Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Lolita

Đầu tiên, theo tư vấn của một ông bạn già thận trọng, tôi đã đủ ngoan ngoãn đến mức đặt điều kiện xuất bản cuốn sách dưới bút danh khác. Tôi không biết mình sẽ có lúc nào đó thấy ân hận là  ít lâu sau, do hiểu rõ rằng cái mặt nạ có thể dễ dàng để lộ nguyên cớ của chính tôi như thế nào, tôi lại quyết định ký tên thật cho Lolita. Bốn nhà xuất bản Mỹ — W,X,Y,Z — lần lượt được tôi chào bản đánh máy và đưa cho những người đọc của họ liếc qua nó, đã bị sốc bởi Lolita đến mức mà thậm chí ngài F.P., ông bạn già thận trọng của tôi, cũng không tính đến. Mặc dù đúng là ở châu Âu cổ đại, và tận cho đến thế kỷ mười tám (những ví dụ dễ thấy đến từ nước Pháp), sự dâm tục cố ý đã không mâu thuẫn với những giây phút lóe sáng trong hài kịch, hoặc văn chương châm biếm đầy khí lực, hoặc thậm chí cảm hứng của một thi sỹ tài hoa đang trong tâm trạng phóng đãng, và cũng đúng là trong thời hiện đại thì thuật ngữ "văn hóa phẩm khiêu dâm" có nghĩa là tầm thường, hám lợi, và những quy tắc kể chuyện chặt chẽ nhất định. Hành động khiêu dâm cần cho bắt cặp với lời lẽ sáo rỗng bởi lẽ mọi kiểu tận hưởng khoái cảm mỹ học phải bị thay thế trọn vẹn bởi sự kích thích tình dục đơn giản, thứ đòi hỏi lời lẽ truyền thống để tác động trực tiếp lên bệnh nhân. Người sáng tác văn hóa phẩm khiêu dâm phải tuân thủ các quy tắc cũ kỹ và cứng nhắc để làm cho bệnh nhân của anh ta được bao bọc bởi cùng một bầu không khí thỏa mãn an toàn, bầu không khí vốn dĩ quen thuộc với những người mê truyện trinh thám — những truyện mà trong đó, nếu bạn không coi chừng, kẻ sát nhân thật sự có thể hóa ra là, trước sự phẫn uất của người hâm mộ, tính độc đáo nghệ sỹ (ai mà lại muốn, tỷ như, một truyện trinh thám không có đến dù chỉ một cuộc đối thoại?) Bởi vậy, trong các tiểu thuyết khiêu dâm, hành động bị giới hạn trong sự giao cấu giữa những lời khuôn sáo. Phong cách, cấu trúc, tính hình tượng không bao giờ được phép làm sao lãng độc giả khỏi thú tính đầm ấm của anh ta. Cuốn tiểu thuyết phải bao gồm sự thay thế luân phiên những cảnh nhục dục. Những đoạn văn ở giữa phải được rút gọn lại thành những đường khâu cảm xúc, những cầu nối hợp lý có thiết kế tối giản, những giải thích và trình bày ngắn gọn, mà độc giả hầu như chắc chắn sẽ bỏ qua nhưng phải được biết là chúng có tồn tại để không cảm thấy bị lừa dối (sự nhồi sọ từ lề thói của các chuyện thần tiên "có thật" ở thời thơ ấu). Hơn nữa, những cảnh nhục dục trong sách phải bám theo một mạch tăng dần, với những biến thể mới, những phối hợp mới, những giới tính mới, và sự gia tăng đều đặn số lượng người tham gia (trong một vở kịch của Sade, họ còn gọi cả người làm vườn vào), và bởi vậy mà phần kết thúc cuốn sách phải thừa mứa những tri thức dâm dật hơn là các chương đầu tiên. Một vài kỹ thuật ở phần đầu Lolita (giả dụ như Nhật Ký của Humbert) làm cho mấy độc giả đầu tiên của tôi lầm tưởng rằng họ sẽ được đọc một cuốn dâm thư. Họ trông chờ vào chuỗi gia tăng các cảnh gợi tình; khi những cái này ngưng lại, độc giả cũng ngưng đọc luôn, và cảm thấy buồn chán và thất vọng. Tôi ngờ rằng điều này là một trong những lý do tại sao không phải tất cả bốn hãng chịu đọc bản đánh máy ấy đến cuối. Dù họ có thấy nó khiêu dâm hay không thì điều đó cũng chẳng làm tôi quan tâm. Sự khước từ của họ với việc mua sách không dựa trên cách tôi xử lý chủ đề mà dựa trên chính chủ đề, bởi có đến ít nhất là ba chủ đề tuyệt đối cấm kỵ đến mức hầu hết các nhà xuất bản Mỹ đều lo ngại. Hai cái khác là: một cuộc hôn nhân Nhọ-Trắng lại thành công trọn vẹn và mỹ mãn và đơm hoa kết trái thành con đàn cháu đống; và kẻ vô thần tuyệt đối lại sống cuộc đời hạnh phúc và có ích, rồi chết trong lúc đang ngủ, thọ 106 tuổi. Một số phản ứng rất tức cười: một độc giả gợi ý là hãng của anh ta có thể cân nhắc chuyện xuất bản nếu như tôi biến nàng Lolita của tôi thành cậu bé mười hai tuổi và để cậu ta bị dụ bởi Humbert, một gã nông dân, trong chuồng gia súc, giữa phong cảnh thê lương và cằn cỗi, mọi điều này được trình bày bằng những câu văn ngắn, mạnh, "hiện thực" ("Hắn hành động điên rồ. Tôi nghĩ là tất cả chúng ta đều hành động điên rồ. Tôi nghĩ Chúa cũng hành động điên rồ." Vân vân.). Mặc dù mọi người nên biết là tôi ghét cay ghét đắng những biểu tượng và phúng dụ (một phần do mối thù cũ của tôi với tà phép của Freud và một phần do nỗi kinh tởm của tôi với sự khái quát được sáng chế bởi những người sáng tác văn chương thần thoại và những nhà xã hội học), một độc giả sáng dạ khác thường đọc lướt qua Phần Một rồi miêu tảLolita như "châu Âu già dắt nước Mỹ trẻ vào đời trụy lạc," ấy thế mà một độc giả ba chớp ba nháng khác lại thấy trong nó "nước Mỹ trẻ dắt châu Âu già vào đời trụy lạc." Ông chủ nhà xuất bản X, người có các vị cố vấn chán ngấy Humbert đến nỗi họ không bao giờ đọc được quá nửa cuốn sách, đã ngây thơ viết cho tôi rằng Phần Hai quá dài. Mặt khác, ông chủ nhà xuất bản Y lại lấy làm tiếc, rằng không có người tốt nào trong cuốn sách. Ông chủ nhà xuất bản Z bảo, nếu ông in Lolita, thì ông và tôi sẽ đi tù. Không có nhà văn nào ở một đất nước tự do lại cho rằng họ phải quan tâm đến ranh giới chính xác giữa gợi cảm và gợi dục; đó là điều hết sức vô lý; tôi chỉ có thể ngưỡng mộ chứ không thể ganh đua với độ chính xác trong cách nhìn của những người tạo dáng các động vật hữu nhũ trẻ trung xinh đẹp để chụp ảnh đăng lên tạp chí sao cho toàn bộ đường viền cổ áo chỉ vừa đủ thấp để khơi gợi một tiếng cười thầm của tay bưởng trưởng và vừa đủ cao để không làm ông bưu cục trưởng phải nhăn mặt. Tôi cho là, vẫn tồn tại những độc giả thấy hưng phấn với sự hiện diện những lời lẽ chợ búa trong những cuốn tiểu thuyết khổng lồ và sáo rỗng đến tuyệt vọng, những cuốn tiểu thuyết được đánh máy bằng những ngón tay cái của những kẻ tầm thường cương cứng và được đánh giá là "có ảnh hưởng lớn" và "nổi bật" bởi những tay phê bình bồi bút. Có những tâm hồn hiền lành tuyên bố Lolita vô nghĩa do nó không dạy họ được bất cứ điều gì. Tôi chẳng phải độc giả mà cũng chẳng phải nhà văn thể loại văn chương hư cấu ra vẻ mô phạm, và, bất chấp xác nhận của John Ray, Lolita chẳng có bài học nào đi cùng. Với tôi thì một tác phẩm hư cấu chỉ tồn tại trong chừng mực nó cho tôi cái mà tôi sẽ gọi huỵch toẹt ra là khoái cảm thẩm mỹ, đó là cảm giác được — bằng cách nào đó, ở nơi nào đó — kết nối với những trạng thái khác của sự tồn tại, nơi mà nghệ thuật (sự hiếu kỳ, tính nhạy cảm, lòng nhân hậu, niềm hoan lạc) là tiêu chuẩn. Không có nhiều cuốn sách như vậy. Tất cả những cuốn còn lại hoặc là lá cải thời thượng hoặc là những thứ vẫn được một số người gọi là Văn Chương Ý Tưởng, những thứ mà trong rất nhiều trường hợp lại chính là lá cải thời thượng cô lại thành các khối thạch cao khổng lồ được truyền cẩn thận từ đời này qua đời khác cho đến khi có ai đó xông lên với cây búa và thử làm một choác ra trò lên Balzac, lên Gorki, lên Mann.   VLADIMIR NABOKOV ***  “Lolita, hay Lời thú tội của một người đàn ông da trắng góa vợ”, là hai nhan đề mở đầu các trang bản thảo kì lạ mà người đang viết những dòng này nhận được. “Humbert Humbert”, tác giả của chúng, đã chết trong trại tạm giam, do bệnh nghẽn động mạch vành, vào ngày 16 tháng Mười Một năm 1952, ít hôm trước khi phiên tòa xét xử dự định diễn ra. Ngài Clarence Choate Clark, hiện thuộc đoàn luật sư Đặc khu Columbia, luật sư của ông ấy, người bạn tốt và cũng là người bà con của tôi, đề nghị tôi biên tập lại bản thảo này dựa trên một điều khoản trong di chúc của thân chủ trao cho ông anh họ xuất chúng của tôi toàn quyền giải quyết mọi vấn đề liên quan đến việc xuất bản “Lolita”. Quyết định này của ngài Clark có lẽ chịu ảnh hưởng từ việc nhà biên tập mà ông ấy chọn vừa nhận được giải thưởng Polling cho một nghiên cứu khiêm tốn (“Có thể đồng cảm với cảm xúc không?”) bàn về một số trạng thái bệnh hoạn và loạn dâm. Nhiệm vụ của tôi hóa ra đơn giản hơn cả hai chúng tôi đã dự đoán. Ngoại trừ việc sửa những lỗi ngữ pháp dễ thấy và thận trọng lược bỏ vài chi tiết dai dẳng mà bất chấp những cố gắng của “H.H.” vẫn tồn tại trong nguyên bản như những tấm biển báo và bia mộ (để lộ những nơi hoặc những người mà lẽ ra nên giấu đi cho nhã, hoặc nên thương tình bỏ qua), thì tập hồi ký khác thường này được giới thiệu nguyên vẹn. Biệt danh kỳ quái của tác giả hồi ký là sáng chế của chính ông ta; và, dĩ nhiên, chiếc mặt nạ này — mà qua nó, đôi mắt thôi miên của ông ta dường như rực sáng — vẫn được giữ nguyên không cởi bỏ, đúng như ý nguyện của người đeo nó. Trong khi “Haze” chỉ ăn vần với họ thật của nữ nhân vật chính, thì tên của cô ấy lại quyện với từng sợi xơ giấy sâu kín nhất của cuốn sách đến độ không ai được phép thay đổi; và (như độc giả sẽ tự thấy) cũng không có lý do thiết thực nào để làm vậy. Những tư liệu liên quan đến tội ác của “H.H.” có thể dò tìm trong các tờ nhật báo hồi tháng Chín, tháng Mười năm 1952; nguyên nhân và mục đích của tội đó ắt sẽ vẫn tiếp tục là điều hoàn toàn bí ẩn, nếu tập hồi ký này không được cho phép đến nằm dưới ngọn đèn đọc sách của tôi. Để giúp các độc giả cựu trào có mong muốn dõi theo số phận những người “có thực” bên ngoài câu chuyện “thật”, vài chi tiết có thể được đưa ra dựa theo những gì nhận được từ ông “Windmuller” ở “Ramsdale”, ông này muốn giữ kín nhân thân để “chiếc bóng dài u ám của câu chuyện buồn thảm và nhớp nhúa này” không chạm tới cái cộng đồng mà ông hãnh diện được là thành viên. Con gái ông, “Louise”, hiện là sinh viên đại học năm thứ hai. “Mona Dahl” là sinh viên ở Paris. “Rita” vừa mới kết hôn với một ông chủ khách sạn ở Florida. Bà “Richard F Schiller” đã qua đời ngay trên bàn đẻ, khi đang sinh một bé gái chết non, vào đúng ngày Giáng Sinh năm 1952, ở Gray Star, một khu dân cư miền Tây Bắc vô cùng hẻo lánh. “Vivian Darkbloom” đã viết xong cuốn tiểu sử, nhan đề “My Cue”, sẽ được xuất bản nay mai, và những nhà phê bình đã nghiền ngẫm bản thảo đều cho đó là cuốn sách hay nhất của bà. Những người trông coi các nghĩa trang khác nhau có liên quan tới câu chuyện cho biết không thấy bóng ma nào lảng vảng. Nhìn đơn giản như một tiểu thuyết, “Lolita” đề cập đến những tình huống và những cảm xúc mà nếu làm úa vàng bằng các thủ pháp né tránh nhàm chán thì sẽ khiến người đọc thấy mơ hồ đến phát cáu. Đúng là không thể tìm được chữ khiêu dâm nào trong toàn bộ tác phẩm; kẻ mọi rợ vai u thịt bắp được những lề thói ngày nay dạy cho quen thói chấp nhận không chút đắn đo hàng loạt từ ngữ tục tĩu trắng trợn trong những cuốn tiểu thuyết ba xu, ắt sẽ kinh ngạc khi không thấy chúng ở đây. Song, nếu người biên tập, vì chiều lòng kẻ đoan chính ngược đời này, phải tìm cách giảm bớt hoặc lược bỏ những cảnh mà loại đầu óc nào đó có thể gọi là “kích dục” (liên quan đến việc này, xin xem phán quyết bất hủ được Ngài John Woolsey đưa ra ngày 6 tháng Mười Hai năm 1933 về một cuốn sách khác còn bộc tuệch hơn nhiều), thì sẽ phải thôi luôn việc xuất bản “Lolita” vì chính những cảnh mà người ta cẩu thả kết tội rằng tự thân chúng mang biểu hiện sắc dục, lại là những yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất trong tiến triển của một bi kịch kiên định hướng đến mục tiêu không gì khác hơn là tôn vinh đạo đức. Kẻ yếm thế có thể nói rằng văn hóa phẩm khiêu dâm thương mại cũng tuyên bố y như thế; người hiểu biết có thể phản bác bằng cách khẳng định rằng lời thú tội đầy nhiệt huyết của “H.H.” chỉ là cơn bão trong ống nghiệm; rằng ít nhất 12% đàn ông trưởng thành ở Mỹ — ước tính “dè dặt” theo tiến sĩ Blanche Schwarzmann (thông báo miệng) — năm nào cũng tận hưởng, bằng cách này hay cách khác, cái trải nghiệm đặc biệt mà “H.H.” mô tả với sự tuyệt vọng đến vậy; rằng nếu người viết nhật ký điên khùng của chúng ta, vào cái mùa hè định mệnh năm 1947 ấy, tìm đến một bác sĩ chuyên khoa tâm thần giỏi tay nghề, thì chắc sẽ không có thảm họa nào xảy ra; nhưng nếu vậy, cũng sẽ chẳng có cuốn sách này. Có thể miễn cho kẻ viết bình luận này việc nhắc lại những gì đã từng được nhấn mạnh trong các cuốn sách và bài giảng của mình, cụ thể là “gớm ghiếc” nhiều khi chỉ là từ đồng nghĩa với “khác thường”, và tác phẩm nghệ thuật vĩ đại dĩ nhiên bao giờ cũng độc đáo, và vì thế, nó phải tạo được, bởi bản chất của mình, ít nhiều bất ngờ gây sốc. Tôi không hề có ý định ngợi ca “H.H.” Không nghi ngờ gì nữa, ông ta kinh khủng, ông ta đáng khinh bỉ, ông ta là một tấm gương sáng ngời về bệnh phong hủi đạo đức, là hỗn hợp của hung bạo và hài hước, những cái, có lẽ, đã để lộ ra nỗi khốn khổ cùng cực của ông ta, nhưng không giúp thu hút được cảm tình. Ông ta đồng bóng nặng. Nhiều ý kiến tình cờ của ông ta về con người và cảnh vật đất nước này tỏ ra rất lố bịch. Sự thành thật tuyệt vọng đập suốt lời thú tội không miễn trách ông ta khỏi những tội lỗi xảo trá quỷ quyệt. Ông ta bất bình thường. Ông ta không phải là người quân tử. Nhưng ma quái làm sao, cây vĩ cầm ngân nga của ông ta có thể gợi nên niềm trìu mến và thương cảm đối với Lolita, khiến ta vừa mê mẩn với cuốn sách, vừa ghê tởm chính tác giả của nó!   Là hồ sơ bệnh án, “Lolita” chắc chắn sẽ trở thành tư liệu kinh điển trong giới tâm thần học. Là tác phẩm nghệ thuật, nó vượt lên trên những khía cạnh sám hối của mình; và đối với chúng tôi, điều còn quan trọng hơn cả ý nghĩa khoa học và giá trị văn chương, là tác động đạo đức của cuốn sách lên những độc giả nghiêm túc; bởi trong nghiên cứu cá nhân đắng cay này có ẩn náu một bài học phổ quát; đứa bé ương ngạnh, người mẹ ích kỉ, gã biến thái hổn hển khát dục, họ không chỉ là những nhân vật sống động trong câu chuyện độc nhất vô nhị: họ cảnh báo ta về các khuynh hướng nguy hiểm; họ chỉ ra những cái ác đang sung mãn. “Lolita” khiến tất cả chúng ta — các bậc cha mẹ, các nhà hoạt động xã hội, các nhà giáo dục — phải dốc toàn tâm toàn ý, với tinh thần cảnh giác cao hơn và tầm nhìn xa rộng hơn nữa, cho nhiệm vụ nuôi dạy một thế hệ tốt đẹp hơn trong một thế giới an toàn hơn.   Widworth, Mass. Tiến sĩ John Ray, Jr.   5 tháng Tám năm 1955   Lolita là một trong những kiệt tác văn chương nhân loại, đã được dịch qua hàng chục ngôn ngữ. Với mục đích mang Lolita đến với độc giả Việt Nam, tôi tình nguyện dịch lại toàn bộ tác phẩm.   Mọi trích dẫn đều phải ghi rõ nguồn, và không được dùng vào mục đích thương mại khi chưa có sự cho phép của người dịch.     Thiên Lương   Mời các bạn đón đọc Nàng Lolita (Tiếng Việt) của tác giả Vladimir Nabokov & Thiên Lương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ván Cờ Người
Mỗi quốc gia đều có những trò chơi thể thao đặc trưng của riêng mình. Có thể nói, ở nước Anh là quần vợt, ở Mỹ là bóng chày, ở Nhật Bản là kiếm thuật. Còn ở Trung Quốc thì sao? ở Trung Quốc đó chính là trò mạt chược. HỒ THÍCH *** Trong Ván cờ người nổi lên cuộc sống của ba nhân vật: Hồ Bằng, Trình Văn Hòa và Dương Oánh Oánh. Hồ Bằng là một người chơi bài rất giỏi nhưng chưa bao giờ anh ta chơi lớn. Văn Hòa làm việc tại ngân hàng, vì mải mê chơi mạt chược mà bỏ vợ là Dương Oánh Oánh ở nhà buồn chán. Dương Oánh Oánh đã mời Hồ Bằng đến nhà chơi mạt chược để giải sầu. Kể từ đó, cuộc sống gia đình cũng như con đường công danh của các nhân vật này có sự biến động. Trình Văn Hòa phải vào tù vì tội tham ô, nhận hối lộ dẫn đến sự chấn động ở chốn quan trường. Kết cục của Văn Hòa cũng lý giải rằng, cuộc sống là một vòng tròn luôn luôn biển đổi, mỗi người đều có vận mệnh riêng. Và sự tính toán, xoay sở của Hồ Bằng cũng không thể thoát ra khỏi cái vòng tròn ấy.   1. “Ván cờ người” là tác phẩm xứng đáng có trên tủ sách của nhà bạn. Nó không phải là một bông hoa nở lúc bình minh nhưng lại có một sức sống mãnh liệt. “Bốn người ngồi cùng một bàn chơi”, trong cuộc chơi đỏ đen được mất này, người chơi trước sau cũng phải dừng lại. Nhưng cũng có những người quá ham chơi không biết bao giờ mới hạ màn. - Trương Kháng Kháng (Tác giả nổi tiếng P.Chủ tịch Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc) 2. Chốn quan trường đầy sóng gió; sự lừa gạt, dối trá ở chốn thương trường; sự bằng mặt nhưng không bằng lòng trong chốn tình trường đã được “Ván cờ người” đề cập đến một cách rõ ràng. Qua đó, chúng ta hiểu được thâm ý sâu xa về mối liên hệ giữa con người với việc chơi bài cũng như quan hệ nhân sinh giữa người với người. - A Thành (Tác giả nổi tiếng) 3. Trong“Ván cờ người”, tác giả đã xây dựng nên một cốt truyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Con đường công danh thăng trầm, tình cảm của con người trên bàn mạt chược được phóng đại. Tác phẩm đã vẽ nên một xã hội thu nhỏ với nhiều loại người trở thành một bộ “đánh bạc” đặc sắc. - Vương Cán (Chủ biên Trung Hoa văn học tuyển san - Nhà phê bình văn học TQ) 4. Mạt chược là một trò chơi không phân biệt nam, nữ, già, trẻ. Người chơi thường là những người giàu sang hay quan chức và cũng có không ít nhà lãnh đạo cấp cao. Thông qua trò mạt chược, Vương Thụ Hưng đã xây dựng nên một câu chuyện đầy cơ trí, mưu mô và thủ đoạn. Không những thế, trong “Ván cờ người” còn có những tình cảm bùng cháy mãnh liệt. - Thạch Chung Sơn (Tác giả nổi tiếng) 5. “Ván cờ người” có thể chưa cung cấp đầy đủ cho chúng ta những kiến thức về cách chơi mạt chược nhưng đã miêu tả tỉ mỉ các cuộc tái ngộ của những cao thủ chơi trò này. Điều đó mang lại cho người đọc nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Qua đó, tái hiện một cách khá chân thực về đời sống sinh hoạt của nhân dân và hiện thực xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ. - Dương Thiếu Hành (Tác giả nổi tiếng - Phó Chủ tịch Liên văn tỉnh Phúc Kiến)   Vương Thụ Hưng quê ở tỉnh Giang Tô, là nhà văn, hội viên Hiệp hội Nhà văn Trung Quốc. Ông có nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có thể loại truyện dài và tiểu thuyết. Cốt truyện trong các tác phẩm của ông rất phong phú, cách kể chuyện khôi hài, dí dỏm, khắc họa nhân vật rõ nét. Hiện tại, ông đang sống ở Bắc Kinh và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Xuất bản xã. *** PHẦN MỘT: ĐÔNG Hồ Bằng phấn khởi tiếp lời Mạnh Xuyên Thanh, anh nói quan hệ giữa người với người ở Trung Quốc giống như chơi mạt chược, quá nhiều pha người nhìn người, người trông người, vợ chồng với nhau cũng không ngoại lệ. Mạnh Xuyên Thanh phá lên cười, hỏi Hồ Bằng: “Có phải anh bị vợ quản quá chặt?”. Hồ Bằng bảo không phải, mà là đáng thương cho một số người suốt ngày bị vợ nhìn ngó, những người này không còn được tự do, nên đi giày vò người khác, vậy là có quan bất nhân. I. XÚC XẮC 1 Trong cơ quan, mọi người ít nhìn nhau bằng con mắt xung khắc, mâu thuẫn, nhưng không ai ngờ có nhiều người phản đối ông Mâu, Chánh văn phòng như vậy. Là cấp dưới của ông Mâu, Hồ Bằng cũng không còn nói mập mờ như trước, anh thẳng thắn cảnh cáo ông sẽ gặp rắc rối với cấp trên: đừng làm mất lòng họ, họ đều là bạn mạt chược với nhau. Ông chỉ một mình, họ cả bọn. Công tác thì không nghiêm túc, chơi mạt chược lại rất khí thế. Ông Mâu lòng không phục, miệng cũng muốn nói vài câu, nhưng cố nhịn, chỉ lắc đầu. Cán bộ như ông Mâu chỉ dựa vào thực lực để leo lên, có thế mạnh tự điều trị vết thương, tự nâng cao năng lực. Đã được một bài học, ông cất cái máy kiểm tra thẻ ra vào để ở phòng thường trực, không đuổi đám đang vui vẻ chơi mạt chược trong phòng lưu trữ, đám người rỗi việc bình luận chuyện bài bạc, cũng không dám lén nói xấu họ đi muộn về sớm, bỏ bê công việc. Không những vậy, ông còn đón ý những người chơi mạt chược, cố gắng để họ biết thật ra ông cũng thích mạt chược, chẳng qua cách thích không giống nhau mà thôi. Nhưng trước cấp dưới Hồ Bằng, ông Mâu vẫn làm ra vẻ cứng rắn, quyết không thỏa hiệp. “Tôi đâu vì trượt có mỗi một lần bình bầu dân chủ mà phải từ bỏ nguyên tắc, nhập hội với họ. Tôi chỉ ngồi bàn về đạo lý, bàn về mạt chược mà không đánh mạt chược”. Bình thường ông Mâu chỉ đọc những sách linh tinh, có hiểu biết về mạt chược. Ông ra sức cổ vũ cho văn hoá mạt chược, để mọi người hiểu mạt chược là tập đại thành của nhiều trò chơi thời cổ đại, có đôi có cặp, là sản phẩm kết hợp giữa xúc xắc, bài ngà Tuyên Hòa và bài giấy mã điêu, là văn hóa truyền thống, không phải là thứ rác rưởi, cặn bã. Sự thay đổi biểu hiện từ nhận thức tư tưởng đến hành động này của ông khiến ông trở nên thân cận với một số người, họ đều nói ông Mâu đã thay đổi. Có người còn tỏ ra nịnh bợ và tán dương ông, bảo hiểu biết về mạt chược của ông thật uyên thâm, có thể về Đài truyền hình trung ương để mở diễn đàn mạt chược, chắc chắn sẽ có rất nhiều người xem. Nên nhớ, ở Trung Quốc có biết bao nhiêu người chơi mạt chược. Cậu Cư trong đám lái xe được ông Mâu để tâm chỉ bảo, đã kiếm được tiền trên bàn mạt chược một cách dễ dàng. Tối hôm ấy cậu Cư thua đến đồng tiền cuối cùng, trong lúc nôn nóng đã văng tục, hỏi những người cùng chơi ai đã phát minh ra mạt chược? Không ai biết. Cư lên giọng khinh miệt: “Là do Trần Ngư Môn, người Dũng Thượng, thời Hàm Phong, nhà Thanh, phát minh”. Tiếp theo, cậu ta như tiêm nhiễm tiên khí của Trần Ngư Môn, bắt được quân bài đẹp, rất đắc ý, nói: “Dũng Thượng ở đâu, có ai biết không?” - Không ai biết. Cậu đẩy quân bài ù ra giữa bàn: “Dũng Thượng là Ninh Ba bây giờ. Đánh mạt chược mà không biết tổ tông mạt chược, thật kém tài”. Người ngồi quanh bàn cùng chơi ai cũng tức. Cậu ta ù không lớn, thế mà lúc tính sổ mặt ai cũng tái xanh tái xám. Từ đấy về sau Cư chơi bài hễ nhắc đến Trần Ngư Môn lại ù mấy ván lớn, lần nào thử cũng đúng như vậy. Trong hội chơi có người học cậu ta nhưng không linh nghiệm. Ông Mâu chỉ nói một câu làm mọi người nhận ra: “Mỗi người một khác, không ai giống ai”. Câu nói rất có lý. Tô Sách của phòng tài vụ nói, mỗi lần cô ta bắt bài đều lẩm bẩm: “Mã điêu”, vậy là bắt được bài đẹp. Ông Mâu cười thầm: “Mã điêu, mã điêu là bài mã điêu, hình thù của nó dài dài. Đấy là “thái bổ” của cô”. Mọi người cười ồ, vậy là đặt cho Tô Sách biệt hiệu “thái bổ”, cô ta không hiểu ra sao, nhờ ông Mâu giải thích “thái bổ” là gì? Ông Mâu trả lời không rõ ràng: “Thái bổ là lấy dài bù ngắn, gia đình hài hòa”. Lâu dần, mọi người không còn hứng thú với những điển cố mạt chược mà ông Mâu cứ nói đi nói lại, là bởi ông nói lý thuyết, một khi nói sang thực tế thì coi như không ổn. Mọi người không muốn biết những điều thường thức về mạt chược mà ông Mâu nói ra, ăn trứng không cần biết trứng của con gà nào, đánh mạt chược làm thế nào để ù mới là quan trọng. Lại có người chế giễu ông Mâu không biết đánh mạt chược, không phải cùng hội, chỉ khoe khoang, khoác lác mình hiểu biết hơn người. Mọi người lại nghĩ đến Hồ Bằng, một người không đánh mạt chược nhưng tinh thông mạt chược. Lâu lắm anh ta không đến phòng lưu trữ tổng hợp. Nói một cách chính xác, từ ngày ông Mâu quản lý phòng lưu trữ Hồ Bằng không đến đấy nữa. Mọi người rất thích nói chuyện mạt chược với Hồ Bằng, có người nói anh ta là “vua mạt chược”. Tại sao lại bảo Hồ Bằng là “vua mạt chược”? Anh ta đánh được nhiều tiền không? Không. Hồ Bằng tinh thông mạt chược đến độ mê mẩn, ngẩn ngơ. Chỉ cần có người thuật lại ván bài cho Hồ Bằng nghe, anh nghe đến vòng hai là biết ngay từng nước đi của mỗi người, biết ai nắm trong tay quân nào mà không chịu ra, đang cần quân nào, định thắng thế nào. Lúc đầu mọi người cho rằng anh nói mò, về sau đúng là phải phục. Cái hôm đám cưới Tô Sách, sau cuộc vui cỗ bàn, mọi người kéo nhau đi hát hoặc chơi mạt chược. Những người đi hát nhanh chóng kết thành bè, vui vẻ kéo nhau đi; nhưng người đánh mạt chược vẫn đứng lố nhố ở cửa khách sạn. Đầu tiên những người chơi bài xếp thành hai bàn, sau đấy tìm địa điểm, tìm một nơi rộng rãi để có thể ồn ào một chút. Chị Hứa phòng nhân sự đề nghị đến nhà chị, không có nơi nào tốt hơn ở đấy, chồng chị là Tổng Giám đốc một doanh nghiệp, ở một căn biệt thự có lối đi riêng biệt. Hai bàn mạt chược được xếp đặt trong phòng khách tầng một và tầng hai nhà chị Hứa. Rất nhiều người, có người không kịp ngồi vào bàn, thừa ra. Hồ Bằng và Đổng, hai người này tỏ ra không mặn mà. Hồ Bằng bảo anh không đánh mạt chược bao giờ, Đổng cũng bảo không giỏi, thua một hào chóp mũi cũng đổ mồ hôi. Cả bọn đâu có khách khí, khiêm nhường với hai người, lập tức họ vào cuộc. Hồ Bằng và Đổng xem họ đánh được hai ván rồi đi sang phòng khách kế bên xem ti vi. Đổng nhìn Hồ Bằng, hình như cũng đang không muốn xem phim truyền hình nhạt nhẽo, nhưng anh ta lại tỏ vẻ xem rất chăm chú. Hồ Bằng uể oải ngả người ra tựa sofa, thỉnh thoảng lại giải thích với Đổng về cuộc chiến mạt chược ngoài kia. Hồ Bằng giải thích làm ảnh hưởng Đổng đang xem ti vi, anh ta hơi bực mình, đứng dậy ra ngoài xem có đúng như Hồ Bằng nói hay không, nếu không đúng sẽ bảo anh ta im miệng. Đổng đi vòng quanh bàn mạt chược, đúng như lời Hồ Bằng, ông Lý, Giám đốc sở đang thắng, trước mặt ông ta giấy bạc một trăm chồng cao. Quay lại, Đổng nói: “Bằng, tai cậu thính quá đấy, ngoài kia ai được ai thua cậu đều biết”. Hồ Bằng nói: “Đấy là tớ nghe bài, giống như người mù đánh cờ”. Đổng không tin, cho rằng Hồ Bằng uống quá chén nên ba hoa vậy thôi. Truyền hình xem cũng bằng thừa, dù sao thì cũng không còn gì vui, Đổng rủ Hồ Bằng ra ngoài kia xem họ chơi mạt chược, để xem anh ta có thể nói mò nữa không. Hồ Bằng nói: “Tớ sẽ bảo trước với cậu ai thắng, hoặc ai xuất xung, nói không đúng coi như tớ thua, họ kết thúc ván bài mà tớ chưa nói cũng coi như thua”. Đổng nói, được, ra giá cược đi nào, mỗi ván năm chục đồng nhé. Hồ Bằng lắc đầu, xưa nay tớ không chơi cược tiền, ai thua phải uống một cốc vại nước. Đổng nhìn bình nước khoáng để ở góc tường, còn già nửa bình, dù sao thì không uống một mình, anh ta vỗ ngực: “Chúng ta cược, dù sao thì uống nước tớ không sợ cậu, chưa biết ai thắng ai”. Vừa nói xong, Đổng nghe ngoài kia báo ù, anh ta ra thăm dò, kết quả là anh ta phải uống liên tục và phải chạy vào nhà vệ sinh. Những người đánh bài thấy anh ta cứ chạy đi chạy lại thật kì lạ: tay Đổng này bình thường vốn là con người đứng đắn, trong chiếu rượu cũng không uống nhiều, tại sao hôm nay lại lạ thường như vậy? Chẳng mấy chốc, Đổng không uống nổi nữa, nếu còn tiếp tục đánh cuộc với Hồ Bằng thì bụng vỡ ra mất. Anh ra bàn mạt chược tố khổ: “Tôi thua thê thảm, uống hết nửa bình nước khoáng”. Những người chơi bài muốn biết anh đánh cuộc gì, nghe anh ta nói đánh cuộc ai được thua trên chiếu bạc, không ai có thể hình dung nổi. Có người vừa ù, bảo Đổng gọi Hồ Bằng ra, hỏi anh ta xem ai ù. Hồ Bằng nói ngay: “Ra tam tố, song hưởng, xuất lưỡng gia xung”. Ai cũng thấy kì lạ, hai người cùng ù? Người ù nhìn những người cùng chơi, nghĩ bụng chắc chắn Hồ Bằng sai rồi. Một lúc sau có người cười: “Đúng vậy, tôi cũng ù, tam tố độc điêu”. Hồ Bằng nói: “Tôi không nói khoác, không ai đẩy được tàu hỏa. Tôi ngồi trong kia nghe mọi người đánh bài, biết các người ở đây đánh quân nào. Không tin, tôi nói lại cho mọi người nghe”. Hồ Bằng nói lại ai đã đánh quân nào, anh còn nói với mọi người quân bài ấy cầm trên tay bao lâu, buộc phải đánh là bởi phải nghe bài, nghe vạn tự bài thanh nhất sắc. “Trời đất ơi! Giỏi như vậy mà sao không thấy anh đánh?”. Có người hỏi Hồ Bằng. Mời các bạn đón đọc Ván Cờ Người của tác giả Vương Thụ Hưng.
Con Đường Sấm Sét
Tiểu thuyết Con đường sấm sét đã vẽ nên một bức tranh rất hiện thực về đời sống ở Liên bang Nam Phi. Trong cuốn sách này không nêu những sự việc cực kỳ quan trọng, chỉ kể lại một cuộc tình duyên tha thiết giữa một thanh niên da đen và thiếu nữ da trắng, vượt ra ngoài đạo luật phân biệt màu da của bọn thực dân. Bọn tư bản da trắng ở Liên bang Nam Phi còn tìm đủ mọi cách để ngăn cấm người bản xứ học tập. Stinvơn, một làng nhỏ tác giả nêu lên trong truyện, không có lấy một người dân nào biết chữ, kể cả lão trùm trưởng kiêm mục sư. Vấn đề học văn hóa của người da đen là một trong những vấn đề chính nêu ra trong truyện. Tác giả đã dựng lên hai nhân vật điển hình về người giáo viên bản xứ. Lani và Mạckơ. Lani được gửi lên tỉnh Kếp học. Anh đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm. Giàu nghị lực và tha thiết yêu dân tộc, yêu hòa bình, Lani cảm thông một cách sâu sắc nỗi thống khổ của dân tộc mình. Nhận thấy con đường phải đi, anh đã từ chối dạy ở một trường trung học tỉnh, một việc rất ít khi dành cho người da đen. Anh trở về làng, tổ chức một trường học. Anh tin rằng những tư tưởng mới chiếu rọi vào đám dân nghèo tăm tối sẽ đem lại cho họ sức mạnh và nghị lực quật khởi. Hoạt động của Lani đã làm cho bọn tư bản địa phương chú ý. Chúng hiểu rằng hoạt động của anh là nhằm chống lại chính quyền của chúng. Bọn thống trị da trắng coi việc truyền bá văn học mà cả dân tộc anh khát vọng là một hiện tượng thù địch. Trong cuộc đấu tranh này Lani đã gặp một địch thủ lợi hại là Gớt Viliê. Hoạt động của Lani chưa đủ tạo nên một đường lối đấu tranh với bọn thống trị, nhưng ánh sáng giáo dục của anh đã thức tỉnh tinh thần độc lập, bất khuất của đồng bào anh, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh sau này.Trong mối tình giữa anh và thiếu nữ da trắng Xari, Lani đã biểu lộ nhân cách khảng khái, cao thượng của mình. Lòng dũng cảm và tình yêu chân thành của Xari đã nói lên rằng bọn thống trị không thể đầu độc tình yêu giữa con người bằng chủ nghĩa phân biệt màu da. Mối tình giữa Lani và Xari chính là một biểu hiện mãnh liệt chống đối những thành kiến dân tộc mà luật lệ của bọn thực dân ở Nam Phi đã tạo nên.Cuộc đấu tranh của Lani và Xari với Gớt Viliê chính là cuộc đấu tranh cho quyền sống của con người. *** Độc giả Liên Xô, quen thuộc với tiểu thuyết CON ĐƯỜNG SẤM SÉT của nhà văn Nam Phi Peter Abrahams thường tự đặt cho mình câu hỏi: "Phải chăng tất cả những sự kiện tác giả nêu lên trong cuốn tiểu thuyết này đều xảy ra vào thế kỷ thứ hai mươi?" Câu hỏi trên đã được trả lời một cách chính xác. Đúng! Tất cả những vấn đề viết trong cuốn sách này đều là những sự việc xảy ra trong thời đại chúng ta, ở Liên bang Nam Phi, thành lập năm 1911, và còn được mệnh danh là "Khối hữu nghị các dân tộc trong phe Liên hiệp Anh". Những người da đen sống lâu đời trên mảnh đất này là nạn nhân của bọn địa chủ da trắng. Họ bị chiếm đoạt hầu hết ruộng đất, chỉ còn một số ruộng hoang khô cằn, nên sống một cách cùng cực. Phần lớn những thanh niên da đen khỏe mạnh đều bị bắt đưa vào các đồn điền của các "ngài" da trắng, đặt dưới quyền cai quản của bọn cai ký tàn ác vô nhân đạo. Họ làm việc ngày đêm cực khổ, nhưng chỉ được lĩnh vài đồng xu nhỏ. Họ phải chịu mọi thứ bất công về lương bổng và chế độ làm việc. Họ không được tham gia vào các nghiệp đoàn của người da trắng... Miền Nam châu Phi bị thực dân xâm chiếm vào giữa thế kỷ thứ mười bảy. Ngay khi đặt chân lên đất này, bọn thực dân bắt đầu ngay những cuộc chinh phục bằng máu để chiếm đoạt những vùng nhiều quặng mỏ, ruộng đất phì nhiêu. Bộ máy cai trị hiểm độc của bọn thực dân đã nặn ra một hệ thống luật lệ hà khắc đối với người da đen: những đạo luật nhằm tước đoạt tất cả các quyền công dân, trong đó có đạo luật cấm người da đen không được làm công tác kỹ thuật, đạo luật phân biệt màu da... Những đạo luật vô nhân đạo ấy dặt ra để đàn áp phong trào công nhân và những người lao động Nam Phi, giam hãm họ trong dốt nát tối tăm và tù ngục, không cho họ sử dụng một cách đứng đắn quyền hạn của con người. Mặc dù ách thống trị của bọn thực dân tàn bạo như vậy, các dân tộc quật khởi Nam Phi vẫn không một phút nào ngừng đấu tranh cho mục đích giải phóng dân tộc mình. Tiểu thuyết CON ĐƯỜNG SẤM SÉT đã vẽ nên một bức tranh rất hiện thực về đời sống ở Liên bang Nam Phi. Trong cuốn sách này không nêu những sự việc cực kỳ quan trọng, chỉ kể lại một cuộc tình duyên tha thiết giữa một thanh niên da đen và thiếu nữ da trắng, vượt ra ngoài đạo luật phân biệt màu da của bọn thực dân. Bọn tư bản da trắng ở Liên bang Nam Phi còn tìm đủ mọi cách để ngăn cấm người bản xứ học tập. Stinvơn, một làng nhỏ tác giả nêu lên trong truyện, không có lấy một người dân nào biết chữ, kể cả lão trùm trưởng kiêm mục sư. Vấn đề học văn hóa của người da đen là một trong những vấn đề chính nêu ra trong truyện. Tác giả đã dựng lên hai nhân vật điển hình về người giáo viên bản xứ. Lani và Mạckơ. Lani được gửi lên tỉnh Kếp học. Anh đã tốt nghiệp Đại học Sư phạm. Giàu nghị lực và tha thiết yêu dân tộc, yêu hòa bình, Lani cảm thông một cách sâu sắc nỗi thống khổ của dân tộc mình. Nhận thấy con đường phải đi, anh đã từ chối dạy ở một trường trung học tỉnh, một việc rất ít khi dành cho người da đen. Anh trở về làng, tổ chức một trường học. Anh tin rằng những tư tưởng mới chiếu rọi vào đám dân nghèo tăm tối sẽ đem lại cho họ sức mạnh và nghị lực quật khởi. Hoạt động của Lani đã làm cho bọn tư bản địa phương chú ý. Chúng hiểu rằng hoạt động của anh là nhằm chống lại chính quyền của chúng. Bọn thống trị da trắng coi việc truyền bá văn học mà cả dân tộc anh khát vọng là một hiện tượng thù địch. Trong cuộc đấu tranh này Lani đã gặp một địch thủ lợi hại là Gớt Viliê. Hoạt động của Lani chưa đủ tạo nên một đường lối đấu tranh với bọn thống trị, nhưng ánh sáng giáo dục của anh đã thức tỉnh tinh thần độc lập, bất khuất của đồng bào anh, tạo điều kiện cho các cuộc đấu tranh sau này. Trong mối tình giữa anh và thiếu nữ da trắng Xari, Lani đã biểu lộ nhân cách khảng khái, cao thượng của mình. Lòng dũng cảm và tình yêu chân thành của Xari đã nói lên rằng bọn thống trị không thể đầu độc tình yêu giữa con người bằng chủ nghĩa phân biệt màu da. Mối tình giữa Lani và Xari chính là một biểu hiện mãnh liệt chống đối những thành kiến dân tộc mà luật lệ của bọn thực dân ở Nam Phi đã tạo nên. Cuộc đấu tranh của Lani và Xari với Gớt Viliê chính là cuộc đấu tranh cho quyền sống của con người. E. V. KÓCNILÔVA Phụ chú: Những chú thích trong cuốn tiểu thuyết này, trừ những chỗ có ghi riêng là của người dịch (N.D.), còn đều sử dụng tài liệu chú thích của Nhà xuất bản ngoại văn Matxkơva. Nó sẽ không cầm quyền, không bị hạn chế, nó tự do: con người là như thế đấy. Nó sẽ bình đẳng, không giai cấp, không bộ lạc, không quốc gia. Sẽ thoát khỏi sự sợ hãi, sự thờ phụng, đẳng cấp, sẽ thành vị quân vương. Tự ngự trị lấy mình, chính trực, cao nhã, sáng suốt, con người là như thế đấy. SELÂY Hình thức giải trí mà tôi ham thích nhất là thú nói chuyện đầy nghĩa lý. Nhưng suốt bốn năm ròng, trong khi sống với "bọn chủ trương cai trị theo màu da" ở Nam Phi, tôi đã bị mất cái thú ấy vì tôi cứ luôn luôn gặp phải những lối đối thoại na ná như thế này: Bất kỳ một sinh viên(1) Nam Phi nào tốt nghiệp đại học: Nếu ông đã sống ở xứ này cũng lâu như tôi thì ông đã biết rằng người ta không thể dạy cho thổ dân ở đây biết đọc hay biết viết gì hết. Tôi: Thế anh đã có bao giờ đến thăm trường đại học Phoóc Herơ của những người truyền giáo chưa? Sinh viên Nam Phi tốt nghiệp đại học: Thôi, ông đừng nói gì với tôi về những người truyền giáo nữa. Tôi: Ấy thế mà tôi đã đến đấy. Tôi thấy có những sinh viên Bantu chính cống từ vùng Xítkai đến đã giải được những phương trình vi phân. Sinh viên Nam Phi tốt nghiệp đại học: Thế nếu một người da đen hiếp em gái ông thì ông sẽ làm gì? Giáo sư LANXƠLÔP HỐCBƠN, F.R.S. trong bài tựa cuốn "Bán đẳng cấp" của Xơđơric Đôvơ. (*) Trích dịch bài tựa Con đường sấm sét,nguyên bản Anh văn. Nhà xuất bản ngoại văn Matxkơva, 1959 (in lần thứ tư). Mời các bạn đón đọc Con Đường Sấm Sét của tác giả Peter Abrahams.
Bến Thiên Đường
Tác giả Sonja Massie đã được đông đảo công chúng biết đến với nhiều tiểu thuyết được viết nên nhờ vào bối cảnh lịch sử, trong đó nhiều tác phẩm của bà đã được dựng thành phim và được sự đón nhận nồng nhiệt của quần chúng. Tác phẩm “Bến thiên đường” có tựa đề song song là “Far anh Away” của bà cũng là một trong số những tác phẩm được dựng thành phim với nhan đề “Ngàn trùng xa” được phát hành năm 1992; lấy bối cảnh trên đất nước Ailen, tiểu thuyết viết về mối thù truyền kiếp của dòng họ Donelly với dòng họ của ông Daniel. Khi tổ tiên của ông Daniel đi xâm lấn đất đai của gia đình Donelly. Chàng Joseph là một người con của dòng họ Donelly đã được giao trọng trách đi trả thù gia đình Daniel, nhưng vì những đấu tranh nội tâm nơi chàng nên chàng đã không thể giết ông Daniel. Trải qua các tình tiết ly kỳ trong tác phẩm cuối cùng Joseph đã gặp con gái của ông Daniel, cô tên là Shannon. Những lần gặp gỡ giữa hai người và cuộc phiêu lưu của họ khi sang Mỹ để khai khẩn đất đai cuối cùng họ đã nảy sinh tình yêu. Mặc dù trải qua nhiều nhiều sóng gió song tình yêu của họ vẫn chiến thắng tất cả, Joseph và Shannon đã vượt qua được hận thù và rào cản giai cấp để đến với nhau xây dựng một gia đình hạnh phúc. Tiểu thuyết nói lên sức mạnh của tình yêu, của cái thiện và chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc. Xin được gửi tới bạn đọc để cùng khám phá và chiêm ngưỡng. *** Quỷ dữ chặt đầu bọn lãnh chúa chết tiệt này đi! Chặt hết, có bao nhiêu chặt hết bấy nhiêu. Rồi nghiền nát chúng ra như cám! Chửi xong, Patrick, gã thợ mộc trong làng cầm vại bia lên tu một hơi dài, đoạn toét miệng cười, khuôn mặt tròn quay sáng rỡ. Gã nhìn quanh một vòng trong quán rượu, mắt ánh lên vẻ thỏa mãn. Từ trước tới nay, trong đám người thân quen chuộng cái nghệ thuật chửi rủa này, ít ai chửi một cách hay họ độc đáo như gã. Gã im lặng, thách thức bất cứ ai chửi hay hơn. – Ước gì đàn quạ đen bu vào rỉa ráy chúng, ước gì chúng bị nổi mày đay khắp người, ngứa ngáy mà không có móng tay để gãi! Ryan, em của Patrick, ngồi chễm chệ trên một ghế đẩu cao bên quầy rượu, mồm ngậm ống vố, nhả khói cuồn cuộn vào không khí đã sặc mùi cay của than bùn đang cháy trong lò sưởi, và mùi thum thủm của áo quần len dạ còn ẩm ướt. – Ước gì quy dữ nuốt chửng chúng nó đi, và xiết dương vật vào cổ chúng nó! – Ước gì lửa âm ti thiêu đốt chúng mãi cho tới ngày tận thế, mà không cho chúng một giọt bia nào để làm giảm bớt cái khát muôn đời ấy! – Denis bổ sung thêm. Denis là một tá điền có mái tóc màu hung đỏ, mặt sần sùi đầy vết hoe, đang chuồi cái ca bằng thiếc về phía người chủ quán. Ông này liền rót đầy bia cho gã. Nửa tá khách nhậu, theo gương của Denis, chìa cốc ra lấy bia và đã cảm thấy khó chịu vì cái ý nghĩ phải chịu án phạt muôn đời mà không có lấy một giọt bia mát lạnh nào để xoa dịu. – Các bạn nên giữ mồm giữ miệng thì hơn, Danty Duff nói. Ông ta là người vớt rong biển dạt vào bờ, tóc hoa râm, đang ngồi phía đầu quầy bên kia. Ông và Joe Donelly, bạn ông, đã chiếm chỗ sớm hơn, và uống rượu nguyên chất nhiều hơn bất cứ người bạn nào khác mà không hề hấn gì. – Các bạn biết đâu giữa chúng ta, lỡ có thằng thối mồm nào đó chỉ điểm thì sao. Nếu các bạn cứ nói bô bô cho sướng miệng trước bất cứ ai như thế này, thì rồi sẽ lâm vào cảnh khốn đốn như bọn Galway, chứ chẳng phải chơi đâu. Như thế chẳng khác gì đánh đu trên một cái xà ngang đã mục. Joe Donelly mặt đầy nếp nhăn vì suốt ngày dang nắng để lấy than bùn làm chất đốt, bật cười đập vào lưng bạn: – Hè... đồ nhát gan như thỏ đế, còn thua cả một bà góa già rụng răng! Danty Duff né tránh cú đập của Joe, khiến ông ta suýt té ngã vì quá đà. Joe nói tiếp: – Cậu sợ cả chính cái bóng của cậu nữa, Danty ạ. Chúng ta phải là những con người hành động, như... các chàng trai của đại úy Moonlight, họ tổ chức các vụ đánh cướp với tầm vông, gậy gộc và những bó đuốc vung cao. Họ sẽ giành lại được độc lập cho quê hương của chúng ta, chắc chắn như thế. Các thực khách vỗ tay nồng nhiệt hoan hô vang dội cả cái quán rượu cổ lỗ, từ cái trần thấp có đà ngang đến tận nền nhà lát đá, rải rác mấy cọng rơm đây đó. Đó là cái lý do tại sao dân làng tụ tập mỗi ngày tại quán rượu của ông O’Manion. Không phải họ tới đó để uống bia – vì họ có thể uống ở nhà. Không phải họ đến đó để sưởi ấm, hoặc để tăng cường nghị lực nhờ ngửi mùi ra-gu thịt cừu đang hầm trên bếp lò. Cũng không phải để có được vài giờ yên tĩnh, tránh phải nghe miệng lưỡi lách phách của các bà vợ, hoặc trò hề của lũ trẻ con ồn ào... Họ đến quán rượu chỉ là để gặp lại bạn bè khích lệ họ sống dũng cảm hơn, hào hùng hơn và mạnh mẽ hơn; để gặp những con người thách thức nhau thoát khỏi cảnh đói nghèo mà họ đã bị áp đặt, và cầm khí giới để chiến đấu cho tự do. Lâu nay họ chỉ đánh giặc mồm, chỉ phun ra những lời nguyền rủa, để nhẹ bớt tâm tư. Thế nhưng, lịch sử đã chứng minh, lời nói có khả năng thúc đẩy lòng người Ai Len hành động. Và ngày nổi dậy đã gần kề, mọi người ai cũng biết điều đó. – Vậy thì Joe Donelly, hôm nay cậu đã làm gì để lấy lại mảnh đất mà Thượng đế đã ban cho cậu từ tay tên lãnh chúa? – Danty hỏi, vẻ mặt khó chịu – Cậu đã cầm cây đuốc đút sau đít hắn ta, hay là cậu đã ôm hôn mông hắn khi hắn cưỡi con ngựa đẹp đi ngang qua đây? Denis can thiệp vào: – Có thể cậu ta chấp nhận hôn đít con ngựa quèn của hắn – nói đến đây, Denis nhìn thấy đôi mắt của Joe Donelly long lên vì giận dữ, liền tiếp – Xin lỗi cậu, Joe, tớ nói thế mà không có ác ý gì cả, thề danh dự đấy! Trong làng, lão Joe có tiếng là người dễ bị chạm tự ái. Chỉ Danty là bạn từ tấm bé của lão là có thể châm chọc hay nhục mạ lão mà không bị ăn đòn. Người chủ quán vừa đẩy hai vại bia đầy ắp đến trước Joe và Danty, vừa nói: – Này, các bạn. Các bạn nghĩ sao, nếu chúng ta được nghe các nghệ sĩ thượng thặng hát lên một bài ca để chúng ta được vui tai và nhẹ lòng? Lời nịnh hót đã làm tan biến mất nỗi giận hờn. Danty và Joe liền cất lời hát một ca khúc mà họ đã thuộc nằm lòng từ thưở bé. ... Đám khách trong quán lại tiếp tục uống, thưởng thức chất đắng thú vị của rượu bia đang làm mát cổ họng họ. Những cây đèn dầu có tim bấc chiếu ánh sáng chập chờn lên những chiếc bàn vuông thô kệch và phản chiếu trong tấm gương lớn đã rạn nứt treo phía tường sau quầy hàng vì cuộc ẩu đả trước kia giữa Joe và Danty. Tâm hồn của dân làng tạm thời lắng dịu nhờ đã nguyền rủa, và quên đi trong chốc lát nỗi lo âu của cuộc sống, để thưởng thức bài ca du dương của hai chàng ca sĩ. Nhưng sự yên lặng bỗng bị đập tan. Tiếng ồn ào náo động ngoài đường đã làm cho mọi người bật đứng dậy, hấp tấp chạy đến bên cửa sổ nhìn xem chuyện gì đã xảy ra. Những tiếng là hét phẫn nộ vang lên từ đám người đi bộ, giày lấm bùn đất. Người ta nghe cả tiếng một con ngựa hí vang vì sợ hãi. – Kìa, các bạn hãy xem! Một tên lãnh chúa xuất hiện ở đằng kia kìa - Ryan là toáng lên, giọng hớn hở – Phải cho hắn một bài học mới được. Joe và Danty ngừng hát, nốc một hơi cạn vại bia và phóng ra ngoài. Họ nóng lòng được đánh lộn, chứ không chịu làm khách bàng quan như các người bạn khác. Lời nguyền rủa của họ đã mang lại kết quả, còn nhanh hơn là họ tưởng. Huân tước Geoffroy Hampton, chủ nhân tòa dinh thự Hampton, đang ngồi chễm chệ trên cái ghế băng bọc da của cỗ xe ngựa bóng loáng. Một cô xe tuyệt đẹp, gã xa phu cũng láng coóng trong bộ trang phục màu đen viền bạc. Nét mặt hắn ta hơi sửng sốt. Cả chủ lẫn tớ đều cảm thấy mình đang rơi vào một tình huống còn hơn cả sự bực mình. Đám dân quê vây quanh lấy cỗ xe ngựa lộng lẫy một cách hỗn độn vô trật tự, kẻ thì cầm cuốc xẻng, người thì cầm gậy gộc, lòng sôi sục căm thù tích tụ bởi bao nhiêu năm tháng. Áo quần họ mặc quá lâu ngày chưa thay, họ đã trải qua biết bao thử thách và đau khổ, chịu đựng bao nỗi buồn phiền. Họ nhộn nhạo trên đường, chận xe không cho qua. Gã xa phu quất ngựa vun vút, nhưng chiếc xe chỉ nhúc nhích đôi chút giữa lũ người mỗi lúc một đông hơn, phẫn nộ hơn. Môt phụ nữ là lớn: – Thằng heo kia, mày là một thằng khốn nạn. Mày ăn quá nhiều mỡ nên mập phì! Vị lãnh chúa khoanh tay trên cái áo khoác bằng nhung xanh, lót lụa đen, trợn mắt lườm bà ta. Một tá điền lưng còng có đứa con nhỏ trần truồng đang đeo theo chân gã mà kêu khóc, gã rống lên: – Mày là tai họa cho xứ sở của chúng tao, cái xứ sở không bao giờ là của mày. Mày xuống hỏa ngục cho quy dữ nướng mày đi! Một bà già tay không vũ khí, cúi xuống lượm một viên đá cuội, nhắm cỗ xe mà ném tới, trúng chiếc mũ chóp cao bằng xa-tanh đen của lãnh chúa, làm nó rơi xuống đất. Đám đông liền dành nhau đạp dẹp nó, chỉ một chốc là tiêu tan. Joe thúc cùi chỏ vào hông bạn, bảo: – Danty, đưa vũ khí cho tao, tao giết thằng chó này. Mời các bạn đón đọc Bến Thiên Đường của tác giả Sonja Massie.