Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng - Georges Simenon

Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. Mời các bạn đón đọc Thanh Tra Maigret Và Ngài Bộ Trưởng của tác giả Georges Simenon

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ngọc Xuyến Án
Ngọc Xuyến Án là tác phẩm thứ bảy trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án viết về Địch Nhân Kiệt - vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì. Năm 669, sau một chuyến công cán, Địch Công ghé thăm trấn Thanh Xuyên - nơi tọa lạc cung điện mùa hè của Tam Công chúa - với kỳ vọng có vài ngày an nhàn câu cá trước khi trở về Phổ Dương. Nhưng tất cả đã nhanh chóng sụp đổ… Vừa đặt chân đến trấn, Địch Công đã gặp ngay một vụ thảm án. Viên thủ quỹ của một khách điếm bị tra tấn dã man tới chết, xác bị ném xuống sông. Liệu đây có phải một vụ cướp đường thông thường như người ta đã tưởng? Ngay sau đó, Địch Công được bí mật triệu vào cung. Tam Công chúa yêu cầu ông ẩn danh, để truy tìm kẻ đã đánh cắp chuỗi ngọc mà Hoàng thượng đích thân ban cho nàng. Liệu trong hai ngày, Địch Công có thể tránh được tai mắt từ những kẻ quyền thế trong cung, đối phó với một bang hội giang hồ hung ác để phá giải Ngọc Xuyến án, hoàn trả chuỗi ngọc cho vị Công chúa cao quý? “Trụ trượng hai đầu nâng Nhật Nguyệt, Hồ lô một bầu giấu núi sông.” *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Các nhân vật chính ĐỊCH NHÂN KIỆT, huyện lệnh Phổ Dương, một trấn huyện thuộc địa phận phủ Kim Hoa. Ông thường được gọi là “Địch Công” hay “Địch huyện lệnh”. Các nhân vật khác TAM CÔNG CHÚA, ái nữ của Hoàng đế, ngụ tại cung Bích Thủy, phía đông trấn Thanh Xuyên. VƯƠNG CẨM TÚ, Tổng quản nữ quan. LÔI CÔNG CÔNG, Đại tổng quản ở cung Bích Thủy. VĂN ĐÔNG, Tổng giám cung ở cung Bích Thủy. KHANG TƯỚNG QUÂN, Chỉ huy Cấm quân. TRÂU LẬP UY, Hiệu úy Cấm quân, dưới trướng Khang Tướng quân. NGỤY THÀNH, chưởng quỹ của khách điếm Thúy Điểu. ĐỚI NINH, thủ quỹ của khách điếm Thúy Điểu. TỬ TÂY, cháu gái của Ngụy Thành. LANG LƯU, một phú thương buôn tơ lụa. HỒ LÔ TIÊN SINH, một ẩn sĩ Đạo gia. Các vụ án trong truyện Vụ án Viên thủ quỹ bị sát hại. Vụ án Vị phu nhân bỏ trốn. Vụ án Chuỗi ngọc của Tam Công chúa. Mời các bạn đón đọc Ngọc Xuyến Án của tác giả Robert van Gulik & Nguyễn Việt Hải (dịch).
Hồng Lâu Án
Hồng lâu án là tác phẩm thứ 8 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án Địch Công kỳ án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng dưới thời Đường - Chu. Sau khi phá giải thành công vụ án chiếc vòng ngọc xuyến của Tam Công chúa, Địch Công được triệu về kinh để thẩm án. Trên đường quay lại huyện Phổ Dương, khi nghỉ dừng chân ở Đảo Bồng Lai – một chốn ăn chơi hưởng lạc nổi tiếng với các song bạc, tửu lâu và kỹ viện, Địch Công được đồng liêu nhờ điều tra vụ án liên quan đến một vị Trạng Nguyên trẻ tuổi tự sát ở Hồng Lâu. Dưới giàn hoa tử đằng, Địch Công tình cờ gặp nàng Hoa khôi xinh đẹp nhưng không lâu sau đó nàng cũng bỏ mạng. Đây có phải là vụ án tự tử vì tình đơn thuần hay có liên quan đến vụ án xảy ra cách đây 30 năm trước? Ân tình khó trả, tri kỉ khó tìm? Liệu Địch Công có thể phá giải được ba vụ án kì lạ, giải đáp bí ẩn của Hồng Lâu? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Lữ khách nghỉ chân tại Hồng lâu Huyện lệnh gặp gỡ vị Hoa khôi
Hoa Văn Cây Liễu
Mùa hè năm 677, Kinh thành Trường An chìm trong dịch bệnh. Địch Công - bấy giờ đang giữ chức Đại lý tự khanh - được bổ nhiệm làm Kinh triệu doãn tạm quyền, lưu lại trấn giữ kinh thành khi triều đình di giá đến nơi khác. Trong thời gian này, dân gian lưu truyền một bài vè tiên đoán về sự lụi tàn của những dòng dõi công huân thế tộc tiền triều có liên quan mật thiết đến vận mệnh của đất nước và thành Trường An. Và khi những vị trưởng tộc thuộc các dòng dõi đột ngột tử vong một cách đáng ngờ thì cả kinh thành chìm trong nỗi hoang mang tột độ. Trong quá trình điều tra, Địch Công và các trợ thủ phát hiện mọi manh mối đều xoay quanh một bức tranh vườn liễu. Bí mật gì được ẩn giấu đằng sau những hoa văn. Thật giả bất phân, làm thế nào để giải mã nó và đưa vụ án ra ánh sáng. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** CÁC NHÂN VẬT CHÍNH ĐỊCH NHÂN KIỆT: Đại lý tự khanh* kiêm Kinh triệu doãn* tạm quyền. Ông thường được gọi là “Địch Công”. ĐÀO CAM: trợ thủ của Địch Công, Trưởng sử của Đại lý tự. KIỀU THÁI, MÃ VINH: trợ thủ của Địch Công, Tả Hữu Quả nghị Đô úy. Quan viên đứng đầu Đại lý tự, cơ quan có nhiệm vụ xét lại những án nặng đã xử rồi gửi kết quả cuộc điều tra qua Bộ Hình để đệ tâu lên Hoàng đế xin quyết định. Chức quan giữ nhiệm vụ quản lý hành chính và trị an ở kinh đô. CÁC NHÂN VẬT KHÁC MAI LƯỢNG: một thương nhân thuộc dòng dõi công huân thế tộc tiền triều*. MAI THỊ: phu nhân của Mai Lượng. DIỆP KHUÊ LÂM: một người thuộc dòng dõi Hầu gia tiền triều. DIỆP THỊ: phu nhân của Diệp Khuê Lâm. QUẾ HOA: tỳ nữ trong Diệp phủ. HÀ BẰNG: một người thuộc dòng dõi Tướng gia tiền triều. LƯ HỒNG CƠ: một đại phu nổi danh. VIÊN NGỌC ĐƯỜNG: một ông lão múa rối giang hồ. BẠCH LAM, HỒNG PHỈ: hai nhi nữ song sinh của Viên Ngọc Đường. Triều đại trước. CÁC VỤ ÁN TRONG TRUYỆN Vụ án HOA VĂN CÂY LIỄU. Vụ án CẦU THANG DỐC ĐỨNG. Vụ án NÀNG NÔ TỲ BỊ SÁT HẠI. Mời các bạn đón đọc Hoa Văn Cây Liễu của tác giả Robert van Gulik & Nguyệt Minh (dịch).
Hầu Tử Và Lão Hổ
Hầu Tử và Lão Hổ là tác phẩm thứ 14 trong bộ tiểu thuyết trinh thám quan án Địch Công kỳ án viết về Địch Nhân Kiệt – vị thần thám danh tiếng lẫy lừng triều Đường, dưới thời Võ Tắc Thiên trị vì. Hầu Tử và Lão Hổ tái hiện lại hai vụ án riêng lẻ ở hai mốc thời gian khác nhau trong sự nghiệp quan án xuất chúng của Địch Công. Vụ án thứ nhất có liên quan đến một chiếc nhẫn quý dính máu và một xác chết trong căn lều hoang. Vụ án thứ hai liên quan đến nạn đạo tặc hoành hành, khiến cuộc sống của người dân vô cùng khổ cực. Số mệnh trớ trêu, lòng người khó đoán, kẻ đáng thương vị tất không có chỗ đáng giận. Vậy ai mới là kẻ có tội? Làm thế nào để Địch Công có thể lật ngược ván cờ trong thế khó, vạch trần bộ mặt của những kẻ đổi trắng thay đen, gỡ được những nút thắt phức tạp, tìm ra chân tướng của các vụ án? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. *** Địch Công đang tận hưởng buổi sáng mùa hè mát lành bên hành lang chạy dài theo phía sau của tư thất. Ông vừa ăn xong bữa điểm tâm buổi sáng cùng mọi người trong nhà, và giờ ông đang thưởng trà một mình, đây là thói quen cố hữu trong suốt những năm ông làm Huyện lệnh Hán Nguyên. Ông kéo chiếc ghế mây lại gần lan can bằng cẩm thạch được chạm khắc. Chậm rãi vuốt bộ râu dài đen nhánh, ông khoan khoái ngồi ngắm hàng cây cao chót vót và cây bụi rậm rạp trên triền núi ngay phía trước chỗ ông ngồi, trông y như một bức tường màu xanh tươi mát. Từ bức tường ấy rộ lên tiếng những loài chim nhỏ ríu rít và cả bài ca râm ran của đám ve sầu hòa cùng. Ông nghĩ thật đáng tiếc khi những thời khắc thư nhàn để tận hưởng sự bình yên này chỉ là thoáng chốc. Chẳng mấy chốc, ông sẽ phải lên công đường để xem có công văn nào được chuyển đến hay không. Bỗng trong đám lá có tiếng xào xạc và cành cây gãy. Hai bóng dáng lông lá đen thẫm đang chuyền qua những ngọn cây, đu từ cành này sang cành khác bằng đôi tay dài mảnh khảnh, để lại phía sau là một đám lá rụng lả tả. Địch Công mỉm cười nhìn theo hai con khỉ. Ông chưa bao giờ chán ngắm vẻ uyển chuyển của lũ khỉ khi chúng nhào lộn. Khỉ vốn nhút nhát, chúng sống trên triền núi và đã quen với vị quan ngồi một mình ở đó mỗi sáng. Thỉnh thoảng, một trong hai con khỉ còn dừng lại một lát và khéo léo chụp lấy trái chuối Địch Công ném cho. Đám lá lại xao động. Lúc này, một con khỉ khác xuất hiện. Nó chuyền rất chậm bằng một cánh tay dài duy nhất và đôi chân linh hoạt tựa như bàn tay. Nó đang ôm một vật nhỏ trên tay trái. Con khỉ dừng lại phía trước chỗ Địch Công và hạ mình xuống một cành thấp hơn, đôi mắt tròn và nâu nhìn sang vị quan án bằng vẻ tò mò. Lúc này, Địch Công mới thấy rõ vật trên tay nó - một chiếc nhẫn bằng vàng có gắn miếng ngọc màu lục lấp lánh. Ông biết lũ khỉ vẫn hay nhặt về những vật nhỏ mà chúng thích thú, nhưng hứng thú của chúng cũng chẳng được bao lâu, nhất là khi chúng thấy những thứ nhặt về không thể ăn được. Nếu ông không thể khiến con khỉ thả chiếc nhẫn xuống ngay lúc này, nó có thể sẽ ném chiếc nhẫn vào đâu đó trong rừng, và chủ nhân chiếc nhẫn sẽ không bao giờ tìm lại được. ???? Địch Công trông thấy con khỉ đang nhìn mình Vì Địch Công không còn chút hoa quả nào trong tay để khiến con khỉ mất tập trung với chiếc nhẫn, ông vội rút chiếc hộp nhỏ trong tay áo và bày những thứ trong đó ra bàn trà, cẩn thận xem xét từng thứ một. Ông liếc thấy con khỉ đang quan sát mình. Chẳng mấy chốc, nó đã bỏ rơi chiếc nhẫn, đu mình xuống cành cây thấp nhất và trụ lại đó hồi lâu bằng đôi tay dài xù xì, say sưa dõi theo từng cử chỉ của Địch Công. Địch Công thấy có vài cọng rơm trên bộ lông đen nhánh của con khỉ. Ông không thể đánh lạc hướng nó quá lâu. Con khỉ kêu lên “oác oác” mấy tiếng thân thiết rồi lại trèo lên một cành cao hơn và biến mất giữa đám lá xanh. Địch Công bước qua lan can và xuống chỗ những tảng đá xanh rêu xếp thành hàng dưới chân dốc núi. Ông nhanh chóng phát hiện ra chiếc nhẫn lấp lánh. Ông nhặt lên và lại treo lên hành lang. Quan sát kĩ hơn thì thấy đó hóa ra là một chiếc nhẫn lớn, rõ ràng là loại nhẫn dành cho nam nhân. Chiếc nhẫn được thiết kế từ hai con rồng bằng vàng cuộn xoắn lấy nhau, và một miếng ngọc lục bảo to lớn khác thường loại thượng đẳng. Chủ nhân chiếc nhẫn chắc sẽ rất mừng khi tìm lại được món đồ cổ giá trị này. Ngay khi ông định bỏ chiếc nhẫn vào tay áo, ông để ý đến những đốm màu nâu như gỉ sắt ở phần bên trong chiếc nhẫn. Ông nhíu mày nhìn kĩ. Những dấu vết đó trông giống vết máu khô một cách lạ lùng. Ông quay lại và vỗ tay. Khi lão quản gia chạy đến, ông hỏi: “Lão quản gia, trên sườn núi đằng kia có nhà dân nào không?” “Bẩm đại nhân, không hề có. Sườn núi ấy quá dốc, lại chỉ toàn rừng rậm che phủ. Tuy nhiên có vài tĩnh xá trên đỉnh núi.” “Phải rồi, ta nhớ đã trông thấy những căn tĩnh xá đó. Ngươi có biết ai đang sống trên đó không?” “Bẩm đại nhân, có Lam chưởng quỹ, chủ một cửa hiệu cầm cố. Và cả một lang trung họ Hoàng.” “Ta không biết người họ Lam ấy. Còn ngươi vừa nói là Hoàng lang trung ư? Ý ngươi là người chủ hiệu thuốc ngoài chợ, đối diện miếu Khổng Tử? Một người nhỏ nhắn, sang trọng và luôn có vẻ âu lo?” “Bẩm đại nhân, đúng là vậy. Ông ta cũng có lý do chính đáng để luôn âu sầu. Nô tài nghe nói, năm nay công việc làm ăn của ông ta không thuận lợi. Và nhi tử độc nhất của ông ta lại là người thiểu năng. Cậu ta sang năm sẽ tròn hai mươi tuổi, nhưng vẫn không thể đọc hay viết. Nô tài không biết cậu ta rồi sẽ thành người thế nào…” Địch Công lơ đãng gật đầu. Căn tĩnh xá chắc vắng người, vì lũ khỉ không dám bén mảng đến nơi có người sinh sống. Đương nhiên, con khỉ có thể nhặt được chiếc nhẫn ở một góc vườn vắng vẻ trên đó. Nhưng rồi sau đó nó có thể ném chiếc nhẫn đi trước khi nó đi qua khu rừng và xuống đến chân núi. Con khỉ chắc chắn đã nhặt được chiếc nhẫn ở quãng dưới này. Ông bỏ qua lão quản gia và lại ngắm nghía chiếc nhẫn. Miếng ngọc lục bảo óng ánh này dường như bỗng xỉn màu, biến thành một con mắt sầu thảm nhìn xoáy vào ông bằng ánh mắt tang tóc. Khó chịu vì chính nỗi bối rối của mình, ông vội bỏ chiếc nhẫn vào tay áo. Ông sẽ phải ra cáo thị về chiếc nhẫn này, rồi chủ nhân của nó sẽ sớm đến huyện nha trình diện và mọi chuyện sẽ kết thúc ở đó. Ông vào trong, đi về tư thất của mình ở hoa viên phía trước, rồi từ đó lên thẳng sân chính của huyện nha. Không gian dịu mát vì những tòa nhà lớn bao quanh sân đã ngăn lại ánh nắng buổi sáng. Bộ đầu của huyện nha đang kiểm tra lại quân bị cho hơn mười người dưới quyền, họ xếp hàng trong sân. Tất cả đều quay sang khi thấy Huyện lệnh đến. Địch Công định đi nhanh qua, lên công đường ở phía bên kia sân, nhưng bỗng một ý nghĩ khiến ông dừng bước. Ông hỏi Bộ đầu: “Ngươi có biết tư gia nào trong khu rừng trên sườn núi phía sau huyện nha không?” “Bẩm đại nhân, thuộc hạ không biết. Theo như thuộc hạ nhớ thì ở đó không có nhà dân. Tuy vậy, ở lưng chừng núi có một căn lều. Loại lều nhỏ bằng gỗ, vốn là của một tiều phu. Bấy lâu nay chỗ đó bị bỏ không.” Rồi y nghiêm nghị nói thêm, “Đám du đãng vẫn hay ở lại đó qua đêm. Vậy nên thuộc hạ mới phải lên đó thường xuyên. Chỉ để đảm bảo chúng không gây ra tai họa gì.” Lời này có vẻ hợp lý. Trong một căn lều bỏ hoang, ở lưng chừng núi… “Ngươi nói thế nào là thường xuyên?” Ông hỏi sắc lạnh. “Bẩm đại nhân, ý thuộc hạ là… khoảng hai tháng một lần. Thuộc hạ…” “Ta không gọi đó là thường xuyên!” Địch Công ngắt lời y. “Ta muốn ngươi…” Ông bỏ lửng câu hỏi. Không được. Cảm giác băn khoăn, mơ hồ không khiến ông mất bình tĩnh. Chắc chắn là bữa điểm tâm chưa tiêu trong bụng đã phá hỏng tâm trạng thư thái, an lạc của ông. Ông sẽ không ăn thịt vào bữa điểm tâm nữa… Ông hỏi lại bằng vẻ thân tình hơn: “Bộ đầu, căn lều ấy cách đây bao xa?” “Bẩm đại nhân, chỉ tầm một khắc* đi bộ. Có một lối mòn nhỏ dẫn lên sườn núi.” 1 khắc bằng 15 phút. “Được rồi. Hãy đi gọi Đào Cam đến đây!” Bộ đầu chạy lên công đường. Y quay lại cùng một nam nhân trung tuổi, người gầy, mặc ngoại y màu nâu đã bạc màu, đội mũ có chóp cao bằng vải sa đen. Người này có khuôn mặt dài, u buồn, bộ ria mép rũ xuống và cằm lưa thưa râu, có ba sợi lông dài rủ xuống từ nốt ruồi trên má trái. Đào Cam vừa thi lễ, Địch Công đã kéo y đến một góc sân. Ông cho y xem chiếc nhẫn và thuật lại chuyện mình có được nó. “Ngươi có thể trông thấy vết máu khô bám trên đó. Có thể chủ nhân chiếc nhẫn đã bị đứt tay khi đi trong rừng. Người này đã tháo chiếc nhẫn ra trước khi xuống suối rửa tay, rồi con khỉ đã lấy mất chiếc nhẫn. Vì đây là một vật giá trị, và cũng vì chúng ta vẫn có nửa canh giờ* trước phiên thăng đường buổi sáng, chúng ta sẽ lên núi và tìm kiếm. Có thể chủ nhân chiếc nhẫn vẫn còn quanh quẩn đi tìm nhẫn. Tín sứ có đem đến thư từ quan trọng nào không?” Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 14: Hầu Tử Và Lão Hổ của tác giả Robert van Gulik  & Nguyễn Việt Hải (dịch).