Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Chơi Vương Quyền 1A: Sói Tuyết Thành Winterfell

Tên Ebook: Trò Chơi Vương Quyền 1A Sói Tuyết Thành Winterfell Tên Tiếng Anh: A Song of Ice and Fire hay G ames Of Thrones   Tác Giả: George R. R. Martin   Thể Loại:  18+, Best seller, Cổ Đại,  Giả Tưởng, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây   Dịch Giả: nhóm VTBT   Nguồn: viettorrent.vn   Ebook: www.dtv-ebook.com   Ebook Trò Chơi Vương Quyền Phần 1A Sói Tuyết Thành Winterfell Giới Thiệu: Trò chơi vương quyền Game of Thrones (được biết đến với tên gọi A Song of Ice and Fire hay Game of Thrones) là bộ tiểu thuyết sử thi hùng tráng của nhà biên kịch, nhà văn Mỹ nổi tiếng George R. R. Martin. Martin bắt tay vào viết bộ tiểu thuyết này năm 1991 và xuất bản tập đầu tiên, A Game of Thrones,  vào năm 1996. Sau đó, ông dần mở rộng kế hoạch 3 tập đầu tiên thành 4, 6 và cuối cùng là 7 tập. Tập 5 – A Dance with Dragons hoàn thành sau hơn 5 năm và được xuất bản vào năm 2011. Cuốn thứ 6 – The Winds of Winter vẫn đang được ông thực hiện. Bộ tiểu thuyết đã được bán bản quyền trên 40 nước. Tại Mỹ, tập thứ tư và thứ năm liên tục đứng ở vị trí số một trong Danh sách bán chạy nhất tại nhiều bảng xếp hạng uy tín như New York times, Amazon… Về số lượng, series này đã bán được hơn 7 triệu bản tại Mỹ và hơn 22 bản trên toàn thế giới. Kênh truyền hình HBO đã chuyển thể bộ tiểu thuyết này sang series phim truyền hình chất lượng cao, đậm chất Hollywood khiến danh tiếng của bộ sách cũng như tên tuổi của tác giả ngày càng vang xa. Bộ sách cũng được chuyển thể thành game phục vụ độc giả yêu thích. Bộ Sách gồm 7 Quyển: 1. A Game of Thrones (1996) 2. A Clash of Kings (1999) 3. A Storm of Swords (2000) 4. A Feast for Crows (2005) 5. A Dance with Dragons (2011) 6. The Winds of Winter (Đang thực hiện) 7. A Dream of Spring (Đang thực hiện) Bộ tiểu thuyết còn được biên soạn thêm ba phụ bản được phát hành từ năm 1996 đến năm 2003: - Blood of Dragon (1996): được lấy từ các chương Daenerys trong A Game of Thrones. - Path of Dragon (2000): dựa trên các chương Daenerys trong A Storm of Swords. - Arms of the Kraken (2003): dựa trên các chương Quần Đảo Sắt trong A Feast of Crows. Trò chơi vương quyền Game of Thrones lấy cảm hứng từ tiểu thuyết "Cuộc chiến hoa hồng" và "Ivanhoe". Từ dự định viết một bộ ba tập lúc ban đầu, đến nay Martin đã đẩy kế hoạch đó lên thành bảy tập; và tập năm của bộ sách đã được phát hành vào 12/07/2011 vừa qua. Bộ sách viết về cuộc tranh giành quyền lực của bảy lãnh chúa vùng đất Weterlos và Essos, gồm những khu vực do các dòng họ lớn cai trị, trong bối cảnh nhiều thế lực đen tối có sức mạnh siêu nhiên như người Ngoại nhân, quỷ bóng trắng... luôn đe dọa xâm chiếm Weterlos. Lấy cảm hứng từ các sự kiện lịch sử như lịch sử nước Anh thời kỳ "Cuộc chiến hoa hồng", nhưng Martin cố tình bất chấp các quy ước về thể loại giả tượng để viết nên bộ tiểu thuyết này. Bạo lực, tình dục và sự mơ hồ về đạo đức thường xuyên hiển thị trong tác phẩm của ông. Nhân vật chính thường xuyên bị giết, các sự kiện được nhìn nhận dưới nhiều góc nhìn khác nhau, kể cả qua cái nhìn của các nhân vật phản diện, điều này khiến độc giả không thể nghiêng về các nhân vật "anh hùng" như các cuốn tiểu thuyết thông thường khác; đồng thời cũng khẳng định thêm sự thật rằng những nhân vật anh hùng không thể đi qua các biến cố mà không bị tổn thương, mất mát giống như trong đời thực. Chính vì vậy, Trò chơi vương quyền nhận được vô số những lời khen ngợi về chủ nghĩa hiện thực. Đồng thời bộ tiểu thuyết cũng nhận được những bình luận quan trọng về vai trò của phụ nữ và tôn giáo được thể hiện trong Trò chơi vương quyền Game of Thrones. *** Review Nguyễn Hùng: Chắc hẳn ai mê phim hành động Mỹ đều không thể chưa xem phim Trò chơi Vương quyền. Bộ phim ấy được chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết cùng tên củaGeorge R. R. Martin. Tác giả cuốn tiểu thuyết đã lấy ý tưởng từ cuộc nội chiến giành vương vị nước Anh của dòng họ Lancaster và York để viết lên môt tiểu thuyết giả tưởng có sức hấp dẫn không hề nhỏ. Vì nó lấy ý tưởng từ sự kiện cuộc chiến 1455 - 1485 của Anh Quốc nên nó mang hơi hướng thời đại. Tôi vô cùng thích thú khi đọc tác phẩm. Nó khiến cho ta thấy, cảm nhận được chủ nghĩa hiện thực tác phẩm. Bạo lực thường xuyên xảy ra trong tác phẩm của ông. Ta vô cùng ngạc nhiên khi thấy ngay từ đầu đã có chi tiết Ned Stark chặt đầu một kị sĩ trong đội tuần đêm vì trốn về nhà cảnh báo gia đình mình. Rồi truyện lại vô cùng bất ngờ khi Ned Stark bị chặt đầu. Nhân vật chính bị giết. Do đó, tác giả đã muốn nói với bạn đọc rằng: không phải tất cả anh hùng không bao giờ bị tổn thương, họ có thể bị tổn thương như người bình thường vậy. Câu chuyện li kì, cuốn hút người đọc. Ví dụ như ở chi tiết phu nhânCatelyn bắt được quỷ lùnTyrion Lannister. Một cuộc chiến giữaJaime Lannister với Ned Stark, ta bất ngờ khi Jaime lại tha mạng cho Ned và gửi thông điệp tới phu nhân Catelyn. Đọc truyện mang lại ta cảm giác phấn khích được khám phá hơn trong phim. Bởi vì trong phim bị cắt giảm rất nhiều chi tiết khác nhau, còn ở truyện thì trí tưởng tượng của tác giả bay cao, xa hơn và không bị giới hạn bởi bất cứ điều gì. ***   Tập 1 tiểu thuyết Trò chơi vương quyền, có tựa đề "Winter is Coming", mở đầu với một cảnh tượng tàn khốc: Bran Stark, con trai thứ ba của Ned Stark, lãnh chúa của vùng đất Winterfell, bị Jaime Lannister, em trai của Cersei Lannister, đẩy từ trên tháp cao xuống. Bran là người duy nhất sống sót sau cuộc thảm sát ở Winterfell, nhưng anh ta bị thương nặng và mất đi khả năng đi lại. Bran được người hầu gái Meera Reed và người bạn thân Hodor chăm sóc. Trong khi đó, Ned Stark đang trên đường đến King's Landing để được bổ nhiệm làm Hand of the King, người cố vấn thân cận nhất của nhà vua. Trên đường đi, Ned dừng lại ở Harrenhal, nơi anh gặp Tyrion Lannister, con trai thứ hai của Tywin Lannister. Tyrion là một người thấp bé và xấu xí, nhưng anh ta lại rất thông minh và hài hước. Ned đến King's Landing và được giới thiệu với Robert Baratheon, nhà vua hiện tại của Seven Kingdoms. Robert là bạn thân của Ned và anh ta đã mời Ned đến King's Landing để giúp anh ta giải quyết các vấn đề nội bộ của vương quốc. Robert tiết lộ với Ned rằng anh ta đã kết hôn với Cersei Lannister, nhưng anh ta không yêu cô. Robert yêu Lyanna Stark, em gái của Ned, nhưng cô đã bị cướp đi bởi Rhaegar Targaryen, con trai cả của nhà vua cuối cùng của Seven Kingdoms. Ned bắt đầu điều tra cái chết của Lyanna và anh ta phát hiện ra rằng cô đã bị Rhaegar cưỡng hiếp và giết chết. Ned rất tức giận và anh ta thề sẽ trả thù cho Lyanna. Ned cũng phát hiện ra rằng Cersei và Jaime là anh em ruột, điều này là trái với luật pháp của Seven Kingdoms. Ned quyết định kể cho Robert biết sự thật, nhưng Cersei đã đến trước và cô ta đã nói dối Robert rằng Ned đang âm mưu chống lại ông. Robert tin lời Cersei và anh ta ra lệnh cho Ned bị chặt đầu. Ned bị chặt đầu và anh ta chết trong tay của Ilyn Payne, một sát thủ của nhà Lannister. Cái chết của Ned đã khiến cho cuộc xung đột giữa nhà Stark và nhà Lannister trở nên ngày càng gay gắt. Robb Stark, con trai cả của Ned, đã tuyên bố độc lập cho vùng đất Winterfell. Cuộc chiến giữa hai gia tộc bắt đầu và nó sẽ kéo theo hàng loạt biến cố, dẫn đến sự thay đổi của thế giới Seven Kingdoms. Dưới đây là một số sự kiện quan trọng khác xảy ra trong tập 1 tiểu thuyết Trò chơi vương quyền: Daenerys Targaryen, con gái của nhà vua cuối cùng của Seven Kingdoms, đang chạy trốn khỏi nhà Lannister. Cô ta đang tìm kiếm người anh trai Viserys, người mà cô ta tin rằng sẽ giúp cô ta giành lại ngai vàng. Jon Snow, con trai ngoài giá thú của Ned Stark, đã gia nhập Night's Watch, một tổ chức được thành lập để bảo vệ Westeros khỏi những con thú hoang dã ở phía bắc. Arya Stark, con gái thứ hai của Ned Stark, đã trốn thoát khỏi King's Landing và cô ta đang trên đường tìm kiếm anh trai mình. Sansa Stark, con gái lớn của Ned Stark, đã bị bắt làm con tin của nhà Lannister. Tập 1 tiểu thuyết Trò chơi vương quyền đã giới thiệu cho độc giả những nhân vật và sự kiện chính của câu chuyện. Nó đã tạo ra một thế giới giả tưởng đầy hấp dẫn và lôi cuốn, với những âm mưu, thủ đoạn và mưu đồ chính trị phức tạp.   Mời các bạn đón đọc phần đầu tiên trong series Trò chơi vương quyền Game of Thrones, Sói Tuyết Thành Winterfell.  

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả
Tác phẩm - Năm 1989, Những cậu bé kẽm lần đầu được xuất bản - Tháng 7 năm 1992, những đơn kiện Những cậu bé kẽm và S. Alexievich đầu tiên được gửi đi - Ngày 20 tháng 1 năm 1993, phiên xử đầu tiên diễn ra - Ngày 10 tháng 8 năm 2015, giải Nobel Văn học thứ 112 trong lịch sử gọi tên Svetlana Alexievich, dư luận một lần nữa lại dậy sóng… Vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Những cậu bé kẽm là thiên thứ ba trong loạt năm quyển của bộ Những giọng nói không tưởng gồm: Những nhân chứng cuối cùng, Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Lời nguyện cầu Chernobyl và Thời second hand. Những cậu bé kẽm, một nhan đề khốc liệt – những xác người trong quan tài kẽm – những cái xác vừa mới mười tám đôi mươi – những cậu bé đẹp đẽ rạng ngời, vừa rời vòng tay cha mẹ, người thương để rồi trở về trong những cỗ quan tài kín bưng – “hàng vận chuyển 200”. Được viết bằng thể loại văn xuôi tư liệu cùng với tâm thế của một con người vị nhân phản chiến, cuốn sách đã khuấy lên một giai đoạn lịch sử đầy những tổn thương đau đớn, đã phác họa một bối cảnh, đã soi chiếu bằng một góc nhìn trước nay chưa từng được công bố. Những cậu bé kẽm là lời bộc bạch của những người sống sót trở về từ chiến tranh Afghanistan và của thân nhân những người đã mất. Đó là những dòng hồi ức khốc liệt, đẫm máu, thống khổ và vĩnh viễn làm thương tổn không chỉ thân thể mà còn tinh thần con người. Nó phơi bày cái phi nghĩa, vô nhân của một cuộc chiến tranh vô vọng. Những “Afghan” – những người Nga tham gia chiến tranh ở Afghanistan 1979 – 1989, những người ra đi trên danh nghĩa làm “nghĩa vụ quốc tế” rồi rút về trong thất bại, không bao giờ được biết niềm tự hào của thế hệ cha ông trong cuộc chiến tranh Vệ Quốc vĩ đại. Người “may mắn” nằm lại trong những chiếc quan tài kẽm, số khác thân xác lang bạt nơi chiến trận. Kẻ sống sót trở về cũng không bao giờ có thể quay lại cuộc sống của một người bình thường bởi những sang chấn khủng khiếp mang tên hội chứng Afghanistan. Người ngoài cuộc nhìn nhận họ như những kẻ sát nhân, kẻ bại trận, còn chính họ cũng quên mất phải sống bình thường là thế nào! Hơn năm trăm cuộc phỏng vấn đã được Svetlana Alexievich thực hiện để tạo nên bức tranh toàn cảnh về những góc khuất của chiến tranh. Cũng chính những trang tư liệu về nỗi đau của những nỗi đau này, ngày 20 tháng 1 năm 1993, cuốn sách của Svetlana Alexievich bị đưa ra tòa xét xử bởi những người cung cấp tư liệu đâm đơn kiện với lý do phỉ báng danh dự và ngụy tạo lời kể. Phiên tòa kéo theo sự chú ý của chính quyền và công chúng tạo thành làn sóng dư luận ở cả hai phía, ủng hộ và chống đối Svetlana Alexievich. Ở những lần tái xuất bản sau, Svetlana Alexievich đã đồng ý thêm vào toàn bộ biên bản vụ kiện cùng những sự kiện có liên quan. Vậy, vì điều gì mà từ những dòng văn xuôi tư liệu về chiến tranh Afghanistan lại dẫn đến phiên tòa xử án văn chương? Có lẽ câu trả lời sẽ nằm trong suy nghĩ mỗi người khi bước vào thế giới của Những cậu bé kẽm. “Tôi tự hỏi Svetlana Alexievich có cần phải viết một cuốn sách về những điều kinh khủng của chiến tranh không? Có! Những bà mẹ có cần phải bảo vệ con trai mình không? Có! Và những “người Afghan” có cần phải bảo vệ đồng đội mình không? Lại một lần nữa - có! …Các đạo diễn và nhạc trưởng, các chính khách và nguyên soái, những kẻ tổ chức cuộc chiến tranh này, không có mặt trong phòng xử án. Ở đây chỉ toàn những phía bị hại: là tình yêu, không chấp nhận sự thật cay đắng về chiến tranh; là sự thật, cần phải được nói ra mặc cho tình yêu thế nào chăng nữa; là danh dự, không thể chấp nhận tình yêu lẫn sự thật...” Pavel Shetko Một “cựu Afghan” Tác giả Nhà văn Svetlana Alexievich tại Ukraine trong một gia đình công chức. Năm 2015, bà được trao giải Nobel Văn học. Theo Viện Hàn lâm Thụy Điển, giải thưởng này được trao cho bà để “tôn vinh những dòng văn phức điệu của bà. Văn của bà là tượng đài tri ân sự đau khổ và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta.” Sau khi tốt nghiệp khoa Báo chí Đại học Tổng hợp Quốc gia Belarus, bà làm việc cho tờ Báo nông nghiệp và tạp chí Neman ở Minsk. Trong suốt vài thập niên bà đã viết biên niên tư liệu – nghệ thuật Những giọng không tưởng – gồm năm quyển sách (Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ - 1983, Những nhân chứng cuối cùng - 1985, Những cậu bé kẽm - 1989, Lời nguyện cầu từ Chernobyl - 1997, Thời second-hand - 2013) và để những “con người nhỏ bé” đích thân kể về số phận của mình. Thực chất, đây là một thể loại đặc biệt, một loại tiểu thuyết chính trị đa giọng, trong đó những câu chuyện nhỏ bé hợp thành một lịch sử lớn. Các tác phẩm của Svetlana Alevievich đã được dịch ra hơn 35 thứ tiếng, là nền tảng cho hằng trăm bộ phim điện ảnh, kịch sân khấu và truyền thanh trên khắp thế giới, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. *** LỜI GIỚI THIỆU “Văn chương đang ngạt thở trong những biên giới của mình”. Với tâm tình đó, nữ nhà văn Svetlana Alexievich đã quyết định chọn hình thức “truyện vừa tư liệu” cho cuốn sách Những cậu bé kẽm, được in lần đầu tiên năm 1989. Hai mươi sáu năm sau, cuốn sách đã góp phần đưa bà đến giải Nobel văn học năm 2015, cùng với bốn quyển sách khác trong loạt sách Những giọng nói không tưởng: Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ (1983), Những nhân chứng cuối cùng (1985), Lời nguyện cầu từ Chernobyl (1997) và Thời second hand (2013). Nhưng cũng chính thể loại truyện vừa tư liệu của Những cậu bé kẽm đã khiến bà phải ra tòa (phần cuối quyển sách đã giới thiệu tiến trình tố tụng này). Phiên tòa mà, từ một phía bà bị cáo buộc là “xúc phạm danh dự và phẩm giá” của những người lính đã chết trong cuộc chiến tranh Afghanistan, của những người mẹ vẫn còn đang ngồi bên mộ chí con mình. Còn từ phía những người ủng hộ nữ nhà văn, đó là phiên tòa “xử án văn chương”, “xử án một quyển sách”, “xử án sự thật”. Cuộc tranh cãi đó, cuối cùng được cố gắng ngã ngũ ở việc thế nào là thể loại truyện vừa tư liệu; vẫn chưa giải đáp được câu hỏi “sự thật là sự thật nào”, khi chính nữ nhà văn cũng hoài nghi như Pilatus đặt câu hỏi về sự thật trong phiên tòa xử Chúa. Phiên tòa đã khép lại đầu những năm 1990. Nhưng cuộc tranh cãi về sự nghiệp của nữ nhà văn Belarus viết bằng tiếng Nga một lần nữa được nhắc lại nhân Nobel 2015. Nếu bà được ngợi khen trên báo chí phương Tây như một “bậc thầy xuất sắc trong lĩnh vực văn xuôi nghệ thuật tư liệu”(Frankfurter Allgemeine), thì nhà phê bình Nga Olga Tukhanitsa, lại nhận xét vào tháng 12-2015: “Một mặt, Alexievich khăng khăng biện hộ mình không phải là nhà văn nhưng lại chứng minh những gì bà đang làm trong thế giới hiện đại là văn học chân chính; mặt khác, bà - như một nữ sinh, đoàn viên Komsomol, cố nhồi vào thông điệp của mình tất cả những khuôn mẫu định kiến về nước Nga…” Dẫu sao, chúng ta sẽ không thể tranh luận với cả hai ý kiến trên nếu chưa đọc hết Những cậu bé kẽm. Bản dịch tiếng Việt dựa trên nguyên bản tiếng Nga đã được tác giả hiệu đính và NXB Vremya (Moskva) phát hành năm 2017. Trân trọng giới thiệu cùng độc giả, và thành thật cảm ơn bà Marina Vladimirovna Sharoiko (Giảng viên Bộ môn Lý luận Văn học Nga, Đại học Tổng hợp Kuban) và bà Irina Letiagina (cựu biên tập viên NXB Cầu vồng, và NXB Tiến bộ - Liên Xô cũ) đã giúp chúng tôi hoàn thành bản dịch này. Phan Xuân Loan 10-2017 *** LỜI MỞ ĐẦU Tôi đi một mình. Giờ đây tôi sẽ phải đi một mình. Nó giết người. Con trai tôi. Bằng cái rìu nhà bếp tôi dùng xẻ thịt. Nó quay về từ trận chiến và giờ thì giết người. Buổi sáng nó mang cái rìu đặt về chỗ cũ, trong tủ bếp, nơi tôi cất chén dĩa. Hình như ngày hôm đó tôi còn làm cho nó món sườn hầm. Một lúc sau ti vi và báo buổi chiều đưa tin các ngư dân vớt được một thi thể từ dưới hồ. Từng mảnh. Bạn tôi gọi điện: - Chị đọc báo chưa? Một vụ giết người chuyên nghiệp. Kiểu Afghanistan. Con trai tôi đang ở nhà, nằm đọc sách trên xô pha. Tôi không biết và cũng chẳng đoán ra gì, nhưng chẳng hiểu sao sau những lời ấy tôi lại nhìn nó. Trái tim người mẹ. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Không à? Còn tôi thì nghe đấy, vừa bắt đầu kể chuyện này là tôi đã nghe tiếng chó sủa. Lũ chó đang chạy. Ở đó, nơi con trai tôi đang ngồi tù có những con bẹc giê lớn. Và mọi người mặc toàn đen, rặt một màu đen. Tôi trở về Minsk, đi ngang qua cửa hàng bánh mì, qua vườn trẻ, tay cầm ổ bánh mì với sữa và nghe thấy tiếng sủa. Tiếng sủa chói tai. Nó làm tôi như đui mù. Có lần tôi suýt lọt vào gầm xe. Tôi sẵn sàng ở rịt bên mộ con mình, sẵn sàng nằm cạnh nó. Nhưng tôi không biết… không biết sẽ sống thế nào với chuyện này. Đôi khi tôi sợ xuống bếp, sợ nhìn thấy cái tủ bếp đó, nơi cất cái rìu. Cô không nghe thấy gì hết à? Không à? Giờ đây tôi không biết nó sẽ ra sao, con trai tôi. Tôi sẽ đón nó về thế nào sau mười lăm năm nữa. Nó bị tuyên mười lăm năm khổ sai. Tôi đã nuôi dạy nó thế nào? Nó mê khiêu vũ. Tôi và nó đã đến bảo tàng Hermitage ở Leningrad. Chúng tôi đã đọc sách cùng nhau. (Khóc.) Chính Afghanistan đã cướp mất con trai tôi. …Tôi nhận được điện tín từ Tashkent: “Hãy đón chuyến bay số…” Tôi lao ra ban công, gào to hết sức: - Còn sống! Con tôi còn sống! Cuộc chiến khủng khiếp này kết thúc với tôi rồi. Rồi tôi ngất đi. Dĩ nhiên chúng tôi đã ra sân bay trễ, chuyến bay đã hạ cánh từ lâu, tôi tìm thấy con trai mình trong vườn hoa. Nó nằm trên đất và níu lấy cọng cỏ, ngạc nhiên sao cỏ xanh đến thế. Nó không tin mình có thể trở về. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi tối những người láng giềng kéo sang nhà chúng tôi, họ có một cô con gái nhỏ, bé thắt một cái nơ xanh trên tóc. Nó đặt con bé ngồi lên gối, ôm vào lòng và khóc, nước mắt cứ thế lã chã tuôn rơi. Bởi ở đó chúng đã giết người, cả nó. Mãi sau này tôi mới hiểu ra. Ở biên giới, hải quan đã “tỉa” quần lót của nó. Hàng Mỹ. Không được phép. Vì thế nó về nhà mà không có đồ lót. Nó mang về cho tôi cái áo choàng, cái áo cũng bị tịch thu. Nó mang cho bà ngoại cái khăn trùm đầu, họ cũng lấy mất. Nó đành về với những bông hoa lay ơn. Nhưng gương mặt nó không có niềm vui. Buổi sáng thức dậy nó còn bình thường: “Mẹ ơi! Mẹ ơi!”. Đến chiều mặt nó tối dần, khóe mắt nặng trĩu. Tôi không thể tả nổi điều đó. Lúc đầu nó chẳng uống giọt nào. Nó ngồi quay vào tường rồi bật dậy khỏi xô pha, với lấy cái áo khoác. Tôi đứng ngay cửa: - Con đi đâu, Valyushka? Nó nhìn tôi như nhìn vào thinh không. Rồi bỏ đi. Tối muộn tôi đi làm về, nhà máy ở xa, lại làm ca hai, tôi gọi cửa nhưng nó không mở. Nó không nhận ra giọng tôi. Chuyện đó thật kỳ quặc, ừ thì giọng bạn bè có thể không nhận ra, nhưng đây là giọng mẹ nó! Hơn nữa, lại là “Valyushka” - chỉ có tôi mới gọi nó như thế. Dường như lúc nào nó cũng đang đợi ai đó, sợ sệt. Tôi mua cho nó cái sơ mi mới, ướm thử và thấy trên tay nó có những vết cắt. - Cái gì đây? - Chuyện nhỏ mà mẹ. Sau đó tôi mới biết. Sau phiên tòa. Trong thời gian huấn luyện nó đã cắt cổ tay. Trong một giờ diễn tập, nó là nhân viên điện đài, nhưng không kịp ném điện đài xách tay lên cây đúng lúc, không hoàn thành nhiệm vụ đúng thời gian quy định nên thượng sĩ phạt nó múc 50 thùng chất thải từ nhà vệ sinh diễu qua đội hình. Nó đã xách và ngất xỉu. Bệnh viện chẩn đoán: chấn động tâm thần nhẹ. Đêm đó nó đã cắt ven tay. Lần thứ hai là ở Afghanistan. Trước cuộc bố ráp, họ kiểm tra và điện đài không hoạt động. Thiếu một số phụ kiện khan hiếm khi đó. “Kẻ nào đã lấy trộm chúng. Ai?” Chỉ huy cáo buộc nó hèn nhát giấu các chi tiết đó đi để không phải hành quân cùng mọi người. Mà ở đó trộm cắp như rươi, thậm chí các bộ phận ô tô cũng bị tháo rời đem bán cho các dukan*. Để mua ma túy, thuốc lá, thức ăn. Họ lúc nào cũng đói. Trên truyền hình đang có chương trình về Edith Piaf*, chúng tôi luôn xem cùng nhau. - Mẹ, - nó hỏi, - mẹ có biết ma túy là gì không? - Không. - Tôi nói dối, còn chính mình bắt đầu dõi theo nó: nhỡ nó hút thì sao? Tôi không phát hiện ra dấu vết nào. Nhưng ở đó họ sử dụng ma túy - tôi biết điều này. - Ở Afghanistan thế nào hở con? - Có lần tôi hỏi. - Thôi mà mẹ! Khi nó đi khỏi nhà, tôi đọc lại hết những bức thư từ Afghanistan của nó, tôi muốn đào xới, tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với nó. Tôi không tìm thấy gì đặc biệt, nó viết buồn nhớ cỏ xanh, bảo bà ngoại chụp hình trên nền tuyết rồi gởi cho nó. Nhưng tôi đã nhận ra, cảm thấy đã có gì đó xảy ra với nó. Họ đã trả về cho tôi một con người khác. Đó không phải là con tôi. Mà chính tôi đã đưa con vào quân ngũ, nó vốn được hoãn nghĩa vụ. Tôi muốn nó thành người dũng cảm. Tôi thuyết phục con và chính mình rằng quân đội sẽ trui rèn nó tốt hơn, mạnh mẽ hơn. Tôi tiễn nó đi Afghanistan với tiếng ghi-ta cùng một bữa tiệc ngọt chia tay. Nó mời bạn bè và các cô gái… Tôi nhớ đã mua tới mười cái bánh kem. Chỉ có một lần nó nói về Afghanistan. Vào một buổi tối. Nó ghé vào bếp, lúc tôi đang làm thịt thỏ. Cái bát đầy máu. Nó nhúng các ngón tay vào máu rồi nhìn cái bát. Nhìn chằm chằm. Rồi nói với chính mình: - Họ chở cậu ấy về với cái bụng bị thủng. Cậu ấy đề nghị mình bắn. Và mình đã bắn. Những ngón tay đầy máu thỏ. Với những ngón tay dính máu đó nó vớ lấy điếu thuốc rồi bỏ ra ban công. Tối hôm đó nó không nói thêm với tôi một lời nào. Tôi tìm tới các bác sĩ. “Hãy trả lại con trai cho tôi! Xin cứu giúp!” Tôi kể lại tất cả… Họ kiểm tra nó, thăm khám, nhưng ngoài chứng đau thần kinh tọa, họ chẳng phát hiện gì. Một lần nọ về nhà, tôi thấy bốn cậu trai lạ ngồi sau bàn. - Mẹ, họ từ Afghanistan về. Con gặp họ ở nhà ga. Họ chẳng có chỗ nào để qua đêm cả. - Tôi sẽ nướng một cái bánh ngọt cho các cậu. Nhanh lắm. - Chẳng hiểu sao tôi lại mừng rỡ. Chúng sống ở nhà tôi một tuần lễ. Tôi không đếm, nhưng tôi nghĩ chúng uống cỡ bốn thùng vodka. Mỗi tối tôi lại gặp ở nhà năm người lạ, người thứ năm là con tôi. Tôi không muốn nghe những câu chuyện của chúng, tôi sợ lắm. Nhưng vì ở chung một nhà nên tôi tình cờ nghe thấy. Chúng kể suốt hai tuần mai phục, chúng được phát thuốc kích thích để bạo gan hơn. Nhưng tất cả những chuyện đó được giữ kín. Vũ khí nào giết người hiệu quả hơn. Từ khoảng cách nào… Sau này tôi mới nhớ lại những câu chuyện đó, khi sự việc đã xảy ra. Chỉ sau đó tôi mới nghĩ ra, hoảng hốt nhớ lại. Còn trước đó chỉ có nỗi sợ: “Ôi,” tôi nói thầm, “chúng điên làm sao. Tất cả đều dở người”. Ban đêm. Trước cái ngày nó giết người. Tôi nằm mơ thấy mình đang đợi con nhưng mãi vẫn không thấy nó. Thế rồi người ta đưa nó về. Bốn “người Afghan” đó đưa về. Và họ ném nó xuống sàn xi măng dơ dáy. Cô hiểu không, sàn xi măng trong gian bếp chúng tôi ấy…* Cái sàn như sàn nhà tù. Lúc đó nó đã vào học khoa dự bị trường Đại học Kỹ thuật Phát thanh. Nó viết tốt bài luận. Nó hạnh phúc và mọi việc đều ổn. Tôi đã nghĩ nó đang nguôi ngoai. Sẽ đi học. Rồi cưới vợ. Nhưng cứ tối đến, tôi sợ những buổi tối, nó ngồi và nhìn chằm chằm vào vách rồi thiếp ngủ trên ghế bành. Tôi muốn nhào tới, lấy thân mình che chở và không thả cho nó đi đâu nữa hết. Bây giờ tôi nằm mơ thấy nó còn nhỏ và đòi ăn. Lúc nào nó cũng đói. Nó chìa hai tay. Trong mơ lúc nào tôi cũng thấy nó nhỏ bé và bị hạ nhục. Còn trong đời thật? Mỗi tháng hai cuộc gặp. Bốn tiếng chuyện trò qua lớp kính. Mỗi năm hai lần thăm nuôi, đó là khi tôi được mang gì đó cho nó ăn. Và tiếng chó sủa. Tôi nằm mơ thấy tiếng chó sủa. Chúng đuổi theo tôi khắp chốn. Có một người đàn ông tán tỉnh tôi. Tặng cả hoa. Khi ông ta mang hoa tới, “Ông tránh xa khỏi tôi,” tôi bắt đầu hét, “tôi là mẹ của tên giết người”. Thời gian đầu tôi sợ gặp những người quen, tôi trốn trong nhà tắm và chờ những bức tường đổ sập xuống người. Tôi ngỡ như người ngoài đường đều nhận ra tôi, chỉ trỏ nhau xem rồi xầm xì: “Nhớ vụ ghê rợn đó không? Chính con trai bà ta giết người đấy. Chặt làm tư. Kiểu Afghanistan”. Tôi chỉ ra đường vào buổi tối, tìm hiểu hết những loài chim đêm. Tôi nhận biết chúng qua tiếng hót. Vụ án được điều tra. Vài tháng trôi qua. Nó im lặng. Tôi đến quân y viện Burdenko ở Moskva. Ở đó tôi tìm được vài cậu trai từng phục vụ trong đội đặc nhiệm như nó. Tôi bộc bạch cùng họ. - Các cháu này, vì cái gì mà con trai bác giết người? - Hẳn là có chuyện gì đó. Tôi phải thuyết phục mình rằng con tôi có thể đã làm điều đó. Giết người. Tôi gặng hỏi họ rất lâu để hiểu ra rằng: nó có thể! Tôi hỏi họ về cái chết. Không, không phải về cái chết, mà về việc giết chóc. Nhưng cuộc trò chuyện đó không gợi được ở họ những cảm xúc đặc biệt nào, những cảm xúc mà bất kỳ việc giết chóc nào cũng đều có thể gợi lên ở một con người bình thường chưa từng thấy máu. Họ nói về chiến tranh như nói về một công việc, một công việc cần phải giết người. Sau đó tôi đến gặp những cậu trai cũng từng ở Afghanistan, và khi Armenia động đất họ đã tới đó cùng những đội cứu hộ. Tôi muốn biết, tôi bị ám ảnh vì chuyện đó: họ có sợ không? Họ cảm giác thế nào khi chứng kiến cái chết? Không, họ chẳng thấy sợ gì cả, thậm chí lòng thương hại ở họ cũng đã cùn mằn. Những hộp sọ vỡ tung, bẹp dí, những khúc xương người… Nhiều trường học bị vùi trong lòng đất. Những lớp học. Bọn trẻ ngồi học và cứ thế mà đi vào lòng đất. Còn họ thì nhớ và kể lại những chuyện khác, nào là họ đã đào được những kho rượu vang béo bở ra sao, họ đã uống những loại vang nào, loại cô nhắc nào. Họ đùa cợt: phải chi có thêm động đất ở đâu đó. Nhưng phải ở chỗ nào ấm áp cơ, nơi nho có thể mọc và làm được vang ngon. Họ sao thế? Tâm lý họ có bình thường không vậy? “Con căm thù cái đứa bị giết đó.” Nó viết cho tôi như thế cách đây không lâu. Sau năm năm. Chuyện gì đã xảy ra ở đó? Nó câm nín. Tôi chỉ biết, cậu trai đó tên Yura, khoác lác rằng đã kiếm chác được nhiều chi phiếu ở Afghanistan. Nhưng sau đó hóa ra cậu ta phục vụ ở Ethiopia, là chuẩn úy. Cậu ta đã nói dối về Afghanistan. Tại phiên tòa, chỉ một mình luật sư biện hộ nói rằng chúng ta đang xử án một người bệnh. Trên ghế bị can không phải là tội nhân, mà là bệnh nhân. Anh ta cần được điều trị. Nhưng đó là bảy năm về trước, khi sự thật về Afghanistan chưa được hé lộ. Và chúng ta đã gọi tất cả là anh hùng. Những chiến sĩ làm nghĩa vụ quốc tế. Còn con trai tôi là kẻ giết người. Bởi nó làm cái việc mà họ từng làm ở đó. Vì việc đó mà họ được trao mề đay và huân chương. Nhưng tại sao họ lại buộc tội mình con tôi? Tại sao không buộc tội những kẻ đẩy nó vào nơi đó? Dạy nó giết người! Tôi đâu có dạy con mình việc đó. (Bùng nổ và gào thét.) Nó giết người bằng cái rìu bếp của tôi. Rồi buổi sáng nó mang đặt cái rìu lại vào tủ bếp. Như một cái muỗng hay một cái nĩa bình thường. Tôi ganh tị với những bà mẹ có con trở về cụt cả hai chân. Cứ để nó căm thù mẹ mình sau khi đã nốc say. Căm thù cả thế giới. Cứ để nó lao vào bà ta, như lao tới kẻ thù. Bà ta sẽ trả tiền cho gái mại dâm, để nó không phát rồ. Bản thân bà ta từng một lần trở thành tình nhân cho nó, bởi nó đã trườn ra ban công và muốn lao xuống từ tầng mười. Tôi chấp nhận tất cả. Tôi ganh tị với tất cả những bà mẹ, kể cả những ai có con đã nằm trong huyệt mộ. Tôi sẽ ngồi bên mộ chí của con và hạnh phúc. Tôi sẽ mang hoa tới. Cô có nghe tiếng chó sủa không? Nó đuổi theo tôi. Tôi nghe thấy chúng. Một bà mẹ Mời các bạn đón đọc Những Cậu Bé Kẽm - Viết (Hay Kể) Toàn Bộ Sự Thật Về Chính Mình Là Bất Khả của tác giả  Svetlana Alexievich & Phan Xuân Loan (dịch).
Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm
Giuyn Vecnơ và tác phẩm Misen Xtrôgôp Giuyn Vecnơ (1828- 1905), nhà văn Pháp nổi tiếng được coi như bậc thầy về sáng tác truyện phiêu lưu mạo hiểm và khoa học viễn tưởng. Ngay từ những tác phẩm đầu tay của mình, ông đã giành được cảm tình của đông đảo bạn đọc Pháp và các nước khác trên thế giới. Sách của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được in đi in lại nhiều lần với hàng triệu bản phát hành khắp nơi trên thế giới. Có thể nói những tác phẩm của Giuyn Vécnơ không những được giới trẻ, mà cả những bạn đọc nhiều lứa tuổi khác nhau ưa thích. Hơn bốn chục năm (từ 1862 đến đầu 1905) Giuyn Vecnơ đã viết được 63 tiểu thuyết và 2 tuyển tập truyện vừa và truyện ngắn được in thành 97 quyển sách với tham vọng là đề cập đến toàn bộ hành tinh chúng ta, từ thiên nhiên ở các vùng khí hậu khác nhau đến thế giới động vật, thực vật, phong tục tập quán cho đến sinh hoạt muôn màu muôn vẻ của các dân tộc trên thế giới. Những tác phẩm của Giuyn Vecnơ không những thể hiện tài nghệ tuyệt vời của một nhà văn có lối viết rất hấp dẫn, sâu sắc, miêu tả những con người và sự vật hết sức tinh tế, mà còn thể hiện kiến thức uyên bác, tư tưởng tiến bộ và trí tưởng tượng phong phú của một nhà khoa học. Ông vừa là người khởi xướng loại truyện khoa học viễn tưởng mà đến nay nhiều tiên đoán khoa học của ông đã trở thành hiện thực, vừa là nhà văn nổi tiếng về những tiểu thuyết phiêu lưu, mạo hiểm làm cho người đọc rất thích thú và qua đó, những độc giả trẻ nâng cao được trình độ hiểu biết và trau dồi được phẩm chất đạo đức của mình. Giuyn Vecnơ là con một luật sư ở thành phố Năngtơ. Ngay từ khi còn ở tuổi thanh niên, sau khi tốt nghiệp trung học, Giuyn Vecnơ đã theo học trường Luật ở Pari, nhưng vẫn có xu hướng say mê văn thơ, âm nhạc và sân khấu. Khi đã tốt nghiệp và hành nghề luật sư, ông bắt đầu đi vào con đường sáng tác văn học, đồng thời tìm hiểu về khoa học tự nhiên, thường xuyên đến đọc sách ở Thư viện Quốc gia, đi nghe các buổi thuyết trình về địa lý, thiên văn, hàng hải, lịch sử và các phát minh về khoa học, kỹ thuật. Nhờ đó, sau này những kiến thức mà ông tiếp thu được đã thành cơ sở cho những sáng tác kiệt xuất của ông. Những tác phẩm đầu tiên của ông như “Năm tuần lễ trên khinh khí cầu (1862), “Cuộc thám hiểm trong lòng đất” (1864), “Những cuộc du hành của thuyền trưởng Hatơraao” (1864 - 1865), “Những đứa con của thuyền trưởng Grant” (1865 - 1866) v.v... đều lập tức có tiếng vang lớn trong giới độc giả thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Misen Xtrôgôp là một trong những cuốn tiểu thuyết phiêu lưu được đánh giá vào loại xuất sắc nhất, vừa có tính giáo dục cao, vừa có tính giải trí lành mạnh với những tình tiết éo le phức tạp, những pha hết sức hồi hộp và bất ngờ, khiến người đọc cảm thấy bị lôi cuốn, say mê, hấp dẫn không sao cưỡng nổi và muốn đọc một mạch suốt 32 chương với gần 500 trang sách. Điều đáng khâm phục là Giuyn Vecnơ miêu tả đất nước và con người Nga chính xác và chân thật tới mức như tác giả là một người Nga, hay ít nhất là đã sinh sống trên đất nước Nga nhiều năm rồi, để có một sự hiểu biết tường tận đến như vậy về địa lý, lịch sử cũng như phong tục tập quán và tính cách con người Nga trong giai đoạn lịch sử đó. Nhân vật chính của tiểu thuyết là Misen Xtrôgôp, con trai một người thợ săn ở Xibir. Anh được rèn luyện từ nhỏ, nên trở thành một thanh niên, cường tráng, dũng cảm và mưu trí. Năm hai mươi tuổi, anh được tuyển vào đội quân liên lạc đặc biệt của Nga hoàng làm một người lính và sau đó trở thành đại úy của đội quân ưu tú này. Thời gian đó bọn giặc Tactar đang nổi lên xâm chiếm vùng Xibir, phần châu Á của nước Nga. Hàng chục vạn quân đủ mọi chủng tộc từ những người Kiêcghidi, Mông Cổ, Apganixtang, Udơbêch, Thổ, Ba Tư, Do Thái... dưới cái tên chung là quân Tactar tràn vào xâm chiếm vùng phía Đông xứ Xibir mênh mông, gây biết bao đau thương, tang tóc cho nhân dân vùng này. Cấu kết chặt chẽ với chúng có tên phản bội cực kỳ nham hiểm và xảo quyệt, Ivan Ôgarep, đại tá trong quân đội Nga hoàng. Bất mãn vì bị đại công tước, em trai của Nga hoàng giáng chức về tội vô tổ chức, tên này đã xúi giục một số tù trưởng bộ lạc ở những vùng biên cương xa xôi nổi lên chống Nga hoàng, âm mưu xâm chiếm vùng Đông Xibir, dùng thủ đoạn gián điệp và nhiều mánh khóe xảo trá khác để bắt sống đại công tước hòng trả thù riêng. Nga hoàng nắm được ý đồ nguy hiểm của tên phản bội này đã phái Misen Xtrôgôp đem mật thư của nhà vua trao tới tận tay đại công tước - lúc này đang ở Irkuxk - để phá vỡ âm mưu đó. Suốt chặng đường dài gần sáu ngàn dặm, từ Maxcơva đến Irkuxk, Misen Xtrôgốp đã trải qua bao gian khổ khó khăn do kẻ thù và thiên nhiên khắc nghiệt gây ra tưởng chừng như khó có thể vượt qua được. Nhưng đói khát, mệt nhọc, băng tuyết, bão táp không làm anh nao núng. Mấy lần sa vào tay giặc, anh đều tìm cách trốn thoát kể cả lần giặc đã đốt mù cả hai mắt anh. Giặc bắt mẹ anh để hành hạ và uy hiếp cũng không khuất phục được anh. Ý chí gang thép của anh đã làm cho bọn giặc man rợ cũng phải sợ hãi và khâm phục. Cuối cùng, nhờ trí thông minh, lòng dũng cảm, thái độ bình tĩnh, mưu trí và nhất là tấm lòng trung thành tận tụy với đất nước, Misen Xtrôgôp đã làm tròn sứ mệnh. Quân phiến loạn bị đánh tan, tên phản bội Ivan Ôgarep bị tiêu diệt, nhân dân Xibir được giải thoát khói ách nô dịch của quân Tactar. Truyện còn được lồng vào một mối tình trong sáng và thanh cao giữa Misen Xtrôgôp và Nađia, cô gái Latvi cũng xông pha ngàn dặm, chia sẻ vói chàng trai dũng cảm bao gian nan khổ ải để tìm cha trong miền Xibir mênh mông tuyết trắng. Khi đã hoàn thành sứ mệnh, trước mặt cha cô, Misen Xtrôgôp nói với người bạn gái: - Nađia!... khi rời Riga để tới Irkuxk, em có còn để lại sau em niềm thương nhớ nào khác ngoài lòng thương nhớ người mẹ đã khuất của em không? - Không, anh ạ, - Nađie đáp, - không còn một niềm thương nhớ nào khác cả. - Nếu vậy thì, Nadia! - Misen Xtrôgôp run giọng nói tiếp. - Anh không tin rằng Thượng đế đã run rủi cho chúng ta gặp nhau, đã bắt chúng ta cùng trải qua bao gian truân thử thách, lẽ nào lại không muốn cho chúng ta được mãi mãi bên nhau? - Ôi, anh! - Nađia thốt kêu lên và sà vào hai cánh tay dang rộng của Misen Xtrôgôp. Và quay lại phía Vaxili Fêđor, mặt đỏ bừng, cô kêu lên: “Cha ơi!”. Người dịch VŨ LIÊM *** - Tâu bệ hạ, một công điện mới. - Từ đâu đến? - Từ Tômxk. - Đường dây đã bị cắt từ thành phố đó phải không? - Bị cắt từ hôm qua, muôn tâu. - Tướng quân hãy từng giờ đánh điện tới Tômxk và yêu cầu cho ta biết tin tức nhé! - Xin tuân lệnh bệ hạ - Tướng Kixôp đáp. Những lời trao đổi trên đây xảy ra vào hồi hai giờ sáng, giữa lúc đêm hội ở Tân Cung đang diễn ra huy hoàng náo nhiệt nhất. Trong đêm đó, ban nhạc của các trung đoàn Prêobragienxky và Paulôpxki không ngừng chơi những điệu vũ nhạc được chọn trong những điệu hay nhất như Pônka, Mazurka và những điệu Vansơ. Những cặp nam nữ nối tiếp nhau nhảy không dứt qua những phòng khách lộng lẫy của lâu đài được xây dựng cách “tòa nhà đá cũ” có mấy bước, nơi xưa kia đã từng xảy ra bao thảm kịch rùng rợn - Và... đêm nay, tiếng vang xưa trỗi dậy, dội vào trong các điệu đối vũ. Ngài đại thống chế của triều đình cũng được hỗ trợ đắc lực trong công việc tế nhị của mình. Các công tước cùng những sĩ quan hộ vệ của các vị đại thần trực ban, các sĩ quan trong hoàng cung cũng tự mình tham gia, đôn đốc việc tổ chức vũ hội. Các công tước phu nhân, ngọc quý đầy người, các bà thị nữ với xiêm áo ngày hội mạnh dạn làm gương cho các bà vợ sĩ quan và viên chức cao cấp của “Kinh thành đá trắng” cổ kính. Vì vậy, khi tín hiệu của điệu nhạc “Pôlône” vừa nổi lên, thì tất cả quan khách, không phân cấp bậc, đều tham gia vào cuộc diễu hành nhịp nhàng đó. Trong khung cảnh trang trọng như đêm nay, thì vũ hội này mang một tầm cỡ quốc gia. Những chiếc áo dài có đính nhiều tầng đăng ten xen lẫn với những bộ quân phục lấp lánh huân chương dưới ánh sáng của hàng trăm bộ đèn chùm, được những tấm gương soi phản chiếu làm sáng rực lên gấp mười lần, trông thật ngoạn mục, chói ngời, lóa mắt. Đại sảnh đường đẹp nhất trong tất cả các phòng khách ở Tân Cung thật xứng đáng làm khung cho sự lộng lẫy huy hoàng của những vị tai to mặt lớn cùng những bà mệnh phụ trang điểm cực kỳ diễm lệ. Vòm nhà thếp vàng tuy đã phai mờ đôi chút vì đã bị phủ một lớp gỉ của thời gian vẫn ánh lên những điểm sáng như những vì sao lấp lánh. Những tấm vóc làm màn che gió và màn treo ở cửa với những nếp gấp tuyệt mỹ ửng hồng lên một màu sắc nồng thắm, tương phản mạnh mẽ với những góc cạnh của tấm màn nặng trĩu. Nhìn qua những tấm kính các cửa sổ rộng lớn, hình bán nguyệt, người ta thấy ánh sáng tràn ngập các phòng, nhưng được một làn hơi nước nhẹ nhàng tỏa ra làm dịu bớt đi, đứng bên ngoài trông như phản quang của một đám cháy nổi bật lên trong đêm tối mà trong khoảng một vài tiếng đồng hồ bao trùm toà lâu đài rực sáng này. Bởi vậy, sự tương phản đó làm cho những tân khách không tham gia khiêu vũ cũng phải chú ý. Khi họ dừng lại bên những khung cửa sổ, họ có thể nhìn thấy một vài tháp chuông với những cái bóng khổng lồ hiện lên đó đây trong đêm, mờ mờ ảo ảo. Bên dưới những bao lơn chạm trổ, họ nhìn thấy những lính canh đi lại, súng vác vai, đầu đội mũ chỏm nhọn có giắt một chòm lông chim, trông như ngọn lửa, dưới ánh sáng của những pháo hoa bắn lên từ bên ngoài. Họ cũng nghe thấy bước chân của những đội tuần tra gõ nhịp nhàng trên mặt đá lát đường, có lẽ còn nhịp nhàng hơn cả những bước chân đang khiêu vũ trên sàn nhà các phòng khách. Thỉnh thoảng có tiếng hô của lính gác lặp đi lặp lại từ trạm này qua trạm khác và đôi lúc một tiếng kèn đồng, xen vào hợp âm của dàn nhạc, cất lên những nốt lánh lót giữa sự hài hòa chung. Dưới thấp hơn, trước tòa nhà, những khối đen sẫm nổi lên rõ nét dưới những luồng ánh sáng hình nón hắt ra từ các cửa sổ của Tân Cung. Đó là những con tàu xuôi dòng sông mà mặt nước lấp lánh dưới ánh sáng chập chờn của những ngọn đèn hiệu mấp mé ở các bậc thềm đầu tiên. Nhân vật chính của buổi khiêu vũ; người ra lệnh tổ chức đêm hội này; người mà tướng Kixốp tôn trọng như đối với các đấng quân vương, chỉ vận sơ sài một bộ quân phục sĩ quan khinh binh cận vệ. Đó chẳng phải là một sự trá hình, mà là thói quen của một người không thích sự diêm dúa bên ngoài. Cách ăn mặc của ông ta tương phản với những trang phục lộng lẫy của đám người nhộn nhịp xung quanh và chính vì thế mà nổi bật giữa đám tùy tùng của ông gồm những người Grudia, những người Cô-dắc, những người Lesghi, những kỵ binh với những bộ quân phục rực rỡ vùng Capcadơ. Nhân vật này, thân hình cao lớn, thái độ hòa nhã, nét mặt bình thản, nhưng vầng trán nhuốm vẻ suy tư, đi từ đám đông này tới đám đông khác, ít nói, thậm chí chỉ lơ đãng nghe, hoặc những câu tào lao vui nhộn của đám tân khách trẻ tuổi, hoặc những lời lẽ nghiêm chỉnh hơn của những viên chức cao cấp hay của những thành viên trong các đoàn ngoại giao, đại diện cho các quốc gia chủ yếu của châu Âu bên cạnh ông ta. Hai hoặc ba trong số những nhà chính khách mẫn tiệp đó - có tài về xem tướng mặt - hình như nhận thấy trên sắc diện của chủ nhân có vài biểu hiện lo lắng băn khoăn gì đó mà họ không rõ nguyên nhân, nhưng không một ai dám tự cho phép mình được hỏi han ông ta về vấn đề đó. Dù sao thì ý đồ của người sĩ quan đội khinh binh cận vệ, không còn nghi ngờ gì nữa, là làm sao để những mối lo âu thầm kín của mình không được gây bất kỳ một trở ngại nào cho đêm hội này - Và vì ông ta là một trong những đấng quân vương hiếm có mà tất cả mọi người đều đã quen phục tùng, ngay cả trong ý nghĩ, nên những niềm hoan lạc của đêm vũ hội không một lúc nào bị giảm sút. Trong khi đó, tướng Kixôp vẫn chờ người sĩ quan mà ông vừa chuyển bức điện từ Tômxk đánh về ra lệnh để rút lui, nhưng người sĩ quan vẫn cứ im lặng, Ông ta cầm đọc bức điện, vầng trán càng sa sầm. Tay ông như vô tình đặt vào chuôi kiếm, rồi đưa lên che mắt một lát khiến mọi người tưởng như ánh sáng làm ông bị chói và ông cần có bóng tối để tự nhìn mình rõ hơn. - Như vậy là, - ông nói và kéo tướng Kixôp tới gần một khung cửa sổ - từ hôm qua chúng ta không còn liên lạc được với đại công tước, em trai ta ư? - Không còn liên lạc được nữa, muôn tâu. Và thần e rằng chẳng bao lâu, những công điện không thể vượt qua được biên giới Xibir. - Nhưng quân đội các tỉnh Amua và Irkuxk cũng như quân đội tỉnh Tranxbaikali đã được lệnh hành quân cấp tốc đến Irkuxk rồi kia mà? - Lệnh đó đã được phát đi bằng bức điện cuối cùng mà chúng ta có thể chuyển tới bên kia hồ Baikan. - Chúng ta vẫn còn liên lạc trực tiếp được với chính quyền các tỉnh Yênixêixk, Ômxk, Xêmipalatinxko và Tôbônxk từ đầu cuộc xâm lăng của địch chứ? - Tâu hoàng thượng, vẫn còn liên lạc được và thần chắc rằng cho đến giờ phút này, bọn Tactar chưa vượt qua được sông Irtys và sông Ôbi. - Còn về tên phản tặc Ivan Ôgarep, chúng ta có tin tức gì không? - Không có tin gì cả, - tướng Kixôp thưa. - Cảnh sát trưởng cũng không biết được chắc chắn là hắn đã vượt qua biên giới chưa. - Đặc điểm nhận dạng của hắn phải được gửi ngay tới Nigiơni - Nôpgôrôd, Pecmơ, Ekatêrinbua, Kaximôp, Tiumen, Ichim Ômxk, Elamxk, Kôlyvan, Tômxk và tới tất cả các trạm bưu điện mà đường dây còn liên lạc được! - Lệnh của hoàng thượng sẽ được thi hành ngay tức khắc, - Tướng Kixôp đáp. - Tất cả công việc này cần phải tiến hành thật lặng lẽ đấy nhé! Bằng một dấu hiệu tỏ vẻ trân trọng phục tùng, sau khi khẽ cúi đầu, tướng Kixôp đi lẫn vào đám đông và rời khỏi các phòng khách. Không ai để ý đến sự ra đi của ông. Người sĩ quan đứng thẫn thờ một lúc và khi trở lại nhập vào các nhóm quân nhân, các nhà chính khách đã được hình thành ở nhiều điểm trong các phòng, thì vẻ mặt ông, trước đó đã có lúc bối rối, bỗng trở lại bình thản như cũ. Tuy vậy, sự kiện nghiêm trọng khiến có cuộc trao đổi ý kiến chớp nhoáng trên đây không phải là không ai biết như viên sĩ quan khinh binh cận vệ và tướng Kixôp tưởng. Điều đó, người ta không nói ra một cách chính thức, đúng thế, cũng như bán chính thức, bởi vì không có “lệnh’’ được công khai nói. Nhưng một vài nhân vật cao cấp cũng đã được thông báo tương đối chính xác về tình hình xảy ra ở phía bên kia biên giới. Dù sao họ cũng chỉ mới nắm được láng máng về những điều mà ngay cả những thành viên trong đoàn ngoại giao cũng không nói với nhau, thế mà có hai vị khách không mặc quân phục, cũng không mang huân chương trong buổi chiêu đãi ở Tân Cung, lại thì thầm trao đổi với nhau có vẻ như đã nhận được những tin tức khá chính xác. Làm thế nào, bằng con đường nào, nhờ có sự bặt thiệp như thế nào mà hai con người bình thường này lại biết cái mà những người khác vốn là những yếu nhân, cũng chỉ vừa mới ngờ tới? Người ta khó có thể tin như vậy. Hay là họ được trời phú cho cái tài tiên giác tiên tri? Hay là họ có một giác quan phụ cho phép nhìn thấy được tận bên kia chân trời của biên giới mà những con mắt người thường không thấy được chăng? Hoặc là họ có khiếu linh mẫn đặc biệt để khám phá ra những gì bí mật nhất. Hoặc là nhờ thói quen “sống cho tin tức và vì tin tức” ở họ đã trở thành bản chất thứ hai khiến tập tính của họ thay đổi chăng? Chúng ta hãy thử chấp nhận điều đó. Trong hai người này thì một là người Anh, còn người kia là công dân Pháp. Cả hai đều cao, gầy. Một người da nâu nâu như dân miền Nam xứ Prôvăngxơ, một người da hung hung đỏ như một nhà quý tộc xứ Lancasir. Anh chàng người Anh thì kiểu cách, lạnh lùng, phớt đời, tiết kiệm cả cử chỉ và lời nói, hình như chỉ nói năng và cử động khi thật cần thiết. Ngược lại anh chàng người Pháp thì linh hoạt, hăng hái, diễn tả cùng một lúc cả bằng môi, bằng mắt, bằng tay... ý nghĩ của mình với hàng chục cách khác nhau, trong khi người đối thoại với anh ta hình như chỉ có một cách duy nhất không thay đổi và như cố định trong đầu là chăm chú nghe và nhìn. Những nét khác biệt bên ngoài này dễ dàng làm cho bất cứ ai, dù có cặp mắt quan sát kém nhất cũng phải chú ý; nhưng một người giỏi xét đoán vẻ mặt, khi nhìn gần hai người ngoại quốc này sẽ xác định dứt khoát là sự trái ngược trong hành động bề ngoài của họ nói lên rằng người Pháp rất “tinh mắt”, còn người Anh rất “thính tai”. Thật vậy, cặp mắt - bộ máy quang học - của người này thường xuyên được sử dụng, nên đạt tới mức hoàn thiện lạ lùng. Võng mạc mắt ánh ta có độ nhạy tức thời như võng mạc những nhà ảo thuật chỉ qua động tác trang bài thật nhanh cũng nhận ra ngay được con bài nào, hay đơn thuần chỉ bằng sự sắp xếp một con bài mà người khác không tài nào nhận ra. Vậy là người Pháp này có một năng khiếu tuyệt vời mà người ta gọi là “trí nhớ bằng mắt”. Người Anh, ngược lại, hình như đặc biệt sinh ra để nghe và hiểu. Khi bộ máy thính giác tiếp nhận tiếng của một giọng nói, anh ta sẽ không thể nào quên được và mười năm, hai mươi năm sau, anh ta vẫn có thể nhận ra giọng nói đó trong hàng nghìn giọng nói khác. Đôi tai anh ta tất nhiên không có khả năng cử động như tai các loài vật có những loa tai to; nhưng các nhà sinh vật học nhận xét là tai người chỉ “gần như” bất động nên ta có quyển khẳng định rằng tai của người Anh trên đây vểnh lên, cụp xuống, nghiêng nghé... để tìm cách thu nhận cả những âm thanh chỉ mới vừa thoáng vẳng đến. Phải công nhận là năng khiếu về nghe và nhìn của hai nhân vật nói trên đã phục vụ tuyệt diệu cho nghề nghiệp của họ, vì anh chàng người Anh là phóng viên của tờ “Tin điện hàng ngày” và anh chàng người Pháp là phóng viên của tờ báo nào hoặc của những tờ báo nào thì anh ta không nói và khi có người hỏi, anh lại bông đùa trả lời là anh cung cấp tin tức cho “cô em họ Mađơlen” của anh. Thật ra anh chàng người Pháp tuy bề ngoài có vẻ nông nổi, nhưng lại rất mẫn tiệp và sắc sảo. Anh thường hay nói năng lung tung - có lẽ là để che giấu ý muốn tìm hiểu sự thực - nhưng không bao giờ chịu bộc lộ ý đồ chính của mình. Chính sự ba hoa đó đã giúp anh kín tiếng. Có thể nói là anh ta chín chắn và kín cạnh hơn bạn đồng nghiệp ở báo “Tin điện hàng ngày”. Với tư cách nhà báo, hai người tham dự đêm hội tổ chức tại Tân Cung tối 15 rạng 16 tháng Bảy là cốt để đưa tin sốt dẻo phục vụ thật hữu hiệu cho độc giả của họ. Không cần nói là cả hai anh chàng đều hăng say với sứ mệnh của mình ở trên đời này. Họ thích lao vào việc đi săn những tin tức bất ngờ nhất. Không gì làm cho họ sợ hãi cũng như làm họ chán nản trong khi đi tìm thắng lợi. Họ có thái độ bình tĩnh, không bao giờ nao núng. Chính đó là lòng dũng cảm thực sự của những người yêu nghề. Là những tay đua ngựa vượt rào nhà nghề trong cuộc săn tin này, họ vọt qua rào, vượt qua sông, nhảy qua bờ đất với nhiệt tình vô song của những con ngựa nòi muốn chạy tới đích “hoặc đoạt giải nhất hoặc là chết!”. Hơn nữa, những tờ báo của họ không bao giờ tiếc tiền đối với họ - đó là nhân tố thông tin mạnh nhất, nhanh nhất, hoàn hảo nhất mà người ta biết được cho đến nay. Cần phải nói thêm, và đây là một vinh dự đối với họ, là cả hai đều không bao giờ tò mò nhìn và nghe những gì thuộc về đời tư và họ chỉ hành động khi nào có dính líu đến quyền lợi chính trị và xã hội của họ. Tóm lại, họ làm như người ta thường nói trong khoảng vài ba năm nay, “thiên phóng sự lớn về chính trị và quân sự”. Nhưng, nếu theo sát họ, người ta sẽ thấy thường thường họ có một cách nhận định sự việc thật kỳ quặc, nhất là nhận định về những hậu quả của những sự việc đó, bởi lẽ mỗi người đều có “cách riêng của mình” để xem xét và đánh giá. Và cuối cùng thì không ai đang tâm trách cứ họ, vì họ làm việc thật nghiêm túc, hết mình bất cứ trong trường hợp nào. Mời các bạn đón đọc Tình Yêu Qua Sáu Nghìn Dặm của tác giả Jules Verne.
Ông Ibrahim Và Những Đóa Hoa Coran
Một con phố nhỏ có tên là Màu xanh nhưng lại không xanh, giữa Paris vào những năm 1960. Bị mẹ bỏ rơi từ khi mới ra đời, Moïse, một thiếu niên Do Thái mười một tuổi chật vật xoay xở với cuộc sống thiếu thốn tình yêu bên ông bố khắc nghiệt. Những vật lộn trong đời đã đưa cậu đến với ông Ibrahim, chủ cửa hàng tạp hóa, một tín đồ Hồi giáo mật tông. Để rồinhững bông hoa trong cuốn kinh Coran của ông Ibrahim nở rộ trong tâm hồn cậu và lan tỏa đến mọi người. Không chỉ thể hiện một góc nhìn giản dị và hồn hậu về ý nghĩa của tôn giáo, cuốn sách còn chứa đựng nhiều suy ngẫm về tình bạn, về lòng bao dung, về nghị lực sống của con người trước những thử thách của cuộc đời. “Một câu chuyện giản dị nhưng đầy tính nhân văn [...] Ta cười, ta khóc, thật diệu kỳ!” - Paris-Match *** Một con phố nhỏ có tên là Màu Xanh nhưng lại không xanh, giữa Paris vào những năm 1960. Bị mẹ bỏ rơi từ khi mới ra đời, Moïse, một thiếu niên Do Thái mười một tuổi chật vật xoay sở với cuộc sống thiếu thốn tình yêu bên ông bố khắc nghiệt. Những vật lộn trong đời đã đưa cậu đến với ông Ibrahim, chủ của hàng tạp hoá, một tín đồ Hồi giáo mật tông. Để rồi những bông hoa trong cuốn kinh Coran của ông Ibrahim nở rộ trong tâm hồn cậu và lan toả đến mọi người. Không chỉ thể hiện một góc nhìn giản dị và hồn hậu về ý nghĩa của tôn giáo, cuốn sách còn chứa đựng nhiều suy ngẫm về tình bạn, về lòng bao dung, về nghị lực sống của con người trước những thử thách của cuộc đời. *** ÉRIC-EMMANUEL SCHMITT sinh năm 1960 tại Lyon (Pháp). Ông viết cuốn sách đầu tiên vào năm 11 tuổi, và vở kịch đầu tiên vào năm 16 tuổi. Ông đã học Đại học Sư phạm phố Ulm, bảo vệ luận án tiến sĩ triết học năm 1986, sau đó làm giảng viên triết học. Éric-Emmanuel Schmitt đã xuất bản hàng chục tác phẩm được đánh giá cao. Các tác phẩm khác của Éric-Emmanuel Schmitt do Nhã Nam xuất bản: Nửa Kia của Hitler Chàng Sumô Không Thể Béo Một Ngày Mưa Đẹp Trời Oscar Và Bà Áo Hồng Một mối tình ở điện Élysée Con Của Noé *** Với giá trị nhân văn, cuốn “Ông Ibrahim và những đóa hoa Coran” của tác giả Eric Emmanuel Schmitt mang đến thông điệp: Nếu các tôn giáo đều ứng xử với nhau bằng tình bác ái thì thế kỷ 21 sẽ chẳng biết đến chiến tranh. Cuốn sách được thực hiện bởi dịch giả - Th.S Nguyễn Đình Thành. Nên nhìn sự sống và cái chết như thế nào? Yêu thương, sự tôn trọng, thù hận, cô đơn, chủng tộc, màu da, đức tin, trẻ em, người già, xã hội, tệ nạn... người ta đã đang và sẽ nhìn nhận những cảm xúc và thực tại đó như thế nào? Eric Emmanuel Schmitt chọn đi vào con đường đầy gai góc ấy bằng tâm thức như của một đứa trẻ. Qua mỗi tác phẩm của mình, ông dành tặng độc giả một món quà tư duy, nhẹ nhàng về hình thức mà ý nghĩa lại nặng sâu. Cuốn sách “Ông Ibrahim và những đóa hoa Coran” của tác giả Eric Emmanuel Schmitt xuất bản tại Pháp vào năm 2001 và được tác giả Nguyễn Đình Thành dịch sang tiếng Việt. “Mười một tuổi, tôi đập vỡ lợn tiết kiệm và đi chơi gái. Con lợn của tôi bằng sứ tráng, màu bãi nôn, có một cái rãnh để tiền xu có thể chui vào nhưng không thể ra. Bố tôi đã chọn nó cho tôi, cái ống tiết kiệm một chiều này bởi nó giống với quan niệm sống của ông: tiền không phải để tiêu mà để tiết kiệm”, Eric Emmanuel Schmitt đã bắt đầu cuốn thứ hai trong bộ truyện của mình bằng những câu văn đầy khiêu khích như vậy. Moise là một cậu bé người Do thái 11 tuổi sống trong một khu phố tồi tàn tại Paris. Người cha là luật sư nhưng không có mấy việc để làm, bỏ bê cậu và thường xuyên hạ thấp cậu khi so sánh với một người anh mà ông bịa ra. Càng ngày cậu càng gần gũi ông Ibrahim - người bán rau quả, đồ ăn cùng phố cậu, một người Hồi giáo mà ai cũng tưởng là Ả rập. Ibrahim dạy cậu bé những điều tốt đẹp trong kinh Coran, nhưng cũng chỉ cho cậu những mẹo vặt để xoay thêm tiền của bố. Một ngày, bố cậu bé bỏ đi. Moise tự xoay xở và giấu không cho ai biết điều đó. Cảnh sát đến thông báo rằng bố cậu đã tự tử bằng cách đâm vào đường tàu. Ibrahim nhận cậu bé làm con nuôi. Từ đó, cậu bé người Do thái được ông bố nuôi theo đạo Hồi giải thích những bí ẩn của tôn giáo. Cậu theo chân ông trong chuyến hành hương về Istanbul, đến thăm những nhà thờ lớn của Công giáo, Chính thống giáo và Hồi giáo. Ông già chết đi để lại cho cậu bé cửa hàng mà cậu bé quản lý đến già. Chỉ với 84 trang sách, Eric Emmanuel Schmitt đã đưa ra những luận điểm lớn về ba tôn giáo. Những khái niệm thế nào là người Do thái, người Ả rập và thế nào là tôn giáo đều được ông Ibrahim giải thích. Giọng văn tuy nhẹ nhàng nhưng các vấn đề được đề cập lại không hề nhỏ: gia đình tan vỡ, nạn diệt chủng, trẻ em và tình dục, tự tử, kì thị chủng tộc... Những bài học làm người và sự bác ái: hiểu tất cả tức là tha thứ cho tất cả, muốn học một điều gì đó, người ta không đọc sách mà phải trao đổi với người khác, ta không tin vào sách vở. Cuốn sách cũng giúp người đọc khám phá một dòng Hồi giáo ít người biết đến. Khác với hai dòng chính thống: Chiite, Sunnite, dòng Soufi nhấn mạnh rằng sự giác ngộ phải đến từ việc tự soi xét mình chứ không phải chỉ viện dẫn kinh Coran là đủ. Ông Ibrahim cho người ta thấy đạo Hồi không hề là một tôn giáo hung hãn, hiếu chiến. Nếu các tôn giáo đều ứng xử với nhau bằng tình bác ái thì thế kỷ 21 - thế kỷ của chiến tranh tôn giáo theo luận thuyết của Huntington - sẽ chẳng biết đến chiến tranh. Với giá trị nhân văn và giáo dục cao, giọng văn hài hước và tự nhiên như trẻ nhỏ, không ngạc nhiên khi bộ phim cùng tên đã đạt được giải thưởng cao nhất của điện ảnh Pháp - giải César cho diễn viên đóng vai Ibrahim năm 2003. Năm 2004, cuốn truyện được in bản đặc biệt dành cho học sinh trung học tại Pháp. PV Review Mời các bạn đón đọc Ông Ibrahim Và Những Đóa Hoa Coran của tác giả Éric - Emmanuel Schmitt.
Bóng tối và Ánh sao
Samuel Gerard là một bậc thầy võ thuật, một quý ông điển trai, giàu có, quyền lực, nhưng phía sau lớp vỏ bọc mạnh mẽ, đó vẫn là một cậu bé bơ vơ luôn canh cánh nỗi sợ bị chối bỏ. Anh chỉ sống với một nửa con người, cho đến khi gặp cô… Leda Etoile là cô gái mồ côi được một quý bà độc thân nhận về nuôi dưỡng. Sau khi bà qua đời, cuộc đời xô đẩy cô đến làm việc ở tiệm may váy nhiều thị phi và tai tiếng. Được giáo dục theo nếp sống thượng lưu nhưng mang dòng dõi thiếu minh bạch, cô như mắc kẹt giữa hai thế giới. Tinh tế, đoan trang, ngây thơ và trung thành, cô chỉ biết chấp nhận thực tại cho đến khi gặp anh... Trong cuộc vùng vẫy giữa quá khứ và hiện tại, giữa danh dự và dục vọng… Chính CÔ đã thắp sáng phần đen tối trong anh, giúp anh học cách yêu thương bằng cả thể xác lẫn tâm hồn. Còn ANH đem đến cho cô niềm tin, thổi bùng lên trong cô ngọn lửa của đam mê và hy vọng.  “Laura Kinsale đã phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” - San Diego Union-Tribune *** Với văn phong trong trẻo, giản dị, thuần khiết mà tràn đầy tình cảm cùng sự miêu tả sâu sắc, tinh tế những cảm nhận, suy nghĩ trong tâm tư của nhân vật, Laura Kinsale đã viết nên một câu chuyện tình gây thổn thức rất nhiều đối với tôi. Bà đã, như tờ báo San Diego Union-Tribune đã bình luận về “Bóng tối và Ánh sao”, “phá vỡ tất cả những quy tắc của lối viết thuần túy trong văn chương lãng mạn để tỏa sáng.” Quả thật như vậy, bởi bằng cách xây dựng hình tượng nhân vật nam chính trong tác phẩm này, Laura Kinsale đã vượt ra khỏi cái lối mòn hình tượng nam chính thường thấy trong rất nhiều tác phẩm lãng mạn dã sử để mang đến cho câu chuyện của mình một Samuel Gerard rất mực con người, với nhiều uẩn ức, đớn đau và bóng tối bắt nguồn từ quá khứ kinh hoàng khi còn bé. Chàng trai ấy sở hữu vẻ ngoài của một thiên thần, với khuôn mặt và hình thể đẹp như tạc, mái tóc vàng và đôi mắt xám hút hồn, lớp vỏ bọc mạnh mẽ, cùng tiền tài và quyền lực. Nhưng trái ngược với hình ảnh thiên thần Gabriel tỏa sáng bên ngoài, Samuel Gerard lại mang trong mình phần tăm tối của bóng đêm. Anh đã từng là một cậu bé bơ vơ, không gia đình, không gốc gác, cả cái tên Samuel Gerard cũng là một cái tên tự cậu chọn lấy từ cuốn gia phả những dòng họ người Normandy. Anh đã từng là một cậu bé đã từng bị bán vào nhà chứa những đứa bé trai bị bắt làm điếm cho những ông già ấu dâm, đã từng bị cưỡng bức và lạm dụng tình dục. Cậu bé ấy may mắn được gia đình Hầu tước Ashland giải thoát khỏi chốn địa ngục đó và mang về nuôi. Lớn lên tại quần đảo Hawaii, bên cạnh tiểu thư Catherine “Kai” – con gái Hầu tước, và ông thầy Dojun người Nhật Bản, Samuel dành cả thời niên thiếu để trui rèn bản thân trở thành một bậc thầy võ thuật cừ khôi, một đấu sĩ sắt đá với trái tim là thanh đao, cố gắng chống lại cám dỗ của ham muốn và tình yêu với đàn bà – thứ được người thầy Dojun xem là điểm yếu của cậu. Vì cái quá khứ kinh hoàng luôn ám ảnh, cái quá khứ Samuel luôn xem là nhơ nhớp ấy, anh lớn lên với suy nghĩ mình luôn là đại diện cho bóng tối, là một con người không thể được yêu thương. Anh nhìn ra ở tiểu thư Catherine cái phần ánh sáng, thánh thiện mà anh không bao giờ có được, và quyết tâm sẽ kết hôn với Catherine để dùng cái ánh sáng ấy giúp mình chống đỡ lại phần tối tăm của con người mình. Anh tôn thờ ý tưởng có Catherine làm vợ, tôn thờ cái cảm giác như lẽ đương nhiên chuyện anh và cô sẽ trở thành vợ chồng – một mối quan hệ trong sáng, không nhục dục, không gây đau đớn và tổn thương. Nó trái ngược hoàn toàn với những gì anh cảm nhận được khi gặp Leda Étoile – cô gái thường dân mang nửa dòng máu Pháp, tao nhã, duyên dáng, được giáo dục trong môi trường quý tộc, nhưng cũng giống như Samuel, không thuộc về bất cứ nơi đâu. Càng gặp Leda, Samuel càng bị nàng ám ảnh: mùi hương của nàng, hình ảnh cái hông nàng, dáng hình tràn đầy nữ tính của nàng. Có lẽ tình yêu đã nảy nở giữa một quý ông sống với cái phần tăm tối của mình và ánh sao (“étoile” trong tiếng Pháp có nghĩa là “ngôi sao”) rồi đây sẽ soi rọi cuộc đời anh ngay từ cái khoảnh khắc anh nhặt giùm nàng cây kéo trong tiệm vải. Nhưng vì những gì Samuel cảm thấy với Leda, đối với anh lại là điểm yếu của anh, là cái cám dỗ anh luôn hãi sợ sẽ kéo mình xuống vực thẳm, nên Samuel cùng lúc vừa muốn Leda, lại vừa muốn đẩy nàng ra xa khỏi tâm trí. Và anh đã làm khá nhiều chuyện sai lầm, đã nói khá nhiều lời gây tổn thương, đã hành xử khá nhiều lần lạnh nhạt với Leda, khi anh vẫn chông chênh trên con đường nhận thức và học hỏi được rằng, anh xứng đáng được yêu thương, và anh có thể được yêu thương, bởi người một người phụ nữ bình thường nhưng quý giá hơn tất thảy: Leda. Leda không phải là mẫu mực của một nữ anh hùng trong dòng tiểu thuyết lãng mạn dã sử với khí chất mạnh mẽ, khác biệt, hơn người. Nhưng ở nàng có những phẩm chất cùng sự can đảm tiềm tàng, phù hợp với chuẩn mực phụ nữ thời Victoria: chung thủy, kiên trung, sẵn sàng đấu tranh, bằng tình yêu và lòng tận tâm của mình dành cho nam chính, để cứu lấy mối quan hệ giữa anh và nàng, và để cả hai có được hạnh phúc thật sự. Tôi đọc và thấy thương cho Samuel, những đoạn khi anh chàng, vẫn là một cậu bé của quá khứ lẩn khuất bên trong dáng hình người đàn ông trưởng thành, không biết phải đối mặt hay xử trí như thế nào trước sự cuốn hút về thể xác và tâm hồn mà anh cảm nhận được với Leda. Và tôi cũng thương cho Leda, cho người con gái luôn phải đối mặt với những cơn bốc đồng, những lời nói nhát gừng, những cử chỉ gây đau đớn mà Samuel thể hiện; cho nỗi buồn, niềm tủi thân mà nàng phải nếm trải vì sự giằng xé của Samuel. Leda nói đúng, nếu nàng không yêu Samuel nhiều đến thế, không tận tụy vì chàng đến thế, thì có lẽ, nàng đã bỏ chàng ra đi từ lâu lắm rồi… Và chính nhờ những mâu thuẫn, giằng xé, hiểu lầm đó, mà cái kết có hậu lại càng thêm ngọt ngào và ngập tràn hạnh phúc. – Nguyễn Việt Ái Nhi Review *** 1887 Ở một nơi tối tăm và tịch mịch, anh ngừng việc suy nghĩ. Anh để những tiếng người ồn ào lắng xuống, để âm thanh của cơn gió nhẹ thổi qua những tấm rèm lấp đầy tâm trí. Anh nhìn bóng phản chiếu lờ mờ của chính mình trong gương cho tới khi khuôn mặt đó biến thành của một người xa lạ, một tập hợp các đường nét không biểu cảm trong cặp mắt màu bạc và cái miệng cứng nhắc… và sau đó không còn là người lạ nữa, chỉ là một chiếc mặt nạ khắc khổ… rồi thậm chí xa hơn thế: không còn nhận dạng mà thay bằng những hình thù cơ bản. Chỉ có quang phổ của bóng tối và ánh sáng, một thực thể hữu hình và vô hình. Với thực tế trước mắt, anh dự định thay đổi thành một người khác. Để giấu đi màu tóc vàng, anh mượn một món đạo cụ từ nhà hát kịch kabuki[1] - chiếc mũ trùm đầu màu đen mà các kuroko[2] đôi khi họ kín đáo bước lên sân khấu để thay đổi bối cảnh. Để che diện mạo thật, anh không vẽ mặt hay bôi nhọ nồi vì như thế chưa đủ - khó tẩy trang nhanh và quá dễ bị nhận ra. Thay vào đó, anh bịt một chiếc khăn che mặt màu than chì chỉ để hở đôi mắt làm từ loại vải mềm như chiếc áo choàng màu xám đen anh buộc quanh thắt lưng. Bên trong bộ trang phục tối màu anh mang theo thiết bị dùng để trèo tường, để phóng điện, để trốn chạy hay sát thương, để giết người. Anh chọn đi tabt[3] mềm thay cho giày vì nó giúp bước đi nhẹ nhàng và thật chân hơn. Đất… nước… gió… lửa… và khoảng không. Anh ngồi khoanh chân trên sàn. Bằng đôi tai, anh lắng nghe tiếng gió dịu dàng nhưng không ai đủ sức chặn lại. Bằng những đốt xương, anh cảm nhận toàn bộ sức mạnh to lớn của mặt đất phía dưới. Bằng tâm trí, anh chấp nhận sự trống rỗng. Bất động, anh hòa lẫn vào bóng đêm: vô hình trong gương, tan vào cơn gió. Với những ngón tay đan vào nhau, anh triệu hồi quyền lực của ý chí để thay đổi thế giới như nó vốn hiện hữu. Anh đứng dậy và biến mất. Mời các bạn đón đọc Bóng tối và Ánh sao của tác giả Laura Kinsale.