Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cô Gái Lai Da Trắng

Là kết quả mối tình giữa một thiếu nữ Việt và một quân nhân người Pháp, lại bị cha đẻ bỏ rơi từ khi còn nằm trong bụng mẹ, cuộc đời của cô bé Kim trở thành một chuỗi những ngày tháng phiêu bạt không dứt từ vòng tay mẹ đến trại trẻ mồ côi đến trường nội trú, từ Bắc chí Nam... Trong bối cảnh Việt Nam vẫn còn nằm dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, thân phận vừa là con lai vừa là con hoang đã đặt trước Kim biết bao trở ngại, nhưng vẫn không thể khuất phục được ý chí cô vẫn nung nấu quyết tâm thay đổi vận mệnh mình, bằng con đường học vấn... Với lối viết dung dị mà lôi cuốn, cộng thêm sức thuyết phục từ nhiều tình tiết chân thực và cảm động, Cô gái lai da trắng đã nhận được sự đồng cảm của độc giả qua nhiều thế hệ. ***  Đôi nét về tác giả Kim Lefèvre chào đời ít lâu trước khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, cha người Pháp, mẹ người Việt Nam. Sống trọn thời thơ ấu tại Việt Nam, năm 1961 bà sang Pháp làm luận văn tiến sĩ và bắt đầu giảng dạy văn chương tại nhiều trường trung học tại Paris. Cuốn tự truyện Cô gái lai da trắng là tác phẩm đầu tay của bà, ra mắt năm 1982 với lượng tiêu thụ khá ấn tượng tại Pháp. Ngoài viết văn, Kim Lefèvre còn dịch một số tác phẩm của các tác giả Việt Nam, đặc biệt là Nguyễn Huy Thiệp. Bà cũng thể hiện tài năng diễn xuất trong lĩnh vực sân khấu. *** Hết thảy những câu văn trên đều đã vẽ ra được một góc cuộc sống của những người dân Việt Nam đương thời, từ việc chịu đựng sự bóc lột, sự phân biệt nặng nề đến việc chịu cảnh tha hương khắp chốn hay phải sống chung với những định kiến mang nặng tính cổ hủ đối với đàn bà phụ nữ… Từ đó mà ta có thể mường tượng ra được một số phận nhỏ bé, lầm lũi và đầy sự cay nghiệt của “lũ dân đen Annamite” xưa kia. Nếu ai đó nhắc đến chiến tranh, tôi liền nghĩ ngay đến những tháng ngày chết chóc đau thương, phải đi bôn ba khắp nơi để tìm một nơi để ngã lưng của những người dân, của những người lính và đặc biệt là của những đứa trẻ được sinh ra vào thời kì đó. Nhưng có lẽ, những đứa trẻ lai mới là những người thiệt thòi nhất. Còn gì đau khổ hơn khi biết mình là một con lai giữa Pháp và Việt ngay trong một bối cảnh chiến tranh chống Pháp còn đang dai dẳng tại Việt Nam, còn gì đau khổ hơn khi biết người cha Pháp của mình đã ruồng bỏ mình như ruồng bỏ một người xa lạ. Kim Lefèvre đã khắc họa được phần nào số phận và cuộc đời của những đứa con lai tại Việt Nam thông qua “Cô gái lai da trắng”, thông qua chính câu chuyện của cuộc đời bà. “Tôi được sinh ra, hình như ở Hà Nội, vào một ngày mùa xuân, ít lâu trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kết quả của một cuộc hôn phối chốc lát giữa một cô gái An Nam và một người Pháp. Về chuyện này, tôi chẳng có bằng chứng gì xác thực, mà cũng chẳng ai làm giấy khai sinh cho mãi đến năm tôi mười lăm tuổi. […] Tôi nung nấu mối hận thù mãnh liệt với người cha không hề biết mặt ấy, dường như chỉ có những đứa con bị tổn thương đến cùng cực mới có thể hận thù được đến như vậy.” Ở những dòng đầu, Kim đã kể lại với người đọc nơi mình sinh ra đồng thời cũng nói đến gia cảnh của chính bản thân mình. Bà là một người con lai mang trong mình dòng máu giữa Pháp và Việt. Trong cuộc đời của chính mình, bà có nhiều cái tên và họ khác nhau, chúng gắn liền với những sự kiện, những biến động trong dòng chảy số phận của bà. Từ lúc sinh ra cho đến lúc sang Pháp du học, bà đã trải qua rất nhiều biến cố từ việc bị quấy rối tình dục bởi người anh họ của mình “thấy bàn tay to tướng mềm nhũn của ông anh họ nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của mình mà gí vào chỗ kín của anh ta” cho đến việc bị đưa vào trại trẻ mồ côi bởi chính người mẹ của mình, phải chạy trốn nay đây mai đó vì chiến tranh rồi đến việc bị bắt quả tang khi bà hò hẹn với người thầy giáo, tất cả đều lột tả được số phận bi thảm của bà. Tuy nhiên bà vẫn vượt qua những bi thương đau khổ ấy và rồi cuối cùng giành được học bổng sang Pháp. Song song với chuyện cuộc đời mình, Kim còn phần nào tái hiện được một góc xã hội Việt Nam thời bấy giờ thông qua những chi tiết như: “[…] mẹ tôi là dân Bắc Kỳ. Bà vẫn nói giọng Bắc, đầu chít khăn chứ không búi tóc, đấy là bấy nhiêu bất lợi trong bối cảnh những mâu thuẫn địa phương rất khốc liệt. Tại Nam Kỳ, tức là ở phía Nam, người ta cho rằng dân Bắc Kỳ là những kẻ hà tiện và chỉ sĩ diện vẻ ngoài.” hay “Người ta nhớ lại hình ảnh những phu xe đã sức cùng lực kiệt mà vẫn phải chở những tên thực dân to lớn gấp ba mình và chỉ nhận được những cú đá thay cho tiền công.” Hết thảy những câu văn trên đều đã vẽ ra được một góc cuộc sống của những người dân Việt Nam đương thời, từ việc chịu đựng sự bóc lột, sự phân biệt nặng nề đến việc chịu cảnh tha hương khắp chốn hay phải sống chung với những định kiến mang nặng tính cổ hủ đối với đàn bà phụ nữ… Từ đó mà ta có thể mường tượng ra được một số phận nhỏ bé, lầm lũi và đầy sự cay nghiệt của “lũ dân đen Annamite” xưa kia. Khác với giọng văn đầy chất thơ của những nhà văn Pháp khác, giọng văn của Kim Lefèvre mang một nét gần gũi và bình dị, gần giống với giọng văn của các nhà văn Việt Nam. Trong “Cô gái lai da trắng”, Kim đã kể lại cuộc đời bà một cách vô cùng thân thuộc, hệt như cái cách mà những người bạn quen thân tâm sự với nhau. Khi tôi đọc, dường như có một cái gì đó cuốn hút tôi vào từng câu chữ, từng chương truyện trong tác phẩm. Và theo như tôi nghĩ, phải chăng chính sự bi thương, sầu thảm của số phận bà đã hấp dẫn tôi, lôi kéo tôi vào trong những trang sách, để tôi chiêm ngưỡng được một phần nào số phận người phụ nữ Việt Nam trong thời chiến tranh loạn lạc? Ấn tượng nhất của tôi về “Cô gái lai da trắng” chính là nét độc đáo trong việc bà kể lại các biến cố trong cuộc đời mình, từ đó mà đưa ra những bài học để đời và những quan niệm nhân sinh rất đặc sắc. Ví dụ như từ việc bà hẹn hò với chính người thầy của mình, dù biết việc làm này là sai trái, đi ngược lại với những luân thường đạo lý, nhưng bà vẫn kiên trì theo đuổi những cuộc đụng chạm da thịt chớp nhoáng này để rồi về sau bị bắt quả tang, phải chịu cảnh bị coi thường, khinh rẻ, ta rút ra được một bài học là đừng bao giờ để tình cảm che mờ đi lý trí của mình… Ngoài ra còn rất nhiều những bài học khác mà tôi sẽ đề cập đến trong bài viết sắp tới. Nguyễn Du từng viết: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời này bạc mệnh cũng là lời chung.” Chắc có lẽ như giữa bà và Nguyễn Du cũng có một nét tương đồng, đó chính là sự thông cảm và thương tiếc cho những phận đàn bà, phụ nữ Việt Nam ở cái thời “đời người con gái là con đường nhỏ hẹp dẫn từ trinh tiết đến hôn nhân”, ở cái thời mà “người ta sợ Việt Minh như sợ cọp trong rừng xưa kia” vì “nghĩ rằng Việt Minh không phải là người mình”… Hầu hết các tác phẩm văn chương thời chiến đều nói đến những người lính, những người dân hay nói đến bọn thực dân tàn ác mà ít đề cập đến số phận của những người con lai. Chính quyển sách này sẽ giúp mọi người hình dung rõ nét hơn về những con người mang danh phận con lai ở Việt Nam thời bấy giờ. Song song với nội dung đặc sắc trên, giọng văn và cách đề cập đến các vấn đề của bà cũng rất khéo léo, không gây gãy mạch truyện hay gây mất tự nhiên. Chính vì những điều trên, tôi nghĩ đây là quyển sách cần phải có trong tủ sách chiến tranh của mỗi người và tôi cũng rất khuyến khích các bạn nên đọc thử. Nội dung: Đào Phụng - Bila Team *** Tôi được sinh ra, hình như ở Hà Nội, vào một ngày mùa xuân, ít lâu trước cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, kết quả của cuộc hôn phối chốc lát giữa một cô gái An Nam và một người Pháp. Về chuyện này, tôi chẳng có bằng chứng gì xác thực, mà cũng chẳng ai làm giấy khai sinh cho mãi đến năm tôi mười lăm tuổi. Mà tôi cũng chẳng tìm hiểu làm gì. Điều đó có gì là quan trọng đối với tôi hay đối với ai khác. Chúng tôi sống trong một xã hội mà khái niệm thời gian định lượng không hề tồn tại. Cả đời người đàn bà chỉ cần chia làm mấy giai đoạn lớn: thời thơ ấu, rồi lúc thấy kinh - dấu hiệu có thể sinh con, và nghĩa là sắp lấy chồng được, rồi làm mẹ, mà nếu may mắn sinh được một đứa con trai thì sẽ làm mẹ chồng để có cái quyền áp chế một nàng dâu e lệ bước vào nhà mình… Cho nên có sớm muộn bốn hay năm năm cũng chẳng nghĩa lý gì. Tôi không biết cái ông sinh ra tôi trông giống ai. Mẹ tôi chẳng nhắc đến ông ta bao giờ. Trong những ngày buồn chán, tôi thích tưởng tượng, hình dung ông ta như một tay lính lê dương, không phải “chàng lê dương đẹp trai của em” như lời bài hát ở xứ Pháp này đâu, mà là một tay thực dân ngổ ngáo, đáng ghét, một kẻ thuộc phe kia. Tôi nung nấu mối hận thù mãnh liệt với người cha không hề biết mặt ấy, dường như chỉ những đứa con bị tổn thương đến cùng cực mới có thể hận thù được đến như vậy. Tôi đã mang nhiều họ nối tiếp nhau, chúng giống như những cái bản lề trong cuộc đời tôi. Đầu tiên là họ Trần của mẹ, khi bà một mình vò võ nuôi con. Nhưng rồi, hoảng hốt vì ngày càng chứng kiến thêm nhiều hậu quả do sự tồn tại của tôi đè nặng lên cuộc đời bà, bà liền giao tôi vào tay một bà vú trước khi trốn lủi vào tận Sài Gòn, mảnh đất lạ lẫm với bà nhưng lại chất chứa nhiều hy vọng cho bà xây dựng lại tương lai. Tiếp đến là cái họ Tiffon của người đàn ông sinh ra tôi, vào giai đoạn mà tất cả họ hàng nhất trí đòi mẹ tôi đưa tôi vào trại mồ côi để “quẳng lại cho dòng giống nhà nó”. Bởi vì, nói đúng ra, tôi đã trở thành một con quái vật giữa cái xã hội hết sức dân tộc chủ nghĩa. Ông cậu tôi tham gia Việt Minh từ năm 1941 và hội họp thường xuyên trong các khu rừng thuộc Tuyên Quang. Tất cả mọi cái trên người tôi đều tương phản với những người trong gia đình: từ hình hài đứa con lai đến tính khí thất thường khó hiểu, tóm lại là trong người tôi rất ít chất Việt Nam. Người ta chụp lên đầu tôi đủ thứ xấu xa chỉ vì dòng máu Pháp chảy trong huyết quản tôi. Điều đó ngăn cản mọi sự âu yếm dịu dàng dành cho tôi. Tôi thông cảm với họ. Tôi đồng tình với họ. Tôi cũng thế, cũng ghét cay ghét đắng cái thứ máu ấy trong người mình. Khi còn là một đứa con gái nhỏ, tôi đã khấn Trời khấn Phật xui khiến tôi gặp phải tai nạn gì đó cho cái thứ máu ấy, thứ máu đáng nguyền rủa ấy, chảy ra hết khỏi người tôi, để tôi được là đứa con gái Việt Nam thuần chủng, hòa hợp với những người xung quanh và ngay với chính bản thân mình. Vì tôi yêu đất nước này, yêu những cánh đồng lúa, những lũy tre xanh, những cái ao làng nơi tôi vẫn thường vùng vẫy với đám trẻ cùng lứa. Tôi không còn lưu giữ chút ký ức nào về những năm đầu của cuộc đời, ngoại trừ cái cảm giác rất sớm nhận ra rằng ở bất cứ chỗ nào mình cũng lạc lõng, xa lạ. Tôi rất đau lòng vì chuyện đó, không phải chỉ như chịu đựng một sự bất công, mà còn như phải mang trong mình một nét tật nguyền. Tuổi ấu thơ của tôi chỉ còn là bóng đêm trong ký ức. Đêm di cư. Tôi vẫn còn giữ từng mảnh ký ức về những cuộc dịch chuyển từ nơi này sang nơi khác, hệt như gói bưu kiện không người nhận. Bà vú già - từ lâu không được ai trả công, và cũng không còn nuôi nổi tôi nữa - cõng tôi trên lưng đi tìm một bà dì, ông cậu, hay bất cứ một người nào có dây mơ rễ má với tôi để trút sang họ cái gánh nặng này. Vào một đêm thu tại Hà Nội. Tôi nhớ tiết trời dịu mát vì trận mưa phùn - cái thứ mưa nhẹ hạt ở Bắc Kỳ - nhớ cảm giác dìu dịu trên tấm lưng trần của bà vú, da thịt vừa nhão vừa đàn hồi. Tôi bám vào thịt da bà như bám vào tấm võng ấm áp và mịn mượt, tôi nhấm nháp tận hưởng niềm thích thú trên con đường bất tận ấy. Phải chi cuộc hành trình vô định ấy kéo dài suốt cả đời tôi, và tôi cứ được bám lấy tấm lưng trần ấm áp của bà vú, còn da thịt mình thì phó mặc cho những hạt mưa phùn với lòng biết ơn, như vậy thì thích biết mấy. Trong ký ức xa xôi, tôi thấy Hồ Gươm hiện ra như một bức tranh Tàu mờ ảo trong sương. Vào năm nào? Tôi không thể nói chính xác. Bấy giờ các thiếu nữ đi dạo quanh bờ hồ, những mái tóc thề đen nhánh buông đến eo, và những tà áo mỏng phất phơ trước gió. Mấy đứa nhỏ chơi đùa trên bãi cỏ. Mấy bà hàng cốm bọc trong phiến lá sen những hạt cốm xanh rờn, mọng sữa, đượm hương lúa mới. Tôi thấy lại ngôi trường mẫu giáo, sáng sáng bầy trẻ nhỏ xếp hàng ngay ngắn trước ngọn cờ tam tài của Pháp, hét đến váng óc bài Maréchal, nous voila…* Người ta dạy lũ trẻ con chúng tôi sự ưu việt của trí tuệ so với bạo lực. Tôi còn nhớ bài hát kể chuyện Chú bé Tí Hon đã chiến thắng con quỷ ăn thịt người chỉ bằng mấy câu thế này: Hỡi con quỷ kia, hãy tránh lối ta đi! Bởi ta chẳng sợ gì mi Mi chẳng làm gì được ta Ta còn được học ở trường Chứ mi thì mãi là tên dốt đặc. Trí tuệ quả là thứ vũ khí kỳ diệu mà tôi mãi mãi tôn thờ. Hồi đó, tôi còn ở nhà bà cô của mẹ tôi. Bà đã có tuổi và tàn tật, nhưng nhan sắc thì tuyệt trần. Nghe nói bà bị ngã thang, giập xương hông, nên từ khi lâm nạn, bà phải ngồi lì trên chiếc ghế bành. Nhưng con mắt bà vẫn linh lợi, tâm trí bà vẫn hoạt bát cứ như một nữ thần vĩnh cửu và đáng sợ. Khi cuộc sống xô đẩy tôi trôi dạt đến nhà bà thì tuổi bà đã khoảng sáu lăm. Tuy nhiên, khuôn mặt trái xoan chưa lộ ra chút dấu hiệu nào của sự suy sụp, mà trái lại những nét đẹp của bà vẫn giữ được một sự trẻ trung lạ lùng. Bà kiêu kỳ với làn da mịn màng huyền diệu được tắm rửa bằng sữa. Bà bảo đó là bí quyết giữ gìn nhan sắc của bà. Khiếm khuyết duy nhất ở bà có lẽ là cái dáng vẻ èo uột, bệnh hoạn, bất thường như cái cây úa vàng vì cớm nắng. Bà không tỏ chút tình âu yếm nào đối với mẹ tôi cũng như đối với tôi. Bà gây cho tôi cảm giác kinh hãi, nên tôi thường phải núp vào một xó để ngắm nhìn bà mà tim vẫn đập loạn lên, chỉ lo bị bắt gặp. Trước khi bị nạn, bà cô của mẹ tôi sống phong lưu với một sĩ quan Pháp. Hai người sinh được một mụn con gái, tức là chị em con dì con già với mẹ tôi, hơn nhau vài tuổi. Dì Marcelle ở với bà cho đến khi có mang, sinh con trai xong là vội quẳng vào tay bà mẹ, tếch luôn sang Pháp. Dì đã sớm hiểu ra vận may của mình là không phải ở lại Việt Nam. Tôi ngờ ngợ rằng chính vào dạo ấy, mẹ tôi đã gặp cha tôi, nhưng không chắc lắm, vì không ai nói với tôi chuyện đó bao giờ. Bà cô mẹ tôi cưng cháu ngoại như ông thánh sống. Đó là một anh con trai bảnh bao khoảng mười lăm tuổi mà cả nhà phải gọi là “cậu Yves”. Được bà nuông chiều, anh càng làm vương làm tướng. Người béo bệu, da dẻ hồng hào nhưng nhẽo nhợt. Trong cái xã hội Á Đông chúng tôi, anh ta đại diện cho “bọn mũi lõ”, cách gọi dân dã để chỉ người Pháp thời bấy giờ. Cứ thấy anh ta ló mặt là chúng tôi đều phải cụp mắt xuống. Ra dáng cậu chủ, anh ta ngồi ăn bên bàn, còn chúng tôi thì ngồi trên manh chiếu trải dưới đất. Thỉnh thoảng anh ta quẳng xuống chiếu mấy miếng ăn thừa. Tôi rất hãi ông anh họ tôi, “cậu Yves”. Anh ta rất tai quái, xét nét từng li từng tí, chỉ rình xem tôi có sai sót gì là vin vào cớ đó mà bắt phạt. Tôi nhớ mãi những tiếng thét kinh hoàng của mình cái lần anh ta xốc tôi lên dứ dứ trên tổ kiến. Mà tội của tôi có đáng gì cho cam, chỉ là anh ta nghe người ta nói tôi không thật ngoan trên lớp. Dẫu gì thì anh ta cũng cứ muốn ra oai, thế là bắt tôi xắn quần qua đầu gối, quỳ ngay vào ổ kiến đang nháo nhác. Vì không bị trói nên tôi lẽ ra đã có thể trốn đi. Nhưng tôi vẫn cứ ở đó mà kêu la, gào khóc đến lạc giọng, như thể bị uy quyền của anh ta thôi miên vậy. Hai chục năm sau, tôi được mời đến gặp lại anh ta, khi đó đã là kỹ sư một công ty dầu lửa tại Sài Gòn. Còn tôi cũng đã là một cô giáo trẻ dạy Pháp văn tại một trường trung học Việt Nam trong thành phố. Đắn đo, do dự mãi, nhưng rồi tính hiếu kỳ đã át nỗi e ngại, tôi nhận lời. Xích lô đưa tôi đến trước cổng một ngôi biệt thự trong khu gia cư. Từ ngoài nhìn vào thấy thấp thoáng một lối đi giữa hai hàng me, một bãi cỏ điểm xuyết những bụi râm bụt. Tôi vội quay ngoắt. Những cánh cửa của quá khứ đời tôi, ẩn nấp đằng sau là các hung thần cho đến giờ vẫn tiếp tục gây khiếp đảm cho đứa con gái nhỏ khốn khổ ngày trước, đã khép lại như thế đó. Quan hệ giữa tôi với anh Yves hồi nhỏ là thứ quan hệ hết sức hỗn tạp. Ban ngày, tôi phải làm một phần việc của con sen con ở. Thế nhưng tối đến vẫn phải nằm cùng anh trên cái giường Tây cao lêu đêu. Với tôi, cái giường ấy luôn là giường lạ, không làm sao quen được. Leo lên cái giường ấy là leo vào một thế giới chất chồng sợ hãi và căm ghét. Thế mà tối nào tôi cũng phải nằm bên một con người suốt ngày hành hạ mình. Người tôi cứng đơ ra vì sợ hãi, hai mắt nhắm nghiền nhưng cứ phải nằm im thin thít, theo dõi nhất cử nhất động của ông anh họ, rình anh ta ngủ say rồi mới dám chợp mắt. Cả hai đứa rình lẫn nhau. Nhưng phần lớn thời gian, cái sợ của tôi tỉnh táo hơn cái ác của anh ta, nên anh ta luôn thiu thiu ngủ trước tôi. Bấy giờ tôi mới ngủ thiếp đi. Tôi căm ghét cái giường đôi ấy, và mỗi lần phải đòn là tôi lại thừa dịp vừa kêu gào khóc lóc vừa tè luôn một bãi ra tấm khăn trải giường trắng tinh. Tôi sung sướng đến phát dại khi thấy cái giường bị ố bẩn, còn ông anh họ tôi thì tức tối lồng lộn. Những chiến công hiếm hoi ấy đã trả hận cho tôi những nỗi kinh khiếp lúc đêm khuya giật mình thức giấc, thấy bàn tay to tướng mềm nhũn của ông anh họ nắm lấy bàn tay nhỏ xíu của mình mà gí vào chỗ kín của anh ta. Tôi trùm kín tấm chăn như trùm vải liệm, vừa ngạt thở vừa tê liệt vì ghê tởm. Một cơn lạnh buốt thấu ruột gan, chỉ muốn chết cho rồi. Lúc ấy tôi mới chừng bốn, năm tuổi. Sáng ra mới thấy lại cái thú muốn sống. Mùi rau thơm, mùi gừng chín ngào ngạt từ dưới bếp đưa lên mùi phở, thứ xúp ăn sáng ở Hà Nội, thêm tiếng bát đũa, tiếng thìa chén lanh canh chuẩn bị bữa điểm tâm, cả một thế giới thân thuộc khiến ta yên dạ. Nhà bà cô của mẹ tôi gồm một gian chính trông ra sân, giữa sân có giếng nước, bên kia giếng là một dãy những phòng nhỏ y hệt nhau, dành cho các cô gái được gọi là “con nuôi” của bà thuê lại. Họ đều là gái mới lớn, từ đồng ruộng ra thẳng đây để được tuyển làm vợ bé cho các sĩ quan Pháp là khách quen của nhà này. Các cô rời bỏ quê nhà để bố mẹ khỏi phải nuôi thêm một miệng ăn. Ngoài tuổi trẻ và nhan sắc ra, họ chẳng có của nả gì khác. Còn gì giản đơn hơn việc bán mình? Dẫu thế, họ vẫn không phải là gái điếm. Các cô không có cả cái ưu lẫn cái khuyết của gái điếm. Với bản tính cả thẹn và sự trong trắng cả thể xác lẫn tâm hồn, các cô co rúm người lại như phải nuốt chén thuốc đắng khi hiến thân cho gã đàn ông không quen biết. Đó là cái thời điểm khó chịu nhất buộc phải trải qua. Các cô không ý thức được bao nhiêu về nhân cách để cảm thấy bị xúc phạm. Huống hồ, họ cho rằng đã là đàn bà thì người đoan chính nhất cũng không thoát được việc đó trong ngày cưới của mình kia mà. Chẳng qua thân phận đàn bà là thế. Còn việc yêu đương, các cô chẳng bao giờ nghĩ đến, hay ít nhất cũng không nghĩ đến việc yêu đương những gã đàn ông cao lớn, lông lá, đang làm chủ cái đất nước vốn đã đầy rẫy những nỗi e sợ chồng chất lên đầu họ. Các cô chỉ cố không để những gã đàn ông ấy phật lòng và xin ngoan ngoãn làm vợ bé nàng hầu, miễn là được giữ kín, không để lọt tai tiếng về làng. Trong số đó, tôi đặc biệt có cảm tình với một cô gái trẻ tuổi, mảnh mai, mái tóc óng ả trời ban mỗi lần ngồi xuống là quét tận mặt đất. Tình cảm âu yếm của cô đã bù đắp cho tôi. Tôi bắt chước dáng đi, dáng ngồi của cô, tôi cũng lấy khăn vấn tóc lên cho giống cô. Đôi khi tôi đi theo cô vào tận căn phòng nhỏ bề bộn những quần áo đàn ông. Một lần, cô bỗng chui xuống gầm giường lấy ra một cái tráp đựng mấy chiếc trâm cài đầu có hình chim đang bay, một chiếc mùi soa thêu, vài đồng tiền nhét trong ruột tượng. Số tiền chẳng là bao, nhưng cô vẫn phải trông vào nó phòng lúc ốm đau. Lo dành dụm kín đáo một ít tiền riêng là việc thường tình của người phụ nữ Á Đông đã hấp thụ nền giáo dục dựa trên đạo lý tam tòng. Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Người đàn bà nào cũng phải tuân theo đạo tam tòng ấy. Cô cũng vậy, cô thấy trước rằng khi bị xử tệ hay bị xua đuổi, sẽ chẳng ai che chở cho mình, số phận cô lúc này hoàn toàn nằm trong tay ông chủ nhất thời kia. Gặp được người tốt bụng thì cô tạ ơn Trời Phật, chẳng may gặp phải người xấu thì cô đem chỗ tiền dành dụm mua chút lễ vật cúng Trời Phật cầu được phù hộ độ trì. Tôi thường thấy mẹ tôi chôn giấu chút ít tiền bạc để đảm bảo cho mình khi gặp chuyện chẳng lành. Mẹ ơi, con đã từng được kề cận bên mẹ trong những đêm tối đen như mực ấy. Hai mẹ con mình rón rén bước chân với ngọn đèn dầu lạc che khuất dưới chiếc nón lá. Ánh đèn chỉ đủ rọi xuống bốn bàn chân trần và khoảng sáng hẹp bao quanh. Mẹ lo không tìm ra chỗ bờ bụi nơi chôn giấu kho báu của mẹ. Mấy con chão chuộc thấy động kêu toáng lên làm con giật bắn người. Thỉnh thoảng một con đom đóm xé màn đêm bằng ánh sáng lập lòe trốn chạy, tưởng như những bóng ma trơi đang than khóc bằng ánh lập lòe ấy. Con mong sao cho cái hũ tiền của mẹ được chôn nơi tận cùng thế giới để mẹ con ta đi đến đó mà tìm, từ bỏ mãi mãi những gì ở lại phía sau. Tôi sống ở Hà Nội với bà trẻ và anh họ tôi chỉ được một thời gian ngắn. Họ nhanh chóng chán ngán tôi. Từ lâu tôi cũng đã cảm thấy tự trong bản chất tôi có cái gì đó không những không gây thiện cảm mà còn gây ác cảm nữa, nó làm cho người có thiện ý nhất cũng dễ nản lòng, và làm cho sự vồ vập dành cho tôi không bao giờ biết đến ngày mai. Tôi không hề biết rằng mỗi lần người ta ngỏ ý muốn tống khứ tôi đi, chính là do mẹ tôi lần đó không gửi số tiền cần có để nuôi tôi. Bằng chứng là người ta lại tống tôi vào Sài Gòn với mẹ. Tôi không nhớ được là vào năm nào và tôi đã đi như thế nào tới thủ phủ của miền Nam Việt Nam. Có lẽ lúc ấy tôi mới lên bốn lên năm gì đó. Mẹ tôi sống với một ông chồng trong một ngôi nhà đâu đó tại vùng ngoại ô. Một mảnh sân nhỏ ngăn cách gian bếp với nhà trên là nơi có đặt bàn thờ tiên tổ. Đấy là nơi mẹ tôi mỗi khi có điều gì buồn bực lại chìm đắm vào việc đèn nhang khấn vái. Bà có mang và khấn vái suốt. Mời các bạn đón đọc Cô Gái Lai Da Trắng của tác giả Kim Lefèvre.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Cho Đất Nước Đi Lên
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tùy bút Cho Đất Nước Đi Lên của tác giả Thích Nhất Hạnh. Trong chuyến về thăm quê hương mà nay đã thành lịch sử. Từ ngày 12 tháng 1 năm 2005 đến ngày 11 tháng 4 năm 2005, Thiền sư Thích Nhất Hạnh và tăng thân Đạo Tràng Mai Thôn đã đi thăm các Tổ Đình và Tự Viện trên khắp ba miền đất nước. Chỉ với chín mươi ngày ngắn ngủi đó, trong những giảng đường dù lớn rộng đến đâu nhưng vẫn không bao giờ đủ chỗ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thuyết giảng trên dưới bảy mươi bài, phần lớn dành cho Tăng Ni và Phật tử cư sĩ trong các khóa tu tổ chức tại chùa, nhưng cũng có những bài nói chuyện với nhân sĩ, trí thức đồng bào mọi giới ở bốn thành phố lớn Hà Nội (hai lần), Sài Gòn, Huế và Bình Định. Bảy bài được in lại trong tập sách này được tuyển chọn từ bảy mươi bài pháp thoại của cả chuyến đi, xếp theo thứ tự thời gian các buổi nói chuyện của Thiền sư tại trụ sở các tổ chức văn hóa, giáo dục, tôn giáo và chính trị ở ba thành phố lớn Hà Nội, Huế và Sài Gòn. Người nghe là những cán bộ, nhân sĩ, trí thức hoạt động trong các giới chính trị, văn hóa, xã hội và tôn giáo. Ngoài ra cũng có đông đảo khách mời trong và ngoài nước. Chủ đề của các bài nói dù khác nhau nhưng tựu trung nhà văn hóa Nhất Hạnh đã khách quan trình bày một Phật giáo qua nhãn quan và nhận thức mới từ những kinh nghiệm thực tiễn qua những năm hành đạo của ngài tại các quốc gia Tây phương. Đó là Phật giáo dấn thân, trị liệu và chuyển hóa, là đạo Bụt đi vào cuộc đời mà hơn 40 năm trước ở quê hương, chính ngài đã khởi xướng. Nhưng chúng ta vẫn nhận ra được Phật giáo muôn đời của trí tuệ và từ bi, của hiểu và thương. Để có được một tình thương đúng nghĩa ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Hiểu càng sâu thương càng lớn, cả hai giúp ta đạt tới tự do, giải phóng chính mình, có cơ hội tiếp xúc sâu sắc với sự sống trong và quanh ta, thực sự sống trọn vẹn trong từng giây phút hiện tại màu nhiệm, đạt an lạc ngay giữa đời này, vượt trên mọi sóng thăng trầm của biển đời tục lụy, để rồi có thể sang bờ kia, thoát vòng sinh tử. Gia tài của đạo Bụt Việt Nam tổng hợp của đại thừa và nguyên thủy, của Hiện Pháp Lạc Trú và Tịnh Độ hiện tiền sẽ đưa dân tộc bây giờ cùng đi như một giòng sông, sẽ đẩy đất nước ở đây đi lên. Để Cho Đất Nước Đi Lên là tựa đề được Thiền Sư chọn và tự tay viết với thư pháp của ngài để làm bìa in cho tập sách này. Chúng tôi trân trọng gửi tới các bạn đọc. Các bài nói chuyện ghi lại theo bản mp3 thu âm tại chỗ. Lời của ngài giữ nguyên, ý của ngài giữ trọn vẹn nhưng câu cú có lược chuyển đôi chút để những bài đọc được thêm xuôi thuận. Các chú thích về các những danh từ Phật học, nhân danh, địa danh nước ngoài (nếu có sai lầm) là của ban biên tập. Chúng tôi đã dựa trên Tự Điển Làng Mai (TĐLM), Từ Điển Phật Học - Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách (TĐPH). Trân trọng cảm ơn các tác giả. Ban biên tập (2009) *** Tóm tắt Tùy bút "Cho Đất Nước Đi Lên" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là tuyển tập 7 bài pháp thoại được tuyển chọn từ 70 bài pháp thoại của Ngài trong chuyến về thăm quê hương năm 2005. Trong các bài pháp thoại của mình, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trình bày một Phật giáo dấn thân, trị liệu và chuyển hóa, là đạo Bụt đi vào cuộc đời. Ngài nhấn mạnh tầm quan trọng của trí tuệ và từ bi, của hiểu và thương. Để có được một tình thương đúng nghĩa, chúng ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đề cập đến gia tài của đạo Bụt Việt Nam, tổng hợp của đại thừa và nguyên thủy, của Hiện Pháp Lạc Trú và Tịnh Độ hiện tiền. Ngài tin rằng gia tài này sẽ đưa dân tộc cùng đi như một dòng sông, sẽ đẩy đất nước đi lên. Review "Cho Đất Nước Đi Lên" là một tác phẩm có giá trị về mặt văn hóa, chính trị, và tôn giáo. Đây là một nguồn tài liệu quý báu cho những ai muốn tìm hiểu về Phật giáo Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo dấn thân. Sách được viết theo lối văn giản dị, dễ hiểu, nhưng vẫn đầy chất thơ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sử dụng những câu chuyện, hình ảnh, và bài thơ để diễn đạt những ý tưởng của mình một cách sinh động và dễ tiếp thu. Đọc "Cho Đất Nước Đi Lên", người đọc sẽ được tiếp cận với những góc nhìn mới về Phật giáo, về con người, và về đất nước Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã truyền tải một thông điệp tích cực và đầy hy vọng về một tương lai tươi sáng cho đất nước Việt Nam. Một số bài pháp thoại tiêu biểu trong sách Bài 1: Cùng đi như một dòng sông Trong bài pháp thoại này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đoàn kết, gắn bó trong một dân tộc. Ngài ví von dân tộc như một dòng sông, chỉ khi mọi người cùng chung sức, đồng lòng thì dòng sông mới có thể chảy trôi mạnh mẽ. Bài 2: Hiểu và thương Bài pháp thoại này đề cập đến tầm quan trọng của hiểu và thương trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, để có được một tình thương đúng nghĩa, chúng ta cần phải có hiểu biết. Hiểu để nhận diện, để công nhận nhau qua bao oan khúc, phân ly để thoát khỏi những sợ hãi, nghị kỵ, hận thù,… khi đó mới có thể thương được thực sự. Bài 3: Trí tuệ và từ bi Bài pháp thoại này nói về mối quan hệ giữa trí tuệ và từ bi. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, trí tuệ và từ bi là hai cánh của con chim bồ câu hòa bình. Có trí tuệ, chúng ta mới có thể thấu hiểu bản chất của vấn đề, từ đó đưa ra những giải pháp đúng đắn. Có từ bi, chúng ta mới có thể hành động vì lợi ích của người khác. Bài 4: Gia tài của đạo Bụt Việt Nam Bài pháp thoại này đề cập đến gia tài của đạo Bụt Việt Nam. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, gia tài này là một nguồn sức mạnh to lớn có thể giúp đất nước Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Bài 5: Đạo Bụt đi vào cuộc đời Bài pháp thoại này nói về tầm quan trọng của việc thực hành Phật giáo trong cuộc sống. Thiền sư Thích Nhất Hạnh cho rằng, Phật giáo không chỉ là một tôn giáo mà còn là một lối sống, một triết lý nhân sinh. Chúng ta cần thực hành Phật giáo trong cuộc sống hàng ngày để có được hạnh phúc và an lạc. Bài 6: Cho đất nước đi lên Bài pháp thoại này là bài pháp thoại cuối cùng trong sách. Trong bài pháp thoại này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã gửi gắm những lời tâm huyết của mình cho đất nước Việt Nam. Ngài mong muốn đất nước Việt Nam sẽ hòa bình, thịnh   Mời các bạn mượn đọc sách Cho Đất Nước Đi Lên của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của tác giả Thích Nhất Hạnh. Này Người bạn trẻ, tôi muốn mời anh, tôi muốn mời chị tham dự vào một giấc mơ, tôi tạm gọi giấc mơ ấy là giấc mơ Việt Nam... Giấc mơ chung của chúng ta Giấc mơ Việt Nam là có một nước Việt Nam thật đẹp, thật hiền, chơi chung với các nước Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Myanmar, với Hàn Quốc và Nhật Bản, và sau đó, với cả Trung Quốc, một cách thân ái trong tình huynh đệ, dân chúng các nước qua lại không cần chiếu khán, và tất cả sử dụng một đồng bạc chung. Giấc mơ Việt Nam là dân tộc Việt Nam biết để thì giờ ra để đi chơi, ngồi chơi, leo núi, đi biển, sống với cảnh đẹp thiên nhiên, hàng ngày có nhiều cơ hội dựng xây tình huynh đệ mà không để hết thì giờ chạy theo sắc dục, tiền bạc, quyền hành và danh vọng. Giấc mơ Việt Nam là trẻ em và người lớn đều ý thức được rằng đất hứa, thiên đường hay cõi tịnh độ là cái đang có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại, và ta phải biết và phải có khả năng thích ý rong chơi. Giấc mơ Việt Nam là người Việt có khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc, có thì giờ và tình thương để làm việc giúp cho người trong nước và ngoài nước vượt thắng nghèo khổ, bệnh tật, thất học, hòa giải được với người thân và tìm được nguồn vui sống. Giấc mơ Việt Nam là sông, núi, rừng, biển và ruộng vườn của chúng ta được bảo vệ an lành để chúng ta và con cháu chúng ta cũng như thế giới cũng được bảo vệ an lành và để cho mọi người được tiếp tục thừa hưởng tất cả những gì hùng vĩ, cẩm tú và giàu sang của đất nước này. Giấc mơ Việt Nam là những người Việt sống trong một nước có quyền tin theo bất cứ một tôn giáo, một chủ thuyết nào, nhưng tất cả đều thấy được rằng không có tôn giáo và chủ thuyết nào cao hơn tình huynh đệ, cao hơn lòng cởi mở và lượng bao dung, và bất cứ ai cũng học được và thừa hưởng được những châu báu của các truyền thống và quan điểm khác để làm giàu cho tuệ giác và hạnh phúc của mình. Giấc mơ Việt Nam là các quốc gia lân cận, kể cả Trung Quốc, biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm chiếm và giành giật nhau, tại vì người Việt đã học được cách bảo vệ sông núi, văn hóa và con người của mình bằng nếp chung sống hòa bình, bằng tình huynh đệ, bằng tài ngoại giao, bằng nếp sống tương trợ với các nước chung quanh mà không tin rằng chỉ có vũ khí và quân sự mới làm được chuyện ấy. Ô hay, bạn sẽ nói, thầy Nhất Hạnh lâu nay khuyên mình sống trong giây phút hiện tại mà bây giờ lại tìm cách trao cho mình một giấc mơ, gọi là giấc mơ Việt Nam! Thầy Nhất Hạnh có còn là thầy Nhất Hạnh nữa không, khi thầy muốn dìu mình đi vào một giấc mơ, dù là một giấc mơ thật đẹp? Người bạn trẻ ơi, sở dĩ tôi nói tới giấc mơ, tại vì giấc mơ này có thể trở thành sự thật, và đang bắt đầu trở thành sự thật. Một giấc mơ không bao giờ có thể trở thành sự thật một trăm phần trăm, nhưng nó có thể dần dần trở thành sự thật mỗi ngày, và ta có thể sống với sự thật ấy trong giây phút hiện tại. Lý tưởng lớn, hoài bão rộng là gì, nếu không phải là một giấc mơ? Trong đạo Bụt người ta dùng danh từ Tâm Bồ Đề. Tâm bồ đề đâu có phải chỉ là giấc mơ? Tâm bồ đề là một sự thật, một năng lượng mà ta đang sống và đang cho ta nhiều niềm tin và hạnh phúc. Giấc mơ có thể trở thành sự thật từ từ trong từng giây phút của cuộc sống. Mấy mươi năm nay, không lúc nào mà tôi không đang chứng kiến giấc mơ trở thành sự thật, trong đời sống hàng ngày của tôi. *** Tóm tắt Tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của Thích Nhất Hạnh là một lời kêu gọi các bạn trẻ Việt Nam hãy cùng nhau xây dựng một giấc mơ Việt Nam tươi đẹp, hòa bình và hạnh phúc. Giấc mơ ấy bao gồm những điều sau: Một nước Việt Nam hòa bình, thân thiện với các nước láng giềng. Một dân tộc Việt Nam biết trân trọng thiên nhiên và sống chan hòa với nhau. Một đất nước Việt Nam nơi mọi người được sống hạnh phúc và bình an. Review Tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng là một tác phẩm giàu ý nghĩa và có sức truyền cảm mạnh mẽ. Thích Nhất Hạnh đã dùng những ngôn từ giản dị, gần gũi để nói lên những suy nghĩ và mong ước của mình về tương lai của đất nước Việt Nam. Giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh là một giấc mơ đẹp, nhưng nó không phải là một giấc mơ viển vông. Giấc mơ ấy có thể trở thành hiện thực nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực, chung tay xây dựng. Tùy bút đã gợi lên trong lòng người đọc niềm tin và hy vọng vào một tương lai tươi sáng cho đất nước Việt Nam. Nó cũng là một lời nhắc nhở đối với các bạn trẻ Việt Nam hãy sống có trách nhiệm với bản thân, với gia đình, với xã hội và với đất nước. Một số điểm nổi bật của tùy bút: Tác phẩm mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Thích Nhất Hạnh đã đề cao những giá trị cao đẹp của con người như tình yêu thương, hòa bình, đoàn kết,… Tác phẩm có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngôn từ giản dị, gần gũi của Thích Nhất Hạnh đã giúp người đọc dễ dàng thấu hiểu và đồng cảm với những suy nghĩ, mong ước của ông. Tác phẩm có giá trị thời sự. Giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh là một giấc mơ đẹp, nhưng nó cũng là một giấc mơ thiết thực, có thể trở thành hiện thực nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực. Đánh giá Tôi đánh giá tùy bút Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của Thích Nhất Hạnh là một tác phẩm hay và ý nghĩa. Tác phẩm đã để lại trong lòng tôi nhiều suy nghĩ và cảm xúc. Tôi tin rằng, nếu mỗi người Việt Nam đều cùng nhau nỗ lực, chung tay xây dựng thì giấc mơ Việt Nam của Thích Nhất Hạnh sẽ sớm trở thành hiện thực. Mời các bạn mượn đọc sách Tuổi Trẻ - Tình Yêu - Lý Tưởng của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ của tác giả Thích Nhất Hạnh. Truyện Kiều là tác phẩm thơ nổi tiếng nhất của nền Thi ca Việt Nam. Người trẻ nào trong thời gian học Trung học cũng có dịp được nghe về truyện Kiều và học một ít về truyện Kiều. Nhưng vì truyện Kiều là một tác phẩm cổ điển và lại có nhiều điển tích cho nên đối với người trẻ, thưởng thức hết được cái hay của truyện Kiều là một chuyện không dễ. Vì vậy tôi đã có ý cống hiến Truyện Kiều Văn Xuôi như một lời mời mọc những người trẻ trở về thưởng thức những cái hay, cái đẹp của truyện Kiều. Đọc xong Truyện Kiều Văn Xuôi, người trẻ sẽ thấy thoải mái khi trở về với nguyên tác bằng thơ. Tôi nhớ hồi 1945, khi nước ta mới giành lại được chủ quyền quốc gia, tất cả các phân khoa của các trường Đại Học trong nước đều còn sử dụng tiếng Pháp để dạy và để học. Trong suốt những năm sau đó, các giáo sư đã nỗ lực tìm cách sử dụng tiếng Việt để giảng dạy trong các phân khoa Đại Học, từ trường Y, trường Dược, trường Luật đến trường Khoa Học. Các tập sách như Danh Từ Khoa Học, Danh Từ Luật Học, v.v.. được biên tập cấp tốc để cung ứng kịp thời cho nhu cầu giảng dạy và học hỏi. Nhiều khi giáo sư và sinh viên cọng tác với nhau ngày cũng như đêm để làm công việc biên tập ấy. Lòng yêu nước và yêu tiếng Việt ấy của mọi người thật đáng làm cho chúng ta cảm động. Sự xuất hiện của truyện Kiều cách đây gần 200 năm đã cho chúng ta rất nhiều niềm tin nơi khả năng diễn đạt của tiếng Việt. Truyện Kiều cho chúng ta thấy là tiếng Việt có khả năng diễn tả được những tư duy và tình cảm sâu sắc nhất của ta. Trước đó, có người tin rằng chỉ có chữ Hán mới làm được việc này. Vì vậy mới có câu, 'Nôm na là cha mách qué,' tỏ ý không tin tưởng mấy vào khả năng của tiếng Việt. Viết truyện Kiều bằng chữ Nôm, thi sĩ Nguyễn Du đã đóng góp lớn lao cho văn hóa dân tộc và cho niềm tin của chúng ta nơi tiếng mẹ đẻ, dù có thể là trong khi sáng tác, thi sĩ đã không có chủ đích ấy. Tuy nhiên có một điều mà ta không thể nghi ngờ được: đó là Nguyễn Du đã rất yêu tiếng Việt. Tôi xin lỗi các bạn trẻ là đã không chuyển hết được toàn bộ truyện Kiều thành văn xuôi. Tôi là người xuất gia, phải dành phần lớn thì giờ của mình cho việc ngồi thiền, dịch kinh và hướng dẫn các khóa tu cho cả hai giới xuất gia lẫn tại gia, cho nên chỉ mới làm được tới đấy. Tôi mong có dịp rảnh để hoàn tất được công việc rất thú vị này. Trong khi chờ đợi, xin đền bù lại bằng bài 'Kiều và nền Văn Nghệ đứt ruột' in ở phần sau. Viết tại thất Ngồi Yên Xóm Thượng Làng Mai, Pháp quốc. Ngày 14.7.2002 *** Tóm tắt Cuốn sách "Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ" của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là một bản dịch văn xuôi của tác phẩm "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Cuốn sách được viết với mục đích giúp cho những người trẻ tuổi có thể dễ dàng tiếp cận và thưởng thức tác phẩm văn học kinh điển này. Cuốn sách được chia thành 32 chương, mỗi chương tương ứng với một đoạn thơ trong "Truyện Kiều". Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã cố gắng giữ nguyên nội dung và tinh thần của tác phẩm gốc, đồng thời sử dụng ngôn ngữ giản dị, gần gũi để phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Review Cuốn sách "Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ" là một tác phẩm có giá trị đối với những người trẻ tuổi yêu thích văn học. Cuốn sách giúp người đọc dễ dàng hiểu và cảm nhận được những giá trị nhân văn sâu sắc của "Truyện Kiều". Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc về "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Ông đã khéo léo chuyển tải nội dung và tinh thần của tác phẩm gốc sang văn xuôi một cách trọn vẹn. Ngôn ngữ của cuốn sách giản dị, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Cuốn sách đã giúp người đọc trẻ tuổi có thêm một cách tiếp cận tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Cuốn sách cũng giúp người đọc hiểu thêm về văn hóa và lịch sử của dân tộc Việt Nam. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cuốn sách được viết với mục đích giúp cho những người trẻ tuổi có thể dễ dàng tiếp cận và thưởng thức tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Cuốn sách được viết bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi, dễ hiểu, phù hợp với người đọc trẻ tuổi. Cuốn sách đã thể hiện sự am hiểu sâu sắc của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Cuốn sách đã giúp người đọc trẻ tuổi có thêm một cách tiếp cận tác phẩm văn học kinh điển "Truyện Kiều". Mời các bạn mượn đọc sách Truyện Kiều Văn Xuôi Dành Cho Người Trẻ của tác giả Thích Nhất Hạnh.
Sói Già Phố Wall [Phần II]
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) Hồi ký Sói Già Phố Wall [Phần II] của tác giả Jordan Belfort. Sói già Phố Wall là cuốn tự truyện của Jordan Belfort - một huyền thoại trong ngành môi giới chứng khoán trên sàn phố Wall. Tác phẩm kể về quá trình phất lên của Jordan nói riêng, cũng như nội tình cuộc đại khủng hoảng tín dụng thứ cấp ở Mỹ nói chung. Được mọi người gọi với nhiều biệt danh, trong đó, cái tên Sói Già Phố Wall là hợp với Jordan hơn cả - một con sói tối thượng đội lốt cừu non. Ngoại hình và cách hành xử của anh ta trông giống như một đứa trẻ nhưng thực chất, anh ta đâu có trẻ con. Anh ta là một thằng đàn ông ba mươi mốt tuổi nhưng già đời như một lão sáu mươi, "sống theo thang tuổi của loài chó" - một năm bằng bảy năm tuổi người.Vừa tốt nghiệp đại học, bước vào khởi nghiệp, Jordan Belford đã gặp ngay thất bại đầu đời trên phố Wall, bởi anh ta mới chỉ là “cừu non” giữa bao “sói già” khác vây quanh. Chàng trai có cặp mắt xanh, cái miệng dẻo quẹo, cao chỉ tầm một thước bảy chẳng còn cách nào khác, phải chuyển hướng để kiếm việc. Anh ta tìm đến một công ty bé xíu để thử vận may. Chính nơi làm việc vô danh tiểu tốt này đã nhanh chóng trở thành “vườn ươm” cho tài năng bán hàng và môi giới của anh chàng Jordan Belford hiếu thắng, nhanh nhẹn, nhiều mưu lược. Cũng từ đây, gã trùm tài chính tương lai dần thọc tay vào nhiều ngõ ngách của thế giới phù hoa, hào nhoáng, gia nhập đội ngũ “buôn tiền” khét tiếng, từng bước khuynh đảo thị tường chứng khoán phố Wall.Sớm trở nên giàu có sau những vụ IPO nổi đình đám, nâng giá cổ phiếu từ “rác” trở thành “vàng”, đại gia Jordan Belford đã vượt mặt những tay trùm từng một thời vênh váo, biết chống chịu với những cơn stress trong cái nghề đầy áp lực. Với rất nhiều mánh lới trong kinh doanh, Sói Già đã trở thành triệu phú thị trường chứng khoán ở tuổi hai mươi sáu, bị kết án ở cấp liên bang năm ba mươi sáu tuổi. Anh ta tiệc tùng như một ngôi sao nhạc rock, sống như một ông hoàng và bước qua mọi thăng trầm của đời mình như một biểu tượng của các doanh nhân nước Mỹ. Từ một cậu bé bán kem dạo trong những kỳ nghỉ hè ở Italia, Jordan trở thành người có thể kiếm hàng triệu đô trong phút chốc bằng những mánh lới xoay đủ chiều, có khi còn lợi dụng cả những người thân bên mình. Anh ta cũng sớm học được cách nốc rượu thay nước lọc, chơi cocain, bao gái, và tiệc tùng lõa thể thâu đêm suốt sáng. Là con “sói già” vô cùng tỉnh táo trên thương trường, nhưng trong đời riêng, không ít lần hắn rơi vào cảm giác vô thức. Trong cuộc đời Jordan Belford, dẫu từng có bao gái đẹp vây quanh, nhưng kết cục vẫn là “từng người tình đã bỏ ta đi”. Sói Già cũng có gia đình. Ly hôn với người vợ đầu - người đã gắn bó khăng khít với anh ta khi còn hàn vi, Jordan cưới ngay một cô gái làm người mẫu quảng cáo cho một hãng bia bởi vẻ đẹp hớp hồn của cô ta. Họ cùng hai đứa con xinh xắn chung sống trong một ngôi nhà đồ sộ, đội ngũ người hầu hai hai người làm việc toàn thời gian, hai vệ sĩ tận tụy cũng những chiếc camera lắp đặt ở mọi nơi, tất cả những đồ vật trong nhà, cho dù những thứ nhỏ nhặt, đều được mua với giá ít nhất là vài nghìn đô la. Những phi vụ tài chính của Sói Già trót lọt trong cả chục năm trời. Cuối cùng, sau hơn năm năm kể từ lúc bị Ủy ban Chứng khoán và Hối đoái truy tố, Jordan mới thật sự phải vào tù - chịu án hai mươi hai tháng tại một trại giam cấp liên bang. Gia đình anh ta cũng đổ vỡ khi người vợ xinh đẹp quyết định ly hôn. Sói già phố Wall không đơn thuần là một cuốn hồi ký. Nó giống như một lời cảnh báo của Jordan Belfort về ngành tài chính, chứng khoán phố Wall, sự tham lam của các nhà đầu cơ, những nguy hiểm tiềm tang trên con đường danh vọng. Trong cuốn sách này, ông cũng đã trực tiếp nhìn nhận những sai lầm trong quá khứ của chính mình, từ đó thẳng thắn lên án và vạch trần lối sống xa hoa vô độ, dâm dục của một bộ phận lớn tư bản Mỹ. "Những gì tôi thật lòng mong muốn là cuộc đời tôi sẽ trở thành câu chuyện cảnh báo cho cả những người giàu có và nghèo hèn; cho bất kỳ ai đang sống trong cảnh cơm bưng nước rót; hoặc người nào đang tính chuyện chớp lấy vận may và bạc đãi món quà ấy của Chúa; cho cả những ai quyết định đi vào ngõ tối của quyền lực và sống một cuộc sống trụy lạc sa đọa. Và cho bất kỳ ai nghĩ rằng chẳng có gì đáng nói khi bị xem là Sói già Phố Wall.” *** Jordan Belfort sinh ngày 9 tháng 7 năm 1962 tại thành phố New York, Mỹ. Ông hiện là chuyên gia tư vấn cho hơn năm mươi công ty và viết bài cho nhiều báo, tạp chí uy tín trên thế giới. Ông cũng là khách mời thường xuyên của các đài CNN, CNBC, Headlines News và BBC. Belfort được biết đến là một trong những tỷ phú giàu có nhất Phố Wall. Jordan Belfort trở thành nhân vật chủ chốt của công ty môi giới chứng khoán khét tiếng Stratton Oakmont từ những năm 1990 khi xây dựng thành công một trong những hệ thống bán hàng siêu khủng nhất Phố Wall. Vào thời gian đó, ông đã vi vu trên đỉnh cao tài chính và kiếm được hơn 50 triệu đô la mỗi năm - một kỳ tích khiến ông được mệnh danh là “Sói Già Phố Wall”. Ông cũng là một trong những cái tên bị lên án nhiều nhất trong ngành tài chính Mỹ: Một tay trùm cổ phiếu thông minh và ranh mãnh đã dẫn đầu đám đông hỗn loạn đầy kiêu hãnh vượt qua các luật lệ của Phố Wall, đưa họ đến với một văn phòng khổng lồ ở Long Island - khu vực vốn chỉ dành cho những kẻ thượng lưu. Trên con đường sự nghiệp của mình, Belfort đã trải qua một lối sống xa hoa và hết sức trụy lạc để rồi bị chính những cạm bẫy ấy đẩy xuống từ đỉnh vinh quang. Công ty của ông đóng cửa vào năm 1998 và ông bị kết tội thao túng thị trường chứng khoán cũng như điều hành một trung tâm chuyên lừa đảo cổ phiếu. Nhờ hợp tác với FBI, Belfort chỉ phải chịu mức án hai mươi hai tháng trong nhà tù Liên bang và bị buộc phải trả lại 110,4 triệu đô la ông đã gian lận từ những người mua chứng khoán. Sau khi ra tù, ông đã đứng dậy và khẳng định mình bằng những thành công vượt trội trong kinh doanh trên khắp toàn cầu. Bí mật thực sự đằng sau sự thành công của Sói Già Phố Wall chính là kỹ thuật bán hàng đã được phát triển thành hệ thống mang tên “Straight Line Persuasion”. Ngày nay, với hệ thống độc quyền này, Jordan Belfort đã giúp cho bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào tạo ra của cải khổng lồ từ việc kinh doanh có đạo đức. Belfort từng chia sẻ trong một buổi diễn thuyết tại Dubai vào tháng 5 năm 2014 như sau: “Tôi từng rất tham lam... Nhưng tham lam là không tốt. Còn tham vọng và đam mê thì hoàn toàn ngược lại. Niềm đam mê tạo nên thịnh vượng. Mục tiêu của tôi là cho nhiều hơn nhận - đó là một loại thành công bền vững”. Trong năm 2014, ông đã thực hiện hơn bốn mươi lăm buổi diễn thuyết khác ở Mỹ, Úc, châu Á và cả Việt Nam. Jordan Belfort đã tái hiện cuộc đời của chính mình trong cuốn hồi ký vô cùng ăn khách: Sói Già Phố Wall. Tác phẩm này đã được xuất bản ở trên bốn mươi quốc gia và được dịch ra mười tám ngôn ngữ khác nhau. Cuộc đời đầy biến cố ấy cũng đã tạo cảm hứng cho đạo diễn Martin Scorsese làm nên bộ phim bom tấn được đề cử giải Oscar. Bộ phim do tài tử điện ảnh lừng danh Leonardo DiCaprio thủ vai chính và được công chiếu rộng rãi từ cuối năm 2013. Câu chuyện về cuộc đời và sự nghiệp của Jordan Belfort luôn là nguồn cảm hứng cho rất nhiều người đang bước trên con đường kinh doanh đầy khó khăn cũng như đem lại cho họ những bài học hết sức giá trị. BachvietBooks   Mời các bạn mượn đọc sách Sói Già Phố Wall [Phần II] của tác giả Jordan Belfort.