Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trên Bãi Biển Chesil - Ian McEwan

Cuốn tiểu thuyết mỏng, và tuyệt đẹp, nơi Ian Mc Ewan tái hiện bối cảnh nước Anh vào thời khắc ngay trước khi cuộc cách mạng tình dục bùng nổ, với tất cả sự ngột ngạt, bi hài của nó qua câu chuyện tình giữa Edward và Florence. Cuối cùng thì điều họ lo sợ đã xảy ra! Trên bãi biển Chesil, có hai kẻ đang giận giữ, đau đớn, và ghê tởm lẫn nhau sau đêm đầu tiên đổ vỡ. Trên bãi biển Chesil, nơi họ từng mơ tới cảm giác tự do thực sự của những người trưởng thành, cũng là nơi kết thúc cuộc hôn nhân ngắn ngủi. Nước Anh những năm sáu mươi, một thế hệ lớn lên sau Thế chiến thứ hai, đã mệt mỏi vì sự khắc khổ và dè sẻn của những năm hậu chiến, ngột ngạt với những giá trị thời Victoria, và sẵn sàng chống lại những mẫu hình và tập tục của thế hệ đi trước. Lady Chatterley’s Lovers của D.H.Lawrence giành được quyền xuất bản sau vụ kiện tụng ầm ỹ, và ngay lập tức trở thành best-seller với hai triệu bản bán ra sau 40năm cấm đoán. Trong đoạn đầu bài “Annus Mirbalilis”, Philip Larkin viết về những năm tháng này: "Chuyện ái ân đã bắt đầu / Vào năm một chín sáu ba/ (có phần hơi muộn với ta) / Giữa sự chấm dứt của lệnh cấm “Chatterley” / Và vòng quay đĩa đầu tiên của nhóm Beatles”. Cuộc cách mạng tình dục sắp bùng nổ. Nhưng chuyện của Edward và Florence lại diễn ra ngay trước thời điểm tự do ấy, năm 1962, khi báo chí còn “kín đáo gợi ý cho các cô dâu việc cần làm bằng giọng văn vui vẻ, la liệt dấu chấm câu cảm thán và hình minh họa đánh số”, và các chàng trai thì háo hức một cách tuyệt vọng về chuyện tình dục, như Ian Mac Ewan diễn tả trong cuốn sách của mình: “Thần dược tránh thai là một tin đồn trên báo chí, một lời hứa hẹn ngớ ngẩn, một câu chuyện lá cải nữa về nước Mỹ… Nhạc pop thì ngoan hiền, vẫn còn rụt rè về đề tài đó, phim ảnh cởi mở hơn một chút, nhưng trong vòng tiếp xúc của Edward, đàn ông buộc phải hài lòng với những chuyện cười tục tĩu, những câu huênh hoang về tình dục một cách gượng gạo và tình bằng hữu sóng gió trong những bữa rượu điên cuồng, khiến cơ hội gặp gỡ con gái càng giảm đi thêm nữa. Những thay đổi trong xã hội không bao giờ diễn ra với nhịp điệu trơn tru. Có tin đồn rằng ở khoa Anh văn, và dọc đường chỗ trường Đông phương học - Phi châu học, dọc đường Kingsway chỗ trường Kinh tế London, đàn ông và đàn bà mặc quần bò bó đen và áo len cổ lọ quan hệ tình dục dễ dãi và thường xuyên, không cần phải gặp cha mẹ. Thậm chí còn nghe kể về những điếu cần sa vấn chặt nữa. Thỉnh thoảng Edward làm cuộc thử nghiệm, đi dạo từ khoa Lịch sử tới khoa Anh văn, hy vọng tìm thấy bằng chứng về một chốn thiên đường trên trái đất, nhưng những hành lang, những bảng thông báo, và thậm chí cả những cô gái nữa, trông cũng chẳng khác gì”. Trên cái nền bối cảnh xã hội ngột ngạt và bi hài, khi mà “trò chuyện về những trở ngại trong tình dục là điều không thể”, Trên bãi biển Chesil được mở ra như thế này “Họ còn trẻ, có học thức, và cả hai đều còn trinh trong cái đêm đầu tiên, đêm tân hôn của họ”. Câu chuyện, sau đó được dệt nên từ những diễn biến tâm lý đa chiều (và căng thẳng!) của hai kẻ còn trinh ấy. Trong thời khắc được xã hội nhìn nhận là quyết định của cuộc đời một con người, khi cả hai chính thức trưởng thành và được phép khám phá cơ thể nhau một cách hợp pháp và phải đạo, thì mỗi người lại bị giam cầm trong những bối rối của riêng mình, với Edward là nỗi lo “sẽ gặp điều mà anh đã nghe ai đó miêu tả là “tới quá sớm”, còn Florence nghiêm trọng hơn nhiều, khi cô “phải trải qua một cơn sợ hãi mang tính bản năng, một sự kinh tởm vô vọng có thể cảm thấy rõ rệt như say sóng”. Ian Mc Ewan, thấu hiểu và kỹ lưỡng đến đáng ngạc nhiên, với khả năng đi sâu vào từng ngõ ngách tâm lý của nhân vật, và diễn tả tỉ mỉ từng biến động nhỏ nhất trong cơn kinh hãi của hai kẻ chưa-biết-gì, đã lần đầu tiên đưa người đọc bước vào căn phòng đêm tân hôn với hình ảnh chiếc giường hẹp trải ga trắng có bốn chiếc cọc màn được lặp đi lặp lại như một nỗi ám ảnh. Tâm trạng căng thẳng của cả hai nhân vật đều được cụ thể hóa thành những rung động thể chất gây ấn tượng mạnh với độc giả “Edward mỉm cười trong lúc ngả người ra sau, tay vẫn cầm ly rượu vang và gọi với ra sau lưng… nhưng cánh tay cầm ly rượu run run trong lúc anh đang gắng sức kiềm chế niềm hạnh phúc bất ngờ, sự phấn khích của anh” hay “Anh cảm thấy một áp lực kinh khủng thu hẹp những ý nghĩ của mình, ngăn cản lời của mình, và anh đang chịu đựng phiền toái lớn về thể chất - quần ngoài hay quần lót của anh có vẻ đã co lại”, riêng với Florence cảm giác về đêm đầu tiên được đồng nhất với những cơn buồn nôn thể nặng “bất cứ khi nào ý nghĩ hướng về một cái “ghì sát” - cô không thích bất cứ thuật ngữ nào khác - dạ dày cô thắt lại đau đớn và cô thấy tanh tanh nơi cuống họng”. Khốn khổ! Có điều gì đang xảy ra với hai con người này? Ian Mc Ewan đã tìm lời giải trong quá khứ, nơi người đọc gặp lại cậu bé Edward, con cả trong một gia đình nghèo có người mẹ điên sau một tai nạn và người cha một mình chèo chống mọi việc. Còn Florence lớn lên bên bà mẹ trí thức lạnh lùng xương xẩu và ông bố giàu có và dâm đãng. Trong khi Eward tôn thờ Rock & Roll thì Florence khinh rẻ bà mẹ không biết đến một nốt nhạc, cô theo học trường Cao đẳng âm nhạc Hoàng Gia để trở thành một nghệ sĩ vĩ cầm trong tương lai không xa. Cô tôn thờ những thính phòng lạnh lẽo, những thính giả am tường, nhưng già nua như những hóa thạch với đốt tay sưng vù vì viêm khớp. Edward biết về tình dục như những thìa chất lỏng tự tạo trong chốc lát để thanh thản trở lại với bài vở và công việc nghiên cứu của mình. Florence biết về tình dục qua những cuốn cẩm nang úp úp mở mở, những ký ức mù mờ về nhiều chuyến đi xa với bố năm mười hai tuổi, và cô ghê tởm nó. Hai con người khác biệt tình cờ gặp nhau trong cuộc họp của những người phản đối vũ khí hạt nhân (!), và ảo tưởng lập tức xuất hiện trong ý nghĩ của Edward “Cô mặc một chiếc váy vải bông trắng xòe ra như váy dạ hội, thắt lưng da nhỏ màu xanh da trời khít quanh eo. Trong dây lát, anh nghĩ cô là y tá; một cách trừu tượng và tiện lợi, anh thấy các cô y tá khá gợi tình, bởi họ - anh thích tưởng tượng như vậy - đã biết hết mọi điều về cơ thể anh và những nhu cầu của nó”, và sau này “Anh đã có một lịch sử khá dài đụng độ với tính thẹn thùng của Florence… nhầm lẫn mà coi đó là một kiểu e thẹn, một tấm mạng theo thói thường che đậy khả năng tình dục giàu có”. Florence, trái lại, thích ở bên người đàn ông này như một người bạn, người cha, một tình yêu không gợn chút nhục dục. Ian Mc Ewan dành hơn một nửa cuốn tiểu thuyết mỏng của mình để tái hiện lại trước mắt người đọc bối cảnh thời đại, câu chuyện gia đình riêng rẽ và nỗi ám ảnh quá khứ của mỗi người, trước khi trở lại câu chuyện đêm tân hôn. Và qua sự hồi tưởng ấy, người đọc phần nào hiểu được khác biệt về nguồn gốc xuất thân, những ràng buộc của xã hội và thời đại, bí mật thời thơ ấu, và đặc biệt là sự mải mê chạy theo mẫu hình mình ao ước của mỗi người hơn là cố công tìm hiểu bản chất thực của người kia đã dẫn họ đến đêm nghẹt thở này. Thêm một điểm nhấn cuối cùng, khi Edward không còn đủ sự kiên nhẫn của một chú rể năm 1962, họ vĩnh viễn xa nhau trên bãi biển Chesil, như những viên sỏi cuội tròn trịa nhưng đơn độc, và không bao giờ được kết nối, trên dải đời dằng dặc này. Một tiểu thuyết mỏng, được viết tốt, đặc biệt ở những đoạn diễn tả tâm lý nhân vật, dù cuốn sách không thật sự hoàn hảo khi sự phân bố độ dài ngắn giữa các chương khiến người đọc khó tập trung nắm bắt được cái mạch chính của tác phẩm, đồng thời tính logic giữa các chi tiết không đủ chặt chẽ để dẫn đến cái kết về một tình yêu tuy đổ vỡ, nhưng sâu nặng và chân thành. Có lẽ, sự hoàn hảo của Trên bãi biển Chesil nằm ở khía cạnh khác, đó là những đoạn tả cảnh như thế này “Một cơn gió đổi chiều hoặc mạnh lên đem lại tiếng sóng vỗ, giống như âm thanh thủy tinh vỡ xa xa. Màn sương đang dâng lên làm lộ ra một phần đường viền những ngọn đồi thấp, lượn phía trên bờ biển càng ngày càng xa về phía Đông. Họ nhìn thấy khoảng mượt mà màu xanh dạ quang - có thể là mặt nước ánh như lụa của chính biển, hoặc của khu phá, hoặc bầu trời - thật khó phân biệt. Ngọn gió nhẹ đổi chiều mang qua cánh cửa chớp khép hờ một sự cám dỗ, mùi hương mằn mặn của oxy và khoảng không rộng mở…”. Không rõ, từ khi Trên bãi biển Chesil ra đời, đã có thêm bao nhiêu người đặt chân lên bãi biển sỏi cuội ấy, vì cuốn sách? *** Trên bãi biển Chesil chỉ miêu tả vài giờ khắc ngắn ngủi trong đêm tân hôn của hai người mới ngoài 20 tuổi, nhưng lại dồn nén trong đó nhiều suy tư và những trải nghiệm trong cuộc đời lạ lùng này. Ở đó, vào năm 1962 có một “cơn bão” đã đổ bộ vào đêm tân hôn của Edward và Florence – những con người còn rất trẻ và có học thức. Ðó là cơn bão được tích tụ từ “tính cách và quá khứ của hai người, sự thiếu hiểu biết và nỗi sợ hãi, tính nhút nhát, mẫn cảm, thiếu các quyền hoặc trải nghiệm…”. Có một câu mà những người trẻ tuổi rất hay gặp trước, trong và thậm chí là sau khi quyết định sẽ gắn bó đời mình với một người nào đó, rằng liệu mình đã sẵn sàng chưa? Những người lớn thường tự nhủ sẽ bằng một cách nào đó giúp con cái không vấp lại những lỗi lầm mình đã từng vấp, khóc lại những giọt nước mắt mà mình đã từng khóc. Nhưng điều tự nhủ đó cũng giống như những quyển sách được xếp vào ngăn “Làm thế nào”, tỉ như Làm thế nào để trở thành một người chồng hoàn hảo? hoặc Bảy bước đi tới một gia đình hạnh phúc – tức là một kiểu chìa khóa không thể mở được hết tất cả các cánh cửa của ti tỉ ngôi nhà trên mặt đất này. Bởi rất đơn giản là có những điều không trường lớp nào, không thầy cô nào, không sách vở nào, không cha mẹ nào, không bạn bè nào, hoặc thậm chí là không kinh nghiệm đau thương trước đó nào có thể dạy dỗ ta được. Trong một số chủ đề nhất định, mỗi người trẻ – mỗi viên sỏi trong bãi biển rộng lớn của cuộc đời này – sẽ phải đơn độc trong hành trình tìm kiếm và tìm thấy những bài học nào đó bằng việc tự mình trải nghiệm nó. Và trong hành trình đơn độc đó có một thái độ mà người trẻ rất cần phải chuẩn bị cho mình, chính là sự cởi mở. Cởi mở trước hết là với chính bản thân mình, sau đó đến những người mình thương yêu, và sau nữa là với phần còn lại của thế giới này. Như Haruki Murakami từng đề cập trong Rừng Na Uy – cũng là một câu chuyện về những người trẻ tuổi khác: “Chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta cởi mở cõi lòng mình? Người ta sẽ tốt lành hơn”. Tất nhiên đó không chỉ là điều mà ta có thể cảm nhận được từ cuốn tiểu thuyết mới nhất của Ian McEwan – cuốn sách được vào danh sách đề cử Giải Booker 2007.   Mời các bạn đón đọc Trên Bãi Biển Chesil của tác giả Ian McEwan.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chàng Hải Âu Kỳ Diệu - Richard Bach
Richard Bach là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, xuất bản năm 1970, kể cho chúng ta về cuộc đời của Jonathan, một chàng hải âu: “Đối với hầu hết hải âu, ăn quan trọng hơn là bay. Nhưng riêng với Jonathan Livingston, niềm say mê bay lại lớn hơn tất cả mọi thứ khác trên đời”. Vì thế chàng bắt đầu tập bay; bay với tốc độ cao, bay ở thế nhào lộn,... Nhưng Đàn Hải âu lại không thích chàng làm như thế, do đó chàng bị coi là nỗi nhục nhã, chàng trở thành kẻ bị Lưu Đày, bị bỏ mặc trong sự cô đơn, nhưng điều đó không làm chàng nản chí, vì sự thật là những con hải âu khác sẽ không bao giờ biết được vẻ đẹp và cảm giác vĩ đại khi bay.   Ở đây chàng Hải âu học được một điều: “Thiên Đường không phải là nơi chốn, mà cũng không phải thời gian. Thiên Đường là trạng thái khi ta đạt được toàn thiện”... Những hải âu luyện tập qua nhiều đời để đạt được sự toàn thiện. Nếu ở kiếp sống này ta không học thêm được cái gì cả, thì thế giới của kiếp sống sau sẽ giống hệt như thế giới này... Nhưng nếu ta học cách bay và ta luyện tập đủ tốt, thì ta sẽ ở trên cao hơn những bậc thang không có kết thúc để lên đến Thiên Đường, vì vậy đó chỉ là một bước tiến xa hơn. Bay ở đây được hiểu như là một cách nghĩ vậy... Ta phải nghĩ bản thân ta là một thực thể tự do vô hạn, ta tự do khỏi tất cả những Luật Lệ vốn chỉ trực ngăn cản ước vọng của bản thân ta.  *** Richard Bach sinh năm 1936, vốn là phi công chiến đấu và thợ cơ khí máy bay. Ông là tác giả của mười một đầu sách, trong đó nổi tiếng nhất là Hải âu Jonathan Livingston (Jonathan Livingston Seagull) và Ảo ảnh: Những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên tri bất đắc dĩ (Illusions: The Adventures of a Reluctant Messiah, 1977). Richard Bach sinh tại Oak Park, Mỹ –  con trai của Roland Robert và Ruth Helen (Shaw) Bach, cháu trai của nhà soạn nhạc thiên tài Johann Sebastian Bach. Ông từng học tại trường Long Beach State College (nay là đại học California, Long Beach). Không chỉ là một phi công máy bay, Richard Bach còn là một nhà văn. Niềm yêu thích viết lách đến từ khi ông còn học trung học. Cùng với niềm đam mê về hàng không, hình ảnh máy bay và bầu trời xuất hiện trong hầu hết các cuốn sách của Richard. Điển hình là hình ảnh chú chim hải âu say mê bay trong Jonathan Livingston Seagull, được lấy cảm hứng từ chính những chuyến bay của ông. Với hơn 60 triệu bản sách được bán, Richard Bach là một trong những tác giả được yêu thích nhất thế giới. Các tác phẩm gần đây nhất của ông bao gồm: Travels With Puff, Puff And Illusions II: The Adventures Of A Reluctant Student. ***  Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một câu chuyện nhỏ nhưng những bài học mà nó đem lại chứa đựng rất nhiều triết lý sống. Khi chúng ta cố gắng tìm xem những gì có thể làm được, chúng ta đã tự tạo ra giới hạn cho chính bản thân mình. Việc trói buộc bởi những suy nghĩ của người khác cũng là một loại giới hạn. Jonathan sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, vượt qua định kiến xã hội và niềm tin về những điều không thể. Nhờ đó, cậu hiểu được một chân lý: không bao giờ tồn tại giới hạn. Đây cũng là tư duy mà chúng ta cần phải học. “Không giới hạn ư, Jonathan?. Cậu nghĩ, và cậu mỉm cười. Hành trình học tập của cậu đã bắt đầu”. Chàng Hải Âu Kỳ Diệu là một cuốn sách tuyệt vời tiết lộ cho chúng ta biết tự do thật sự là như thế nào. Khi chúng ta học với sự thực hành đủ, chúng ta sẽ biết rằng khả năng của mình là vô hạn. Tự do sống theo cách bạn muốn và không để lạc lối bởi quan điểm của người khác, đó là bài học thứ nhất. Lựa chọn cách sống và con đường mà bạn sẽ đi, dù không dễ dàng, đó là bài học thứ hai. Không ngừng nhận thức về bản thân, bạn sẽ khám phá bản ngã thật sự của chính mình, đó là bài học thứ ba. Và cuối cùng, đừng bao giờ nghĩ rằng đây chỉ là câu chuyện của một con chim – “Tặng chàng hải âu đích thực đang sống trong mỗi một chúng ta” – Richard Bach. Trong phần cuối của quyển sách là lời cuối của sư phụ của chàng. Đó là: “Tiếp tục hành động cho Tình Yêu Thương”. Trong phần này chàng hiểu là tinh thần không thể nào được thực sự giải thoát mà không có lòng thứ tha và đối với chàng đó là cách để tiến bộ tâm linh, dẫn đến con đường giác ngộ chứ không phải con đường khổ luyện của một đệ tử. Chàng quay trở về vớí nhóm hải âu để chia sẻ những lý tưởng mình vừa khám phá và kinh nghiệm to lớn mình vừa trải qua và sẵn sàng cho cuộc chiến đấu gay go với những qui điều cứng nhắc của nhóm hải âu đó. Khả năng tha thứ được xem là “điều kiện bắt buộc có để vượt lên cao”. “Con có hết sức muốn bay bổng để có thể tha thứ cho các huynh đệ của mình và học hỏi và trở về với họ một ngày nào đó và giúp họ không?” Đó là lời chàng hỏi những đệ tử của mình trưóc khi giảng thuyết tiếp cho họ. Cốt lỏi trong ý tưởng này là tư tưởng: kẻ giỏi hơn có thể thăng tiến bằng cách rời bỏ những kẻ yếu kém hơn mình là hoàn toàn không thể chấp nhận được. Do vậy mà tình yêu đáng phải được kính trọng và sự tha thứ cũng có cùng tầm mức quan trọng như sự tự do khỏi áp lực bị buộc phải tuân theo những khuôn thước do mọi người đề ra. Bây giờ xin được nói qua về tác giả Richard Bach. Richard David Bach sinh năm 1936 là một nhà văn ngươì Mỹ. Ông được nổi tiếng qua hai cuốn truyện có thật nhiều người đọc là Jonathan Livingston Seagull và The Adventures of a Reluctant Messiah. Sách của ông mang trong đó triết lý rằng những giới hạn thể chất của mình và sư tạm bợ của nó chỉ có tính cách của mặt mỏng bề ngoài mà ta có thể vượt qua được. Ông rất đam mê bay bổng và với những quyển sách viết về lướt cánh, tung mây và về “bay”, theo nghĩa ẩn dụ của chiều hướng tâm linh. Ông đã theo nghiệp bay từ hồi 17 tuổi. Sinh ra ở Illinois, theo học ĐH Long Beach State College năm 1955 là tác giả của một số truyện có thực và giả tưởng. Đa số là loại bán-tự -truyện, dùng những dữ kiện thật hay hư tạo từ cuộc đời của chính mình để phô diễn triết lý của ông. Ông phục vụ với tính cách trừ bị trong Hải quân và sau đó là trong Phi đội chiến đấu 108 trong Không quân Phòng không New Jersey, và là phi công F-84F trong Phi đoàn 141, Không quân Hoa kỳ. Sau đó ông là cây viết về kỷ thuật cho Douglas Aircraft và đóng góp bài cho tạp chí Flying. Năm 1960, ông được điều qua phục vụ ở Pháp. Muà hè năm 1970, ông và người bạn phi hành du lịch sang Aí nhỉ Lan để bay trong một cuốn phim. Năm 1973, cuốn Chàng Hải Âu Kỳ Diệu được quay thành phim với phần diển tả do danh ca Neil Diamond phụ trách. Cuốn sách thứ nhì của ông ra đời năm 1977 là câu chuyện về một nhà tiên tri của thời hiện tại quyết định từ bỏ lý tuởng của mình. Trong những năm của 1990, ông xuất hiện trên online trong website của “Compuserve” và đích thân trả lời emails cho từng ngươì gỡi. Tháng Tư năm 2005, ông được phỏng vấn trên đài truyền thanh Conscious Talk Radio và đã được truyền lại vài lần vào năm 2006. Ông có sáu con với người vợ đầu tiên. Bà này đã đánh máy và duyệt bản thảo cho hầu hết bài viết của ông. Bà này cũng là một phi công và viết một quyển sách về đời bay của mình. Con trai của ông là một nhà báo và kỷ sư về nhu liệu có viết sách nói về cha mình. Năm 1977 ông lập gia đình lại với một phụ nữ ông gặp trong thời gian quay cuốn phim về chàng hải âu Jonathan. Họ chia tay năm 1999 và ông cưới ngươì thứ ba vào tháng Tư 1999. Bach là một trong số tác giả Mỹ chịu ảnh hưởng triết lý của Đông phương và đã tìm về Chân Ngã để vượt qua những giới hạn của thân xác rồi đưa tâm linh về với Vô Ngã. Bach đã không cho phép mình mãn nguyện khi đã giác ngộ mà cho rằng mình phải tìm về để giúp đở cho đồng loại đang chìm trong bể mê. Có lẽ đây là điểm son chói lọi của “Chàng Hải Âu Kỳ Diệu” này vậy./. Mời các bạn đón đọc Chàng Hải Âu Kỳ Diệu của tác giả Richard Bach.
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết - Ismail Kadare
Viên Tướng Của Đạo Quân Chết là câu chuyện về cuộc tìm kiếm hài cốt binh sĩ ở Anbani của một viên tướng sau 20 năm chiến tranh kết thúc - một cuộc hành trình của tâm trạng và nhận thức của một kẻ mang niềm kiêu hãnh, một nước lớn đi khai hóa văn minh cho một nước bé. Nhưng vượt lên tất cả những điều ấy là hình ảnh một đất nước Anbani hiểm trở, hùng vĩ với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời , với những con người ngoan cường dũng cảm, biết vượt qua những đau thương của chiến tranh để tự khẳng định mình...." Mê và cay đắng, viên tướng của đạo quân chết là khúc bi thương cho những người trẻ tuổi của tất cả những quốc gia đã bị đưa ra nước ngoài để chết cho cuộc chiến". *** Ismail Kadare là một nhà văn còn trẻ (ông sinh năm 1936) nhưng đã có một vị trí hàng đầu trong văn học Albania hiện đại. Ông nổi tiếng ngay từ tập thơ đầu tay «Mùa xuân tương lai» sáng tác năm ông mới mười tám tuổi rồi năm 1957, ông đoạt giải thưởng văn học quốc gia với trường ca «Những niềm mơ ước». Một trường ca khác của ông - «Công chúa Argjiro» - được độc giả Albania rất ưa thích. Ông còn có một tập truyện ngắn «Đám cưới». Tuy nhiên tên tuổi ông chỉ thực sự được biết đến ở nước ngoài với cuốn tiểu thuyết «Viên tướng của đạo quân chết». Nội dung cuốn sách này thật ra rất đơn giản. Hai mươi năm sau khi chiến tranh kết thúc, một viên tướng (tác giả cố ý không nói rõ họ tên, tuổi tác, quốc tịch của hắn; người đọc chỉ «ngẫu nhiên» biết hắn cao một thước tám mươi hai và đoán chừng hắn là người Ý) cùng với một linh mục, hàm đại tá, làm thông ngôn, sang Albania để tìm kiếm thi hài các binh sĩ của đạo quân phát xít nước hắn đã tử trận ở Albania. Theo những bản danh sách và bản đồ được lập sẵn một cách công phu, tỉ mỉ, hắn và ông linh mục, có một cán bộ chuyên môn Albania và một kíp công nhân đi cùng, đã lặn lội khắp đất nước Albania, đào bới, thu nhặt những nắm xương tàn của đạo quân phát xít hai mươi năm trước đây đã bại trận. Cuộc tìm kiếm kéo dài hai năm ròng rã; các bộ hài cốt tìm thấy được bỏ vào các túi nylon đặc biệt màu xanh, sọc trắng, viền đen và gửi về cho các gia đình đã bao năm nay chờ đợi chồng con họ. Cuối cùng, viên tướng hoàn thành công việc, tổ chức lễ cầu hồn, mở một tiệc chiêu đãi nhỏ rồi lên đường về nước. Câu chuyện chỉ có vậy, bình thường và có thể nói là khô khan nữa, đến cái mức tưởng đâu như không có gì để viết được thành một cuốn tiểu thuyết. Nhưng Ismail Kadare đã biết chọn một góc nhìn độc đáo. Ông không kể lại câu chuyện theo chủ quan của ông, một người Albania, mà là thông qua con mắt của viên tướng, quân nhân một nước trước đây đã tiến hành một cuộc xâm lăng tàn bạo và đẫm máu trên đất nước Albania và giờ đây nhận nhiệm vụ đi sang Albania với rất nhiều định kiến. Ismail Kadare chỉ để cho nhân vật chính của ông nhìn thấy và kể lại những gì phù hợp với tính cách của hắn. Có thể nói đất nước Albania được miêu tả ở đây không phải là đất nước Albania của bản thân tác giả mà là một đất nước xa lạ nhìn qua con mắt của viên tướng: toàn núi non ghê rợn, với bùn lầy, mưa tuyết, gió lạnh… Ngay câu mở đầu cuốn sách đã xác định rõ cách nhìn ấy: «Mưa pha tuyết rơi trên đất khách…»; đó cũng là câu bắt đầu chương chót và cuốn sách chấm dứt với câu: «gió vẫn thổi không ngừng». Trong hai năm trời lang thang đây đó để khai quật mồ mả, viên tướng chỉ nhìn thấy có bùn lầy mùa thu và mưa tuyết mùa đông. Qua câu chuyện kể lại theo một trình tự thời gian chặt chẽ, Ismail Kadare đã không để cho viên tướng được thấy cảnh mùa xuân, cũng như không để cho ông ta có được một nụ cười. Câu chuyện bắt đầu với mưa, tuyết và kết thúc với gió thổi. Như vậy, câu chuyện không phải đơn thuần chỉ kể lại sự việc mà thực ra chính là quá trình diễn biến trong tâm tư viên tướng từ khi đặt chân lên Albania cho đến lúc ra sân bay trở về nước. Chính vì thế mà, nếu như độc giả không biết gì về tên tuổi, dung mạo, bề ngoài của viên tướng - trừ chiều cao một thước tám mươi hai, - thì trái lại, qua đoạn này, đoạn khác, đây một nét, kia một chi tiết, người ta biết rất rõ tâm trạng của hắn từng lúc một. Hắn lên đường sang Albania với quan niệm đây là một sứ mệnh cao cả, thiêng liêng; hắn rất thích thú câu nói của một mụ quý tộc nước hắn ca tụng hắn trước ngày khởi hành: «Như một con chim oai hùng và đơn độc, ngài sẽ bay lượn trên những ngọn núi lặng lẽ và bi thảm ấy để lôi kéo con em khốn khổ của chúng ta ra khỏi nanh vuốt chúng». Hắn luôn luôn muốn người Albania hiểu là hắn cầm đầu cái phái đoàn hai người, hắn là nhân vật quan trọng nhất. Hắn ngầm chê bọn tướng lĩnh ngu dốt xưa kia đã đưa quân đội nước hắn «những con em của chúng ta, oai hùng và dũng cảm», đến chỗ thất bại và bị tiêu diệt, còn hắn, hắn đến Albania để đưa các tử sĩ đó ra khỏi quên lãng. Hắn tự cho mình là đại diện của một cường quốc văn minh đi đến một nước dã man, lạc hậu, nhỏ xíu chỉ bằng một cái chấm trên bản đồ. Hắn đặc biệt chú ý tìm kiếm di hài viên đại tá Z, con trai độc nhất của mụ quý tộc giàu có, quyền thế nọ, «con cưng» của Bộ Chiến tranh, «có bản lĩnh của một thiên tài quân sự» đã «mất tích» ở Albania. Gia đình viên đại tá đã xây sẵn một ngôi mộ nguy nga bằng cẩm thạch, có dựng tượng, trồng hoa hồng để chờ đón hài cốt của «người anh hùng» đó và đặt hết hy vọng vào viên tướng… Trong một lúc rượu say chuếnh choáng, tâm sự với người bạn đồng hành, viên tướng đã thổ lộ ý muốn của hắn là «sẽ hiên ngang đi giữa những người Albania, nhìn họ một cách căm hờn và khinh bỉ»; hắn đã «hình dung trước buổi lễ bàn giao hài cốt, long trọng và nghiêm trang,» và sẽ «cho diễu các quan tài binh sĩ nước hắn giữa đám dân chúng Albania để cho họ thấy là cái chết của chúng ta còn đẹp hơn cả cuộc sống của họ»… Nhưng rồi sự việc đã diễn ra khác hẳn, như hắn về sau đã đau khổ thú nhận: «Thái độ kiêu hãnh của chúng ta biến mất trước tiên, rồi tất cả những công việc này chẳng còn gì là long trọng nữa và cuối cùng những ảo tưởng của tôi cũng tan biến và bây giờ chúng ta đi dạo trong sự hờ hững chung của mọi người, dưới những con mắt bí hiểm và giễu cợt, như những thằng hề thảm hại của chiến tranh, còn đáng thương hơn cả những kẻ đã chiến đấu và chiến bại trên đất nước này». Thật vậy, hai năm trời trèo đèo, lội suối, xuôi ngược trên khắp các nẻo đường đất nước Albania, viên tướng đã đi từ phát hiện này đến phát hiện khác, từ thất vọng này đến thất vọng khác, những định kiến của hắn sụp đổ dần. Cái bi kịch của hắn là ở chỗ chính hắn đã từng sống những ngày đầu của chiến tranh vào mùa xuân 1939, khi quân phát xít đổ bộ lên Albania: đài phát thanh nước hắn báo tin «chiến thắng» dồn dập, dân chúng Albania đem hoa ra đón tiếp những đạo quân «sẽ dẫn văn minh và hạnh phúc đến cho họ». Rồi báo chí đăng bài, tranh ảnh, ca ngợi mùa xuân rực rỡ, bầu trời, mặt biển Albania chan hòa ánh nắng, các cô gái Albania duyên dáng, những y phục và những điệu múa đầy màu sắc. Binh lính nước hắn và cả bản thân hắn nữa - lúc đó hắn đang ở châu Phi - đều náo nức mơ ước được điều sang cái nơi thanh bình, tươi đẹp ấy, dưới bóng những cây ô liu cổ thụ… Và giờ đây, chính hắn lại tới đó để thu nhặt tàn tích của chính những đạo quân ấy và đồng thời cũng là thu nhặt những bằng chứng tuyệt đối về sự thất bại thảm hại của chúng. Có những đơn vị đã bị tiêu diệt hoàn toàn, xương người lẫn lộn với xương lừa ngựa, có những tên, kể cả sĩ quan, đã đào ngũ, đi ở cho nông dân Albania để mưu cầu cái sống thừa trong ô nhục, rồi cuối cùng chết vì tay những đơn vị trừng phạt của chính quân đội phát xít. Viên đại tá Z, «người anh hùng» của hắn, thực ra chỉ là một tên sát nhân hung ác, chỉ huy «Tiểu đoàn xanh» khét tiếng tàn bạo, đã cưỡng dâm một cô bé Albania 14 tuổi khiến cô bé tủi nhục nhảy xuống giếng tự tử; y đã bị giết chết không biết chôn ở đâu. Cho đến một tối nọ, công việc sắp hoàn thành, viên tướng cao hứng tự động đến dự một bữa tiệc cưới của một gia đình nông dân Albania, một bà cụ đã ném cái túi đựng hài cốt tên đại tá Z xuống trước mặt hắn, «như nhổ vào mặt hắn», với những lời nguyền rủa thậm tệ vì bà cụ chính là mẹ cô bé Albania nọ, chồng bà cụ đã bị «Tiểu đoàn xanh» treo cổ, chính bà cụ đã giết tên đại tá Z khi tên này - không biết cô gái đã tự tử - hôm sau lại mò đến nhà cô ta. «Và trong sự im lặng chung, viên tướng từ từ cúi xuống, run rẩy nắm lấy cái túi bê bết bùn,… hất lên vai, khom khom đi ra, như mang trên vai tất cả nỗi sỉ nhục và sức nặng của trái đất.» Bên cạnh những mẩu chuyện biết được về từng trường hợp binh sĩ nước hắn, viên tướng cũng được biết nhiều chuyện về người Albania, về truyền thống và phong tục tập quán Albania, về cuộc chiến đấu của nhân dân Albania… Sự hy sinh của Nik Martini, một người dân miền núi, đã để lại trong lòng hắn một ấn tượng sâu sắc: Nik Martini đã một mình vác súng đi xuống bờ biển, một mình đương đầu với cả đạo quân đổ bộ, đông như kiến cỏ. Tất nhiên, như viên tướng xác nhận, anh đã chiếm được một vị trí chiến đấu lợi hại, chỉ có trọng pháo mới đánh bật được anh ra khỏi đó, nhưng dù sao thì Nik Martini, cũng như biết bao người Albania khác, từng nhóm năm ba người một, hoặc đơn độc một mình, từ khắp nơi đổ đến bờ biển để cản đường quân xâm lược rồi hy sinh, không để lại dấu vết, trừ những bài hát của nhân dân sáng tác để ca ngợi và tưởng nhớ họ, - dù sao đi nữa, viên tướng cũng cảm thấy kinh ngạc, xấu hổ: Ních Martini, cũng như các chiến sĩ Albania khác, là những hình ảnh hoàn toàn khác hẳn binh sĩ nước hắn, khác hẳn tên đại tá Z. Một bên là những con người chân chính, biết mình chiến đấu cho cái gì và bất chấp những cuộc giao phong chênh lệch, đã dũng cảm lao vào quân thù, làm trọn nhiệm vụ con người của họ; một bên là sức mạnh mù quáng, ngu ngốc, hung ác và xét cho cùng, hèn nhát. Rút cuộc, chuyến đi hai năm trời của viên tướng là một nỗi ê chề, nhục nhã kéo dài, một cơn ác mộng, lắm lúc khiến hắn gần như sa vào tình trạng thác loạn tinh thần. Cuối cùng, đêm hôm trước ngày hắn lên đường trở về hước, hắn đã nghĩ đến cách đánh tráo hài cốt, lấy một bộ xương cũng cao một thước tám mươi hai để thế vào di hài viên đại tá Z mà, trong một lúc hoang mang thảng thốt, hắn đã hất xuống suối. Đang lúc say rượu, hắn loạng choạng đến cửa buồng ông linh mục đã khóa chặt, lom khom nói qua lỗ khóa để bày tỏ ý đồ gian lận của hắn. Bất đồ, hắn nhầm buồng, cửa buồng sịch mở, một bà to béo hiện ra, sỉ vả hắn tàn tệ đã nhòm vào buồng bà ta giữa lúc đêm hôm khuya khoắt. Cái cảnh vừa kệch cỡm, vừa thảm hại ấy, đánh dấu sự rã rời, suy sụp hoàn toàn trong con người hắn: còn đâu «con chim oai hùng, đơn độc bay lượn…», còn đâu sứ mệnh thiêng liêng, cao cả? Rõ ràng qua diễn biến tâm tư của viên tướng, có tính chất một biểu tượng, Ismail Kadare đã giễu cợt và lên án quân đội phát xít và nói chung, tất cả các đạo quân xâm lược. Nhưng vượt lên trên cả nhân vật trung tâm ấy, choán hết cả cuốn sách chính là hình ảnh đất nước và nhân dân Albania. Mặc dù câu chuyện được kể lại qua con mắt viên tướng nước ngoài, người ta vẫn thấy Ismail Kadare yêu tha thiết đất nước ông với những núi non hiểm trở, hùng vĩ, với những truyền thống đẹp đẽ, lâu đời, với những con người ngoan cường dũng cảm, từ bao đời nay vẫn trọng danh dự và nhân phẩm và hiện đang xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội. Ông ca ngợi cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân nước ông và nói chung, của tất cả các dân tộc đứng lên chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, tự do của mình. Qua cái chết của bác thợ đấu già Gjoleka - bị nhiễm trùng vì chiếc khuy gỉ trên quân phục một tên lính phát xít chết đã 20 năm nay - ông còn ngụ ý rằng chiến tranh chưa thật sự kết thúc hay nói cho đúng hơn, hòa bình chưa phải đã vững chắc: như những con vi trùng, tuy bị vùi sâu dưới đất cùng với xác tên lính hàng mấy chục năm trời, khi gặp khí trời, ánh sáng, lại phục hồi tất cả cái tính độc hại ác liệt của nó, chiến tranh vẫn còn ngấm ngầm âm ỉ, chờ lúc chúng ta lơ là để nổ ra, tàn phá. Tất cả những ý đó, Ismail Kadare đã thể hiện với một nghệ thuật già dặn, vững vàng. Những hình ảnh tương phản, những so sánh về hai mẫu người, hai hệ tư tưởng, hai thế giới khác nhau, ông để người đọc tự rút ra, tự suy nghĩ lấy. Ông chỉ trình bày những sự việc rất thực và chọn lọc, theo lối nhìn và cảm nghĩ của viên tướng nước ngoài, và kể lại câu chuyện một cách rất tự nhiên, thoải mái, gọn gàng, giản dị, khiến người đọc có cảm giác như ông rất «khách quan», hầu như thản nhiên với nhân vật của ông, với những sự việc ông kể, và do đó, từ một đề tài rất bình thường, đơn giản, nếu không phải khô khan, ông đã viết nên một cuốn sách thật hấp dẫn, có sức mạnh thuyết phục và tác động sâu sắc, xứng đáng là một tác phẩm ưu tú của Albania, một tác phẩm chúng ta có thể học tập được nhiều chẳng những về nội dung mà cả về nghệ thuật thể hiện. NGUYỄN VĨNH Mời các bạn đón đọc Viên Tướng Của Đạo Quân Chết của tác giả Ismail Kadare.
Trang Viên Mansfield - Jane Austen
“Trang viên Mansfield” là cuốn tiểu thuyết Jane Austen viết từ năm 1812 đến năm 1814. Đây là tác phẩm nhiều tham vọng nhất của Austen, về độ dài, miêu tả tính cách đa dạng và phạm vi các chủ đề. Tác phẩm xoáy vào việc giáo dục đạo đức cá nhân trong ba gia đình thuộc ba tầng lớp khác nhau trong xã hội lúc bấy giờ. Fanny Price, nhân vật nữ chính trong truyện, là con gái thứ của một gia đình nghèo đông con. Vì không thể nuôi nổi gia đình, bà Price đã quyết định gửi cô cho người chị ruột của mình nuôi nấng. Fanny được sống trong trang viên Mansfield cùng bốn người con của ông bà Bertram, hai công tử và hai tiểu thư. Gồm Tom, Edmund, Maria và Julia Bertram. Cô là một thiếu nữ nghèo hiền hậu, nhu mì, thông minh, nhạy cảm, giàu đức hy sinh, chân thành với nguyên tắc của mình, song quá khiêm nhường và bị ngược đãi. Cô phải chống chọi lại những hậu quả này, đồng thời xem xét lại tình cảm riêng của mình, trong lúc chịu đựng sự thờ ơ phi lý, nệ cổ và thái độ coi thường, hợm hĩnh của những người quanh cô. Edmund Bertram là anh họ của Fanny, cậu dí dỏm và hấp dẫn khi được phép sống tự nhiên, nhưng do nhiều tình huống bắt buộc phải dè dặt, nên anh có vẻ cứng nhắc và hay suy xét. Còn anh em Henry và Mary Crawford mồ côi sớm, được chú thím thuộc tầng lớp thượng lưu ở Luân Đôn nuôi dưỡng. Chú thím yêu quý song không quan tâm giáo dục đạo đức cho họ, nên tuy tràn đầy sức sống và hấp dẫn, cả hai đều ích kỷ, phù phiếm và nông cạn không sao cứu vãn nổi. Edmund bị hấp dẫn bởi Mary nhưng lại đau khổ vì cô. Henry sau khi bỏ ý định quyến rũ hai cô em gái của Edmund thì nhận ra mình bị cuốn hút bởi sự dịu dàng, thùy mị của Fanny. Trong khi đó, Fanny nhận ra mình yêu anh họ Edmund của mình biết nhường nào nhưng vẫn im lặng chờ đợi. Họ bị vướng vào vòng xoáy tình cảm rắc rối. Tuy nhiên, Fanny và Edmund là hai con người sinh ra là để cho nhau, sau bao khó khăn và trưởng thành của cả đôi bên, họ đã đi đến hôn nhân. Cuốn tiểu thuyết nêu bật sức mạnh đạo đức thể hiện chiều sâu của tâm hồn, các nhân vật nữ thùy mị và thực tế, sẵn sàng hy sinh cơ hội được hưởng hạnh phúc trần thế hơn là hành động ngược lại tiêu chuẩn đạo đức cơ bản của họ, không ngừng đề cao tình yêu vị tha và biết quên mình, nhận thức được những giới hạn, sự bí ẩn của trí tuệ và tính cách con người. Tác phẩm này đã được dựng thành phim. *** Jane Austen (1775-1817) là nhà tiểu thuyết Anh, nổi tiếng vì những đề tài sâu sắc, dí dỏm về xã hội nước Anh đầu thế kỷ 19. Austen được tôn vinh là một trong những nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất của thế kỷ 19 và 20. Các tác phẩm nổi tiếng của bà: Kiêu Hãnh Và Định Kiến Lý Trí Và Tình Cảm Thuyết Phục Emma Trang viên Mansfield, Tu viện Northanger. “Tiểu thuyết của Jane Austen thực sự là những câu chuyện đích thực của trái tim. Sự quyến rũ của những cuốn tiếu thuyết ấy là mạch lãng mạn chảy ngầm dưới những câu chuyện tình, là tài phân tích tâm lý cảm xúc của nhân vật nữ một cách phi thường, là khả năng khắc họa những hình ảnh lý tưởng khác nhau của các chàng trai khiến trái tim độc giả nữ mê muội, là chất hài hước thể hiện một con mắt quan sát xã hội rất sắc sảo, là kết thúc có hậu khi tất cả các nhân vật nữ sau nhiều sóng gió đều tìm được tình yêu đích thực… Có lẽ Jane Austen không chỉ quá lãng mạn mà còn quá thông minh.” Mời các bạn đón đọc Trang Viên Mansfield của tác giả Jane Austen.
Trái Tim Tuổi 19 - Tony Parsons
Bạn mất gì khi bỗng dưng trẻ lại? Và bạn được những gì? Bạn sống cuộc sống của mình như thế nào? Bạn nên quan tâm dến hành tinh và xã hội ở mức độ nào so với những người mà bạn thương yêu? Bạn có muốn trở thành người bạn của con cái hoặc cha mẹ mình không? Đến lúc nào bạn mới thôi bắt cha mẹ chăm sóc mình để bắt đầu lo lắng cho họ? Ở độ tuổi nào thì một người đàn ông trở nên lố bịch khi mặc chiếc quần jeans bó sát? Trái tim tuổi 19 là hành trình kiếm tìm lời giải, kiếm tìm sự khai sáng, là câu chuyện về việc bạn trưởng thành như thế nào, làm thế nào để từ bỏ những giấc mơ tuổi trẻ và theo đuổi những mục tiêu cao đẹp hơn, và liệu có bao nhiêu cơ hội để bạn thực hiện điều đó. - George Bailey được trao tặng một món quà mà tất thảy chúng ta đều mơ ước: đó là cơ hội được sống thêm lần nữa. Sau một cơn đau tim ở tuổi 47, George được thay tim của một cậu bé 19 tuổi, và bỗng dưng mọi thứ đổi thay.   Anh không còn là ông bố nghiêm khắc, luôn dõi theo nhất cử nhất động của cậu con trai và cô con gái đang tuổi lớn. Anh trở thành bạn của các con. Anh yêu vợ hết mực, Song đã không còn là một người chồng đúng nghĩa. Và anh muốn thay đổi cả thế giới...  "Một câu chuyện rất thật về cách chúng ta vẫn loay hoay tìm kiếm tình yêu và sau khi có được rồi, chúng ta lại đạp đổ đi...đôi khi chỉ vì điều đó dễ dàng hơn"   -Observer *** Được sống thêm lần nữa là món quà kỳ diệu của cuộc sống, cũng giống như Chúa vừa ném vào đống lửa đang tắt của chúng ta thêm một que củi vậy. Với ngòi bút dí dỏm, tinh tế, tác giả Tony Parsons mang đến cho người đọc câu chuyện cảm động và ý nghĩa về giá trị của cuộc sống trong cuốn Trái tim tuổi 19. Cuốn sách kể lại chuyện, sau cơn đau tim, viên cảnh sát bàn giấy George Bailey, 47 tuổi, được thay trái tim của một cậu bé 19 tuổi. Xuất viện, George trở lại với cuộc sống của mình, thế nhưng, anh sớm nhận ra mọi thứ không còn như xưa. Anh làm tình với vợ, đam mê và mãnh liệt như một chàng trai 19. Anh thấy đồng cảm với tham vọng cứu vớt hành tinh của cô con gái nhỏ, và gần như trở thành người bạn của cậu con trai lớn hơn là một ông bố. George không biết được rằng điều này lại trở nên tồi tệ. Cuộc sống của anh đã đảo lộn. Vợ của George, Lara, chợt nhận ra sống cùng chồng chẳng khác nào sống cùng một cậu bé mới lớn. Mệt mỏi vì phải một mình gánh vác trọng trách nuôi dạy con cái và hụt hẫng vì người chồng mình yêu thương dường như trở thành một người khác, Lara muốn rời xa George. Thế nên, tạm thời anh chuyển đến sống cùng bố mẹ. Anh thường xuyên say khướt vì chẳng biết mình thực sự là ai. Anh khao khát được quay về cuộc sống bên vợ và hai con như trước kia. Vì thế, Geogre quyết định tìm hiểu món quà được trao tặng, trái tim đang đập trong lồng ngực mình đến từ đâu. Trong thời gian này, anh dần nhận ra nhiều điều mới mẻ và giá trị trong cuộc sống. Tony Parsons vừa là nhà văn vừa là nhà báo viết mảng âm nhạc tại Anh. Ông là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết bán chạy như: One For My Baby (2001), Man and Wife (2003), The Family Way (2004), Stories We Could Tell (2006), My Favourite Wife (2007), Starting Over (2009) và Men From the Boys (2010). Mời các bạn đón đọc Trái Tim Tuổi 19 của tác giả Tony Parsons.