Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chết Trong Ngày Chúa Nhật

Trong tháng vừa rồi có một sự kiện, đó là một cuốn tiểu thuyết gần chục năm nay lăn lóc chu du qua cửa các nhà xuất bản nhưng chưa từng được nơi nào đón nhận, đã đến tay người đọc bằng câu thần chú “lưu hành nội bộ”.                Mấy năm trước tôi nghe có nhà phê bình nói rằng văn học Việt Nam những năm gần đây “không có tác phẩm”, họ cũng phủ nhận sự tồn tại của “văn học ngăn kéo”. Tôi thì lười nên vẫn cứ trông chờ những người đọc chuyên nghiệp và chăm chỉ. Thông tin ra sách vẫn ào ào và trong đó rất nhiều tác phẩm “gan ruột” của các cây bút, nhưng tôi vẫn chưa thể quan tâm. Tôi không đọc. Các nhà phê bình hình như đã rút vào “cổ mộ” thì phải, âm thanh từ phía họ không vang đến tôi.                Tôi không nghiên cứu phê bình văn học cũng không làm nghề xuất bản, chuyện nước nhà có hay không có tác phẩm văn học “ra hồn” không phải chuyện của tôi. Tôi không cần vội.                Thế mà tôi đã vội vã đọc “Chết trong ngày Chúa Nhật” ngay khi sách vừa lưu hành. Có mấy động cơ đồng thời. Thứ nhất là cơ hội tìm hiểu khung thẩm mỹ văn chương và mức độ kiểm duyệt (bị phàn nàn bất bình quá nhiều) của các nhà xuất bản hiện tại. Thứ hai là tò mò muốn biết với nhịp văn (đều đều chán ngắt) như ở vài trang hé lộ trước thì người viết chuyển nhịp kiểu gì, còn trong trường hợp cả sáu trăm trang (nghe nói là không hề xuống dòng) vẫn giữ nguyên nhịp như vậy thì thần kinh của tôi có tiếp nhận được suôn sẻ không, trong khi có những người chỉ xem một trang đã bỏ cuộc vì họ sợ đọc một thứ như vậy có thể ảnh hưởng tiêu cực đến cảm hứng đọc văn chương của họ. Thứ ba là… Có động cơ thứ ba nữa không nhỉ? Có chứ! Nhưng động cơ này mơ hồ khó gọi tên ra được, có lẽ đó là linh cảm. *        Vội đọc nhưng không đọc vội. Sau năm ngày tôi mới đọc hết cuốn sách.                Trái với lo ngại của tôi, hóa ra là truyện dễ đọc hơn tôi tưởng rất nhiều, mặc dù đúng là không hề xuống dòng chia đoạn cũng không hề đổi nhịp. Không thiếu những dấu chấm dấu phẩy, tuy vậy tôi không chắc lắm về ảnh hưởng của những dấu câu này tới nhịp văn, bởi vì “đội quân” này thậm chí lơ đễnh ngay cả trong việc giữ gìn trật tự ngữ pháp vốn là nhiệm vụ đầu tiên then chốt của chúng. Dù các dấu chấm dấu phẩy lúc thưa thớt lúc dày đặc thì nhịp văn vẫn thế, vẫn cứ đều đều mà không có chỗ nào khác biệt hoặc nếu có thì cũng không đủ để tôi kịp nhận ra vì tôi đã bị cuốn đi theo nhịp suy tưởng của nhân vật mà không còn đủ sức để tâm đến nhịp văn nữa. Và cứ như thế từ đầu đến cuối. Nhưng bù lại mỗi khi tôi muốn tôi đều có thể dừng lại nghỉ, chỉ cần ghi nhớ trang mình đang đọc dở là trang thứ bao nhiêu, không cần tiếc nuối vì mình đã bỏ không theo kịp cao trào nào đó của truyện. Bởi vì trước sau như nhất cũng chỉ có một thằng cha lải nha lải nhải trong óc hắn ngày này qua tháng khác không có dấu hiệu kết thúc, chỉ có cuốn sách là kết thúc sau hơn sáu trăm trang.                Những người muốn giữ gìn cảm xúc trong trẻo tươi sáng lạc quan yêu đời hoàn toàn đúng khi chọn bỏ qua không đọc truyện này. Ngay từ mở đầu, thằng cha nhân vật đã trưng chộ mớ lý sự lằng nhằng câu từ rối rắm, một trong những dấu hiệu điển hình khiến người ta lập tức nghĩ tới những kẻ nốc lắm sách vở chữ nghĩa nhưng không làm ra chuyện gì có kết quả, như khi nhìn đám dây khoai mọc bò tràn lan rậm rạp thì ta biết là không thể mong thu hoạch được củ vậy. Vâng nhưng khoai không phải khi nào trồng cũng để lấy củ, nếu ta được mời xơi lá xơi ngọn thì cũng hãy cứ thưởng thức vì rau khoai dù sao cũng lành. Ái dà cái gì nữa này, giữa rau có sâu? Giữa mớ chữ nghĩa điệu bộ loằng ngoằng bỗng chồi ra những hồi tưởng hoặc mơ tưởng dâm dục cùng những từ bậy bạ tục tĩu. Vậy là bản năng của con thú vẫn còn trong hắn mà chưa bị những khái niệm nuốt chửng. Thôi vậy thì cũng chẳng tệ quá! Mới chỉ chưa đầy chục trang đã vậy, cứ theo dõi tiếp xem hắn thế nào…                Ô hô ai tai nào đâu phải chỉ có khát dục, thằng nhân vật này, à không, bốn thằng này (thì ra là có tới bốn thằng cơ) đã giẫm qua một lằn ranh đạo đức. Bọn chúng thuê chung một cô gái điếm. Ngủ với gái điếm thì chưa có gì đặc biệt, nhưng đây bọn chúng đem cô vào ở chung cùng một nhà và chia phiên hưởng thụ, thế này thì đày ải nhau quá! Ơ nhưng gì thế? Mỗi thằng mỗi tháng chi cho cô điếm nửa tháng lương của mình à, tử tế nhỉ? Giờ thì chả biết là gái điếm hay nàng Bạch Tuyết nữa. Bọn chúng giàu lòng thương xót vậy ư? Thậm chí bọn chúng còn sợ chúng sẽ yêu nàng…                Ô không hóa ra chỉ là trò tự lừa đảo bản thân của thằng “tôi” ấy thôi. Trong tầng tầng lớp lớp ký ức nhập nhoạng của hắn đã hiện ra tội ác kinh hoàng: Cô gái điếm tên Hạnh kia hóa ra không phải là gái điếm được bốn thằng Tùng-Lâm-Hưng-Vũ ấy thuê về, cô ta cũng chưa từng là gái điếm, cô ta bị bọn chúng hiếp dâm tập thể và bắt mang theo làm nô lệ tình dục cho chúng. Cô gái non tội nghiệp chẳng làm sao thoát được…                Thật quái quỷ! Thì ra tôi đã bị thằng “tôi” kia với lải-nhải-tràng-thiên của hắn lừa một vố thật to. Giờ thì tôi không làm sao còn biết được tội ác kia có thật đã từng xảy ra hay không, rốt cục cô Hạnh kia là gái điếm hay nô lệ tình dục sau khi bị hiếp dâm, và cô tên Hạnh là chị gái hay em gái hay bạn gái hay mẹ của một thằng “tôi” nào, cô Hạnh này chỉ là một cô hay là có nhiều cô đều trùng tên Hạnh…                Đã bao giờ quý vị gặp một kẻ mà ngay từ phút đầu tiên y đã cho quý vị cái ấn tượng rằng y là một nhân vật đặc biệt xuất chúng với khả năng tư duy logic cùng lập luận sắc bén đến nỗi dù y có khác lạ sao đó thì quý vị vẫn mở lòng chấp nhận lắng nghe rồi sau vài tiếng đồng hồ hoặc sau một số ngày quý vị mới ngã ngửa ra rằng y là một bệnh nhân tâm thần? Vâng tôi đã từng. Ấy thế mà kinh nghiệm đó chẳng giúp gì cho tôi khi đọc tiểu thuyết này, đến khi vỡ lẽ cái thằng cha nhân vật chỉ là thằng điên đa nhân cách thì tôi đã ngốn hết nửa cuốn sách chứ ít gì đâu!                Thật ra tôi cũng chẳng nhớ tôi phát hiện “tôi” là thằng điên từ đoạn nào từ trang nào, nhưng thôi truy cứu chuyện ấy chẳng ích gì còn làm mất thêm thời gian của quý vị. Tóm lại, có thể gọi cái thằng Vũ-Hưng-Lâm-Tùng ấy là nhân vật Một-Chẻ-Tư Hoặc Bốn-Trong-Một, tức là tính thành một thằng hay bốn thằng đều được. Tại sao lại là bốn mà không phải là ba hay năm? Cụ thể thì trong truyện có vài cách “liệt kê”. Cách thứ nhất: một nhà lãnh đạo cách mạng, một thầy tu, một nhà thơ và một đao phủ. Cách thứ hai: một kẻ độc ác luôn tỏ ra độc ác, một kẻ độc ác luôn tỏ ra tử tế, một kẻ tử tế luôn tỏ ra độc ác và một kẻ tử tế luôn tỏ ra tử tế. Hình như có vài cách nữa mà không rõ ràng chính xác lắm nên tôi quên rồi.                Đã chấp nhận nhân vật đang kể chuyện là kẻ mang bệnh tâm thần với những cơn hoang tưởng thì độc giả không cần phải lo lắng về chuyện mình không sao nắm nổi đầu đuôi câu chuyện mà hắn kể cũng như những nhân vật trong câu chuyện là ai với ai nữa, và cứ thoải mái yên lòng mà nghe hắn tường thuật những hành vi đê tiện phi nhân mà hắn và đồng bọn thực hiện, vì kẻ điên không phải chịu trách nhiệm gì dù tội ác có thật hay tưởng tượng. Cũng chính từ lúc tôi vừa kịp nhận ra Tùng-Lâm-Hưng-Vũ là một thằng hoặc một bọn tâm thần thì mức độ điên rồ, đau đớn, ác độc, kinh tởm, tàn khốc, tuyệt vọng trong câu chuyện cũng tăng dần… Người đọc không còn lo cho nhân vật mà có lẽ cần lo cho chính mình. *        Tôi đã nhận ra cái nhịp văn nhanh đều đều suốt từ đầu đến cuối truyện ấy chính là nhịp mưa. Một trận mưa ngôn từ xối xả trút xuống, mới đầu tưởng không nguy hiểm gì mà ngờ đâu không dừng không tạnh, mây đen cứ tiếp tục kéo đến ngày càng dày càng nặng, nước dâng lên dần thành một cơn lũ làm xói lở và cuốn trôi những gì với ta là cần thiết quý giá, đồng thời làm nổi dềnh lên những thứ bẩn thỉu hôi thối mà không bao giờ ta muốn nhìn muốn ngửi, rồi dần dần đồ quý hay rác rưởi cũng không còn quan trọng nữa vì ngay cả nơi trú ẩn cuối cùng của ta cũng bị cuốn đi…                Những nhân vật trong truyện từ chối mọi hy vọng và mơ ước thanh cao, vì những gì đẹp đẽ không hề có trong đời thực của họ mà chỉ có trong Kinh Thánh. Những biểu tượng ẩn dụ trong Kinh Thánh khi đem ghép vào những tình tiết trong câu chuyện của họ trở thành lố lăng kệch cỡm hoặc chua xót tức cười. Một cơn mưa không đủ dài để nhấn chìm những kẻ chờ chết, một con tàu được làm để phòng ngày tận thế mà dang dở không bao giờ xong, một đường hầm tiêu tốn cả phần dài ngoẵng của cuộc đời đến ngày đào xong thì hóa ra chẳng còn cần dùng vào việc gì, một kẻ rao tin mừng lại là thằng tâm thần làm bạn bè người thân xấu hổ…                Tam Yên, “miền đất hứa” của những thằng “tôi” ấy không có bằng chứng gì về sự tồn tại của nó, nhưng dù bốn thằng Tùng-Lâm-Hưng-Vũ có cãi nhau thế nào thì bọn họ vẫn luôn thống nhất trong việc phải tìm đến Tam Yên, dù không ai trong số họ biết Tam Yên có gì chờ họ ở đó. Đến sẽ biết. Họ tìm hoài không thấy, hoặc không ai chịu chỉ đường hoặc có kẻ chỉ đường nhưng lại là lừa dối. Với những kẻ cho là họ biết Tam Yên ở đâu (những người không tìm Tam Yên) thì Tam Yên khi là một trại cai nghiện, khi là một nhà tù, có khi lại là một trại tâm thần. Khi bọn “tôi” đến Tam Yên thì Tam Yên là một nơi hoang phế chết chóc, nhưng họ đều nhận đó chính là Tam Yên của họ. Điều gì chờ họ ở đó? Một tiếng nói thì thầm bên tai nhận là Đấng Phán Truyền thôi thúc “tôi” hãy giết người mình yêu dấu nhất để hiến tế. “Tôi” hoàn tất việc đó, rồi điều gì xảy ra? “Tôi” nhận ra mình đã bị lừa. Chỉ có thể là ma quỷ chứ không phải Đấng Hằng Hữu nào cả.                Thằng “tôi” ấy có bị điên thật không? Tất cả là do người đọc tự suy đoán chứ tác giả không hề kết luận điều gì. Nhưng chắc chắn là trong mọi câu chuyện của “tôi” có quá nhiều điều dối trá. “Tôi” đã tưởng thế là thật trong cơn điên hay là ngay cả trong cơn điên hắn cũng cố tình né tránh sự thật? Tất cả đều có thể. *        Những độc giả mong đọc văn chương để thưởng thức sự bóng bẩy của ngôn từ hay những cảm xúc đẹp đẽ dịu ngọt thảy đều nên tránh xa tác phẩm này. Những từ ngữ thô lỗ, những triết lý sống sượng nhai lại, những câu thoại cụt lủn đơn điệu… được thằng Một-Chẻ-Tư Hoặc Bốn-Trong-Một thổ ra tràn lan ngập ngụa. Có những khi chẳng thể nào tránh khỏi, hồi ức về người mẹ, người chị, người em gái… với tình thương rất đỗi tha thiết rất đỗi dịu dàng sống dậy nhưng liền ngay đó bị vùi dập trong nỗi xót xa. Đôi chỗ hiếm hoi, khi thằng “tôi” mơ màng nhớ về một người con gái nào đó với cảm xúc trong trẻo, hắn đột nhiên quên mất giọng điệu thô thiển và lúc đó độc giả được thấy những hồi ức tuyệt đẹp, giống như giữa cả màn mây dày xám xịt bỗng hé ra một khoảng trời trong xanh nhưng chỉ trong phút chốc đã bị lấp kín như cũ.                Những câu chuyện không đầu không đuôi đột ngột thay đổi nối tiếp nhau với nhịp văn đều đều hối hả đã gợi lên cho người đọc những trường liên tưởng chồng chất, những nỗi ám ảnh mà tôi không thể phủ nhận rằng chúng rất thật. *        Có lẽ sẽ không nhiều người đọc tiểu thuyết này, bởi vì tuy nó không khó đọc nhưng đọc nó rất khó chịu. Một tác phẩm không chiều chuộng độc giả, không khoan nhượng, không né tránh. Một tác phẩm không dễ viết.                Trước đây tôi chưa từng đọc truyện nào của Nguyễn Nguyên Phước và thậm chí chưa từng biết tới tên anh. Tôi cảm thấy may mắn đã đọc “Chết trong ngày Chúa Nhật”, vì với tôi đó là bằng chứng xác thực rằng trên mảnh đất này những nhà văn vẫn còn đang sống.                Một tác phẩm tự vấn nghiêm khắc, đủ sức nặng để đối thoại.                Tôi không nghĩ tiểu thuyết này của Nguyễn Nguyên Phước sẽ ảnh hưởng đến hình thức hay nội dung chuyện kể của những nhà văn khác, nhưng nó góp phần ảnh hưởng đến việc những câu chuyện có thể không bao giờ kể ra sẽ được kể ra. Một mình nó không đủ là một cơn hồng thủy, nhưng rất có thể nó là tín hiệu mở đầu cho “cơn hồng thủy”.                Tôi tin “Tam Yên” của Nguyễn Nguyên Phước là nơi các nhà văn cất lên tiếng nói bằng những tác phẩm sâu sắc, họ ý thức rõ rằng trên thế giới này họ luôn là những người được tự do nhiều nhất trong công việc của mình, và vì thế họ chỉ có thể đòi tự do từ chính bản thân mình mà thôi.                                                                                                                                                                     03 – 12 – 2019. *** Miên man không chương đoạn, vắng dấu phảy, chuyện-chuyện-chuyện rối đan chồng chéo. Đối thoại. Triết lý. Độc thoại. Triết lý. Chửi thề. Triết lý. Bài bạc. Triết lý. Hút chích. Triết lý. Đĩ điếm. Triết lý. Giết chóc. Triết lý. Hồi ức. Triết lý. Mơ mộng. Triết lý. Hoang tưởng. Triết lý. Điên dở. Triết lý. Mắc kẹt. Chạy trốn. Đào thoát. Có hiện thực Việt Nam những năm 90. Có mê cung Kafka. Có viễn tưởng. Có giết chóc kinh dị. Chết trong ngày Chúa nhật của Nguyễn Nguyên Phước là lời mời gọi tôi vào cuộc phiêu lưu trong điệp trùng câu chữ. Tác phẩm đặt tôi bên rìa vực giữa quen thuộc-xa lạ, dễ hiểu-khó lý giải, thô lậu-tinh tế, hời hợt-thâm sâu, nghiêm túc-hài hước, phá cách-chỉn chu, hiện thực-hoang tưởng. Đây là cuộc chơi ngôn từ đầy thách thức. Có lúc tôi trầm trồ, có lúc tôi dừng lại hoài nghi, nhưng đó là sự hoài nghi mang tín hiệu tích cực, hé lộ về con đường tìm đến tự do của viết. Tự do, tự do và tự do. Có lẽ đó là tất cả những gì cuốn sách này, ngôn ngữ cùng nhân vật, đã quăng mình vào một cuộc vặn xoắn, giã nát và vượt thoát để chạm đến tự do. Chết trong ngày Chúa nhật là cuộc đào thoát khỏi bản thể để tự do. Vì sao phải chạy trốn khỏi mình để tự do? Có bao nhiêu lớp khóa vô hình khóa chặt tâm hồn một con người? Những thủ pháp nghệ thuật nào nổi bật trong cuốn tiểu thuyết này, để ta có thể băng qua như băng qua những ngọn núi, dòng sông và cánh đồng, vừa đi vừa ngẫm, để chân ta được neo lại trong những khoảng thời gian đủ dài, để từ từ lật mở, khi khẽ khàng, lúc dữ dội, vừa lạc vào mênh mông, vừa xoáy hút chốn thẳm sâu…? Người đăng: daotieuvu

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Linh Sơn
Linh Sơn là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Trung Quốc đoạt Giải Nobel Văn học năm 2000: Cao Hành Kiện - con người đa tài trên nhiều lĩnh vực như viết kịch, làm thơ, vẽ, viết lý luận và viết tiểu thuyết.  Linh Sơn không có truyện đủ đầu đuôi phát triển cùng xung đột, mâu thuẫn tới cao trào theo như chuẩn định. Linh Sơn cũng không có nhân vật (theo chuẩn mực thông thường) với đầy đủ diện mạo, hình hài, cốt cách, cảnh ngộ. Linh Sơn tựa như một gallery những gương mặt thấp thoáng, le lói, vừa thực vừa ảo. Nó như một bức tranh thuỷ mặc đẹp thăm thẳm nhờ những nét chấm phá điêu luyện của người hoạ sĩ.  Linh Sơn rất hiện đại ở bút pháp, bố cục nhưng cũng đầy khí cốt, hồn phách Trung Hoa. Vừa dân tộc tính, vừa hiện đại, cả hai đều ở mức cao, đó có lẽ là lý do mà tác phẩm này đã được Uỷ ban Giải thưởng Nobel lựa chọn để trao giải. *** Cao Hành Kiện (4/1/1940) là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Quốc đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ. Ông sinh ra và lớn lên ở Cống/Cám Châu, Giang Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh năm 1962 ngành tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp ông được phân công đến Cục xuất bản ngoại văn làm phiên dịch. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình, trong đó có một vài cuốn tiểu thuyết chỉ chờ ngày xuất bản và 15 vở kịch. Sau đó, ông bị gửi vào trại cải tạo giáo dục mất 7 năm. Năm 1975 ông trở về Bắc Kinh, làm việc tại Cục xuất bản Ngoại văn. Đến năm 1978 ông nhận chức phiên dịch cho Hiệp hội tác gia Trung Quốc. Năm 1980 ông về làm công tác biên kịch tại Kịch viện Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Quốc đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Chính phủ Trung Quốc đã từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm lưu hành từ năm 1986. Ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 1988, ông sang Pháp sinh sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris, khu Bagnolet. Mười chín năm sống ở Pháp, ông đã tập trung vào viết sách, soạn kịch và triển lãm nghệ thuật. Vào năm 1992 ông đã giành được giải Chevalier de l'Ordre des Arts et des Lettres (Huân chương về Văn học và Nghệ thuật) của Chính phủ Pháp. Sau khi ông đoạt giải Nobel năm 2000, báo chí Trung Quốc không rầm rộ về việc này, nhưng tờ báo ra hằng ngày Tin tức buổi chiều Dương Thành, vào năm 2001, trong một cuộc chỉ trích về Linh Sơn đã gọi ông là một "nhà văn dở tệ" và nói rằng việc ông đoạt giải Nobel thật là lố bịch. Linh Sơn là một tác phẩm nổi tiếng của ông, tổng hợp nhiều hình thái và thể loại văn chương gồm hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, đối thoại, độc thoại... hoà quyện vào nhau. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh (Soul Mountain) đã nhận định: "Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong". Cao Hành Kiện còn là một họa sĩ vẽ tranh thủy mặc độc đáo. Ông đã cho tổ chức khoảng 30 cuộc triển lãm tranh khắp nơi trên thế giới và nhận được nhiều lời khen ngợi. *** Mi muốn kể cho nàng một chuyện có từ đời nhà Tấn. Chuyện ni cô đến xin bố thí ở cửa một đại tướng quân nổi tiếng vì ngạo mạn. Theo lệ, người ta báo với quản gia và quản gia cho ni cô một xâu nghìn đồng chinh. Ni cô từ chối, muốn gặp thí chủ, người ban tiền cho mình. Quản gia đành chuyển đạt lời thỉnh cầu này lên tổng quản gia, tổng quản gia muốn rũ gạt nhà sư nên đã ra lệnh cho gia nhân mang đưa cho ni cô một lượng bạc. Ai dám nói ni cô lại một lần nữa từ chối, lại yêu cầu gặp đích thân đại tướng quân, khẳng định chắc chắn rằng ông ta đang lâm nạn và ni cô đến đây để đặc biệt cầu kinh hóa giải cho ông ta. Tổng quản gia chỉ còn có thể trình lên và viên tướng ra lệnh đưa ni cô vào.     Khi nhìn thấy khuôn mặt của nhà sư mặc dù đầy bụi nhưng rất thanh tú và thoát tục, vị tướng nghĩ ngay ni cô không có chút nào là kẻ lừa bịp hay một mụ đàn bà chuyên trò dâm tà, ông bèn hỏi nhà sư muốn gì. Ni cô tiến lên, chắp tay chào rồi lùi lại nói đinh ninh rằng từ lâu đã nghe thấy đại tướng quân hào hiệp và khoan dung. Ni cô từ xa đặc biệt đến đây để thực hành bảy bảy bốn chín ngày chay giới vì vong linh của mẹ tướng quân đã chết. Đồng thời ni cô cầu xin Phật A Di Đà giáng phúc cho viên tướng, phù hộ độ trì cho ông tai qua nạn khỏi. Cuối cùng, viên tướng ra lệnh cho quản gia xếp đặt một gian phòng ở sân trong và cho gia nhân sửa soạn bàn hương ở đại sảnh.     Từ hôm ấy, tiếng tụng kinh gõ mõ cứ vang lên từ sáng đến chiều trong tướng phủ. Thời gian trôi đi, viên tướng cảm thấy ngày một nguôi dịu trong lòng và sự kính trọng của ông đối với vị sư nữ không ngừng tăng lên. Nhưng mỗi chiều vị sư nữ trẻ lại bỏ ra một giờ tắm táp. Viên tướng ngạc nhiên: nhà sư không tóc thì việc gì phải bận đến đầu tóc cùng trang điểm như một người đàn bà bình thường. Vậy tại sao tắm, nghi lễ đơn giản để thanh tẩy tâm can trước khi thay hương, lại kéo dài đến như thế? Hơn nữa, vào lúc ấy, người ta nghe thấy nước chảy không ngừng. Ni cô dội nước lên mình liên tục hay sao? Tướng quân bắt đầu bị sự tò mò ám ảnh. ... Mời các bạn đón đọc Linh Sơn của tác giả Cao Hành Kiện.
Đồng Hồ Xương - David Mitchell
Mỗi người trong chúng ta là một chiếc “đồng hồ xương”, thời gian hữu hạn trôi qua, và những gì còn lại là xương cốt. Trái với con người hữu thời là những kẻ vô thời, bất tử nhờ tự nhiên hoặc bằng cách tước đoạt mạng sống của người khác, nhưng những kẻ ấy liệu có hạnh phúc hơn khi không thấy thời gian hữu hạn? Năng lực đặc biệt, khả năng thấy trước tương lai, tuổi thọ… không bù đắp được sự cần thiết về gia đình, tình bằng hữu đối với con người. Cuốn tiểu thuyết mới nhất đầy ấn tượng của Mitchell mở đầu với câu chuyện của Holly Sykes, một thiếu niên người Anh với khả năng có thể nghe được những giọng nói độc ác. Với Holly là người dẫn đường, Mitchell đã đưa người đọc của mình qua những câu chuyện thần thoại của hàng loạt người kể thuộc các thể loại khác nhau, đã thực sự đạt tới đỉnh điểm của trận chiến mà ở đó thiện và ác xoay vần mà không hề phóng đại. Cái nhìn của ông về tương lai có thể u ám, nhưng khả năng kể chuyện của ông khiến cho The Bone Clocks trở nên thú vị, đặc biệt đối với những người hâm mộ trung thành, những người sẽ được gặp lại nét quen thuộc trong các tác phẩm trước đây của Mitchell. Trận chiến gần như vĩnh viễn không kết thúc ở rìa của thế giới hàng ngày; “những chiếc đồng hồ xương” là những bầy người, cam chịu chạy xuống và chết. Đó là một chuyến đi không tưởng khi chúng ta theo chân Holly Sykes, từ người thiếu niên đào tẩu đến một bà già chứng kiến sự thất bại của văn minh. *** Mình kéo toang rèm cửa. Bầu trời khát khô, dưới sông đầy tàu thuyền lớn nhỏ lô nhô nhưng trong đầu mình chỉ có đôi mắt màu sô cô la của Vinny, dầu gội đầu chảy xuống lưng chàng, mồ hôi lấm tấm trên vai chàng, rồi nụ cười tinh quái của Vinny. Tim mình như muốn vỡ tung. Chúa ơi, ước gì mình thức dậy ở nhà Vinny trên phố Peacock, chứ không phải trong căn phòng chết giẫm này. Đêm qua những lời ấy như tự thốt ra, “Lạy Chúa, em yêu anh quá chừng, Vin à,” rồi Vinny phả khói thuốc thành đám mây nhỏ, rồi Vinny giả giọng như Thái tử Charles, “Phải nói rằng, ta cũng ưa ở cùng cô lắm, Holly Sykes à,” mình cười muốn són cả ra, mặc dù vẫn hơi bực vì chàng chẳng đáp “Anh cũng yêu em”. Thiệt tình. Nhưng mà, đàn ông con trai hay ra vẻ vớ vẩn bông lơn để mà che giấu cảm xúc, chẳng phải báo vẫn viết vậy sao. Ước gì mình gọi được cho Vinny ngay bây giờ. Ước gì người ta chế ra điện thoại có thể gọi mọi nơi mọi lúc. Giờ này hẳn chàng đang cưỡi chiếc Norton đi làm trên Rochester, chàng mặc áo da có chữ LED ZEP đính đinh bạc. Tháng Chín này mình tròn mười sáu tuổi, chàng sẽ chở mình trên chiếc Norton. Dưới nhà có tiếng đóng cửa tủ đánh rầm. Má. Còn ai đóng cửa kiểu đó nữa. Hay má biết rồi? Mình nghĩ mà quặn cả ruột. Không có đâu. Hai đứa vô cùng cẩn thận. Má đang tuổi mãn kinh nên nóng nảy. Chỉ có vậy thôi. Đĩa Fear of Music của Talking Heads đang nằm trong máy, mình hạ cây kim máy xuống. Vinny mua tặng mình đĩa này, hôm đó là ngày thứ Bảy thứ nhì tụi mình gặp nhau ở tiệm đĩa Magic Bus Records. Đĩa hay tuyệt. Mình thích bài “Heaven” và “Memories Can’t Wait” nhưng nói chung cả album không có lấy một bài dở. Vinny đã từng đến New York, từng xem Talking Heads biểu diễn. Dan bạn của Vinny làm bảo vệ ở đó nên cho Vinny vào sau cánh gà, Vinny đã gặp David Byrne và ban nhạc. Năm sau mà đi tiếp thì chàng sẽ dẫn mình theo. Mình thay đồ, ngắm mấy vết cắn yêu trên người rồi ước gì tối nay lại được đến thăm Vinny, nhưng chàng bận đi gặp bạn ở Dover. Đàn ông rất ghét đàn bà hay ghen, nên mình giả bộ không ghen gì hết. Stella - bạn thân nhất của mình, đã đi London để đi săn đồ cũ ở chợ Camden. Má nói mình còn quá nhỏ, không thể đi London mà không có người lớn, vậy là Stella rủ Ali Jessop. Ngày hôm nay mình chỉ còn trông mỗi việc hút bụi ở quầy bar để kiếm ba bảng tiền tiêu vặt. Chán mớ đời. Rồi phải ôn tập để chuẩn bị thi tuần tới. Thực lòng chỉ muốn nộp giấy trắng, dẹp hết tam giác tam giếc Py-ta-go và tiểu thuyết Chúa ruồi với vòng đời sâu bọ nhảm nhí. Có khi làm vậy luôn. Ừ, biết đâu đó. ... Mời các bạn đón đọc Đồng Hồ Xương của tác giả David Mitchell.
Cành Hoa E Ấp - Pearl S. Buck
“Ai giống nhau thường hợp nhau” ngạn ngữ Tây phương có nói thế. Nhưng người ta có thể quên được câu này để kết hôn ngoài giới của mình, ngoài xứ sở về nòi giống của mình không? Hoặc không hề đến một mối tình đằm thắm, phải lưu ý đến nói của tri năng? Hoặc cuối cùng, tình yêu khác mạnh để vượt tất cả những trở ngại ngăn cách hai người khác nhau? Đó là đề tài khó khăn và đau thương của cuốn tiểu thuyết này của Pearl Buck. Ở Kyoto, dưới thời bị chiếm đóng, một thiếu nữ Nhật xinh đẹp gặp một sĩ quan Mỹ và nhận lời kết hôn với chàng. Từ đó, hai gia đình ra sức chống lại cuộc hôn nhân này. Tôn giáo, màu da, những truyền thống ngàn xưa và biết bao yếu tố đã xen lẫn trong cuộc tranh luận đau thương này mà tình yêu cố bám víu vào để khỏi bị chìm ngập. Với sự hiểu biết sâu xa về Đông phương và tâm linh người Nhật, về tâm lý của dân tộc Mỹ và tình cảm đặc biệt của người Mẹ, Pearl Buck đã viết tác phẩm Cánh hoa e ấp, một trong những tác phẩm nổi trội nhất của bà. Giá trị của tác phẩm là trình bày cho độc giả biết một vấn đề điên đảo mà sự tiến triển của thế giới nẩy sinh ra hàng ngày. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Josui đi yên lặng trong một đường phố ở Los Angeles. Ngày hôm ấy, nàng sửa soạn một công việc thật khổ tâm, không sao tránh được. Nàng dậy sớm và sau khi trang điểm kỹ lưỡng, nàng mặc một bộ quần áo màu xanh nước biển mới nguyên, chiếc áo khoác ngoài che thân hình đầy mập của nàng. Số tiền cha nàng gửi ở một ngân hàng ở San Francisco đủ cho nàng ăn mặc, trả tiền phòng và tiền ăn trong một ký túc xá tầm thường. Những gì còn lại, nàng phải trông chờ vào cứu tế cuộc. Nàng đã hỏi một người xa lạ địa chỉ một tổ chức bảo vệ thiếu nhi. Chính đến cơ quan này, ở một hộ khá nghèo mà nàng tới sáng nay. Cửa mở, Josui đi vào. Người nữ thư ký ngập ngừng nhìn nàng. — Xin cho biết quí danh. — Sakai. — Xin mời cô vào. Josui tuân lời. Nàng đứng trước một người đàn bà tuổi trung niên vẻ mặt hiền hậu ngồi ở một bàn giấy, sắc mạo không xứng với chân giá trị của mình. — Cô Sakai, tôi biết giúp ích gì cho cô? — Tôi nghe nói ở đây có săn sóc trẻ con… — Cô sắp sinh nở? — Vâng, không ngay lúc này, nhưng tôi phải sửa soạn trước. — Cô có gia đình không? — Không. Người nữ thư ký ghi nhận những lời khai của Josui. — Cô có muốn giữ đứa bé không? — Không, tôi có một mình, tôi không thể giữ nó được. Nàng đã tập luyện nói câu này và nói không chút khó khăn. Ồ! Lennie, nàng dỗ dành, an ủi mãi tận trong đáy lòng! Nó mới yên tĩnh làm sao! Tưởng như nó nghe thấy những lời nàng nói. ...Mời các bạn đón đọc Cành Hoa E Ấp của tác giả Pearl S. Buck.
Yêu và Hận - Teresa Medeiros
Với một lần đổ súc xắc, hành động đáng xấu hổ đã được thực hiện. Nam tước Lindsey Fordyce đã chơi và thua, bây giờ con gái xinh đẹp của ông, Rowena, sẽ phải trả giá. Bị đưa đến một lâu đài hùng vĩ, cô gái ngây thơ sôi nổi ấy ép mình phục vụ một hiệp sĩ tăm tối và kinh khủng bị buộc tội sát nhân… và nhiều thứ nữa. Hiệp sĩ Gareth xứ Caerleon đẹp trai, ủ ê đang chờ đợi cơ hội phục thù. Nhưng khi hắn mưu tính sử dụng nàng Rowena thật thà để tiêu diệt những bóng ma trong quá khứ đày ải của mình, hắn không bao giờ hình dung được sẽ bị ngã vào trong chiếc bẫy lụa do chính hắn giăng – trở thành nô lệ cho một nỗi khao khát không thể nào dập tắt… *** Teresa Medeiros sinh năm 1962 tại Mỹ, là tác giả chuyên viết tiểu thuyết lãng mạn. Đến nay, sáng tác của cô đã bán được 7 triệu cuốn và dịch ra hơn 17 thứ tiếng.  Medeiros ra mắt tác phẩm đầu tay năm 21 tuổi (1983). Nhưng đến năm 1989, cái tên Medeiros mới trở thành hiện tượng, khi tác phẩm Quý bà chốn tình trường (Lady of Conquest) của cô đoạt giải Tác phẩm Văn học hay nhất của năm, thuộc thể loại Lịch sử - Lãng mạn. Medeiros hấp dẫn độc giả bởi những cốt truyện đa dạng, không chỉ đơn thuần lãng mạn như một câu chuyện Lọ Lem - Hoàng tử đẹp tựa cổ tích mà có lúc mang hơi hướng trinh thám như Đóa hồng xôn xao, lúc lại giằng xé cuộc tình tay ba như như Kẻ cắp trái tim hoặc như một biến tấu lạ như trong bộ tác phẩm Người tình Bóng tối và Dạ tiệc lúc nửa đêm…    Người tình bóng tối và Dạ tiệc lúc nửa đêm khiến người xem hồi hộp đến ngạt thở bởi những câu chuyện diễn ra trong bối cảnh đêm tối, gió mưa, bóng ma với những ma cà rồng chuyên ăn thịt người lúc ẩn lúc hiện. Sau trang sách, thông điệp được gửi đến vẫn là tình yêu, là niềm tin vào cái đẹp trong cuộc sống, như Julian trong Người tình bóng tối đã nói: “Dù là một ma cà rồng hay là một người đàn ông, anh cũng sẽ chỉ yêu một mình em”.  *** Nước Anh năm 1279 .   Chàng trai lẻn vào trong nhà không một tiếng động. Bước chân hắn ngập ngừng khi mùi hương thoang thoảng của lá hương thảo như những chiếc móng vuốt tinh vi cào nhẹ vào xương sống hắn. Hắn nhắm mắt một thoáng, để cho hương thơm bao phủ hắn như đêm hôm trước, khi mẹ kế của hắn nhún chào hắn trong phòng khiêu vũ. Sự mềm mại của những lọn tóc loăn xoăn đen nhánh của bà ta chải nhẹ vào má hắn khi bà ta dạy hắn từng bước của vũ điệu mừng Giáng Sinh với sự kiên nhẫn ngọt ngào nhất đã làm hắn thối chí. Hắn mở mắt; đôi bờ mi sẫm màu viền quanh đôi hố sâu ảm đạm.   Hắn không nên đến đây. Việc viết nhạc có thể học tại bàn của cha hắn. Bài học về tác phong nhã nhặn có thể học trong sảnh lớn. Hắn có thể học kỹ năng hiệp sĩ nào trong phòng ngủ của mẹ kế của hắn được chứ? Cha hắn sẽ trở về từ cuộc chiến trong khoảng hai tuần nữa. Hắn chỉ muốn gặp bà – để nói lời cám ơn về sự tử tế và những chăm sóc của bà khi cha hắn vắng mặt.   Những ngọn giáo va loảng xoảng bên ngoài ô cửa sổ để mở, tiếp theo sau là tiếng cười ầm ĩ.  Khu vực sân sau bên dưới, nơi những người cận vệ đang đấu thương, dường như là một thế giới tách biệt. Trước mắt hắn, ánh nắng thấm đẫm căn phòng ngủ trống trải. Thất vọng và nhẹ nhõm cùng lúc chụp lấy hắn khi hắn lướt về phía trước với một vẻ duyên dáng vượt xa hơn lứa tuổi mười bốn.   Những tấm màn lụa màu xanh lộng lẫy, thăm thẳm, tương tự màu mắt của bà, bị kéo khỏi chiếc giường lộn xộn. Hắn nép vào bên dưới bức trướng chạm trổ, bàn tay hắn run rẩy khi chạm vào chỗ hõm trên chiếc gối lông vũ nơi đầu bà đã nghỉ ngơi. ... Mời các bạn đón đọc Yêu và Hận của tác giả Teresa Medeiros.