Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Điện Biên Phủ- Một Góc Địa Ngục (Bernard B. Fall)

Nhiều trận vây hãm đã kéo đài lâu hơn trận vây hãm ngôi làng ấy ở miền tây bắc Bắc Kỳ, ngôi làng có cái tên ít gợi cảm là “quận lị hành chính biên giới” - tiếng Việt Nam là Điện Biên Phủ.

Quân Pháp tái chiếm thung lũng này trong khoảng thời gian hai trăm linh chín ngày và cuộc vây hãm chính thức thì kéo dài năm mươi sáu ngày. Quân Đức đã cầm cự bảy mươi sáu ngày ở Stalingrad; quân Mỹ cầm cự sáu mươi sáu ngày ở Bataan và hai mươi sáu ngày ở Corregidor. Quân Anh đã chống cự hai trăm bốn mươi mất ngày ở Tobrouk. Nhưng kỷ lục trong Đại chiến Thế giới lần thứ hai có lẽ thuộc về quân Đức đã giữ vững được Lorient trong hai trăm bảy mươi ngày, từ ngày giải phóng Bretagne đến ngày đế quốc Đức đầu hàng. Ở thời đại chúng ta, vô số những trận vây hãm đã đặt đối đầu nhau những lực lương quan trọng: 330000 quân Đức bị vây ở Stalingrad; quân Xô-viết bao vây tấn công họ thì gồm tới hơn một triệu người. Ở Điện Biên Phủ, lực lượng trấn giữ cứ điểm chưa bao giờ vượt quá con số 13000 người còn bên tấn công thì có 49500 chiến binh và 55000 dân công không được trang bị vũ khí.

Tuy vậy đó là một trận đánh có tính chất quyết định ngang với trận la Marne đầu tiên, trận Stalingrad và trận Midway. Xung đột có thể kéo dài - có khi trong nhiều năm - nhưng đáng dấp của cuộc xung đột đã hoàn toàn thay đổi. Một trong hai bên tham chiến đã mất mọi cơ may đạt tới mục tiêu chiến tranh của mình. Đó là chuyện đã xảy đến với quân Pháp sau thất bại Điện Biên Phủ. Trước tình hình chiến tranh Đông Dương kéo dài trong thế giằng co từ 19 tháng Chạp năm 1946, người Pháp đã thỏa thuận - một cách quá miễn cưỡng để có thể rút ra được từ cử chỉ ấy dù chỉ một chút lợi thế chính trị hoặc tăm lý nào đó - giành cho chế độ không cộng sản của cựu Hoàng đế Bảo Đại vài đặc quyền nhưng hầu như không có chút chủ quyền thực tế nào. Mặt khác, chiến tranh càng mở ra những lỗ hơng lớn trong hàng ngũ đội quân nhà nghề, càng làm ngân quỹ nước Pháp mắc nợ (cuối cùng thì chiến tranh đã tiêu tốn của nước Pháp khoảng 5000 tỉ franc cũ, chưa kể 477 tỉ tiền viện trợ của Mỹ thực tế đổ vào Đông Dương trước tháng bảy 1954) thì càng hiển nhiên là nước Pháp không còn mục tiêu chiến tranh được xác định một cách rõ ràng nữa. Vị tổng chỉ huy khốn khổ ở Đông Dương vào thời kỳ Điện Biên Phủ, tướng Navarre, đã tuyên bố mấy năm sau, trong cuốn Đông Dương hấp hối của mình, rằng có thể có hai mục tiêu chiến tranh nhưng mâu thuẫn nhau. Mục tiêu thứ nhất có thể là giải phóng các Quốc gia Liên kết khỏi sự thống trị của Việt minh và trao độc lập cho họ. Như vậy thì người ta chỉ có thể chờ đợi nước Pháp dốc toàn sức ra một mình tiến hành cuộc chiến tranh nếu ba nước Đông Dương chấp nhận những “mối liên hệ đặc biệt” với nước Pháp, những mỗi liên hệ xứng đáng với máu và tiền của đổ vào cuộc chiến tranh, và nếu họ đem hết khả năng tối đa của mình giúp nước Pháp trong cuộc chiến tranh ấy. Mục tiêu thứ” hai có thể là tham gia một cách đơn giản vào chính sách của Mỹ ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam á. Thế thì tất cả các quốc gia liên quan đén cuộc chiến tranh ấy chí ít cũng có nhiệm vụ tham gia vào đó ngang bằng với nước Pháp.

Chính vì Hoa Kỳ sau đó đã chấp nhận quan điểm ấy mà bộ trưởng Dean Rusk và bộ trưởng quốc phòng Mac Namara đã đến Paris vào tháng Chạp năm 1965 để yêu cầu các thành viên khác của khối Bắc Đại Tây Dương ủng hộ Hoa Kỳ một cách trực tiếp hơn và đầy đủ hơn trong cuộc đấu tranh mà họ tiến hành hầu như một mình - nếu không kể quân đội Nam Việt Nam và một vài đơn vị nhỏ của một vài nước nhỏ gưi tới. Kết quả đạt được xem ra là không đáng kể.

Khác với Hoa Kỳ, nước Pháp không bao giờ có đủ những phương tỉện để làm một mình cái việc mình phải làm. Và nước Pháp biết rằng dư luận”ở chính quốc, sự mệt mỏi của dân chúng tại địa bàn mình tiến hành chiến tranh - một yếu tố ngày nay hay bị quên - đòi hỏi phải tìm” ra được một giải pháp nhanh chóng cho cuộc xung đột. Hoặc là, nếu không giành được chiến thắng thì cũng tạo ra được một tình thế cho phép quân đội quốc gia các nưồc liên kết Tiệt Nam, Cao Miên, Lào) thanh toán được với chiến tranh du kích một khi quân đội chính quy Pháp đã tiêu diệt được đội quân chủ lực của địch sau một loạt những trận giao chiến lớn. ” Một sự khác nhau nữa so với Hoa Kỳ là nước mà Tổng thống có quyền đưa một con sốkhông hạn chế binh lính Mỹ vào những cuộc chiến tranh không tuyên bố ở hải ngoại: ở Pháp, một điều bổ sung vào luật tài chính năm 1950 cấm chính phủ đem binh lính thuộc biên chế trong nước sử dụng ở ngoài lãnh thổ chính quốc - nước Pháp và Algérie - và những vùng chiếm đóng tại Đức và áo, do đó đã giới hạn khá nhiều quân số có thể đưa vào chiến trường Đông Dương. Các chính phủ của nền Cộng hoà thứ tư bị co kéo gíữa những cam kết và nhũng ưu tiên không thể dung hợp được với nhau - tham gia khối quân sự Bắc Đại Tây Dư”jng tức là bảo vệ Châu âu chống lại chủ nghĩa cộng sản, và chống lại chính cái chủ nghĩa cộng sản ấy tại một vùng Châu Á xa xôi - cho nên họ phải bủn xỉn cắt xén trong cả hai việc. Bị lấy mất phần lớn những sĩ quan và hạ sĩ quan thường trực của nó, các đơn vị quân đội Pháp đóng ở Châu âu chắc là sẽ chẳng phát huy tác dụng gì đáng kể trong trường hợp xảy ra chiến tranh, còn những đơn vị thường trực gửi sang Đông Dương thì chỉ là những đơn vị khung cần được bổ sung một cách vội vàng bằng binh lính tuyển mộ tại chỗ. Tháng Năm năm 1953, khi nhận 1 nhiệm vụ chỉ huy, tướng Navarre đã yêu cầu gửi 1 tới cho ông 12 tiểu đoàn bộ binh, một đội pháo binh 1 có thể thả dù được, một tiểu đoàn công binh, cùng 1 với 750 quan và 2550 hạ sĩ quan để tăng cường 1 bộ khung cho một số đơn vị. Rốt cuộc ông chỉ nhận 1 được 8 tiểu đoàn, 330 sĩ quan, 200 hạ sĩ quan và 1 được báo trước rằng những quân tiếp viện đó chỉ đơn thuần là một sự “tạm ứng trước”, nghĩa là ho được trích ra từ kế hoạch dự kiến cho năm 1954. Tìm mua: Điện Biên Phủ- Một Góc Địa Ngục TiKi Lazada Shopee

Trong khi đó, đối phương không ngừng được tăng cường, đặc biệt là bằng những đại đoàn chính quy được huấn luyện tốt và có khả nặng chống chọi với những gì tốt đẹp nhất mà nước Pháp có thể đưa ra để đối đầu với họ. Mười hai năm sau, quân Bắc Tiệt Nam cũng chẳng hề do dự đọ sức với những đơn vị quân đội tinh nhuệ nhất của Hoa Kỳ. Chiến tranh Triều Tiên đã kết thúc vào cuối tháng Bảy năm 1953 bằng một thoả hiệp, Trung Quốc bắt đầu ồ ạt gửi sang bắc Việt Nam huấn luyện viên và binh khí kỹ thuật do Nga và Mỹ sản xuất. Việt Minh lúc đó có bảy đại đoàn cơ động và một đại đoàn pháo binh được trang bị đầy đủ. Chẳng bao lâu nữa họ sẽ còn nhận được nhiều hơn từ những trại huấn luyện Trung Quốc ở Ching Sai và Nan Ning. Do đó, một việc khẩn cấp cho người Pháp là phải tiêu diệt được bộ phận lớn đội quân chủ lực địch. Nhưng muốn được như vậy thì phải buộc được nó giao chiến với mình trong một trận đánh dàn trận chính quy, nghĩa là bày ra một mục tiêu đủ hấp dẫn để nó muốn tấn công, và đủ mạnh để chống lại được nó. Đó là một canh bạc đầy bất trắc bởi vì cái được đem ra đặt cược không phải chỉ là số phận của quân đội Phápại Đông Dương và vai trò của nước Pháp ở Đông Nam á, màcòn là sự duy trì được nước Việt Nam, và trên một chừng mực nào đó cả nước Lào và Cao Miên trong phe những nước không cộng sản; và thậm chí cứ như lời những người lo ngại hiện tượng vết dầu loang, thì đó còn là việc duy trì được một sự. có mặt nào đó của phương Tây trên cái lục địa mênh mông trải ra từ Calcutta đến Hong-kong, qua Singapore.

Cuốn sách của tôi là câu chuyện về canh bạc đó Năm 1962, khi ông giám đốc tủ sách “Những trậnđánh lớn trong lịch sử”, nhà sử học nổi tiếng và nhà văn quân đội Mỹ Hanson W. Baldwin, đề nghị tôi viết quyển sách này, tôi đã bắt tay vào íàm không phải không có e ngại. Sau khi tiến hành khảo cứu về những khía cạnh còn thiếu tế nhị hơn nhiều của chiến tranh Đông Dương, tôi đã nhận thấy rằng nếu không được tiếp cận những hồ sơ lưu trữ quân sự thì sẽ cực kỳ khó để viết ra được với một sự chính xác nào đó những gì đă diễn ra ở Điện Biên Phủ. Đpc qua những tác phẩm viết về trận đánh, với tất cả những mâu thuẫn và sai sót của nó, tôi chỉ càng thêm lo ngại. Trong khi yêu cầu các nhà chức trách Pháp cho phép tôi được tham khảo những tài liệu chính thống, tôi không quên nói với họ rằng chuyện kể lại chính xác một cách khoa học những gì đã diễn ra ở Điện Biên Phủ sẽ không là sự ca ngợi các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự Pháp ở Viễn Đông. Nhưng tôi đã nói thêm rằng điều đáng lo ngại là những điều thêu dệt và những điều dối trá trong bao năm qua thay vì sự thật sẽ xuyên tạc lịch sử một cách không cứu vãn được và ngăn cản những ai ngày nay còn quan tâm đến Việt Nam hiểu được những sự kiện hiện tại về một số mặt. nào đó chúng là sự phát triển của những sự kiện xảy ra trong mùa xuân 1954.

Trong khi chờ đợi được sự cho phép đó, tôi bắt tay vào công việc tiếp xúc với những người còn sống sót. Người Pháp thì còn vô khối. V họ nắm tất cả những cương vị chỉ huy về phía ta cho nên việc thu thập được những lời kể của họ có một tầm quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên tôi nhận thấy rằng lời kể của họ - như thường xảy ra khi những người sống sót kể lại cuộc phiêu lưu của họ vào những lúc khác nhau và cho những người khác nhau - bao hàm những chỗ sai sót và không tránh khỏi những định kiến, ở một số người là do muốn tranh công. Quân nhảy dù cho rằng họ đã phải gánh phần lớn các cuộc chiến đấu. Quân lê dương thì dứt khoát rằng họ là những trụ cột của cuộc kháng cự. Các sĩ quan trước kia thuộc những đơn vị bị coi là chiến đấu không tất khẳng định rằng những lời buộc tội đó là không có cơ sở. Thêm nữa không một câu chuyện kể lại nào về Điện Biên Phủ - bắt đầu từ câu chuyện của tôi đây - có thể thoát khỏi bị ảnh hưởng bởi cuộc khẩu chiến quyết liệt diễn ra - ngay cả trước một phiên toà ở Paris - giữa tướng Navarre, tổng chỉ huy ở Đông Dương, và trung tướng René Cogny, hạ cấp trực tiếp của ông ta ở Bắc Việt Nam hầu như tất cả những người còn sống sót đều đứng về một phe trong cuộc tranh chấp ấy, cuộc tranh chấp được phản ảnh trên một chừng mực nào đó trong các hồ sơ lưu trữ.

Chẳng bao lâu sau, tôi hết sức ngạc nhiên nhận thấy rằng xem ra không ai quan tâm thu lượm lời kể của những thành phần không phải là người Pháp: lính lê dương, lính Bắc Phi và lính Việt Nam, những người hợp thành 70% của đội quân trấn giữ Điện Biên Phủ. Mặc dầu có đôi chút khó khăn, tới gặp họ tôi cũng được đón tiếp với một thái độ thân tình và thông cảm đặc biệt. Chưa đến một năm sau khi giành giật được độc lập cho nước mình từ tay người Pháp, chính phủ nước Cộng hòa Algérie đã cho phép tôi được tiếp xúc với những cán bộ quân đội của họ đã từng chiến đấu ở Điện Biên Phủ và nhiều người sau đó đã cầm vũ khí chống lại nước Pháp ở Algérie. Năm 1962, tại Bắc Việt Nam, tôi không gặp một khó khăn nào để tiếp xúc được với những con người kiêu hãnh kể lại chiến thắng của họ. Dễ dàng nhận ra họ ở huy hiệu mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn cho họ: cái huy hiệu ấy họ đeo cả khi ăn mặc thường dân. Thành thử té ra người lái xe cho tôi đã từng là xạ thủ đại liên ở Điện Biên Phủ. Ở Nam Việt Nam và ở Pháp, một số người sống sót đã đáp ứng những lời nhắn tin của tôi đăng trên các báo. Một viên chức nhà đoan ở sân bay Tahiti đã chiến đấu ở Điện Biên Phủ. Một người được gắn Bắc đẩu Bội tinh được phát hiện ra trong toán những người canh gác mộ Napoléon và tên một người khác nữa đã được tìm ra nhờ một bài báo của New York Times nói về du lịch ở Sahara.

Năm 1963, khi nhận được giấy của bộ trưởng bộ các lực lượng vũ trang, ngài Pierre Messmer, cho phép tôi được tiếp cận các hồ sơ lưu trữ, tôi bị mắc một cơn bệnh thập tử nhất sinh. Năm 1964 - 1965, nhờ một món trợ cấp nghiên cứu của đại học Howard, tôi dẫu sao cũng đã hoàn thành được công việc sưu tầm tài liệu. Cần nói ngay rằng hầu hết những tài liệu có ở Điện Biên Phủ - nhật ký hành quân, văn bản những bức điện trao đổi giữa các đơn vị, v v - đã bị thiêu huỷ trước khi tập đoàn cứ điểm thấtthủ, hoặc đã rơi vào tay quân cộng sản. Thêm nữa, duy chỉ có quân đội nhân dân Việt Nam - quân đội Bắc Việt mà đến năm 1954 người ta còn gọi là quân Việt Minh - là có tiến hành một cách quy củ việc nghe những người còn sống sót báo cáo lại ngay sau trận đánh. Nói đúng ra thì chỉ có tướng Võ Nguyên Giáp là có đủ thẩm quyền để viết cuốn sách này. Nhưng do bận nhiều công việc, cho tới nay ông chỉ công bố được vài bài nghiên cứu về đề tài này.

Những hồ sơ lưu trữ của Pháp hiện đang được đem ra nghiên cứu - biên chể của ban lịch sử quân đội gồm những. người rất có năng lực nhưng quân số rất hạn chế và xét về chương trình làm việc thì vai trò của nó là rất có hạn, do có quy định rằng chỉ sau năm mươi năm thì các tư liệu mới được công bố in extenso (toàn bộ). Nhưng những tư liệu ấy rất đầy đủ, nhất là những báo cáo về những cố gắng để ứng cứu o tập đoàn cứ. điểm và việc tiếp tế cho nó trong thời gian trước ngày 24 tháng Ba năm 1954, là ngày tập đoàn cứ điểm bị cắt đứt khỏi thế giới bên ngoài. Phần lớn những tư liệu ” sau thời điểm đó là những bản sao các bức điện trao đổi giữa Hà Nội và Điện Biên Phủ. Một số tư liệu - nghe nói là không nhiều lắm - hiện còn đang trong tay ủy ban điều tra về thảm họa. Một số tư liệu không thể nào tìm thấy trong các tủ hồ sơ lưu trữ mặc dầu chúng có tính chất là giấy tờ chính thức. Có lẽ chúng đang ở trong tay những diễn viên chính của bi kịch, bởi vì chúng đã được công bố trong một số những tác phẩm Pháp mà tác giả đã tham gia vào cuộc khẩu chiến giữa Navarre và Cogny. Cuối cùng cơ quan hồ sơ lưu trữ của hải quân và không quân đã cung cấp cho tôi một số lượng lớn những tài liệu rất quý về mặt hàng không - mặt chủ yếu - của trận đánh.

Vớì khối tư liệu đó trong tay, các cuộc tiếp xú( của tôi với phần lớn những người chỉ huy chiến thuật, trong nhiều trường hợp có kèm theo trao đổi thư từ, đã tỏ ra là hết sức quý báu. Tiếc thay, chỉ hiếm khi tôi mới tập hợp họ lại được trong một cuộc trao đổi tập thể, vì lý do đơn giản là những người sống sót từ Điện Biên Phủ ngày nay ở phân tán khắp nơi. Cái hình thức họp trao đổi chung ấy, mà nhà sử học Mỹ nổi tiếng, tướng S.L.A. Marshall, thường hay thực hiện, là đặc.biệt có ích khi người ta muốn dựng lại những gì đã diễn ra trong những lúc rối ren khi tình hình thay đổi từng lúc. Những lúc rối ren ấy thì có nhiều ở Điện Biên Phủ. Trong một trường hợp đặc biệt, tôi đã ghi chép được những chi tiết cụ thể mà nhiều sĩ quan đã cung cấp cho tôi, ìiên quan đến một cứ điểm được ghi sai tlên các bản đồ được quân đội Pháp phác họa ra sau trận đánh.

Như thế không có nghĩa là trong cuốn sách này tôi đã có thể giải đáp được tất cả những câu hỏi mà người ta vẫn còn đặt ra về trận đánh. Quá nhiều người đã mang theo những bí mật của họ xuống mồ và có quá nhiều những câu chuyện huyền thoại được đơm đặt ra thay vì sự thật. Những ghi chép của tôi và những băng ghi âm về những cuộc tiếp xúc điều này có cần nói lên không, đã không được một ai duyệt và chứng nhận cả. Tất cả những lời đối thoại, tất cả những tuyên bố mà bạn đọc đọc thấy sau đây là sao lại những lời kể trực tiếp chứ không phải là dựng lại các sự kiện sau khi nó xảy ra. Và nếu cái câu công thức mọi người đều biết “Tôi xin thề nói lên sự thật, toàn bộ sự thật, không sợ hãi và không thù hằn ” có một ý nghĩa thì tôi cho rằng người ta có thể nói một cách hoàn toàn công bằng rằng đó chmh là cái tôi đang làm ở đây.

Việc nhắc đến tất cả những người đã có đóng góp với tôi có thể làm cho nhiều người lúng túng do những chức vụ họ đang đảm nhiệm. Ngoài ra điều đó còn có nghĩa là làm họ phải chia sẻ trách nhiệm về những điều tôi nêu lên, trong khi tôi lại muốn chỉ một mình mình hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tuy nhiên tôi muốn ngỏ lời cảm ơn các thủ trưởng và nhân viên các ban sử của lục quân, hải quân và không quân Pháp đã vui lòng chia sẻ với một kẻ cha vơ chú váo những nguồn tài liệu khiêm tốn của họ với một thái độ lịch thiệp không thể chê trách: thiếu tá Jean Pouget, tác giả cuốn sách tuyệt vời Chúng tôi đã ở Điện Biên Phủ, đã đồng ý cho tôi sử dụng một số bản ghi chép riêng của ông; đại tá Jules Roy, tác giả cuốn Trận Điện Biên Phủ - cuốn sách đã xem xét vấn đề theo một cách mới và rất có ích cho tôi trong việc xác định cụ thể các sự kiện; ông Hanson W. Baldwin đã làm công việc hiệu đính một cách tỉ mỉ và khéo léo; và cảm ơn Dorothy vì đã chăm sóc tôi, đem sức khỏe trở lại cho tôi và đã chịu đựng một người chồng suốt ba năm ròng hầu như lúc nào đầu óc cũng để ở một vùng thung lũng nhỏ xanh rờn tại miền Bắc Việt Nam.

Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Điện Biên Phủ- Một Góc Địa Ngục PDF của tác giả Bernard B. Fall nếu chưa có điều kiện.

Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.

Nguồn: thuviensach.vn

Đọc Sách

Bước Mở Đầu Của Sự Mở Rộng Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (Nguyễn Xuân Thọ)
Đây là cuốn sách được phát triển từ một phần luận án Tiến sĩ của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Thọ. Nhận xét về công trình/ tác phẩn của TS Nguyễn Xuân Thọ, Ông Maurice Beaumont, thành viên Hàn Lâm Viện Pháp, Giáo sư danh dự Đại học Sorbonne ngày 15/11/1966 đã viết: “Về phương diện trí thức, ông [Nguyễn Xuân Thọ] đã bắt đầu sưu tập ở Pháp và ở Tây Ban Nha (cũng gọi là Y Pha Nho), tư liệu cho một luận án Tiến sĩ, mà ông đã thuyết trình và bảo vệ tại Đại học Sorbonne, vào tháng 7 năm 1956, về "Cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha tại Nam bộ Việt Nam (mà người Pháp gọi là Cochichine) nam 1858-1862". Cuộc sưu tập ấy như công trình của một sử gia, chính xác về phương pháp, tao nhã về hình thức (cách trình bày). Lúc ấy, tôi là một thành viên trong ban khảo thí, có trách nhiệm sát hạch và đánh giá luận án đó, luận án đã được xếp hạng Tối Ưu (Très Honorable). Và ông Thọ đã tiếp tục công trình của ông, bằng cuộc nghiên cứu này, về sự thâm nhập của người Pháp vào Việt Nam (1858-1897). Công trình này, trong đó, ông Nguyễn Xuân Thọ đã dành một phần lớn cho các tài liệu chính thức, phần nhiều là chưa được tiết lộ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn, một số giai đoạn trong lịch sử những liên hệ giữa Pháp và Việt Nam vào thế kỷ vừa qua. Đồng thời, công trình này cũng soi sáng chúng ta về tấn thảm kịch đang chia cắt mảnh đất đau khổ này của Á Châu, trên cả hai bình diện chính trị và tôn giáo.” “Bằng cách đưa vào quyền sách này những văn kiện ngoại giao, mà phần lớn chưa được tiết lộ, tác giả cố gắng góp phần xác định một số giai đoạn lịch sử những buổi đầu trong sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt Nam. Tác phẩm này sẽ không chú trọng nhiều đến phương pháp tổ chức hành chánh địa phương, do tay người Pháp, tại Việt Nam, mà chỉ nhấn mạnh về bình diện chánh trị, ngoại giao và quốc tế của công cuộc thâm nhập này. Một công tác rất có giá trị. Bản thảo này quả là độc đáo, hơn hết các công trình nghiên cứu của các sử gia khác…” - Hoàng Xuân Hãn Tìm mua: Bước Mở Đầu Của Sự Mở Rộng Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam TiKi Lazada Shopee ***Paris, ngày 15 tháng 11, năm 1966 Quen biết rõ ông Nguyễn Xuân Thọ, từ nhiều năm, tôi đã có thể đánh giá cao, một cách liên tục, những đức tánh về trí thức và đạo đức của ông ấy. Về phương diện trí thức, ông đã bắt đầu sưu tập ở Pháp và ở Tây Ban Nha (còn gọi là Y-Pha-Nho), tư liệu của một luận án Tiến sĩ, mà ông đã thuyết trình và bảo vệ tại Đại học Sorbonne, vào tháng Bảy năm 1956, về “Cuộc viễn chinh Pháp - Tây Ban Nha tại Nam bộ Việt Nam(1) năm 1858-1862.” Cuộc sưu tập ấy đã cho thấy như công trình của một sử gia đủ tư cách, cả về mặt chính xác của phương pháp, lẫn về mặt tao nhã của hình thức (cách trình bày). Lúc ấy, tôi là một thành viên trong ban khảo thí, có trách nhiệm sát hạch và đánh giá luận án đó, luận án đã được xếp hạng “Très Honorable” (Tối ưu). Và ông Thọ đã tiếp tục công trình của ông, bằng cuộc nghiên cứu này, về sự thâm nhập của người Pháp vào Việt Nam (1858-1897). Công trình này, trong đó, ông Nguyễn Xuân Thọ đã dành một phần lớn cho các tài liệu chính thức, phần nhiều là chưa được tiết lộ, giúp chúng ta hiểu rõ hơn, một số giai đoạn trong lịch sử những liên hệ giữa Pháp và Việt Nam vào thế kỷ vừa qua. Đồng thời, công trình này cũng soi sáng chúng ta về tấn thảm kịch đang chia cắt mảnh đất đau khổ này của Á châu, trên cả hai bình diện chánh trị và tôn giáo. Về phương diện đạo đức, ông Nguyễn Xuân Thọ đã chứng tỏ với tôi một đức tánh trung thực vẹn toàn. Theo nhãn quang tôi, ông là một trong số những người Việt Nam có khả năng đảm trách công cuộc phục hưng đất nước của ông, bằng cách sử dụng văn hóa Pháp, mà ông đã khéo kết hợp được, trong một tinh thần độc lập dân tộc và khách quan khoa học. Maurice BAUMONT Thành viên Viện Hàn Lâm Pháp,Giáo sư danh dự Đại học Sorbonne.Connaissant M.NGUYEN XUAN THO depuis plusieurs années. j’ai pu apprécier d’une facon continue ses qualités intellectuelles et morales. Au point de vue intellectuel, il a commencé de réunir, en France et en Espagne, la documentation d’une thèse de doctorat, soutenue à la Sorbonne en juillet 1956, sur “L’expédition franco espagnole de Cochinchine (1858-1862)”, et qui s’est révélée l’oeuvre d’un historien qualifié tant par la rigueur de la méthode que l’élégance de la forme. Je faisais partie du jury chargé d’examiner et de côter cette thèse qui lui a valu la mention “Très Honorable”. Il a continué son travail par cette étude de la pénétration francaise au Viet Nam (1858-1897). Ce travail, dans lequel M. NGUYEN XUAN THO a réservé une large place aux documents officiels pour la plupart inédits, nous aide à mieux comprendre certains épisodes de l’histoire des relations entre la France et le Viet Nam au siècle dernier, en même temps qu’il nous éclaire sur le drame qui déchire actuellement ce malheureux pays d’Asie tant sur le plan politique que religieux. Au point de vue moral, M. NGUYEN XUAN THO m’a toujours donné la preuve d’une honnêteté intégrale; il est à mes yeux l’un des Vietnamiens susceptibles d’assurer le relèvement de son pays en utilisant la culture francaise qu’il a su s’incorporer dans un esprit d’indépendance nationale et d’objectivité scientifique.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bước Mở Đầu Của Sự Mở Rộng Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam PDF của tác giả Nguyễn Xuân Thọ nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bùn Pha Sắc Xám (Anthony Grey)
Cho đến khi người Anh trao miền Nam Việt Nam lại cho người Pháp đầu năm 1946, thì đã có hơn hai ngàn người Việt bị quân Anh sát hại. Tại miền Bắc, lực lượng giải giới Trung Hoa cuối cùng chịu rút khỏi Việt Nam vào tháng 3 năm 1946 qua một thỏa ước mà họ đã ký kết với Pháp, theo đó Trung Hoa nhường cho Pháp đưa một số quân vào miền Bắc Việt Nam, ngược lại người Pháp phải trả cho Trung Hoa tất cả những Tô giới mà họ đang chiếm giữ. Chính phủ Hồ Chí Minh lúc này vẫn còn yên ổn đóng tại Hà Nội, và mặc dù Paris đã chính thức công nhận chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ của Việt Minh trong Liên Hiệp Pháp, nhưng Việt Minh vẫn hết sức dè dặt chào đón sự trở lại của lực lượng Pháp. Trước đó, đã có nhiều cuộc thảo luận giữa Hồ Chí Minh và Pháp diễn ra, cho mãi đến mùa Thu năm này, nhưng Pháp vẫn ù lỳ cương quyết không chịu trao trả nền Độc Lập hoàn toàn cho Việt Nam. Cũng kể từ đó, việc xung đột giữa đôi bên không còn cách nào tránh khỏi được. Việt Nam lúc bấy giờ vẫn không được thế giới bên ngoài chú ý tới, trong khi đó Nga Xô lại nới rộng vùng ảnh hưởng của mình tại Đông Âu và Trung Âu. Tổng Thống Harry Truman của Hoa Kỳ quyết định ủng hộ nước Pháp, vì Pháp hiện đang đóng một vai trò rất quan trọng trong lãnh vực chiến tranh lạnh tại Âu Châu. Hồ Chí Minh đã nhiều lần viết thơ cho Tổng Thống Truman để xin Hoa Kỳ ủng hộ mình, nhưng tất cả thư từ đó, đều không được Hoa Kỳ phúc đáp. Việc Hoa Kỳ ủng hộ Pháp thật ra đối với bộ Ngoại Giao của quốc gia này vẫn không có gì thay đổi, nhưng vì lúc bấy giờ sự thắm thiết giữa cơ quan OSS (Cơ Quan Tình Báo Chiến Lược của Hoa Kỳ) và Việt Minh vào những ngày chót của cuộc chiến tranh thứ hai vừa qua đã làm cho nhiều nhà ngoại giao của Hoa Kỳ phải khó chịu. Washington đã bất ngờ chính thức tuyên bố là Hoa Kỳ sẽ tôn trọng chủ quyền của người Pháp tại Đông Dương và chấm dứt nhiệm vụ của OSS tại Việt Nam, đồng thời cho rút khỏi Hà Nội vào tháng 10 năm 1945. Mãi cho đến về sau này, các nhà lãnh đạọ Hoa Kỳ mới thấy tiếc rẻ là họ đã bỏ mất một cơ hội bằng vàng để có thể biến Hồ Chí Minh thành một Tito của Á Châu thân Tây Phương. Trong thời gian lên cầm quyền, Hồ Chí Minh đã nắm vững tình hình của dân chúng và khi cuộc chiến tranh với Pháp bộc phát trở lại trên toàn lãnh thổ Việt Nam vào ngày 19 tháng 11 năm 1946, Hồ Chí Minh lại một lần nữa rút vào các hang núi đá vôi miền thượng du Bắc Việt, nơi mà cách đây mười sáu tháng trước ông ta đã bỏ nơi này để nhảy ra cướp chính quyền. Trong khoảng thời gian ngắn đó, chính phủ Hồ Chí Minh đã khắc phục được nạn đói tại miền Bắc bằng cách vận động toàn dân tức tốc trồng trọt trên bất cứ khoảnh đất trống nào, và chính phủ của ông ta đã thắng được dễ dàng cuộc bầu cử tại Nam và Trung phần. Ưu thế của Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội đã khiến cho Việt Minh không ngần ngại cho áp dụng các chiến thuật khủng bố đối với những người Quốc Gia chống đối với họ. Cộng Sản đã mưu sát hầu hết các lãnh tụ thù nghịch nổi tiếng của họ vào những ngày đầu của cuộc hỗn loạn này. Điều rõ ràng nhứt là Việt Minh đã được đại đa số quần chúng chấp nhận, cho nên sau khi chiến tranh với Pháp bộc khởi trở lại, người Pháp đã thấy rằng dù với một trăm năm chục ngàn quân có mặt tại đây, thì họ cũng chỉ có thể kiểm soát được các vùng trung tâm thị tứ và các trục giao thông chính mà thôi, trong khi đó Việt Minh đặt thế lực của họ tại các làng mạc hẻo lánh, các đồng ruộng và các vùng rừng rú. Sau khi Pháp thắng được vài trận trên các chiến trường thì tình hình quân sự của Pháp được nới rộng hơn và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1949, khi mà Cộng Sản Mao Trạch Đông thắng thế tại Trung Hoa thì người ta thấy cục diện thế giới có nhiều thay đổi. Chỉ trong vòng một đêm, bỗng dưng lãnh thổ của Trung Hoa đã trở thành căn cứ an toàn cho Hồ Chí Minh ém quân và là nơi huấn luyện lý tưởng cho các binh sĩ dưới quyền của Tướng Võ Nguyên Giáp. Chỉ trong vòng vài tháng, lực lượng của Việt Minh bành trướng thành một quân đội được trang bị với đại bác tối tân của Hoa Kỳ do Cộng Sản Trung Hoa tịch thu được của tàn quân Tưởng Giới Thạch. Cũng từ đó trở đi, việc Pháp có thể chiến thắng Việt Minh trên các chiến trường đã trở nên không còn cách nào thực hiện được nữa. Tìm mua: Bùn Pha Sắc Xám TiKi Lazada Shopee Cuối năm 1950, Việt Minh tung bốn mươi ba Tiểu Đoàn mới vừa thành lập vượt biên giới Trung Hoa và Việt Nam, đánh thốc vào các tiền đồn yếu ớt của Pháp, gây nên một sự thất bại nhục nhã cho Pháp chưa từng thấy kể từ khi Tướng Montcalm của Pháp bị bại trận và bị giết dưới tay quân Anh ở Québec vào năm 1795. Sáu ngàn quân Pháp bị giết và một số lớn quân xa, vũ khí bị lọt vào tay quân đội Việt Minh. Từ đó, dưới sự ủng hộ của Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh, Việt Minh kiểm soát được một khu vực từ biên giới Hoa Việt cho tới gần một trăm dặm chung quanh Sài Gòn, chỉ trừ một vài vùng tại châu thổ sông Hồng và Hà Nội là quân Pháp còn giữ được mà thôi. Lúc bấy giờ thế giới bên ngoài, ai nấy đều lo ngại trước cuộc chiến thắng của Mao Trạch Đông và lo sợ cuộc chiến thắng này sẽ ảnh hưởng đến chủ nghĩa Cộng Sản hiện đang trên đà bành trướng mạnh trên thế giới, cho nên cuộc chiến tranh ở Đông Dương mà từ trước đến giờ hầu như không làm một ai chú ý tới, nhưng trước đà thuận lợi cho Cộng Sản hiện tại ở Đông Dương đã khiến cho một số các quốc gia tư bản khác trên thế giới phải để tâm vào. Tháng Giêng năm 1950, Nga Sô và Trung Cộng thừa nhận chính phủ Hồ Chí Minh lúc này đang có mặt tại các căn cứ địa của họ trên vùng thượng du Bắc Việt, và chính điều này đã làm cho Hoa Kỳ vội vã lên tiếng công nhận một chính phủ Việt Nam do Pháp đỡ đầu và do Bảo Đại lãnh đạo. Ngoại trưởng Hoa Kỳ Dean Ancherson cho biết là Nga Sô và Bắc Kinh đã kéo lá bài chót để đưa ra cái ảo ảnh giả vờ của Hồ Chí Minh trong tư thế quốc gia, cho thấy y là một kẻ thù không đội trời chung của Hoa Kỳ, để từ đó Hoa Kỳ bắt đầu ồ ạt viện trợ kinh tế và quân sự cho Việt Nam cũng như các quốc gia khác tại Đông Dương nhằm giúp Pháp ngăn chặn sự bành trướng của Cộng Sản. Kể từ đó, Pháp biến cuộc chiến tranh Thuộc Địa của mình thành một cuộc chiến tranh với sứ mạng ngăn chặn Cộng Sản bành trướng tại Á Châu. Đầu tháng 6 năm 1950, thế giới Tây Phương bắt đầu chú ý đến phần đất này nhiều hơn khi Bắc Hàn xua quân tấn chiếm Nam Hàn, và các lực lượng Tây Phương đã cùng chung nhau phục vụ dưới cờ Liên Hiệp Quốc nhảy vào vòng chiến đối đầu với quân Cộng Sản gồm Bắc Hàn và Trung Cộng. Song song với nhiệm vụ này, Tổng Thống Truman bắt đầu gửi một phái bộ quân sự từ Washington qua Sài Gòn vào mùa hè năm đó để sát cánh với Pháp, và chính hành động này đã đưa tới sự liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam sau này: Dưới hĩnh thức viện trợ kiểu lăn banh tuyết, tính cho đến năm 1954 thì Hoa Kỳ đã đổ vào cho Pháp ba tỷ mỹ kim để Pháp tự đào lỗ chôn mình tại Đông Dương. Năm 1953, cuộc ngưng bắn tại Đại Hàn làm cho Cộng Sản rảnh tay tập trung hết nỗ lực quân sự vào Đông Dương với sự viện trợ hùng hậu của Nga và Trung Cộng cho lực lượng của Võ Nguyên Giáp. Để đáp ứng với tình thế hiện tại, chính quyền thứ 19 tại Pháp, sau chín năm đầy khủng hoảng tại Paris, họ đã đưa ra nỗ lực cuối cùng để cứu vãn danh dự của mình, hầu thoát được cuộc chiến tranh đầy vô vọng này. Pháp đã chấp thuận một kế hoạch do các tay lãnh đạo quân sự đưa ra, theo đó Pháp sẽ dụ lực lượng chính quy của Võ Nguyên Giáp vào một trận chiến quyết liệt bên sau phòng tuyến của Việt Minh tại lòng chảo Điện Biên Phủ hoang vu, hẻo lánh ở Bắc phần, nơi mà Pháp nghĩ rằng với ưu thế thượng phong của Không Quân và uy thế về sức mạnh quân sự của họ, họ có thể tiêu diệt dễ dàng địch quân khi Cộng Sản không có khả năng gì về chiến xa và Không quân hết cả, ngoại trừ một số ít quân dụng vận tải mà thôi. Trước khi lâm trận tại Điện Biên Phủ, Pháp đã đưa ra một đòn nhử bằng cách cho thả dù binh lính xuống một lòng chảo bên sau tuyến của Việt Minh ở Na Sản. Võ Nguyên Giáp không chuẩn bị kịp cho cuộc tấn công này nên đã nướng trọn một Tiểu đoàn giữa các bãi mìn và hàng rào kẽm gai tại đây, vì vậy Pháp vô cùng tự tin là một trận đánh tương tự trong tương lai cũng sẽ đưa tới kết quả tốt đẹp như thế này. Nhưng điều hy vọng đó đã không thành công dễ dàng như người Pháp đã trù định. Và Điện Biên Phủ đã đưa họ tới một sự thất bại chua cay nhất trong lịch sử giữa Đông và Tây.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Anthony Grey":Bùn Pha Sắc XámHai Trăm Năm CũMột Chốn Để ThươngMột Nơi Để NhớTrăng HuyếtVịnh TokyoĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bùn Pha Sắc Xám PDF của tác giả Anthony Grey nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bọn Chiếm Đóng (Kobo Abe)
Trong khi Murakami và Yoshimoto là những nhà văn đang nổi lên trên văn đàn Nhật Bản và là hai nhân vật hết sức quen thuộc ở Việt Nam hiện nay, tôi muốn lưu ý bạn đọc về một xu thế mới có lẽ tồn tại như một dòng chảy ngầm. Khi nói về xu thế này, vào năm 1990 nhà văn danh tiếng Kenzaburo Oe ( 1935 - 2007), Giải thưởng Nobel Văn chương năm 1998 có viết: “Lớp nhà văn này đã tích luỹ trong mình cảm nghĩ về thực trạng xã hội và sức mạnh của văn học. Trong số họ nổi lên hàng đầu là Kobo Abe, một trong những gương mặt quan trọng nhất, nổi bật nhất sau chiến tranh. Ông sáng tác với ý thức tách khỏi truyền thống Nhật Bản, tuy gắn bó với việc xây dựng thế giới ảo tưởng, nhưng vẫn in đậm một lối nhìn riêng tư mà nghiêm túc về đời sống hiện đại”. Kobo Abe sinh ngày 7.3.1924 tại Tokyo. Tên thực của ông là Kimifusa (“Kobo” là cách phát âm theo Hán tự của từ “Kimifusa”). Cha ông là bác sỹ tại một bệnh viện nằm trong trường Cao đẳng Y khoa Hoàng gia ở Manchuria. Khi còn trẻ, Abe rất hứng thú với môn toán học và sưu tập côn trùng. Cũng giống nhiều nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng thế hệ trước như Mori Ogai, Natsume Soseki, Tanizaki Junichiro... ông tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc các nhà tư tưởng bậc thầy của phương Tây, có lẽ do nhiều năm sống ở nước ngoài và đời sống văn hoá đương đại của nó đã thôi thúc ông, nghiên cứu các nhà triết học phương Tây như Heidegger, Jaspers và Nietzsche... Năm 1941 Abe trở về Nhật Bản, năm 1943 ông thi đỗ Đại học Tokyo rồi theo học y khoa tại đây. Luôn ốm yếu do mắc bệnh đường hô hấp nên Abe được miễn quân dịch. Trong chiến tranh, ông tới sống ở Manchuria. Sau khi khỏi bệnh Abe tiếp tục việc học hành và tốt nghiệp vào năm 1948, nhưng ông tự nhủ sẽ không bao giờ hành nghề y. Từ đấy Abe đã bước vào sự nghiệp văn học. Ông tham gia nhóm văn chương do Kiyoteru Hamada dẫn dắt. Khuynh hướng sáng tác là hợp nhất các kỹ thuật của Chủ nghĩa siêu thực với tư tưởng Marxist. Ngay từ năm 1943 Abe đã cho ra đời một tác phẩm đầu tay. Bạn đọc hẳn đã nhận thấy Haruki Murakami tác giả Rừng Na-uy viết với một phong cách bộc trực, giọng điệu trung tính, lạnh lùng, câu ngắn gọn, đôi khi cộc lốc. Ông tránh lối diễn đạt uyển chuyển mà người Nhật hay dùng để câu nói mềm mại hơn khiến ngôn từ trở nên mập mờ. Còn văn phong của Abe lại cô đọng và chuẩn mực, nó cho thấy nỗi bận tâm của ông đối với tư tưởng của tác phẩm hơn là kỹ thuật viết cốt tạo ra phong cách. Những nhà văn chủ chốt có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển thẩm mỹ văn học của ông: Edgar Allan Poe, Samuel Beckett, Rainer Maria Rilke và Fyodor Dostoyevsky, và đặc biệt là Franz Kafka. Ảnh hưởng Kafka càng rõ rệt trong tác phẩm Kabe - Esu Karuma shino hanzai (Bức tường - tội lỗi của S.Karma, 1951). Tác phẩm này được Giải Akutagawa, giải thưởng văn học cao quý nhất ở Nhật, kể chuyện một người phát hiện ra rằng tấm danh thiếp của anh ta tự hoá thành người và giả dạng anh ta mà phạm tội khiến anh bị toà án lôi ra phán xử. Năm 1947 Abe cho ra mắt một tuyển tập thơ. Abe chỉ thực sự được coi là một nhà văn nổi tiếng với tiểu thuyết Owarishi michi no shirube ni (1948), kể về cuộc đời một kẻ nghiện thuốc phiện. Vào những năm 1950, Abe gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản. Năm 1962 ông xin ra khỏi đảng bởi những bài báo phê phán chính sách của đảng này. Những tác phẩm mang tính cách trải nghiệm của Abe được thế hệ độc giả trẻ hết sức ngưỡng mộ. Abe đã nhận được giải thưởng cho ba truyện ngắn của ông, “Akai mayu” (1950, Cái kén đỏ), “Kabe” (1951) và “S.Karuma - Shi no hanzai” (1951). Như nhiều nghiên cứu đã đề cập tới, vấn đề chủ đề và phong cách viết thường là nỗi ám ảnh đối với nhà văn Kafka đến mức ông đã phải khai thác nhiều yếu tố qua các truyện khoa học viễn tưởng và trinh thám để xây dựng tác phẩm của mình. Còn các tiểu thuyết và vở kịch của Abe thì đặc trưng ở sự quan sát kín đáo và các kỹ thuật viết tiên phong (avant - garde techniques). Khi đã quen thuộc một số tác phẩm của Kobo Abe bạn đọc sẽ nhận thấy thông thường các cảnh ngộ hay hoàn cảnh mà các nhân vật của ông phải đối mặt, hay đương đầu, thường là kỳ quặc, không giống thực tế và thái độ cùng hành vi của họ được bộc lộ qua khái niệm tự do ý chí. Các tác phẩm sau của Abe là những minh chứng cụ thể cho nhận định này: Daiyon kampyoki (1959), Moetsukita chizu (1967, Tấm bản đồ rách), Mikkai (1977) và Hako otoko (1974, Người đàn ông trong chiếc hộp). Tìm mua: Bọn Chiếm Đóng TiKi Lazada Shopee Ở phương Tây, Abe hết sức nổi tiếng với hai tiểu thuyết The Woman in the Dunes, (1962, Người đàn bà trong cồn cát) và The Face of Another (1964, Khuôn mặt người khác). Chủ đề trung tâm trong các tác phẩm này của Abe là nỗi lạc lõng về thân phận, mặc cảm bị xa lánh và ghét bỏ, nỗi cô đơn cá nhân giữa một thế giới kỳ quặc, và những con người gặp khó khăn trong việc hòa nhập với cộng đồng. Hai kiệt tác này là các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức con người bị tha hoá, vong ngã, trong xã hội đô thị. Các quan niệm giáo điều hay thành kiến đã được ông lật ngược lại. Thông thường con người được xem là trung tâm của vũ trụ, chúa tể của muôn loài, tác phẩm của ông lại chủ trương bình đẳng giữa các loài. không những thế còn có thể biến đổi từ loài này sang loài khác, và ngược lại, con người hoá thân thành sinh vật, sinh vật lại mang nhân cách như con người. Ông đề cao ý thức, lại chủ trương nhục thể chi phối tinh thần, hoàn cảnh xã hội quy định ý thức, và tự do chỉ có thật khi cá thể thoát ra khỏi mọi tập thể như quốc gia hay cộng đồng. Kobo Abe không ngừng thử nghiệm những thủ pháp và tư tưởng mới lạ, kể cả khoa học viễn tưởng, triết lý hiện sinh, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Với số lượng tác phẩm to lớn và những đóng góp đặc sắc của ông cho văn học Nhật Bản, Kobo Abe được đánh giá là một trong những tác gia quan trọng nhất của nền văn chương nước này ở thế kỷ XX.Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Kobo Abe":Bọn Chiếm ĐóngChiếc Thuyền Nô-ÊKhuôn Mặt Người KhácNgười Đàn Bà Trong Cồn CátĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bọn Chiếm Đóng PDF của tác giả Kobo Abe nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh (Sergei Matveevich Shtemenko)
Đã 6 năm trôi qua kể từ khi cuốn sách này được xuất bản lần đầu tiên. Tác giả đã nhận được nhiều thư của bạn đọc đánh giá cuốn sách, trao đổi những cảm tưởng của mình về các sự kiện được trình bày trên các trang sách, làm rõ thêm một số sự việc và thiết tha đề nghị nên tiếp tục kể về hoạt động của Bộ tổng tham mưu trong những năm chiến tranh đã qua. Để đáp ứng những nguyện vọng đó, tôi đã viết hồi ký quyển hai, được Nhà xuất bản quân đội xuất bản năm 1973. Và bây giờ tôi cho ra lần xuất bản thứ hai của quyển một “Bộ tổng tham mưu xô-viết trong chiến tranh”, có bổ sung và sửa chữa căn cứ vào những ý kiến nhận xét và đề nghị của bạn đọc. Cần nhận thấy rằng trong những năm gần đây, số người viết hồi ký tăng lên đáng kể. Hồi ký của các vị thống soái lừng danh của chúng ta - Gh. C. Giu-cốp, A. M. Va-xi-lép-xki, C. C. Rô-cô-xốp-xki, I. X. Cô-nép, K. A. Mê-rét-xcốp cũng như A. A. Grê-xcô, C. X. Mô-xca-len-cô và các tướng lĩnh khác - đã được công bố, trong đó có dành một vị trí xứng đáng cho hoạt động của Đại bản doanh, của tư lệnh các phương diện quân và tập đoàn quân. Thế nhưng các tác phẩm hấp dẫn ấy cũng không viết hết được đề tài về ban lãnh đạo quân sự tối cao của Liên Xô và không lặp lại những gì đã được viết ra trước đây. Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao và cơ quan công tác của nó - Bộ tổng tham mưu - đã hoàn thành nhiệm vụ đầy trọng trách của mình trong thời kỳ chiến tranh gay go đó. Họ đã nắm chắc việc vạch kế hoạch và chỉ đạo các chiến dịch, đã tổ chức những lực lượng dự bị, đã chăm chú theo dõi sự phát triển của các sự kiện trong không gian rộng lớn của toàn cuộc chiến tranh: Không một chuyển biến nào của một mặt trận hoặc của một binh đoàn đã diễn ra mà họ lại không biết. Không một phút nào những mối quan hệ sinh động giữa họ với bộ đội lại bị đứt quãng. Các đại diện của Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu thường xuyên có mặt tại những khu vực quyết định ở các binh đoàn đang tác chiến, kiểm tra việc chấp hành những chỉ thị, mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao và đóng góp ý kiến của mình trong quá trình chiến đấu Những thắng lợi của cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại chứng minh rõ ràng rằng Đại bản doanh và Bộ tổng tham mưu đã hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của mình. Trong cuộc đọ trí, đọ tài và nghệ thuật chỉ huy bộ đội, các tướng lĩnh Liên Xô đã hơn hẳn bộ máy lãnh đạo quân sự tối cao của cái Đế chế thứ ba khét tiếng. Chúng ta đã giành được thắng lợi đó bằng cách nào? Trong những năm chiến tranh, tập thể Bộ tổng tham mưu, trước hết là những tướng lĩnh và sĩ quan trợ lý, đã sang và làm việc ra sao? Đó là những vấn đề tôi muốn kể lại trong cuốn sách này. Sách chủ yếu viết về tập thể, vì chỉ có trí tuệ và kinh nghiệm của tập thể mới có thể thực sự hoàn toàn bao quát được các sự kiện trong chiến tranh và tìm ra nhưng con đường giải quyết đúng đắn những nhiệm vụ khó khăn nhất được đặt ra cho các Lực lượng vũ trang. Nhưng vì một tập thể nào cũng được hợp thành từ những con người cá biệt - những người lãnh đạo và những người chấp hành, tôi thấy mình không có quyền bỏ qua công việc của những người mà hồi đó mình đã tiếp xúc gần gũi. Tìm mua: Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh TiKi Lazada Shopee Một lần nữa, tôi cần nói rõ trước rằng: không nên hiểu nhan đề cuốn sách theo nguyên từng chữ của nó. Sách không miêu tả (và lại càng không nghiên cứu) toàn diện và chi tiết hoạt động quả là bao trùm mọi mặt của Bộ tổng tham mưu. Tác giả không đặt cho mình một nhiệm vụ rộng lớn như thế... Sách cũng không miêu tả một cách nhất quán theo thứ tự thời gian toàn bộ quá trình đấu tranh vũ trang của nhân dân Liên Xô chống nước Đức Hít-le và bọn chư hầu của nó, mặc dầu cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại là cơ sở cho những hồi ức của tôi. Các bạn đọc! Bạn còn trẻ hay bạn đã từng trải nhiều bão tố trong cuộc đời, cũng như trước đây, tôi hy vọng cuốn sách sẽ được các bạn quan tâm và rất biết ơn mọi ý kiến nhận xét và phê bình của các bạn đối với lần xuất bản thứ hai của cuốn sách này. Năm 1975 ***Đảng và nhân dân ngợi khen những người con xứng đáng. - Bàn về những phần thưởng hàng đầu và những chiến sĩ có công đầu. - Nhật lệnh chào mừng đầu tiên. - Loạt súng chào ở Mát-xcơ-va, lịch sử và sự kế tục truyền thống. - Duyệt binh Chiến thắng. - Tiệc ở Cung lớn điện Crem-li. - Vài lời về những vị chỉ huy quân sự. Việc gì cũng có lúc phải kết thúc và tôi đã đi tới phần cuối tập hồi ký của mình viết về bốn năm chiến tranh. Tôi mong muốn được kết thúc tập hối ký này bằng những dòng chữ nói về những con người đã lấy ngực mình ra bảo vệ Tổ quốc Xô-viết Vì lẽ ấy mà đã có chương này, hơi khác với các chương khác đôi chút. Trong chương này, hồi ức của tác giả quyện chặt với những tư liệu giới thiệu rõ nét việc Đảng và Chính phủ đã ghi công một cách xứng đáng chiến công của các anh hùng và những người chiến thắng. Tôi lại phải tham khảo những tư liệu có nói tới Bộ tổng tham mưu và trong chừng mực nào đó, đã phản ánh một phần những công việc hàng ngày của Bộ tổng tham mưu. Chúng tôi, trong Bộ tổng tham mưu, khi xây dựng kế hoạch các chiến dịch, theo dõi diễn biến và phân tích kết cục các chiến dịch ấy, đã tiếp xúc với đông đảo quần chúng bộ đội với khả năng chiến đấu của các tập đoàn chiến dịch lớn mà ta cần phải sử dụng tốt nhất đế chiến thắng quân thù theo đúng tất cả những nguyên tắc và quy luật của chiến tranh. Dường như ở đây khó mà có thể lo nghĩ được tới từng người một. Mới nhìn, thì Bộ tổng tham mưu là một cơ quan cách xa người chiến sĩ và người chỉ huy đơn vị. Không có gì phải tranh luận nữa, đúng là giữa các đơn vị bộ đội với Bộ tổng tham mưu có những điểm khác nhau về tình hình và đặc điểm hoạt động. Và, tất nhiên lại còn khác xa nữa. Nhưng, trong thực tế thì giữa bộ đội với Bộ tổng tham mưu lại không có gì ngăn cách. Ở đây ta không đề cập tới vấn đề sâu xa của triết học về vai trò con người trong chiến tranh, nhưng tôi cần phải nói là chưa bao giờ chúng tôi cảm thấy thấm thía rằng mọi dự định và kế hoạch của chúng tôi, rốt cuộc phải phụ thuộc vào người chiến sĩ xô-viết, phụ thuộc vào khát vọng chiến thắng kẻ thù của họ. Qua những dòng chữ ít ỏi trong các thông báo tác chiến và báo cáo chiến đấu ngắn gọn, cuộc sống đã nhắc nhở chúng tôi hàng ngày nhớ đến những điều ấy Những khái niệm như “gan dạ”, “dũng cảm”, “anh hùng” mà Bộ tổng tham mưu hằng cảm thụ được, như sờ thấy, như trông thấy, cả bằng mắt lẫn bằng tay. Ngày 24 tháng Sáu 1941, Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sán (b) toàn Liên bang đã quyết nghị thành lập Phòng Thông tin Liên Xô, một cơ quan thông tấn riêng về tình hình các mặt trận và tinh thần dũng cảm của bộ đội ta. Nhiều nơi gửi tài liệu đến đây và một trong nhưng nơi đó là Cục tác chiến Bộ tổng tham mưu. Đảng giao cho chúng tôi trách nhiệm chuẩn bị tài liệu cho Phòng Thông tin Liên Xô củng cố mối liên hệ giữa chúng tôi với bộ đội thêm chặt chẽ, buộc chúng tôi phải chú ý đến con người đang xông lên chiến đấu vì Đảng và sẵn sàng xả thân vì tự do, độc lập của đất nước thân yêu của mình và của nhân dân mình.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Bộ Tổng Tham Mưu Xô Viết Trong Chiến Tranh PDF của tác giả Sergei Matveevich Shtemenko nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.