như vậy việc lập sơ đồ dự báo qua 4 cột thời gian là điều quan trọng đầu tiên khi dự báo theo Tử Bình.
PDF Tam Tự Kinh - Bách Gia Tính - Thần Đồng Thi - Thiên Tự Văn
"Tam tự kinh" do Vương Ứng Lân thời Nam Tống sáng tác, là sách học vỡ lòng thời xưa. Lời văn gãy gọn hài hòa, trọng sáng lưu loát, đơn giản dễ hiểu, giúp ghi nhớ tốt. Sách xuất hiện từ lâu, lưu truyền rộng rãi, nội dung coi trọng giáo dục, kể nhiều chuyện lịch sử. Ngày nay vẫn có thể tham khảo.Tác giả "Bách gia tính" hiện vẫn chưa rõ là ai. Sách xuất hiện vào những năm đầu thời Bắc Tống."Thiên đồng thi" do Uông Chu thời Bắc Tống biên soạn."Thiên tự văn" do Chu Hưng Tự thời Nam triều sáng tác. "Thiên tự văn" ghi chép chuyện lịch sử, bắt đầu từ Thái Viêm cho đến cuối đời Thanh. Sách này có nhiều hình thức như diễn ca để giáo tập đọc cho trẻ con với lối viết “Chân, Thảo, Triện, Lệ”.Người dịch Sách được biên soạn để dạy vỡ lòng cho con trẻ thời Trung Quốc xưa. Nội dung rất phong phú, đề cập đến bản tính của con người lúc ban đầu là thiện, nhưng nhiễm những thói quen do hoàn cảnh môi trường nên dần mất bản tính ấy; cần phải chuyên cần, chăm chỉ học tập để duy trì bản tính thiện và trau dồi kiến thức. Mở đầu cuốn sách là đạo lý "Nhân chi sơ, tính bổn Thiện"[2]... đến những đạo lý dạy dỗ làm người "Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri lý"[3], Tu tề, Đạo Hiếu, đối xử với anh em, bạn bè, từ đạo nghĩa cơ bản, xử thế, tam cương, ngũ thường,.. Đến cả địa lý mặt trời, mặt trăng, và diễn biến lịch sử của Trung Quốc, qua từ ngữ ngắn gọn, súc tích có vần có điệu. Có thể dạy dỗ cho con trẻ có một khái niệm về cuộc sống, về đạo đức, và làm người.Cuốn sách có thể chia ra làm 6 phần với những nội dung chính như sau:1- Từ "Nhân chi sơ, tính bổn thiện" (人之初,性本善) đến "Nhân bất học, bất tri nghĩa" (人不學,不知義): nói về bản tính của con người là thiện và về tầm quan trọng đối với việc dạy dỗ của người thầy và vấn đề học tập của con trẻ.2- Từ "Vi nhân tử, phương thiếu thời" (為人子,方少時) đến "Thủ hiếu đễ, thứ kiến văn" (首孝弟,次見聞): dạy cho các em phải hiếu thảo với bố mẹ, hòa thuận với anh em.3- Từ "Tri mỗ số, thức mỗ văn" (知某數,識某文) đến "Thử thập nghĩa, nhân sở đồng" (此十義,人所同): dạy những kiến thức phổ thông từ cách đếm đến thời tiết 4 mùa, ngũ hành, lục cốc, lục súc...4- Từ "Phàm huấn mông, tu giảng cứu" (凡訓蒙,須講究) đến "Văn Trung Tử, cập Lão Trang" (文中子,及老莊): giới thiệu những sách kinh điển của Nho gia và các trước tác của Chư tử.5- Từ "Kinh tử thông, độc chư sử" (經子通,讀諸史) đến "Tải trị loạn, tri hưng suy" (載治亂,知興衰): trình bày lịch sử phát triển và sự hưng vong của các triều đại Trung Quốc.6- Từ "Độc sứ giả, khảo thực lục" (讀史者,考實錄) đến "Giới chi tai, nghi miễn lực" (戒之哉,宜勉力): giới thiệu những gương hiếu học điển hình cho các em noi theo.
PDF Phương pháp luận đoán nốt ruồi - Đông A Sáng
Sách gồm 8 chương, xoay quanh mấy vấn đề:1. Giúp quý bạn biết được những phương pháp luận đoán nốt ruồi xưa và nay, ở các bộ vị trên cơ thể.2. Những phương pháp luận đóan về tình yêu, hôn nhân; sự nghiệp, tài vận; sức khỏe và tuổi thọ.Thông qua các phương pháp luận đoán, dễ nhớ, dễ vận dụng, giúp quý bạn biết được cá tính, vận mệnh của mình; từ đó, tránh điều xấu, tìm điều tốt, tránh họa, tìm phúc, tránh thất bại tìm thành công trên đường đời, trong tình trường và trong thương trường.
Tam Ngươn Giác Thế Kinh - Chiếu Minh Đàn (NXB An Hà 1932)
Trong Trời Đất có ba Ngươn: Thượng ngươn - Trung Ngươn - Hạ Ngươn. Ba Ngươn ấy là cái số cuối cùng của Trời Đất. Thượng Ngươn là: ngươn đã gây dựng CKVT. Nên còn gọi là Ngươn Tạo Hóa hay Ngươn Thượng Đức, con người lúc ấy tánh chất hiền lương chất phát. Thuận tùng Thiên Lý, trên hòa dưới hiệp bảo vệ thương yêu nâng đỡ nhau, cùng chung nhau hưởng đời an lạc, gọi là đời Thượng Lực. Đến đời trung Ngươn, thì con người bỏ mất tánh thiện lương, càng ngày càng học hỏi thu thập nhiều thói hư xấu, rồi nghĩ ra nhiều mưu lược tương tàn, tương sát giết hại lẫn nhau, mạnh đặng yếu thua, miễn sao mình vinh thân phì da, không kể gì đến tính đồng loại, nghĩa đồng bào, bởi vậy nên còn gọi là Ngươn tranh đấu. Hạ Ngươn còn gọi là đời mạt kiếp: sự đấu tranh càng ngày càng gay go hung tợn. Chế tạo ra nhiều vũ khí tối tân, giết người hàng loạt. Mưu quỉ kế là ác độc phi thường. Thậm chí còn bày ra hạt nhân nguyên tử. Nếu đấu tranh càng lắm, thì cũng phải tới thời kỳ tiêu diệt, bởi thế còn gọi là đời mạt kiếp hay ngươn điêu tàn.Tam Ngươn Giác Thế KinhNXB An Hà 1932Chiếu Minh Đàn213 TrangFile PDF-SCAN