Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xác Không Đầu

Cơ thể bị chia cắt của một người đàn ông được tìm thấy Trong Kênh Saint-Martin. Gần với hiện trường, Maigret gặp chủ nhân ngầm của một quán cà phê, Aline Calas, và tự hỏi liệu cơ thể trong con kênh có phải là của chồng cô không. Như thường lệ, bản năng của Maigret là chính xác. Buộc phải điều tra thêm nhưng với thời gian trên tay khi anh đã giải quyết xong vụ án, Maigret bắt đầu đào sâu vào quá khứ của tất cả những ai quan tâm. Không giống như hầu hết các hư cấu thám tử, nơi tìm kiếm giải pháp là trọng tâm của câu chuyện, cuốn tiểu thuyết này khám phá các động cơ khác nhau có thể dẫn đến phạm tội. Đây là lý do tự thù hận đằng sau những hành động theo đó bạn có thể làm tổn thương và làm tổn thương những người thân thiết nhất với bạn. Simenon, thông qua Maigret, tuyệt vọng cố gắng để tìm ra ý nghĩa thực sự và tham vọng, tin rằng sự hiểu biết có thể dẫn đến sự tha thứ và tha thứ sẽ làm giảm ổ đĩa để phạm tội. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. Cho đến nay, chưa có nhà xuất bản nào tại Pháp in toàn bộ tác phẩm của Georges Simenon. Mới đây, các tiểu thuyết của ông được Nhà xuất bản Ommious in thành 25 tập Tất cả Simenon nhưng chưa đầy đủ. Còn ở Việt Nam mới chỉ có khoảng chục cuốn thuộc thể loại trinh thám hình sự của Georges Simenon. Không học cao, không đọc nhiều, không quan hệ rộng và cũng chẳng mấy khi đi đâu xa, thế nhưng Georges Simenon lại lập kỷ lục về số sách bán được và làm giàu nhờ những tác phẩm được chuyển thể điện ảnh. Bị một số người xem thường suốt thời gian dài, nhà văn viết nhiều và viết nhanh này lại được những đồng nghiệp danh tiếng như André Gide, Henry Miller hết mực kính trọng. Làm thế nào một người rời trường học từ lúc 15 tuổi và thừa nhận mình chưa bao giờ đọc những tác phẩm văn học cổ điển lại trở thành nhà văn viết tiếng Pháp có nhiều người đọc nhất và có tác phẩm được dịch nhiều nhất trên thế giới? Văn phong của Georges Simenon không có gì đặc biệt, không hoa mỹ và không có những hình ảnh ấn tượng. Vốn từ vựng của ông cũng rất hạn chế. Tiểu thuyết của ông không có nhiều yếu tố lịch sử hay triết học. Mọi nhân vật trong truyện đều thuộc tầng lớp trung lưu, có cuộc sống bình lặng, những thị dân tiểu tư sản, chung thủy với vợ, ít ngao du, không tham vọng, không chính kiến rõ rệt. Thế mà không khí trong tiểu thuyết của ông khiến người đọc phải nhớ mãi. Trong 60 năm cầm bút, Georges Simenon trải qua nhiều trào lưu văn nghệ; chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Marx và Tiểu thuyết mới, nhưng không trào lưu nào ảnh hưởng nơi ông. Để hiểu được phần nào bí quyết thành công của Georges Simenon, có lẽ cần trở lại thời thơ ấu của ông. Gia đình sống quanh quẩn trong thành phố quê hương, chẳng mấy khi đi đâu xa. Để thay đổi số phận, năm 16 tuổi, Georges Simenon đến Paris. Vì sinh kế, chàng thanh niên trẻ làm đủ mọi công việc liên quan đến viết lách. Con người rất ít khi đọc sách ấy lại có một năng khiếu đặc biệt: Có thể cùng lúc là thư ký, nhà báo, nhà văn, và viết rất nhanh. Khi một nhà xuất bản yêu cầu một cuốn tiểu thuyết, câu hỏi đầu tiên của Georges Simenon luôn là: “Ông muốn có sách vào thứ sáu này hay tuần tới?” Ông viết nhiều và nhanh đến nỗi khi chưa đến 25 tuổi đã có rất nhiều bút danh. Tất cả các tác giả từng viết tiểu sử Georges Simenon đều nhận định: Để viết cuốn tiểu thuyết “Maigret” (tên vị thanh tra, nhân vật chính trong tiểu thuyết của Simenon), nhà văn chỉ cần 6 ngày và chỉ mất 9 ngày cho những tác phẩm khác mà ông gọi là “tiểu thuyết hắc” (romans durs). Cách viết nhanh như vậy giúp ông đạt được những thành công đầu tiên. Pietr le Letton (1931) là cuốn truyện mở đầu loạt truyện Maigret. Trong vòng hai năm, ông viết hơn 20 tiểu thuyết, đem lại lợi nhuận lớn lao cho nhà xuất bản Fayard. Cuốn tiểu thuyết cuối cùng, Maigret et monsieur Charles (Maigret và ông Charles) được xuất bản năm 1972. Những cuộc phiêu lưu của thanh tra Maigret trải dài trên 75 tiểu thuyết (với khoảng chừng 10 năm), mà nhân vật chính không già đi, trán không gợn một nếp nhăn. Từ tác phẩm đầu tiên cho đến tác phẩm cuối cùng, thanh tra Maigret vẫn ở tuổi 50. Các nhà nghiên cứu nhận thấy tên Georges Simenon được ký trên hơn 200 cuốn tiểu thuyết và ông cũng viết ngần ấy tiểu thuyết với những bút danh khác (40 bút danh) và gần 1.000 truyện ngắn. Les fiançailles de monsieur Hire (Lễ Đính Hôn Của Ông Hire) và Le Chien Jaune (Con Chó Vàng) là những tác phẩm củng cố danh tiếng của ông. Những trí thức ở Paris không muốn nhắc đến “kẻ xa lạ” trốn tránh kinh đô Ánh sáng và xem thường những nghi thức của xã hội thượng lưu. Nhiều người phê phán Georges Simenon không có văn phong. Ngoại trừ nhà văn Pháp André Gide và nhà văn Mỹ Henry Miller, Georges Simenon không giao tiếp với ai nên bị giới văn học cho “ra rìa”. Ông cũng giữ thái độ mập mờ, không cộng tác với ai, cũng chẳng phản kháng ai. Khi nước Pháp thoát khỏi sự chiếm đóng của phát xít Đức, cũng như nhiều nhà văn khác, Georges Simenon bị buộc nhiều tội, trong đó hai tội chính: Ký hợp đồng với một nhà sản xuất phim người Đức để chuyển thể 9 cuốn tiểu thuyết của ông và Christian Simenon, em trai ông, ủng hộ phong trào chống chế độ đại nghị ở Bỉ, bị kết án tử hình vắng mặt. Năm 1945, Georges Simenon rời châu Âu sang Mỹ, lưu lại đây 10 năm. Nhưng ở nơi sống mới, “nỗi ám ảnh viết lách” không hề dịu đi. Trái lại, trí tưởng tượng của ông càng thêm phong phú nhờ những chuyến phiêu lưu khám phá kinh đô điện ảnh Hollywood. Lúc này ở châu Âu, những lời lên án ông hợp tác với phát xít Đức đã nhạt đi. Georges Simenon sang Thụy Sĩ, sống trong một dinh thự mênh mông ở Epalinges, cách Lausanne 10km. Ông đã là một ngôi sao. Người tra tranh nhau đăng tiểu thuyết của ông trên các báo và chuyển thể thành phim. Từ La nuit du carrefour (1932) đến Monsieur Hire (1989), tổng cộng 56 tiểu thuyết chuyển thể. Thêm một kỷ lục nữa: Georges Simenon trở nên giàu có nhờ số sách bán được và những bộ phim. Thoạt đầu, danh tiếng làm ông thích thú, nhưng rồi ông thấy chán ngán: “Tôi bán bản quyền và chẳng quan tâm nữa. Thậm chí tôi còn không đi xem phim”. Ở Epalinges, cuộc sống của ông rất bình lặng. Ông ít giao tiếp, dành toàn bộ thời gian để viết, đi dạo hai lần mỗi ngày, mỗi tháng gửi một bản thảo cho nhà xuất bản. Cuộc sống cứ thế trôi đi cho đến năm 1972, ông hầu như ngưng viết. Trước khi qua đời năm 1989, ông cho xuất bản 20 tác phẩm tự truyện. Sách của Georges Simenon được dịch sang 50 thứ tiếng. Trong bảng xếp hạng các sách được dịch nhiều nhất trên thế giới, sách của Georges Simenon và Agatha Christie chỉ xếp sau Kinh Thánh và các tác phẩm của Karl Marx. Cùng với việc viết lách, phụ nữ là mối quan tâm lớn của đời ông. Có nhiều lời đồn đoán về “năng lực tình ái” phi thường của Georges Simenon. Ông từng khoe đã yêu 10.000 phụ nữ. Denyse, người vợ thứ hai, cho biết lúc tuổi xế bóng, Georges Simenon vẫn chăn gối 3 lần mỗi ngày. Bà bếp tiết lộ đã dan díu với ông chủ Georges Simenon trong một thời gian dài, và trong lúc đi dạo, cha đẻ của Maigret lại tìm quên trong vòng tay của một cô gái làng chơi. Sinh hoạt tình dục sôi nổi ấy lại không để lại một dấu vết nào trong tác phẩm của Georges Simenon. Bà Maigret là một phụ nữ tiểu tư sản, mờ nhạt và lệ thuộc, luôn ngưỡng mộ chồng. Điểm này cũng là một bí ẩn của Georges Simenon. Ông kết hôn lần đầu tiên năm 19 tuổi với Tigy, có một con trai tên Marc. Marc kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Mylène Demongeot, Georges Simenon cũng có quan hệ tình ái với ngôi sao nhạc kịch Joséphine Baker và suýt ly hôn với Tigy. Năm 1945, Georges Simenon gặp Denyse Ouimet, thoạt đầu là thư ký của ông, rồi trở thành người tình, người vợ, Georges Simenon và Denyse có 3 con: John, Mary và Pierre. *** Khi trời vừa rạng sáng thì Jules Naud, người anh cả của hai anh em nhà Naud, xuất hiện trên sà lan, trước hết là cái đầu, tiếp đó đến đôi vai và sau cùng là tấm thân cao lều nghều của anh. Đưa tay lên vuốt mớ tóc màu sợi lanh chưa kịp chải, anh nhìn âu thuyền có bến cảng Jemmages ở bên trái và bến cảng Valmy bên phải. Anh vừa cuốn một điếu thuốc lá và châm hút trong buổi sáng còn se lạnh thì ngọn đèn của một quán rượu ở phố Recollets bật sáng. Mặt tiền của quán rượu có màu vàng khè. Popaul, chủ quán, mặc áo không cổ, tóc chưa chải, đang đứng ngoài vỉa hè để tháo những cánh cửa lùa. Jules đi trên tấm ván bắc làm cầu lên bờ và cuốn điếu thuốc thứ hai trong khi đó thì Robert, người em, cũng cao lớn như anh, đã thức giấc và lên trên boong tàu. Anh ta thấy Jules đang tì tay lên quầy hàng đợi chủ quán rót thêm rượu vào tách cà phê của anh.  Robert đang đợi đến lượt mình. Cùng với những cử chỉ như Jules, anh ta cũng cuốn một điếu thuốc lá. Khi người anh cả rời khỏi quán hàng thì người em cũng đã lên khỏi sà lan. Hai người gặp nhau ở giữa đường. - Ta cho nổ máy đây - Jules bảo người em trai. Có những ngày hai người không nói với nhau quá một chục câu theo kiểu ấy. Con tàu của họ mang tên Hai anh em. Họ đã lấy hai chị em sinh đôi của một gia đình sống trên bờ sông. Robert cũng tì tay lên quầy hàng của ông Popaul béo lùn và đợi chủ quán rót rượu. - Hôm nay đẹp trời - Popaul gợi chuyện. Qua cửa sổ, Robert thấy trời đã chuyển sang màu hồng. Những ống khói trên các nóc nhà bắt đầu hoạt động, sương giá đọng trên các mái nhà lợp bằng đá bảng hoặc bằng ngói bắt đầu tan. Người ta nghe thấy tiếng nổ của đầu máy đi-ê-zen. Phía sau sà lan phụt ra những luồng khói đen. Robert đặt tiền lên quầy hàng, cầm lấy chiếc mũ cát-két và đi khỏi quán rượu. Người phụ trách âu thuyền trong bộ đồng phục đã xuất hiện chuẩn bị cho việc mở cửa âu. Người ta nghe thấy những bước chân ở cảng Valmy nhưng không nhìn thấy người. Tiếng trẻ con bi bô trong những khoang tàu, nơi các bà mẹ đang chuẩn bị cà phê. Jules đang cúi xuống nhìn mặt nước ở cuối sà lan. Người em thấy như có chuyện gì không ổn. Sà lan chở đá xây dựng từ Beauvais về. Chuyến này đá chở nhiều hơn thường lệ một vài tấn. Đêm qua sà lan từ bên La Vilette để đi vào kênh đào Saint-Martin. Thông thường thì tháng Ba kênh đào có nhiều nước. Năm nay ít mưa nên bùn trong các con kênh sục lên khi sà lan đi qua. Những cánh cửa âu thuyền được kéo lên. Jules ngồi bên vòng quay của bánh lái. Người em lên bờ tháo neo. Chân vịt bắt đầu quay tít, những bọt nước có bùn nổi lên. Tì người vào cây sào, Jules đẩy sà lan tránh xa bờ kênh. Bỗng nhiên chân vịt khựng lại, tiếng máy nổ rú lên và Robert thấy Jules đang cúi xuống máy. Cả hai đều không hiểu đã có chuyện gì xảy ra. Chân vịt không sát xuống đáy sông. Chắc chắn đã có vật gì mắc vào nó. Có thể là rác đã bị cuốn lên. Cầm một cây sào, Jules đến cuối sà lan và khuấy nước ở đấy lên. Chân vịt vẫn không nhúc nhích. Trong khi Jules đi tìm một chiếc móc bằng sắt thì Laurence từ khoang sà lan nhô đầu lên. - Có chuyện gì vậy? - Không biết. Cái móc bắt đầu làm việc. Vài phút sau đó thì Charles Dambois, người phụ trách âu thuyền, bước tới. Ông ta không hỏi han gì mà chỉ lặng lẽ nhồi thuốc vào tẩu để hút. Trên bờ kênh, người ta thấy nhiều y tá và hộ lý vội vã tới phố Cộng Hoà để làm việc tại bệnh viện Saint-Louis. - Anh đã thấy vật đó chưa? - Đã thấy. - Một sợi dây cáp ư? - Không biết. Jules đã móc được vật ấy lên và chân vịt lại tiếp tục quay. Chiếc móc sắt được nhấc lên khỏi mặt nước và mắc vào đấy là một gói giấy báo buộc kỹ. Giấy báo ngâm nước đã mủn ra. Đấy là một cánh tay người, từ bả vai đến bàn tay, thịt đã xám lại như con cá chết. *** Depoil, hạ sĩ cảnh sát của khu phố Ba, đã hết phiên trực đêm ở bến cảng Jemmages, đang chuẩn bị ra về thì gặp Jules chạy tới. - Tôi ở âu thuyền Recollets cùng với chiếc sà lan Hai anh em. Chân vịt đã không quay được khi chúng tôi cho sà lan chạy và chúng tôi đã gỡ từ đó ra một cánh tay người. Depoil đã làm việc ở quận Mười mười lăm năm, có phản ứng nhanh nhạy của người cảnh sát nên anh nắm ngay sự việc. - Tay của đàn ông ư? - Depoil hỏi với vẻ hoài nghi. - Phải. Cánh tay đầy lông màu hung và... Thường thì người ta vớt được xác chết ở kênh đào Saint-Martin từ chân vịt của tàu thuyền. Hầu hết là xác nguyên vẹn, đại đa số là xác đàn ông, ví dụ như xác của một ông già lang thang quá chén hoặc xác của một thanh niên bị địch thủ cho một nhát dao rồi đẩy xuống dòng kênh. Xác chết bị chặt ra từng khúc cũng không phải là không có, một năm trung bình một hai vụ, mà hầu hết là phụ nữ. Depoil có thể kể ra từng vụ một. Chín phần mười họ đều là gái bán dâm, đi lượn lờ trên bờ kênh vào ban đêm. "Tội ác do những kẻ loạn dâm gây ra" - Báo cáo của anh thường kết luận như vậy. Cảnh sát biết rõ những kẻ năng lui tới chốn này, họ có cả một danh sách những kẻ đáng nghi ngờ. Chỉ cần một vài ngày là đủ để tóm cổ được tác giả của vụ án cướp của giết người hoặc tấn công địch thủ bằng vũ khí. - Anh đã mang nó lên bờ rồi chứ? - Depoil hỏi. - Cánh tay người ư? - Anh để nó ở đâu? Mời các bạn đón đọc Xác Không Đầu của tác giả Georges Simenon & Trần Bình (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Địch Công Kỳ Án Tập 5: Bí Mật Quả Chuông - Robert van Gulik
Năm 668 khi Địch Nhân Kiệt đến trấn nhậm tại Phổ Dương, một thành phố nhỏ nằm cạnh sông Hoàng Hà thuộc tỉnh Giang Tô. Cứ tưởng rằng ngài sẽ có những ngày tháng yên bình sau biến cố khủng khiếp trong vụ án “ Vụ giết người trên chiếc thuyền hoa” tại Hán Dương. Tuy nhiên khi vừa mới nhận nhiệm sở mới thì ngài đối mặt với vụ án giết người, hiếp dâm tại phố Bán Nguyệt. Hung thủ bị kết tội là một chàng thư sinh trói gà không chặt đã tạo nên mối nghi ngờ nơi quan án sát. Cùng lúc đó tin đồn về một ngôi chùa Phật giáo nơi có bức tượng Phật bà quan âm linh thiêng sẽ giúp cho những phụ nữ hiếm muộn có con nhưng cùng với nó là những lời đồn đãi của dân chúng về lối sống xa hoa, sự giàu có không thể lý giải được của những tu sĩ tại chùa. Đâu là sự thật của vấn đề này ? *** Một cô gái - con của tiểu thương nghèo bị cưỡng gian rồi sát hại. Mọi đầu mối chứng cứ đều hướng về một chàng thư sinh trói gà không chặt. Bí mật của ngôi chùa cổ có bức tượng Phật Bà Quan Âm linh thiêng, ai đến cầu tự cũng được "ứng nghiệm" là gì? 20 năm trước, trong một đêm, Lương gia bỗng tan cửa nát nhà. Những vụ án này có liên quan gì đến bộ hài cốt được tìm thấy trong quả chuông đồng? Đâu là sự thật của hàng loạt các vụ án mạng khiến sông Hoàng Hà bên cạnh Thành Phổ Dương yên bình cũng phải dậy sóng? Ân oán chất chồng, những bí mật động trời ẩn giấu bên trong dáng vẻ thanh bình của một thành trì phồn hoa đô hội. Tuy nhiên, ác giả, ác báo, âu cũng là một lẽ thường tình trong luật nhân quả. *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 5: Bí Mật Quả Chuông  của tác giả Robert van Gulik.
Người Thứ 41 - Bô-rít La-vrê-nép
Bô-rít La-vrê-nép là nhà tiểu thuyết và kịch tác gia. Ông sinh năm 1891 ở Khéc-sơn (U-cờ-ren) và là Cựu sinh viên luật học trường Đại học Mạc-tư-khoa. Trong thời kỳ nội chiến ông chiến đấu trong hàng ngũ Hồng quân. Bước đầu sáng tác văn học của ông bắt đầu từ năm 1912. Người ta biết ông ở tập truyện ngắn “Gió” (1924) hai tập tiểu thuyết ngắn, “Người thứ 41” (1926) và “Một truyện bình thường” (1924) đều lấy đề tài trong cuộc đại cách mạng Nga. Vở bi kịch “Phá vây” của ông diễn lần đầu năm 1928 được coi như một trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kịch nói xô-viết. Ngoài ra ông còn viết một loạt truyện ngắn và kịch về đời sống ở biển; trong đó hai tác phẩm nổi nhất là “Tiếng hát của Hắc-hải” (1944) và “Về những người sống ở biển”. Ông mới mất tháng giêng năm 1959. NGƯỜI THỨ 41 được coi là một trong những tiểu thuyết mẫu mực của nền văn học xô-viết sau Cách mạng tháng Mười. Tác phẩm gần như trở thành cổ điển tuy nó mới ra đời cách đây trên 30 năm. Bằng một bút pháp thật tinh tế, lối bố cục nhịp nhàng chặt chẽ, cách xây dựng điển hình thật đặc biệt, tác giả đưa ra cái ranh giới giữa tình yêu và lý tưởng, giữa hai thứ nhân sinh quan khác nhau như nước với lửa. Ma-ri-út-ka, nhân vật chính trong chuyện, một nữ chiến sĩ Hồng quân trẻ tuổi và xinh đẹp, xuất thân là một cô gái nghèo nhưng lại thích làm thơ và thích mơ mộng, Ma-ri-út-ka yêu rất say và thù cũng rất sâu. Giết kẻ địch mà vẫn yêu, và kẻ địch, ngoài cái óc nhơ bẩn của nó, còn có một cặp mắt đẹp, cử chỉ dáng điệu nho nhã và tài kể chuyện của nó làm cho Ma-ri-út-ka phải say mê. Cách dựng nhân vật phản phái một cách táo bạo và cũng rất thành công của La-vrê-nép làm cho câu chuyện sâu thêm, đậm hơn và cũng thực hơn. NGƯỜI THỨ 41 đã hai lần được xây dựng thành phim ảnh. Lần thứ nhất vào năm 1927 do nhà đạo diễn đã quá cố Pơ-rô-ta-dô-nốp lấy tên là: “Con quỷ của thảo nguyên”. Ba mươi năm sau, nhà đạo diễn trẻ tuổi và rất có tài là Tru-khơ-rai dựng lại chuyện này lần thứ hai. Phim “Người thứ 41” đem đi dự Đại hội điện ảnh quốc tế ở Can-nơ năm 1957 đã làm chấn động dư luận thế giới. Riêng ở Việt-nam ta, bộ phim của Tru- khơ-rai xây dựng theo tiểu thuyết của Bô-rít La-vrê-nép cũng đã thu phục được hàng chục vạn trái tim. NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Người Thứ 41 của tác giả Bô-rít La-vrê-nép.
Nhân Chứng Ẩn Mình - Nora Roberts
Việc phải đóng vai cô con gái mẫu mực của một bà mẹ lạnh lùng độc đoán suốt mười sáu năm trời đã khiến cho Elizabeth Fitch hết chịu nổi. Một ngày cô quyết định nổi loạn khi lần đầu trong đời theo chân bạn bè tới hộp đêm. Tại đó cô đã bị quyến rũ bởi một anh chàng người Nga lạ mặt và đồng ý tới căn biệt thự của gia đình anh ta. Mười hai năm sau, một phụ nữ mang tên Abigail Lowery sống lẻ loi ở thị trấn nhỏ vùng núi Ozark. Cô ta có một công việc tự do liên quan đến thiết bị an ninh công nghệ, một chú chó dữ dằn theo sát từng bước chân và một khẩu súng luôn bên người. Việc quá giữ mình khiến cho người dân thị trấn chẳng biết gì về cô ta, đó cũng là lúc mà tính tò mò trỗi dậy. Anh chàng cảnh sát trưởng Brooks Gleason đã bị cô gái bí ẩn, thông minh, đầy quyến rũ này hớp hồn. Nhưng cách cư xử lạ lùng của Abigail khiến anh băn khoăn phải chăng cô là tội phạm bị truy nã hay đang lẩn trốn ai đó? Liệu Abigail có thoát được sự đeo bám của anh chàng Brooks này, và chuyện gì trong quá khứ đã khiến cô trở nên như vậy, xin mời các bạn cùng theo dõi câu chuyện. *** Nhận định “Tác phẩm Nhân chứng ẩn mình của Nora Roberts, nữ văn sĩ có sách bán chạy số một New York Times, là minh chứng rõ ràng cho tài năng tuyệt vời của bà trong việc kết hợp giữa một bối cảnh hình sự với một chuyện tình lãng mạn.” (Booklist) “Câu trả lời của Nora Roberts cho Cô gái có hình xăm rồng.” (Kirkus Reviews) “Một trong những nhân vật nữ chính thông minh nhất của Roberts, cuốn sách kịch tính này xác nhận rằng bà là người đi đầu trong thể loại này.” (Publishers Weekly) *** Thật sự “nhân chứng ẩn mình” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nora Roberts mình từng đọc. Phong cách viết kết hợp giữa trinh thám và lãng mạn của bà chưa bao giờ làm mình thất vọng. Với mỗi tác phẩm, tác giả đều có cách tiếp cận vấn đề và cách triển khai không giống nhau, mọi thứ đều rất mới mẻ và thu hút. Có rất nhiều tình huống trong “nhân chứng ẩn mình”, tất cả đều logic, hợp lý và khiến người đọc không thể rời mắt cho đến khi kết thúc tác phẩm. Và hơn cả là mọi tình tiết đều khá thật. Một cuốn tiểu thuyết thành công là sự kết hợp giữa hiện thực và…hư cấu. Ở điểm này Nora Roberts đã kết hợp được điều đó trong “nhân chứng ẩn mình” nói riêng và trong các tác phẩm trinh thám lãng mạn khác nói chung. Tóm lại đây là một tác phẩm rất đáng đọc của tác giả, phù hợp với cả những độc giả yêu thích các tác phẩm lãng mạn hoặc các tác phẩm hình sự.   Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Ẩn Mình của tác giả Nora Roberts.
Báo Thù - Barry Eisler
Báo thù là cuốn tiểu thuyết trinh thám thứ 2 trong series 7 tập về John Rain, một cựu quân nhân mang hai dòng máu Nhật  - Mỹ hành nghề sát thủ tự do. Trong tập đầu tiên của bộ sách này, Sát Thủ Tokyo, John Rain đã trừ khử được Holtzer - giám đốc phân cục CIA tại Tokyo. Những tưởng cuộc sống yên bình đã chọn anh ở xứ Osaka tươi đẹp nhưng không, một lần nữa anh phải tái xuất để thực hiện nhiệm vụ cuối cùng: tìm ra và loại trừ một tên sát thủ máu lạnh, không hề biết thương xót và hối hận. Hành tung của hắn có liên quan tới nền chính trị Nhật, đặc biệt người bạn thân của anh là Harry cũng bị hắn theo dõi. Quyết tâm dấn thân vào nhiệm vụ cuối để bảo vệ người bạn của mình đồng nghĩa với việc Rain đang đánh đổi mạng sống của mình giữa vòng kiềm tỏa của một bên là giới Yakuza khát máu, một bên là những âm mưu trả thù của CIA. Liệu rằng anh sẽ phải làm gì để bảo vệ chính mình? *** "Từ những yakuza máu lạnh Nhật Bản cho đến những đặc vụ CIA xảo quyệt, một câu chuyện hồi hộp đến nghẹt thở". *** Barry Eisler sinh năm 1964, là tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Năm 2002, ông bắt đầu sự nghiệp viết văn toàn thời gian sau khi bán bản quyền tiểu thuyết đầu tay Rain Fall, cuốn đầu tiên trong series về nhân vật John Rain - đến nay đã xuất bản được 7 cuốn. Loạt truyện này của ông đã được dịch ra gần 20 thứ tiếng. Eisler từng đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm". Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall (Sát thủ Tokyo) với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer. Eisler sống tại Menlo Park và Tokyo. *** Đây là quyển sách tiếp theo của cuốn " Sát thủ Tokyo" , cách kể của Barry Eisler có gì đó khá lôi cuốn người đọc. Nhưng có thất một chút thì ban đầu cuốn sách vì kể hơi dài dòng. Phần này nói về cuộc sách của Rain sau khi giết Holtzez - giám đốc phân cục của CIA, và cũng thật tiếc cho anh chàng Harry tài giỏi vì một chút nông nỗi mà phải chết, cũng từ lúc đó chuyện càng trở nên hấp dẫn hơn có thêm nhiều trận đấu nảy lửa, kịch tính. Không biết có thêm tập mới của bộ series này không nữa???   Mời các bạn đón đọc Báo Thù của tác giả Barry Eisler.